Tôi mượn đầu đề này của nhà văn Nhật nổi tiếng
Yasunari Kawabata. Ông cũng có một chùm truyện ngắn với tên gọi như vậy. Cách
đây ba chục năm chính tôi dịch và in báo một số truyện trong chùm ấy, nay thất
lạc chẳng nhớ gì. Chỉ mang máng nhớ một truyện nói về người đàn bà nọ mang thai
những mấy năm mới đẻ. Thì ra bà ta gắng chịu đến khi chiến tranh kết thúc mới
dám cho con ra đời để tránh họa binh đao. Truyện khác về một người đàn ông từ
xa về đến nhà thì vợ đã chết, người xám ngoét, nhăn nhúm. Suốt nhiều giờ liền
ông ta dùng đôi tay khỏe mạnh của mình xoa bóp cơ thể vợ cho đến khi da thịt
căng ra, đỏ hồng. Và bà đã mỉm cười với ông. Cả hai truyện đều rất ngắn, đúng
chỉ bằng lòng bàn tay như tên gọi, nhưng ấn tượng để lại thật sâu sắc, trong
khi suốt đời mình có lẽ tôi đã đọc đến cả núi sách, phần lớn thường dài mà đọng
lại trong trí nhớ chẳng được bao nhiêu.
Vả lại thời gian gần đây do tuổi tác, tôi đọc nhiều
các tác phẩm triết lý của người xưa. Các bậc thánh hiền như Khổng Tử, Lão Tử,
Mạnh Tử hoặc Trang Tử đều rất kiệm lời. Nhiều khi cả triết lý vĩ đại chỉ nằm
trong mấy chữ. “Tri giả bất ngôn, Ngôn giả bất tri” (Nói là không biết. Biết thì
không nói) của Lão Tử là một thí dụ. Thơ
Đường luật và thơ ngũ ngôn xưa cũng vậy. Cách nói của người xưa là không nói,
mà chỉ gợi ý để người đọc tự suy ngẫm, tự tìm ra ý và cái triết lý sâu xa tác
giả muốn nói.
Có người ví văn chương vốn dĩ như con đường bằng phẳng
đã trải nhựa, đáng lẽ theo đó mà đi thì nhân danh cái mới, chúng ta cứ thi nhau
phá phách đâm ngược rẽ xuôi, đào chỗ này, đắp chỗ kia, đến mức làm méo mó cả
văn chương. Tất nhiên không ai phủ nhận những tìm tòi, sáng tạo chân chính để
khỏi phải dẫm chân tại chỗ. Nhưng những gì đã định hình và được mọi người chấp
nhận là chuẩn mực thì nên chăng cứ thế mà chấp nhận. Cái mới nằm ở nội dung,
không nhất thiết ở hình thức và cách diễn đạt nội dung đó. Suy cho cùng, như
Khổng Tử nói, văn dĩ tải đạo. Mà đạo thì giản dị, rạch ròi và luôn đi thẳng.
Tôi nghĩ bộ com-lê chững chạc và chiếc cà vạt khiêm tốn cả thế giới đang mặc
còn tồn tại lâu, và sẽ ngớ ngẩn nếu ai đó tìm cách làm một cuộc cách mang lớn
nhằm thay đổi chúng.
Nhiều truyện ngắn của ta hiện nay, trong đó có truyện
của tôi, công bằng mà nói, có thể rút ngắn từ một vài chục trang xuống vài ba
trang hoặc thậm chí ít hơn mà vẫn truyền tải hết ý. Chưa chừng hiệu quả còn lớn
hơn. Đấy là chưa nói việc bây giờ thời đại tin học với nếp sống công nghiệp bận
rộn, hơi đâu người ta chịu nghe mình rông dài này nọ. Cá nhân tôi cũng luôn
thích đọc những truyện ngắn và không muốn tác giả hiểu hộ cho mình.
Đó là lý do khiến tôi thử viết chùm truyện này. Những
truyện chỉ lớn bằng lòng bàn tay. Còn việc chúng có được như tôi mong muốn hay
không thì lại là chuyện khác.
1. NHỮNG NỐT NHẠC ĐEN TRẮNG
Căn phòng nằm trên tầng cao nhất một chung cư mới xây
ở Vũng Tàu, nên dẫu xa bờ vẫn có thể nhìn thấy biển, nhưng lúc này biển chẳng
có gì để nhìn vì trời đang mưa.
Trong phòng có ba người. Nửa nằm nửa ngồi trên chiếc
đi-văng là một ông già gầy khô, tóc trắng, hai bàn tay nhăn nheo đặt lên đầu
gối, với những chiếc ngón dài như ngón tay Chúa trong tranh của El Greco. Ông
ngồi như thế đã lâu, hoàn toàn bất động. Đôi mắt cũng bất động nhưng không
nhắm. Có vẻ ông đang ngủ thiếp. Nhiều người già vẫn hay ngủ thiếp cách ấy.
Hai người kia là anh con chưa đến bốn mươi, béo mập và
mút hai đầu như chiếc bánh mỳ căng phồng, tóc húi cua lởm chởm, và đứa con gái
mười tuổi dài ngoẵng như nhiều đứa khác ở cái tuổi ấy. Nó đang học đàn với bố.
Những ngón tay nhỏ và ngắn lóng ngóng lướt trên phím đàn pianô. Thỉnh thoáng
gặp chỗ khó, nó ngừng đàn ngước nhìn bố vẻ xin lỗi. Anh kia nói điều gì đấy rồi
ngồi yên chờ con chơi tiếp. Khác với vẻ ngoài đồ sộ, thậm chí hơi dữ dằn, anh
ta có giọng nói nhỏ nhẹ. Cả cách nói cũng nhỏ nhẹ.
Cách đây nửa tháng, đang đêm, ông bố gọi điện từ Hà
Nội vào:
- Lúc nãy con thổi bài Hành Khúc của Verdi à?
Anh con giật mình:
- Vâng, làm sao bố biết ạ?
Ông bố không đáp, mãi lúc sau mới nói:
- Nó làm bố nhức đau nhói trong ngực.
Đó là bản Hành khúc Thắng lợi Ai Cập trong vở ôpera
Aida nổi tiếng của Verdi. Anh vốn là nhạc công của Dàn nhạc Giao hưởng Hà Nội,
chơi kèn trompet. Cũng ở dàn nhạc này, trước bố anh chơi đàn viôlông bè một,
sau mắc chứng suy tim nên thôi.
Nghe bố nói thế anh thấy lo. Ông là người rất nhạy
cảm, anh biết, nhưng ở cách hàng ngàn cây số mà nghe được con thổi kèn, lại còn
đau trong ngực thì quả có cái gì đấy không ổn. Mấy ngày sau, thấy bố lại gọi
điện kêu đau đầu khi anh thổi một bài nhạc buồn chuyển thể của Sô-panh, anh lập
tức bay ra Hà Nội đưa ông vào ở cùng, dù vẫn như trước, ông thích sống một
mình.
- Con bé tập pianô có làm phiền bố không ạ? - anh hỏi.
Từ hôm có bố trong nhà, anh không thổi kèn nữa.
- Không, - ông đáp. - Ngược lại, còn thích.
Thế là hôm nay tự ông vào phòng cháu rồi ngồi bất động
trên ghế suốt từ nãy đến giờ.
Anh con đang nhẹ nhàng giải thích tính chất một đoạn
nhạc khó:
- Con chơi đúng nốt, đúng nhịp đấy, nhưng chưa có
nhạc. Nhạc là hồn, là tình cảm, con biết rồi mà. Như chỗ này chẳng hạn, - anh
cúi xuống dí ngón tay quả chuối vào mấy dòng nhạc. - Phải dịu dàng hơn, đặc
biệt các phím đen. Phím đen không chỉ có màu sắc mà tình cảm cũng khác phím
trắng. Biết nói thế nào được nhỉ?... Như ngày và đêm vậy, như niềm vui và nỗi
buồn…
- Con không thích phím đêm, - cô bé lí nhí đáp.
- Nhưng đó là cuộc sống. Có ngày phải có đêm. Có vui
ắt có buồn. Rốt cục bản nhạc cuộc đời nào cũng chỉ hai nốt đen trắng ấy, và
chúng đang ở trong tay con. Con phải xử lý chúng cho đúng, phải làm sao để
thành dòng chảy, mượt mà và tương phản. Đằng này con chơi khô khan, các nốt
nhạc cứ như va vào nhau rơi tung tóe xuống đất. Con không thấy thế à? Nào chơi
lại bố nghe.
Dẫu chưa lĩnh hội hết những lời triết lý kia của bố,
cô bé ngoan ngoãn chơi lại cả bản nhạc, nét mặt căng thẳng như người lớn. Cả
lần này nó vẫn chưa kết hợp nhuần nhuyễn được các nốt trắng đen ngày đêm, hạnh
phúc và nỗi buồn ấy. Và chúng vẫn tiếp tục “va vào nhau rơi tung tóe xuống đất”
như bố nó nói.
Lúc này bên ngoài mưa ngớt tự lúc nào. Thậm chí mặt
trời chui khỏi đám mây, chiếu những tia nắng ẩm ướt vào phòng, làm các nốt nhạc
đen trắng rơi vãi trong đó bỗng ánh lên rực rỡ.
Hai bố con học xong ra khỏi phòng từ lâu, ông già vẫn
ngồi yên. Cuối cùng ông gượng dậy, đi về phía chiếc đàn rồi bò lổm ngổm trên
sàn gỗ, cố nhặt những nốt nhạc rơi của đứa cháu. Thỉnh thoảng ông giơ một vài
nốt lên soi dưới ánh mặt trời.
*
Tối ấy, khi vào phòng mời ông xuống ăn cơm, người ta
thấy ông già đã chết, trên chiếc đi-văng vẫn ngồi. Hôm sau, khi lượm bố vào
quan tài, anh con dùng hết sức mới gỡ được hai bàn tay nắm chặt của ông. Từ đấy
hai dòng kim cương đen nhánh chảy ra, lấp lánh như những vì sao giữa sàn nhà
sẫm tối.
Mãi sau này, khi lên mười bảy tuổi và chuẩn bị đi New
York theo học pianô tại Nhạc viện Julliard, cô cháu “không thích phím đêm” của
ông tình cờ thấy trong va-li một gói lớn những viên kim cương trắng muốt được
gói cẩn thận trong tấm vải cũ bằng nỉ người ta thường dùng để phủ lên đàn
viôlông.
Hà Nội, 30. 5. 2011
2. ĐỨA CON MẶT TRỜI
Một buổi chiều đẹp trời sau tiết lập xuân.
Cô gái ngồi ngắm mặt trời ngoài lan can. Phía trên là
dàn mướp đang ra nụ, có nụ đã kịp lớn thành những chiếc chuông xinh xinh màu
xanh. Con chó nhỏ nằm thiu thiu ngủ dưới chân. Bên cạnh là cuộn len lớn màu
hồng vì cô đang đan chiếc mũ nhỏ xíu cho đứa con sắp ra đời. Chiếc mũ bé tí mà
đan cả tuần nay chưa xong.
Trước mặt là một thung lũng rộng, lúa mới bén đòng
xanh ngắt. Đáng lẽ từ lan can nhìn ra phải thấy một con suối nhỏ nước lấp lánh.
Hôm nay sương xuống sớm nên giờ chỉ là một vệt mờ đùng đục. Chiếc đĩa mặt trời
đỏ rực, to và tròn vành vạnh treo lơ lửng trên vệt mờ ấy. Cô gái ngừng đan,
nhìn nó hồi lâu không chớp mắt, và cũng không thấy chói. Mỗi lần đứa con quẫy
đạp, cô đưa cả hai tay nhẹ nhàng xoa xoa chiếc bụng của mình, cũng to và tròn
không kém.
Anh chồng suốt buổi hý huáy chữa cái gì đấy dưới bếp,
bây giờ bước ra ngoài, giơ cả hai bàn tay còn lem bẩn che mắt khi nhìn về hướng
mặt trời. Phía ấy, tức chỗ vợ anh ngồi trên bậc lan can khá cao, bây giờ chìm
trong ráng hồng của mặt trời sắp lặn. Anh có cảm giác cả một vùng trời đang bốc
cháy. Vợ anh cũng cháy trong đám lửa hoàng hôn ấy. Bao quanh người cô là một
đường viền lửa màu vàng vàng, xanh xanh, đặc biệt trên nửa quả cầu chiếc bụng
chửa căng tròn.
Từ chỗ đang đứng, anh thấy mặt trời chầm chậm đi
xuống, đúng chỗ bụng vợ anh. Chiếc đĩa mặt trời đỏ rực đang bị hình cầu bụng bà
chửa nuốt dần, nuốt dần cho đến khi chỉ còn lại một vành cung rất mảnh. Cuối
cùng vành cung ấy cũng biến mất, và đám lửa hoàng hôn vụt tắt.
Anh hoảng hốt chạy lại gần vợ. Lúc này cô không còn
tựa lưng vào cột lan can, mà nằm ngửa trên chiếc chõng tre, mắt nhắm nghiền,
chiếc bụng chữa đã to giờ càng to hơn và trông chẳng đẹp mắt chút nào.
- Em không sao chứ? - anh hỏi.
- Không. - Cô đáp, với vẻ mệt mỏi của một người đang
hạnh phúc.
Anh ngồi xuống cạnh:
- Lúc nãy anh thấy em như đang bốc cháy. Mà rồi, kỳ lạ
thật, cứ như mặt trời chui tọt vào bụng em ấy…
- Thì đúng thế thật mà.
Cô gái mỉm cười, rồi cầm tay chồng nhẹ nhàng đặt lên
bụng mình.
- Nóng quá! - anh nói. - Hay đang có mặt trời trong ấy
thật? Em nói mặt trời chui vào bụng em?
Cô gái gật đầu. Anh chồng lặng im không biết nói gì
thêm.
- Và em sẽ sinh cho anh một đứa con mặt trời.
Lại gật đầu. Rồi quá mệt mỏi, cô ngủ thiếp.
Anh chồng ngồi bên canh cho vợ ngủ, hai tay âu yếm xoa
xoa đứa con mặt trời của mình. Và hồi hộp chờ bình minh…
Hà Nội, 6 tháng Sáu, 2011
3. THẦN VỆ NỮ
Chiến tranh nào cũng để lại những kỷ niệm đau buồn,
nhưng với tôi, đau buồn nhất là chuyện một cô gái trong làng đi thanh niên xung
phong, giữa chừng quay về với cả hai cánh tay bị mảnh bom chém đứt. Tay trái
sát vai, tay phải cụt đến khuỷu, hệt như tượng Vệ Nữ người ta tìm thấy trên đảo
Milos ngày nào.
Bề ngoài cô không được như nữ thần sắc đẹp Hy Lạp cổ
đại, tất nhiên, nhưng trời ban cho cô dáng người thanh thoát, khuôn mặt ưa
nhìn, chiếc mũi nhỏ thon thẳng, đặc biệt đôi mắt sâu và buồn. Đôi mắt ấy bây
giờ càng buồn gấp bội.
Cô sống với bà mẹ già. Mấy năm sau mẹ mất, cô còn lại
một mình. Và rồi cô có bầu và bị đem ra chửi mắng, tra khảo mấy đêm liền ở đình
làng. Anh trưởng thôn làm chủ tọa, có cả người của chính quyền xã về dự.
Cô gần như bị ruồng rẫy khi một mực không chịu khai ai
là thủ phạm, đặc biệt từ phía các cô, bà có người thân đang ở ngoài mặt trận.
Cái làng tôi nó thế: nghèo kiết xác nhưng luôn cổ hủ và độc ác.
Khi cô sinh con, tôi đã không còn ở làng. Tôi không
biết cô sống và nuôi con thế nào, nhưng cô vẫn sống, và đứa con vẫn lớn lên
khỏe mạnh bình thường. Nó, một thằng con trai, càng lớn càng giống anh trưởng
thôn làm chủ tọa các buổi đấu tố mẹ nó. Kể ra từ lâu người ta đã biết bố nó là
ai. Thời ấy làng chẳng còn ai là đàn ông, trừ mấy cụ già và đám trẻ mới lớn còn
ham đánh nhau và chơi khăng. Mà anh ta, cái anh trưởng thôn ấy, vợ mới chết mấy
năm và cũng đang sống một mình. Vậy sao anh ta còn làm khổ người bị chính mình
gây tai họa? Sao cô không tố cáo hắn? Hay họ ngầm thỏa thuận với nhau điều gì?
Tôi không biết. Chắc nhiều người nữa trong làng cũng không biết, và câu chuyện
dừng ở đấy.
Một lần, cách đây đã lâu, tôi về quê và ngạc nhiên khi
biết tin thằng bé, lúc ấy mười lăm tuổi, đã chuyển sang ở hắn với bố nó. Dẫu
không còn là trưởng thôn, nhưng anh ta vẫn chạy chọt làm được giấy khai sinh
mới cho nó, thay họ mẹ bằng họ bố.
Vậy là cô thanh niên xung phong cụt cả hai tay, nay đã
là một bà già, vẫn lủi thủi một mình như ngày nào. Và việc bà sẽ chết trong cô
đơn cũng là điều chắc chắn.
Một câu chuyện không có hậu. Đúng thế. Chính nó cũng
làm tôi ấm ức, khó chịu. Cuộc sống thường vẫn vậy - phức tạp và oan trái hơn nó
được miêu tả trong sách vở. Vì là chuyện có thật ở làng tôi, tôi chỉ còn biết
chép lại nó như tôi được biết, không thêm bớt điều gì, dẫu nhiều khi nhớ đến cô
gái tội nghiệp ấy, không hiểu sao tôi hay vẩn vơ nghĩ về Vệ Nữ, nữ thần sắc đẹp
được cả thế giới ngưỡng mộ.
Hà Nội, 09 tháng Sáu, 2011.
4. CON NGỰA CÒM
- Nhà nó ra thắng ngựa cho tôi đi chở hàng!
Hắn cao giọng
bảo vợ rồi ngồi xuống chiếc chõng tre, tu một hơi hết cả bát nước vối. Bao giờ
hắn cũng nói với vợ bằng cái vẻ oai vệ như vậy, dù hắn chỉ là thằng đàn ông gầy
nhom, nhút nhát nhất xóm, đến mức ai cũng có thể bắt nạt được. Thực ra hắn cũng
nhút nhát cả với vợ, nhưng vợ hắn là người biết điều nên cứ ngơ cho hắn gỡ lại
thể diện trong nhà. Mà trong nhà thì quan trọng nhất là con ngựa và hắn, nguồn
thu nhập cho một bầy con lít nhít cùng bà vợ luôn bận bịu chửa đẻ và cho con
bú.
Như chủ, con ngựa cũng nhó thó và gầy, thậm chí còn
gầy hơn vì ngựa không mặc áo nên trơ hết xương sườn. Như chủ, nó cũng đói ăn và
thường phải tự kiếm cái nhét vào bụng bằng cách gặm cỏ bên vệ đường hoặc đâu đó
trong khi chủ nó ngồi uống nước và nhá kẹo cu-đơ trong quán. Hắn luôn thưởng
cho mình thú vui ấy mỗi lẫn chở xong hàng và được người ta trả tiền.
Hôm nay, một bà lão nhờ hắn chở mấy thứ đồ đạc cũ sang
làng bên cho con gái vì biết mình sắp chết, mà chết thì theo phong tục ở đây,
mọi cái thuộc về bà sẽ bị đem đốt hết.
Xong việc, bà lão nổi hứng cho hắn luôn mấy nghìn tiền lẻ còn thừa, nên ngoài
nước và kẹo, lần này hắn hút luôn hai điếu Thăng Long và ăn một chiếc bánh
chưng loại nhỏ, dẫu không phải không do dự vì tiếc tiền. Con ngựa còm cũng được
hắn cho tự do kiếm ăn lâu hơn lệ thường. Hắn ngả ngốn tựa lưng trên chiếc ghế
tre ọp ẹp trong quán mụ Bốn, ra chiều hài lòng lắm. Bên ngoài trời nắng chói
chang vì đang giữa trưa.
Bỗng có tiếng ai đó quát tháo rất to, giọng đàn ông
giận dữ. Một chốc sau thì hắn thấy con ngựa còm của hắn chạy lại, máu lênh láng
một bên hông. Đuổi theo nó là môt gã đàn ông to béo đầu bạc, tay cầm con dao thái
thịt lấp lánh dưới ánh mặt trời. Lão đầu bạc đuổi kịp con ngựa, vung tay chém
thêm nhát nữa vào mông trái nó. Con ngựa lảo đảo một chút nhưng không ngã, rồi
nó bỏ chạy, để lại phía sau những giọt máu nhanh chóng khô đặc trên mặt đường
cát bụi.
- Tại sao ông chém ngựa tôi? - hắn chạy lại, cao giọng
hỏi.
- Vì nó vào vườn ăn rau nhà tao. - Lão đầu bạc vừa hổn
hển thở, vừa đáp. Lão làm nghề rèn, tháng trước vừa bị công an xã gọi lên vì
tội chém vợ. - Ngựa mày à? Cút đi, không tao chém cả mày bây giờ!
Chắc vì quá phẫn uất, hắn quên mất cái tính nhút nhát
cố hữu và thân thể gầy còm của mình. Không những không cút đi, hắn còn văng
chửi độc địa và làm một việc ngu ngốc khác là ưỡn bộ ngực đầy xương sườn của
trước kẻ thù.
Lão đầu bạc nhìn hắn, nhếch mép mỉa mai. Lão giơ cao
con dao, nhưng suy nghĩ một lát, không chém, mà chỉ tống một quả đấm trời giáng
vào mặt hắn.
Phải đến cả chục phút sau hắn mới gượng dậy được. Khi
tìm thấy con ngựa, hắn chẳng thèm nghĩ đến chiếc xe mà cứ thế cuốc bộ, dẫn nó
về nhà dưới trời nắng gắt. Suốt dọc đường, vừa đi hắn vừa tấm tức khóc, đôi khi
hu hu thành tiếng nghe rất buồn cười. Máu vẫn ri rỉ trên lưng con ngựa khốn
khổ. Ruồi nhặng bám đầy quanh những vết chém trên lưng. Hình như nó cũng khóc.
Đôi mắt vốn kèm nhèm giờ gần như bị che kín bởi ghèn bẩn và nước mắt. Là con
vật, nó không thể hiểu vì sao người ta nỡ chém nó khi nó vẫn ăn thứ lá xanh
xanh như mọi ngày. Lá cỏ hay lá khoai lang thì khác gì nhau? Đến thằng chủ của
nó cũng không hiểu nổi điều đó.
Vậy là cả nhà
hắn mất kế sinh nhai. Những vết chém sâu trên cổ và bên hông khiến con ngựa
không thể tiếp tục kéo xe chở hàng như trước. Ba tuần sau, nó chết vì nhiễm
trùng. Thằng chủ nó vẫn nằm bẹp trong nhà.
Một sáng nọ, vừa bảnh mắt, hắn quát bảo vợ hắn:
- Nhà nó chuẩn bị cho tôi con dao! Con to và sắc nhất
ấy!
- Để làm gì?
- Không hỏi!
Rồi hắn hằm hằm cầm dao đi về phía khu làng có lão to
béo đầu bạc.
Hà Nội, 16. 6. 2011
5. NGƯỜI KHÔNG MÀU
Với tâm
trạng mệt mỏi, chán đời của một người lao lực và gặp nhiều thất bại ở thành
phố, ông trở về làng quê nhỏ bé của mình, nơi ông không có nhiều kỷ niệm và
cũng chẳng đa tình nặng nghĩa, ngoài việc trót sinh ra ở đấy. Còn chết thì vợ
con đã mua sẵn một lô đất trong nghĩa trang thành phố. Vậy sao ông về? Chẳng vì
lý do gì đặc biệt. Đơn giản không biết đi đâu nữa thì về. Vài chục năm gần đây
thỉnh thoảng ông vẫn làm thế.
Ở mãi trong nhà anh cháu cũng chán, ông thơ thẩn ra
dạo ngoài đồng Chùa. Nó vẫn thế, như cái thời ông chăn trâu, chơi khăng ở đây.
Nhưng ngôi chùa mà nó mang tên không còn nữa vì bị người đập lấy gỗ xây trụ sở
ủy ban xã.
Đồng Chùa là một gò đất cao và rộng, xưa nay chỉ là
chỗ cho trẻ làng chăn trâu bò, hoặc chơi các trò trẻ con của chúng. Giờ có máy
làm ruộng, trâu bò ít nên cỏ mọc nhiều và dày. Ông ngả mình nằm xuống thảm cỏ
và lơ đãng nhìn lên trời.
Hôm ấy là một chiều thu thật đẹp. Nắng hoe vàng sắp
tắt. Cao trên trời là những làn mây nhẹ, mỏng tang, có vẻ như đang chuyển động,
mà cũng như luôn đứng yên một chỗ. Mây chỗ trắng, chỗ vàng, chỗ đỏ rực như máu.
Chỗ không có mây là bầu trời màu nước nhàn nhạt. Bao quanh ông là màu xanh ngắt
của đồng lúa, bãi cỏ và rặng cây phía
làng Mồ.
Nằm giữa cái thế giới nông thôn đầy màu sắc ấy, ông
thấy thấy mình thật buồn tẻ và nhạt nhẽo. Ông, một người không màu. Không màu
như cái thành phố xám xịt của ông, nơi không trăng, không bầu trời, hoặc giả có
cũng chẳng ai ngước lên nhìn.
- Bác mới về làng chơi ấy à?
Chợt ai đấy lên tiếng hỏi, ngay bên cạnh.
Ông nhỏm dậy:
- Vâng, hôm qua. Chào bác.
Đó là lão Hoạch, một lực điền da đen trũi, tóc xù điểm
bạc, bạn học trường làng thời xa xưa và cùng tuổi, tức đã ngót nghét sáu mươi.
Lão vừa đi làm đồng về, chiếc cuốc trên vai còn chưa khô bùn. Nghe nói nhà lão
là một trong số ít gia đình trong làng còn đói ăn, Dẫu vậy, lão là người xởi
lởi và vui tính. Không hiểu sao lần nào về làng, ông cũng gặp lão.
- Công việc bác dạo này thế nào.
- Vẫn thế, - ông đáp.
- Người ta bảo bác làm cái nghề viết lách gì đó trên
tỉnh?
- Đúng. Nghề phịa chuyện, viết nhăng nhít ấy mà…
- Và người ta trả tiền cho cái chuyện phịa nhăng nhít
ấy như bác nói?
- Đôi khi.
- Thế thì chán lắm nhỉ?
- Chán.
Lão Hoạch nghĩ một lúc rồi nói:
- Sao bác không về làng làm ruộng như tôi? Vất vả
nhưng mà vui.
- Tôi đã già, vả lại, cũng không biết làm ruộng.
- Lo gì, về đây tôi dạy cho.
Nói chuyện thêm một lúc, lão bỏ về. Do đi ngược mặt
trời hoàng hôn lúc ấy đã xuống thấp và đang treo lơ lửng trên đỉnh núi Mụa,
toàn thân lão được chiếu đỏ rực. Cả chiếc cuốc bẩn trên vai cũng đỏ như thế.
“Cuộc đời kể cũng buồn cười, ông nghĩ. Lão Hoạch suốt đời
đầu tắt mặt tối trên ruộng không kiểm đủ bát cơm ăn. Mình thì viết phịa nhảm
nhí lừa người ta lại thừa ăn. Nhưng người lão ấy đỏ rực như lửa, ông chép
miệng, mà mình thì chẳng có màu gì. Người không màu!”
Ông lại nằm xuống, bâng quơ nhìn lên trời. Vì sắp lặn
và mặt trời đã trở thành chiếc mâm đỏ khổng lồ nên bầu trời có nhiều màu sắc
đậm và tương phản hơn. Gió mát hiu hiu thổi. Một lúc sau ông mơ màng thiếp đi.
Trong cảm giác nửa tỉnh nửa mơ ấy, ông thấy mình được từ từ nâng lên cao, trong
tư thế nằm ngửa, và bắt đầu chậm chậm chu du trên bầu trời. Trong chuyến bay
lâng lâng thích thú đó, ông ngạc nhiên thấy mình bắt đầu có màu, đủ màu sắc rực
rỡ của hoàng hôn, tùy thuộc lúc đó ông đang bay qua đám mây nào. Cuối cùng, ông
trở lại mặt đất khi trời tối hẳn, và lại thành người như cũ - không màu.
Thậm chí không cả màu đen, khi ông lầm lụi bước về
làng.
Hà Nội, 21.6.2011
6. CHIẾN TRANH
Ba mươi năm trôi qua kể từ ngày chiến tranh kết thúc.
Một sáng nọ ông cụ ngủ dậy, bảo vợ.:
- Tôi đi bà nhé?
Bà cụ, cũng già và ốm yếu như chồng, lúc ấy đang hý
húi đun nước dưới bếp, đáp:
- Ừ thì ông đi, một khi không thể không đừng được. Đi
mà đưa nó về.
Nó là con trai duy nhất của họ, chết trong trận nổi
dậy Tết Mậu Thân năm 1968 ở Quảng Trị. Khi chuẩn bị xong xuôi mọi thứ cho
chồng, gồm chiếc ba lô cũ từ thời chống Pháp, nắm cơm và ít tiền, bà cụ nói
thêm:
- Ông đi, xong việc rồi ta nghỉ.
- Ừ.
Ông cụ đáp, bước ra khỏi nhà, thong thả đi về phía
hướng ga Mỹ Lý rồi từ đó lên tàu chợ đến Quảng Trị để bốc mộ con mang về quê an
táng, một việc muốn đã lâu nay mới làm được.
Tôi là cháu gọi cụ bằng bác, lúc ấy đang về quê nghỉ
phép. Tôi xin được đi cùng nhưng cụ không chịu.
Mười ngày sau,
cụ quay về. Tôi gặp cụ ở ga Mỹ Lý vì đang có việc phải vào Vinh. Chiếc ba lô cũ
trên vai bây giờ căng phồng. Anh con trai duy nhất của cụ đang ở trong đó.
Buổi chiều.
Trời có vẻ sắp mưa. Tôi đứng lặng, nhìn theo bác tôi lầm lũi bước đi về làng.
Mái đầu bạc, thân hình gầy gò, cái lưng còng giờ còng thêm vì anh con to lớn
hai mươi tuổi trên vai.
Và tôi nghĩ về
chiến tranh cùng những điều khủng khiếp nó gây ra. Và rằng cả tôi, nay là một
ông già tóc bạc ngoài sáu mươi, do số phận dun dủi, có thể cũng hy sinh trong
cuộc chiến tranh ấy, và cũng được bố tôi cõng trên lưng như thế đi suốt chiều
dài đất nước, suốt cả cuộc đời đau khổ của mình.
Một tháng sau
khi chôn cất anh con vào nghĩa trang dòng họ, cả hai bác tôi qua đời. Không ốm
đau và gần như cùng một lúc.
“Ông đi, xong việc rồi ta nghỉ”.
Hà Nội,
22.6.2011
7. ĐÊM Ở TÂY NINH
Khi tôi đến thị trấn N., Tây Ninh, thì trời đã khuya.
Hơn thế lại đang mưa. Mưa to kèm theo gió giật. Vất vả lắm tôi mới tìm được một
nhà trọ bẩn thỉu, tồi tàn gần bến xe luôn chật ních người. Sau chiến tranh, đất
nước còn nghèo, người dân càng nghèo hơn, nên các nhu cầu tiện nghi và vệ sinh
đều được châm chước.
Người ta dẫn tôi lên môt căn phòng khoảng mười mét
vuông với chiếc giường một trải chiếu ni-lông và chiếc màn mắc sẵn. Không có
phòng vệ sinh riêng, mà tôi cũng chẳng cần. Quá mệt mỏi, tôi nằm vật xuống
giường, định bụng ngủ một giấc để mai có sức đi tiếp sang Căm-pu-chia.
Vừa thiếp đi một chốc, tôi đã bị đánh thức bởi tiếng
trẻ con khóc. Nghe giọng, có vẻ còn bé và ở đâu đây rất gần. Hình như ngay
phòng bên. Đứa bé khóc gay gắt. Tôi ngạc nhiên khi nghe dỗ nó không phải phụ nữ
mà một giọng đàn ông ồm ồm. Không hiểu sao nó khóc mãi không nín, và người đàn
ông vẫn kiên nhẫn, dịu dàng dỗ nó. Có cái gì đấy nghe cảm động, chua xót trong
giọng ru ồm ồm, bất lực và vụng về ấy.
Thế là mất hết hy vọng được ngủ tiếp. Khoảng ba mươi
phút sau, tôi gõ cửa bước vào phòng anh ta, chẳng biết cụ thể để làm gì.
Trước mắt tôi là một người đàn ông to lớn, to lớn đến
kinh ngạc, đang ôm đứa bé trên đôi cánh tay trần cũng rất to lớn của mình. Đó
là một bé gái khoảng bảy, tám tháng tuổi, mặt tái ngắt vì khóc lâu.
- Chắc nó đói? - tôi hỏi.
- Không, - anh nói, có vẻ không ngạc nhiên khi thấy
tôi xuất hiện. Lúc nãy trên ô tô tôi mới cho ăn xong.
- Hay nó ốm?
- Cũng không. Ban đêm nó vẫn khóc như vậy vì nhớ mẹ. -
Chắc đoán tôi muốn hỏi mẹ nó đâu, anh nói tiếp: - Mẹ cháu mới bị bắt giam ở
đây. Mai tôi đưa cháu vào trại. Hy vọng người ta cho gặp. Chả là vợ tôi trước
làm việc cho sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, nay người ta bắt đi cải tạo.
Đứa bé vẫn khóc như bị ma ám.
- Hay tôi bế giùm anh một chốc?
- Vâng, có thể lạ hơi nó nín cũng nên. - Anh đáp rồi
đặt đứa bé lên hai tay chìa sẵn của tôi.
Dẫu không bằng anh, tất nhiên, nhưng lúc ấy tôi mới ba
mươi và cũng không thuộc loại bé nhỏ. Con bé nằm lọt thỏm trong tay tôi, nhẹ
như không trọng lượng. Nó vẫn tiếp tục khóc, mặc cho hai người đàn ông to lớn,
khỏe mạnh là tôi và bố nó, tìm mọi cách ru dỗ mà không được. Có thể nó sẽ nín
ngay nếu được mẹ hay người đàn bà nào đó bế vào lòng, thậm chí không cần cho
bú. Sao thế nhỉ? Sao người ta nỡ bắt mẹ nó đi khi nó còn bé tí như vậy?
Cuối cùng, lúc ấy đã gần sáng, nó cũng thiếp đi vì
mệt.
Tôi trở lại phòng mình, với cảm giác nặng nề khó tả,
cảm giác của một người lớn bất lực không biết và không thể làm gì để giúp một
sinh linh bé nhỏ đang cần giúp đỡ.
Ừ, và cả cái chuyện người ta bắt giam mẹ nó nữa.
Hà Nội, 23.6.2011
8. ÔNG GIÀ VÀ BÔNG CÚC NHỎ
Ba tháng trước, khi thong thả dạo trên hè phố Lê Duẩn,
dọc theo công viên Thống Nhất, tình cờ ông chứng kiến cảnh một đứa bé bò ra
đường ray xe lửa phía bên kia đường từ một ngôi nhà nào đó ngay bên cạnh, đúng
lúc có đoàn tàu khách đang rầm rầm chạy đến. Tàu kéo còi ầm ĩ. Đứa bé dừng lại
trên tấm bê tông giữa hai đường ray, ngẩng chiếc đầu trần lơ thơ tóc. Hình như
nó cười.
Ông đứng lặng, miệng há hốc nhưng không thể kêu lên
một tiếng nào, và ngất ngã, đầu va vào gốc cây bên cạnh. Khi tỉnh dậy ở bệnh
viện ông mới biết đứa bé đã được một người nhảy ra cứu khi đoàn tàu chỉ còn
cách khoảng mươi mét.
Cú ngã nhẹ tưởng như bình thường, vậy mà ông phải nằm
một chỗ từ bấy đến nay. Ra viện, ông ngạc nhiên thấy mình như người khác hẳn,
vừa đặc biệt nhạy cảm lại vừa như u mê, đờ đẫn.
Bây giờ ông đang ngồi sưởi nắng trong sân chùa Kim
Liên bên Hồ Tây, chính xác hơn, một mẩu nhỏ của Hồ Tây, nơi cùng lúc bị mấy tòa
nhà khách sạn nhiều tầng bằng nhôm kính chen nhau đổ bóng xuống nước. Ông khó
chịu với chúng, khó chịu luôn cả mẩu hồ nhỏ sót lại ấy.
Hôm nay hình như rằm nên chùa đông khách. Ông thường
ra ngồi ở chùa này vì nó đẹp và cái chính là gần nhà. Ra ngồi một vài tiếng rồi
về chứ chưa bao giờ ông thắp cho nó một nén hương.
Sau gần nửa giờ ngủ gật dưới nắng trong trạng thái u
mê mới lạ vừa có sau tai nạn, ông chợt tỉnh khi ai đó đi ngang vô tình đá phải
chân. Trạng thái u mê ấy bắt đầu nhường chỗ cho sự phấn khích và nhạy cảm khác
thường. Cái ông phát hiện đầu tiên là không thấy hoa đại, cả hoa trên cây lẫn
hoa rụng dưới đất. Đại nở theo mùa nên chắc chấn nhiều ngày không có hoa, nhưng
chỉ hôm nay ông mới nhận thấy điều đó. Và nó làm ông buồn, cứ như bị ai ăn cắp
cái gì đấy. Chùa mà không hoa đại thì chẳng còn là chùa, đáng ngạc nhiên nữa là
dường như không ai chú ý đến điều ấy.
Vẫn như mọi ngày, khá đông người đang lầm rầm cúng
khấn trước bàn thờ Phật. Một chuyện bình thường. Cái khác thường là hôm nay ông
thấy có gì không ổn. Người ta khúm núm, luôn miệng cầu xin gì đó, cầu xin thành
tâm và rất lâu trước Phật. Thế mà Phật vẫn làm ngơ, lặng im và vô cảm.
“Vậy Phật là người hay là gỗ?”, ông nhíu mày khẽ thốt
lên thành tiếng.
Ông nhíu mày cả với việc nhiều cô gái trẻ đẹp, ăn diện
hợp mốt cứ lăng xăng trước những ông già bằng gỗ ấy. Trước đây chắc ông thấy
cảnh này không ít, nhưng sao bây giờ mới chú ý và khó chịu với nó? Chắc tại cái
đầu của ông, tại giờ nó trở nên quá nhạy cảm.
Ông buồn bã bỏ về nhà, tới cổng chùa chợt dừng lại
trước một người ăn xin cụt cả hai chân đang ngồi giữa nắng với chiếc chậu nhựa
nhỏ méo mó trước mặt. Trong chậu chưa có đồng tiền nào.
Đó là một ông già trạc tuổi ông, tức gần bảy mươi, mặt
nhăn nheo cáu bẩn và mái tóc bạc bù xù. Ông già ngước đôi mắt ươn ướt nhìn ông,
nhìn cả nhiều người lúc ấy đang đi ngang nhưng không ai để ý. Ông cho tay vào
túi thì chợt nhớ để quên chiếc ví ở nhà.
Với cảm giác như có lỗi, ông đứng thêm một lúc xem có
ai cho ông kia đồng nào không. Người vẫn lũ lượt vào ra nhưng tịnh không một ai
dừng lại, thậm chí nhìn cũng không. Họ là người hay là gỗ? - ông thở dài rồi bỏ
đi tiếp.
Lên đến đường Yên Phụ, ông ngồi xuống nghỉ trên một
trong những chiếc cột xi măng bên mép. Trời còn sớm nhưng nắng đã gắt và ngột
ngạt. Sự ngột ngạt ấy gia tăng bởi số lượng người xe qua lại đông đúc.
Từ phía Nghi Tàm có hai cô đang chở hoa đi tới. Trước
kia người ta gánh hoặc chở bằng xe đạp. Bây giờ bằng xe máy Hôn-đa. Cả hai cô
còn trẻ và khá xinh, vừa đi vừa chuyện trò điều gì đấy rất vui. Khi ngang qua
chỗ ông ngồi, xe một cô gặp xóc, làm một bông cúc rơi xuống đất.
Bông cúc nhỏ, còn tười và ướt, nằm giữa mặt đường
nhựa. Đúng lúc ấy, một chiếc xe tải khổng lồ chở vật liệu cho công trường xây
dựng bên cạnh đang từ từ đi lại. Thật lạ lùng, ông thấy bông hoa tội nghiệp
đang run lên, vẫy vẫy những cánh hoa kêu cứu. Hơn thế, hình như ông còn nghe cả
tiếng kêu cứu ấy.
Chiếc xe khổng lồ vẫn tiến lại gần, rất gần. Bất chợt,
ông chạy ra đường, giơ cao hai tay ra hiệu dừng lại. Chiếc xe phanh két, nhưng
đã quá muộn. Bông hoa bé nhỏ bị đè nát dưới chiếc bánh khổng lồ của nó.
Còn ông, ông lại ngất ngã trên mặt đường, chỉ cách
chiếc xe tải mấy mét.
Tiếc lần, này do trái tim nhạy cảm hơn, ông ngất và
không bao giờ tỉnh lại.
Hà Nội, 1.7.2011
9. ÔNG VÀNG,
ÔNG TÂY VÀ ÔNG TƯƠI MÁT
Trong tù, họ kết thành bộ ba, được mọi người gọi là
Ông Vàng, Ông Tây và Ông Tươi Mát.
Lúc ấy họ còn trẻ và chuyện xẩy ra vào những năm đầu
sau chiến tranh.
Ông Vàng bị tù do nghe nhạc vàng của chế độ cũ, tòa
tuyên năm năm vì tội “truyền bá văn hóa độc hại”. Tội này do hàng xóm ông tố
lên công an phường sau một xích mích nhỏ về bờ rào giữa hai nhà.
Ông Tây lãnh mười năm về tội “hủ hóa”. Lớp trẻ ngày
nay chắc không hiểu từ này, nhưng thời ấy đó là một từ rất nặng nề, kết tội
những người có quan hệ nam nữ bất chính. Ông là du học sinh Việt Nam ở Ba Lan,
học giỏi, cao to và rất đẹp trai. Ông bị bắt và được hai công an sứ quán áp
giải về tận Hà Nội, vì yêu một cô gái bản xứ học cùng lớp mắt xanh tóc vàng.
Điều này có lẽ thanh niên bây giờ cũng không hiểu nổi. Những năm ấy sinh viên
Việt Nam ở nước ngoài bị cấm không được xem phim tư bản, không nhảy đầm, cả
đứng xem cũng không. Còn yêu người nước ngoài thì thuộc hàng trọng tội. Mãi sau
này, khi con gái nhà lãnh đạo cao cấp nhất Việt Nam yêu và lấy một anh người
Nga, tội này mới được giảm nhẹ, giảm chứ không phải bỏ hẳn.
Còn ông Tươi Mát nguyên là một đảng viên gộc, cán bộ
phường, phụ trách văn hóa. Thế mà ông sa đọa đến mức lén lút xem một đoạn phim
tươi mát của chế độ Sài Gòn cũ, chiếu cảnh mấy cô gái Mỹ đồi trụy tắm, không có
tí vải nào trên người. Tòa để ngoài tai lời thanh minh rằng cuốn phim ấy được
ông bạn cán bộ văn hóa huyện cho mượn “xem để biết bọn đế quốc hư hỏng thế
nào”. “Cán bộ cấp huyện mới đủ thẩm quyền và bản lĩnh chính trị xem những phim
loại này”, tòa phán. Hơn thế, lúc bị bắt, người ta còn khám thấy trong túi ông
chiếc bút bi mà khi cầm ngược lên, chất lỏng bên trong rút xuống, để lộ hình
một phụ nữ lõa thể. Năm năm tù cải tạo! Cũng với tội “truyền bá văn hóa độc
hại”.
Nhờ vụ con lãnh đạo lấy tây, Ông Tây được trả tự do
sớm năm năm, vậy là cả ba ra tù cùng năm, gần như cùng một lúc. Tuy nhiên,
khoảng mười năm sau, khi đất nước đổi mới và có vẻ dễ thở hơn, cả ba ông lại bị
bắt vì có ý định thành lập Hội những người bị tù oan. Mới có ý định thôi, nhưng
riêng bản nháp cái ý định ấy cũng đủ mỗi ông ngồi bóc lịch thêm ba năm nữa, lần
này với tội “hoạt động lật đổ nhà nước”.
Ra tù, họ vẫn chơi thân, giao du với nhau từ bấy đến
nay khi, tự lúc nào không biết, họ đã là những ông già. Nơi họ thường gặp mặt
là quán cà phê “Nắng chiều” của Ông Vàng, ngay bên bờ Hồ Tây. Họ đến để ngắm
nắng chiều trên hồ, đàm đạo chuyện nhân tình thế thái, và đặc biệt là để nghe
nhạc vàng. Nghe to mà không sợ bị bắt. Nếu còn trẻ, chắc họ có thể tha hồ xem
cả phim “tươi mát”.
Quán do vợ ông quản. Bà vốn là ca sĩ của một đoàn văn
công thủ đô, nổi tiếng xinh đẹp và bản lĩnh. Khi chồng bị tù, thằng trưởng đoàn
mò đến tán tỉnh và nói xấu chồng trước mặt bà. Hắn đã lãnh một cái tát thật kêu
vào mặt. Rồi bà bỏ nghề đi bán bún riêu dạo trên phố. Chắc thằng kia có bạn bên
công an nên gánh bún bà luôn bị gây khó dễ, nhiều lần còn bị hất đổ ra đường.
Ấy vậy mà bà vẫn sống được nhờ gánh bún ấy, đủ tiền thăm nuôi chồng rồi dần dần
mua được cái quán cà phê này, nhỏ thôi, nhưng đông khách và phần lớn là người
có tuổi.
Hôm nay ba ông gặp nhau vào buổi trưa, khi quán không
có người khách nào. Mặt nước Hồ Tây như đứng lặng vì trời lặng gió. Có cảm giác
cái nóng hầm hập không phải từ con đường rải nhựa phía trên đổ xuống, mà từ
phía hồ.
Như mọi lần, bà chủ lặng lẽ cung phụng ba ông cà phê
và thuốc lá, với nét mặt nhẫn nhục pha chút ngưỡng mộ, nhất là đối với Ông Tây.
Từ ngày ông cùng cô gái Ba Lan nhảy lầu từ tầng ba ký túc xá tự tử để bảo vệ
tình yêu, ông chẳng yêu ai nữa và luôn sống một mình. Cô người yêu chết, ông
gãy một chân và bị bắt về nước như đã nói. Ông vẫn xinh đẹp, có thể nói là
người đàn ông đẹp trai nhất bà từng gặp. Ông là thần tượng và linh hồn của cả
bộ ba, nếu không kể bà. Dạo này bà đoán như các ông đang âm mưu chuyện gì đó.
Ông Tươi Mát luôn cặp kè chiếc vi tính bé xíu mà ông bảo con trai cho. Không
ngờ ông cựu cán bộ phường, cựu đảng viên gộc ấy giờ lại giỏi món internet. Ông
lấy từ mạng xuống những bài báo nào đó, rồi cả ba cùng đọc và thậm thụt bàn
tán. Tuần trước Ông Vàng bảo bà lên Hàng Bài mua hộ ba chiếc áo sơ mi màu đỏ có
in hình sao vàng trước ngực, loại tây ba lô thường mặc. Bà lặng lẽ mua mà không
hỏi để làm gì. Hai hôm sau, khoảng chín giờ đêm, bà thấy xe công an chở cả ba
về quán. Hỏi thì nói vì tham gia biểu tình chống Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông
bị bắt lên đồn. Công an tịch thu cả ba chiếc áo ấy, cảnh cáo lần sau không được
biểu tình nữa. Họ vừa ra khỏi nhà, Ông Vàng bảo vợ mai mua ba chiếc nữa. Sáu
cũng được, ông nói thêm.
- Vậy là ta ký? - Cuối cùng, ông Tây ngước lên, hỏi.
- Ký. - Ông Vàng và Ông Tươi Mát gật đầu.
- Lần này có vẻ gay đấy. Không khéo lại bị bắt.
- Có thể. Nhưng chúng ta không muốn thêm một người nữa
bị bắt oan ức. Người ấy nói đúng điều ta nghĩ, đúng nguyện vọng của mọi người
và không làm gì trái pháp luật.
- Ừ, bắt anh ta thật quá đáng. Lại còn cái phiên tòa
vụng về kia nữa…
- Các ông định ký tên bản Kiến nghi trả tự do cho ông
luật sư đòi dân chủ đấy à? - Bà chủ quán bỗng xen vào.
- Vâng. Sao bà biết? Bà không sợ lần nữa chúng tôi bị
bỏ tù à?
- Sợ. - Bà đáp. - Nhưng việc phải làm thì cứ làm. Sợ
cũng làm. Có gì, tôi thăm nuôi. Cho cả ba.
Rồi bà thong thả mang đến cho ba ông ba ly cà phê
khác.
Hà Nội,
6.7.2011
10. THỬ THÁCH
Sư thầy Thích Trí Phạn mới được bổ về đây làm trụ trì
chùa Thiếu Lâm, khi vị sư già tám mười tuổi trông coi nó gần hết cuộc đời mình
viên tịch.
Chùa nhỏ, không mấy nổi tiếng, lại nằm chót vót trên
đỉnh núi Mụa, phía dưới là con sông Cà Lân và một thung lũng rất rộng. Dẫu cảnh
đẹp, lại thiêng nữa - nghe nói xưa đây là ngôi chùa riêng của một thương gia
người Tàu nhờ xây nó mà làm ăn rất phát đạt, - nhưng hiếm khi có khách lễ cúng
hay vãn cảnh chùa này, chủ yếu do người ta ngại leo cao.
Sư thầy còn trẻ, khoảng ba lăm, bốn mươi gì đó, với
cái đầu tròn cân đối cạo trọc bóng loáng và khuôn mặt hiền hậu, da trắng pha
chút bầu bĩnh như con gái. Cả cách đi lại, ăn nói của sư cũng nhẹ nhàng. Người
ta có thể ngạc nhiên khi thấy bê n nửa vai trần dưới chiếc áo cà sa màu vàng
của sư có hình xăm chiếc mỏ neo và một con rắn quấn quanh nó. Nhỏ thôi, mà cũng
hơi mờ nên chắc không ai chú ý lâu. Mà nếu chú ý có lẽ cũng nghĩ nó là kết quả
một trò chơi nghịch ngợm thời nhỏ.
Ngày đầu tiên đến chùa Thiếu Lâm, sư thầy Thích Trí
Phạn rất ngạc nhiên, thậm chí hơi bố rối, khi thấy trong chùa chỉ có duy nhất
một người là ni-cô Đàm Liên, chưa đến ba mươi tuổi và xinh đẹp. Bộ quần áo màu
nâu giản dị, chiếc đầu trọc và nét buồn buồn cố hữu của những người như cô
không dấu được vẻ đẹp trời cho ấy. Tuy nhiên sư thầy vẫn giữ được vẻ măt bình
thản thường ngày. Ở nhà Phật hơn mười năm, sư đã gạt khỏi tâm trí và thể xác
mình mọi vướng víu của đời tục.
Vậy là hai người đàn ông và đàn bà còn trẻ, hai người
con của Phật, sống tách biệt trong ngôi cùa nhỏ trên núi. Mọi việc diễn ra bình
thường. Sư thầy trụ trì suốt ngày đọc sách, tụng kinh niệm Phật, thi thoảng ra
ngoài tưới nước cho mấy bui hoa quanh chùa. Cô gái trẻ xuất gia nhập thiền lo
chăm sóc mấy luống rau và phần việc ăn uống của hai người. Họ hầu như không nói
chuyện với nhau, trừ những lúc thật cần thiết. Nhìn thẳng vào mặt nhau cũng
không. Âm thanh duy nhất nghe thấy ở đây là tiếng gió thổi xạc xào trong tán
cây, tiếng chim hót và tiếng mõ tụng kinh đều đều.
*
Một sáng nọ người ta phát hiện thấy xác hai người dưới
chân núi Mụa, thân thể bị dập nát do rơi hoặc nhảy từ trên đỉnh núi xuống. Đó
là sư thầy Thích Trí Phạn và ni-cô Đàm Liên.
Đến trưa thì Đại Đức Thích Tuệ Nhỡn nghe tin liền đến.
Ngài là vị chức sắc cao nhất trong vùng, từ ngôi chùa cổ Pháp Tâm ngoài thị
trấn. Với nét mặt gần như vô cảm, ngài lặng lẽ đọc mấy chữ nắn nót ghi lại trên
tờ giấy trắng được xé từ một cuốn vở: “Chúng con xin đền tội bằng cái chết của
mình vì đã làm ô uế nơi cửa Phật”. Sau đó, ngài cho khâm lượm thi thể hai người
và đưa ra một quyết định khó khăn có thể sau này ngài sẽ bị quở trách là chôn
họ trong khuôn viên chùa Thiếu Lâm.
“Tội nghiêp!”, ngài thốt thành tiếng khi còn lại một
mình trong phòng. “Họ đã không vượt qua được thử thách của Phật”.
Ngài nói Phật nhưng hàm ý cả chính mình, vì hơn ai
hết, ngài biết sư thầy Thích Trí Phạn vốn xưa là một tay giang hồ, thủ lĩnh
giang hồ, các bãi vàng trên miền sơn cước, còn ni-cô Đàm Liên từng là hoa khôi,
sinh viên năm cuối một học viện Tài chính ở Sài Gòn, do thất tình mà xuống tóc
đi tu.
Hà Nội, 11.7. 2011
11. VÔ CẢM
Hôm nọ, chuyện gẫu với nhau, có ông bạn già chợt bảo
tôi:
“Cái truyện ‘Đoạn dây thừng’ của ông được đấy. Ông lão
nhân vật bảo bà hàng xén muốn mua một đoạn dây thừng để thắt cổ mà bà ta chẳng
mảy may xúc động…”
“Còn khuyên nước sông Hồng đang lên, ra cầu Chương
Dương tự tử chẳng tốt hơn ư?” tôi đáp.
“Vô cảm đến thế là cùng! Chuyện thật à?”
“Không. Tôi phịa. Như một lời cảnh báo về cái nguy cơ
vô cảm của người đời ông vừa nói. Hy vọng trong cuộc sống thực không bao giờ có
chuyện như thế…”
“Có, có đấy!” Kinh khủng nữa là khác!”
Ông bạn già vội nói như chạm đúng chỗ ngứa. Rồi ông kể
tôi nghe một câu chuyện “rùng rợn” ông vừa chứng kiến.
Số là cách đây không lâu ông có việc về Phú Thọ quê
ông. Một tối ông ra quán rượu bên sông Thao. Quán nằm ngay trên bờ dốc, sâu
phía dưới là dòng nước chảy xiết vì đang là mùa lũ. Cạnh đấy có chiếc cầu xi
măng mới xây, loại cầu nhỏ liên tỉnh nhưng khá cao. Bà chủ quán cho biết từ khi
xây cầu đến nay chưa đầy một năm đã có mười người tự tử ở đây, cả người lân cận
lẫn người từ xa, phần nhiều do thua đề, vỡ hụi. Thanh niên thất tình cũng có,
nhưng ít thôi. Ngẫu nhiên đúng tối đó lại có một vụ nữa xẩy ra. Lúc ấy khoảng
chín giờ, trời tối và se lạnh. Bỗng nghe “ùm” một tiếng từ phía cầu. “Lại thêm
một người nữa chết!” bà chủ quán chép miệng. Trong quán có ba người đàn ông
đang uống rượu. Nghe thế, một ông nói: “Dạo này lắm người muốn chết thế!” Ông
thứ hai: “Thì để chúng chết, can gì đến bác. Uống đi!” Lát sau, ông thứ ba hỏi,
một cách thật thà và thản nhiên: “Giờ chắc chìm rồi nhỉ?”
“Ông nghe rõ đấy chứ?”, ông bạn già nói như quát vào
tôi. “Giờ chắc chìm rồi nhỉ? Cứ như khúc gỗ hay cái bọc giẻ không bằng. Ông có
thấy kinh khủng không?”
“Kinh khủng”.
“Và thay cho việc thản nhiên hỏi một câu kinh khủng
như thế, họ có thể kêu cứu, nếu không tự mình nhảy xuống cứu. Một mạng người
chứ đâu phải chuyện nhỏ”.
“Đúng thế, tôi đáp, rồi ngước lên nhìn bạn, khẽ hỏi:
“Còn ông? Sao ông không làm điều ông vừa nói?”
Ông bạn già đớ người một chốc, không biết đáp thế nào.
“Tôi không biết bơi.”
“Có thể ba ông kia cũng không biết bơi thì sao?”
“Có thể. Vả lại tôi già rồi.”
“Già đến mức không kêu cứu được?”
Thay cho lời đáp, ông bạn tôi hỏi, vẻ tức giận:
“Ông lên án tôi đấy à?”
“Không. Tôi chỉ muốn nói cái vô cảm ấy có cả trong
ông. Cả trong tôi nữa. Ông không kêu mọi người đến cứu con người xấu số đó. Còn
tôi, tôi kể chuyện đoạn dây thừng ấy như kể bao nhiêu chuyện khác trong cuộc
đời viết văn của tôi. Một cách thản nhiên và, có thể nói, cũng “vô cảm” như ông
vừa nói ông không biết bơi”.
Hà Nội, 12.7.2011
12. MA ÁM
Đêm trời tối. Lại lất phất mưa phùn. Thằng bé vừa đi
vừa khóc. Gió táp mưa lên mặt nó, chảy thành dòng vào mắt và miệng. Nó đi chầm
chậm, lưng cúi thấp vì nghĩ thế sẽ đỡ lạnh và quan trọng hơn là giữ cho chiếc
bọc nó đang ôm khỏi ướt. Trong bọc có năm con mèo con mà nó bị bắt phải đem đi
vứt xuống sông Cà Lờ. Những chú mèo bé nhỏ tội nghiệp mà nó rất yêu.
Năm ấy mất mùa. Cả nhà đói. Lại đúng lúc con Mướp đẻ,
mà những năm con chứ không phải ba như thông thường trước đó. Đến người còn
không có cái ăn, nói gì mèo, nên suốt
ngày nghe chúng kêu khóc thật tội. Con Mướp tốt giống, đẹp mã mỗi năm đẻ ba bốn
lần và thường chưa đầy tháng đã có người đến mua hết, thành ra gia đình cũng có
chút thu nhập. Giờ cho không không ai lấy.
Được một tuần thì ông bố, một người hiền lanh nhưng
rất nghiêm khắc và cương quyết, bắt nó phải làm cái việc nhẫn tâm này. Nó chứ
không phải hai đứa em gái ngu ngốc và hay khóc. Mẹ nó chết mấy năm trước vì
bệnh uốn ván. Lý do là đêm trước con Mướp đã ăn vụng mấy củ khoai luộc để dành
cho cả nhà ngày hôm sau. Thằng bé không tin điều ấy vì đêm nào nó cũng ôm mấy
con mèo con nằm ngủ và không hề thấy mẹ chúng mang chút thức ăn nào về. Nó biết
nhưng không dám cãi, và đành lủi thủi ôm bọc mèo ra sông. Đến nơi, nó hồi lâu
hôn hít từng con rồi vừa khóc vừa thả chúng xuống dòng nước đen ngòm phía dưới.
Nó giận bố độc ác, gần như xem là kẻ thù. Trong đầu óc non nớt của nó thậm chí
còn lởn vởn ý nghĩ giết bố. Nhưng vốn nhút nhát và sợ bố, nó lặng lẽ chui vào
ngủ trong ổ rơm, đêm nay không còn cái cảm giác ấm áp của lũ mèo trong vòng
tay.
Đến bữa ăn
trưa, bố nó hồ hởi khoe vừa được ông bạn làng bên trả công cày thuê bằng nửa
cân thịt thỏ.
“Ngon lắm, các con ăn đi!”, ông nói, còn mình thì cầm
đũa nhìn ba đứa trẻ háo hức chúi đầu vào nồi thịt và ăn ngấu nghiến. Đôi mắt
ông ươn ướt.
Bỗng con Út, tám tuổi, ngừng ăn nói:
“Con biết đây không phải thịt thỏ mà thịt mèo. Từ sáng
đến giờ con không thấy con Mướp đâu cả!”
“Phải thế không bố?” thằng bé nhìn thẳng vào mắt bố,
hỏi.
Bố nó không đáp, chỉ cúi đầu buồn bã.
Thế là thằng bé bỏ bắt đũa xuống mâm, ù chạy khỏi nhà
và không bao giờ quay lại.
*
Thằng bé ấy bây giờ là một ông già. Ông vừa kể xong
câu chuyện buồn của mình và đang ngồi trước mặt tôi.
“Thực ra mười năm sau tôi quay lại. Lúc này bố tôi đã
chết, chủ yếu vì tôi, một đứa con hư, đã nỡ đối xử với ông như vậy. Lúc đầu tôi
vào Vinh, sau sợ người ta nhìn thấy nên bỏ ra Hà Nội, kiếm sống bằng đủ mọi
cách lương thiện và không lương thiện. Tôi từng bị ngồi tù hai lần vì tội ăn
cắp. Giờ tay không vẫn hoàn tay không. Không cả gia đình, con cái. Nghĩa là tôi
cũng giết cả chính mình chứ không riêng bố. Tất cả chỉ vì mấy con mèo ấy…”
Ông ngồi im hồi lâu rồi chợt ngước lên hỏi tôi:
“Bác đã bao giờ đem con mình vứt xuống sông chưa, hay
thậm chí ăn thịt nó?”
“Chưa, tất nhiên. Sao bác có thể hỏi một câu như vậy?”
“Để bác hình dung lúc ấy tôi đau đớn và giận bố tôi
thế nào. Ông là người tốt, rất thương yêu chúng tôi, nhưng tôi không thể làm
khác. Tại đầu óc tôi quá nhạy cảm. Cả ngu dốt nữa. Cứ như bị ma ám ấy!”
Chia tay ông, tôi bâng khuâng nhìn theo. Và thay cho
hình bóng một ông già nhỏ bé, gầy khô, lưng còng, tôi nhìn thấy một đứa bé đang
vừa khóc vừa lầm lũi bước đi giữa đêm trời tối, mưa lất phất, tay ôm chiếc bọc
vải với năm con mèo con mà nó phải vứt xuống sông Cà Lờ. Những con mèo tội
nghiệp nó rất yêu, nhưng vô tình đã làm hỏng cả cuộc đời nó.
Hà Nội, 13. 7. 2011
13. ĐỨA CON TRAI
Thời bao
cấp đói khổ nhiều cặp vợ chồng trẻ không dám sinh con thứ hai. Nay về già sống
một mình, họ lấy làm ân hận. Không đơn thuần về mắt tình cảm hoặc kinh tế, mà
còn có cái gì đấy lớn hơn thế.
Ông Bàn là một trường hợp tương tự. Thời ấy, vợ không
đi làm, là công chức quèn lương tháng không mua nổi vài yến gạo, nên khi nghe
vợ bảo có thai, ông hốt hoảng thật sự. “Nhà mình đã có một đứa, không biết có
nuôi nấng, học hành tử tế được không, bây giờ có đứa nữa biết làm sao?” Đêm ấy
ông tâm sự với vợ.
Trong nhà, ông luôn là người quyết định mọi chuyện.
Không do gia trưởng hay là người duy nhất kiếm tiền, mà vì ông chỉn chu, thông
minh và biết lo toan. Thành ra, dẫu ông không gợi ý trực tiếp, mấy ngày sau bà
vợ nhờ ông đèo đến bệnh viện phá cái thai ấy, với hy vọng sau cuộc sống tốt hơn
sẽ tính. Tuy nhiên, phải mất hai mươi năm cái cuộc sống tốt hơn ấy mới đến, khi
đã quá muộn để nghĩ đến đứa con thứ hai.
“Đó là một thằng con trai, bà nói, giữ được thì hay
quá. Nhà có nếp, có tẻ”.
“Sao bà biết là con trai?”
“Là mẹ, tôi phải biết. Ông không thích con trai à?”
“Thích. Nhiều đêm còn mơ thấy nó.”
“Thế à? Tôi cũng vậy.”
Họ tránh không nói lâu đề tài này nên chuyển sang
chuyện khác, chuyện cô con gái lấy chồng tận Sài Gòn không chịu đưa con về thăm
ông bà đã đành, còn hiếm khi gọi điện cho cho họ.
“Con gái là con người ta…” bà chép miệng rồi bỏ đi,
chắc tìm gặp mấy bà hàng xóm cùng cảnh ngộ để chuyện gẫu và than vãn.
Lúc ấy đã xế chiều. Qua cánh cửa để mở, những tia nắng
muộn rực rỡ chiếu chếch lên chiếc ghế xếp bằng gỗ ông đang nằm. Như nhiều ông
già to béo khác, ông lười hoạt động. Cả suy nghĩ cũng lười nốt. Dạo này ông
thấy người sụp hẳn. Có cái gì đấy như đang vỡ ra bên trong. Không lẽ cái chết?
Chắc không, vì ông còn trẻ và mạnh khỏe, ít ra bề ngoài. Vậy thì là cái gì? Ông
tự hỏi, dù từ lâu đã biết câu trả lời. Đó là sự dằn vặt đau đớn rằng ông, chính
ông đã không cho đứa con của mình ra đời, con trai. Ông đã giết nó từ khi còn
trong bụng mẹ. Dẫu chua xót, nhưng ông phải thừa nhận điều đó. Thời trẻ người
ta xem nạo, phá thai là chuyện bình thường, nhưng về già, cô đơn và đau ốm,
chuyện này được nhìn nhận dưới một góc độ khác hẳn, cực đoan và ảm đạm hơn. Dạo
này ông hay mất ngủ vì những trăn trở ấy. Thực ra ông chưa bao giờ mơ thấy con.
Đêm đêm, mắt mở to trừng trừng nhìn vào bóng tối, ông nhìn thấy con ông, một
chàng trai cao lớn mặc bộ quần áo đỏ rực đến đứng bên cạnh. Chỉ lặng im đứng
nhìn ông với đôi mắt buồn buồn. Cảm giác như thật, khiến ông nhiều lần ngồi bật
dậy, với tay định chạm vào con, nhưng lần nào con ông cũng nhanh chóng biến
mất. Sao lúc nào nó cũng mặc quần áo màu đỏ? Máu! Màu của máu! Máu con mình!
Máu mình…Ông lấy hai tay ôm mặt để khỏi nhìn thấy cái màu đỏ kinh khủng ấy.
Hình như mặt trời đã lặn. Bà vợ vẫn chưa về. Đang lúc
ông Bàn nhỏm dậy cho đỡ mỏi và cũng để nhâm nhi chéỉntà nguội thì có ai đấy từ
ngoài bước vào. Ngước lên, ông sững sờ thấy đang đứng trước mặt mình là một
thanh niên mặc quần áo màu đỏ, khuôn mặt và thậm chí cả mái tóc cũng đỏ. Sau
phút ngỡ ngàng ban đầu, ông bước lại gần, đưa hai tay ôm người anh, khẽ hỏi:
“Con đấy à?”
Chàng trai gật đầu, vẻ mặt bất động và rất buồn.
Ông Bàn ngạc nhiên khi thấy anh không biến mất như mọi
lần. Hơn thế, lần này không phải tưởng tượng mà thật. Cái thật ấy ông cảm thấy
qua làn vải màu đỏ lành lạnh, ẩm ướt, qua sự hiện diện bằng xương bằng thịt của
con ông.
“Bố xin lỗi…” Ông lí nhí nói rồi âu yếm đưa bàn tay
phải chạm vào mái tóc và khuôn mặt màu đỏ của con. Lạnh và ướt. Ông có cảm giác
như cả người con ông được làm bằng sáp chưa khô hẳn.
Chàng trai vẫn không nói gì, lặng lẽ đón nhận sự âu
yếm của bố.
“Con tha lối cho bố mẹ chứ?” Ông Bàn ngước nhìn con
với vẻ cầu khẩn.
Vẫn với nét mặt buồn buồn, chàng trai khẽ gật đầu rồi
đặt một bàn tay lên vai ông. Nhẹ lắm, hầu như không trọng lượng, thế mà ông
choáng váng, suýt ngã khuỵu dưới sức nặng của nó. Khi ông định thần lạ thì
chàng trai đã biến mất từ bao giờ.
Đúng lúc ấy, bà vợ ông về.
“Sao ông đứng như trời trồng giữa nhà vậy?” bà hỏi.
“Nhìn kìa, đôi tay ông…”
Ông Bàn giơ hai tay trước mặt. Chúng dính đầy máu.
Hà Nội, 21. 7. 2011
14. MẶT NẠ
Nhà đông người, nhưng không ồn ĩ, vì người ta đang tập
trung trước giờ hấp hối của một trong những người thân của họ. Hơn thế, người
hấp hối lại danh giá, nổi bất nhất và là niềm tự hào xưa nay của cả dòng họ.
Một ông quan. Quan xưa đã ghê gớm, quan cách mạng bây giờ còn ghê gớm hơn.
Với nét mặt đau buồn hoặc cố gượng đau buồn, người ta
khe khẽ trao đổi với nhau đôi câu thường thấy trong những trường hợp thế này.
Những lời hỏi thăm, an ủi chiếu lệ. Những cái chép miệng, thậm chí cả những
giọt nước mắt.
Bà vợ và cô con gái đã lớn của người hấp hối luôn đi
lại trong căn phòng chật cứng, mời nước, mời thuốc và thi thoảng nói đôi lời,
cũng rất chiếu lệ.
Người hấp hối nằm ở phòng bên, trên chiếc giường rộng
trải vải trắng toát. Trong phòng không có ai vì bác sĩ yêu cầu để ông được yên
tĩnh, dẫu chỉ một chốc.
Đó là một người đàn ông da ngăm đen, khá gầy nếu xét
qua đôi tay và đôi chân trần lộ ra dưới lớp vải. Nhưng nếu nhìn mặt thì đó là
một người có khuôn mặt đầy đặn, hồng hào, có thể nói rất ưa nhìn, dẫu ít nhiều
xa lạ. Nhìn nó, người ta chẳng biết nó đang khen hay chê mình, đang cười, dửng
dưng hay thậm chí đang khóc. Thành ra, khuôn mặt đầy đặn có vẻ cởi mở ấy rốt
cục vẫn kín mít và vô cảm. Ông còn trẻ, chưa đến sáu mươi nhưng đã là một cán
bộ cấp cao, rất cao, và chắc chắn sẽ còn lên cao nữa nếu không bị căn bệnh ung
thư quái ác này cản đường.
Khuôn mặt mở mà kín đáo, thân thiện mà vô cảm ấy của
ông giữ vai trò quyets định trên con đường thăng tiến.
Ở phòng ngoài, bà mẹ bảo cô con gái:
“Con vào với bố đi. Đừng để bố một mình”.
Cô gái, một sinh viên năm cuối trường Ngoại Giao, lẳng
lặng làm theo lời mẹ. Vừa mở cửa, cô chợt nghe có tiếng gì đấy rơi, kêu đánh
keng giữa sàn nhà đá cẩm thạch. Trên giường, người hấp hối nằm đầu ngoẹo sang
một bên. Cái vật rơi ấy chắc từ người ông. Cô vội chạy lại và thấy bố đã chết.
Đúng lúc định kêu lên gọi mẹ thì cô phát hiện thấy một điều rất khác thường.
Đó là khuôn mặt bố cô. Nó không còn hồng hào, dễ mến
và đầy đặn như vốn có. Thay vào đó là một khuôn mặt xa lạ, xấu, gian hiểm, gầy
và đen xạm như đôi chân và tay. Cô ngạc nhiên không tin vào mắt mình, đến mức
không biết phải làm gì. Bất chợt cô nhìn xuống sàn nhà và thấy cái gì đấy mỏng,
bằng kim loại. Mặt nạ! Chiếc mặt nạ bố cô vẫn đeo suốt đời mình. Có lẽ giờ chết
không cần nữa, nó mới rơi xuống. Cô cúi xuống cầm nó trên tay, không phải không
thoáng lo sợ và ghê tởm.
Lưỡng lự một chốc, cô sửa đầu bố nằm thẳng rồi vội
vàng đặt nó lên mặt ông. Khuôn mặt ông lại ửng hồng, cởi mở và đôn hậu. Nó nhìn
cô với vẻ hài lòng.
Trong tiếng khóc thút thít, tiếng chia buồn và tiếng
những bước chân cuống quít, người ta liệm người chết vào quan tài. Tiếp đến là
dòng người xếp hàng để nói lời vĩnh biệt, bày tỏ lòng thương xót và kính trọng
với chiếc mặt nạ nằm sau ô kính nhỏ.
Hà Nội, 18.7.1011
15. HOA SEN BỒ TÁT
Họ hay gặp nhau ở hồ Kim Đài, trong hồ có nhiều bèo
tây và sen. Có thể vì thế mà mỗi lần nhớ cô, anh hay nghĩ về hoa sen, đặc biệt
những bông hồng hồng sắp nở. Cũng có thể vì đôi má cô có màu hồng như thế. Cả
cặp vú non, nhòn nhọn dưới lớp vải lụa mỏng cũng gợi anh nghĩ đến một cái gì
đấy đẹp, tinh khiết và thơm. Cái ấy chỉ có thể là hoa sen.
Chuyện xẩy ra đã lâu. Cô là cô gái quê lên thủ đô học
đại học. Anh là con nhà danh giá, giàu có mười đời sinh sống ở đất này. Rồi họ
yêu nhau, như phần nhiều những cặp trai gái khác yêu nhau - không quá hời hợt
mà cũng chẳng mấy say đắm, nhưng chân thành.
Một tối nọ, ngồi trên chiếc ghế đá ven hồ thưởng thức
làn gió mát từ phía sông Hồng thổi tới và hương sen dìu dịu từ hồ bay lên, cô
bảo anh cô đã có thai.
Vốn được quá nuông chiều cả từ phía gia đình lẫn bè
bạn, anh có cảm giác như mình bị xúc phạm khi phải rơi vào một tình huống thụ
động và đột ngột như vậy. Giữa lúc lúng túng không biết nói gì, làm gì, anh đã
buột miệng thốt ra một câu ngu ngốc mà vì nó ân hận cả đời:
“Thế à? Em có chắc là con anh không?”
Cô nhìn anh, đôi mắt mở to đầy kinh ngạc và đau đớn,
rồi ù bỏ chạy. Còn anh, như bị trói vào ghế, vẫn ngồi yên, ngồi đến tận sáng
hôm sau. Khi anh đến ký túc xá tìm người yêu với ý định xin lỗi và nhanh chóng
tổ chức lễ cưới, người ta nói cô đã xin thôi học, bỏ đi đâu không rõ. Từ bấy
đến nay hai mươi lăm năm đã trôi qua, và anh chưa gặp lại cô lần nào.
Hồ Kim Đài ngày nay không còn như xưa. Nhỏ hơn nhiều,
có đường đi lát đá bao quanh. Chính giữa hồ không hiểu sao người ta dựng chiếc
lầu nhỏ tám mái bằng ngói sành màu xanh thẫm. Trong lầu, cao trên bệ đá hoa
cương là tượng Quan Âm Bồ Tát tọa trên đài sen màu trắng. Dưới hồ sen vẫn nở,
nhưng toàn màu hồng.
Anh, bây giờ đã là một người đàn ông tóc hoa râm, vẫn
thỉnh thoảng ra ngồi bên hồ. Ngồi đúng chỗ ngày xưa, nơi anh và cô gái của anh
đã ngồi vào cái đêm cuối cùng định mệnh ấy, dẫu bây giờ chiếc ghế đá không còn.
Ông sống một mình không vợ con, gia tài bố mẹ để lại tiêu tán hết vào những
chuyến đi dài ngày tìm kiếm người yêu. Ông đã thật sự hối hận và đau khổ vì câu
nói ngớ ngẩn, không suy nghĩ đó. Lo lắng cho số phận cô gái, và cả đứa con của
mình, ông tìm kiếm họ khắp nơi nhưng không thấy.
Mười giờ đêm. Đèn chiếu sáng quanh hồ phụt tắt do đang
trong tháng tiết kiệm điện. Dây đèn trang trí màu đỏ trong lầu vẫn sáng, không
hiểu từ nguồn nào. Cả bức tượng và đài sen có màu hồng nhạt như những bông sen
dưới hồ ban ngày. Ông vẫn ngồi yên, nghĩ về màu hồng đôi má và cả đôi vú nhỏ,
nhọn của người yêu năm nào. Hình như đã khuya. Chỉ còn lại một đôi bạn trẻ ngồi
bên chiếc ghế cách đấy không xa. Bất giác ông thở dài, thầm mong họ không lặp
lại bi kịch của ông.
“Anh xin lỗi. Xin mẹ con em hãy tha thứ cho anh”.
Ông nói với bức tượng Quan Âm Bồ Tát trên đài sen màu
hồng giữa hồ. Nếu có thể, ông đã lội nước đến quỳ trước nó mà nói. Rồi ông
thành kính chắp tay trước ngực:
“Xin Bồ Tát lòng lành giúp con!... Hãy ban ơn giúp
con!...”
Bất chợt, bức tượng Bồ Tát động đậy. Ngài từ từ bước
lại, đặt ông lên bàn tay của mình rồi bay đi.
*
Sáng hôm sau, ông tỉnh dậy gần một ngôi chùa lạ.
Trước mắt ông là một ni-cô trẻ, mặc bộ quần áo nhà
chùa màu nâu còn mới. Không hỏi, không mời, cô gái lặng lẽ đưa ông vào chùa.
Chùa ở lưng chừng núi, lọt thỏm giữa những tán cây
xanh. Phía dưới lác đác mấy ngôi nhà tồi tàn được dựng theo kiểu rất lạ ông
chưa thấy bao giờ. Điều này khiến ông nghĩ ông đang ở một nơi nào đấy rất xa.
Trước chùa có chiếc bể lớn bằng xi măng giả làm ao, lơ thơ mấy bông sen đang nở
như ở hồ Kim Đài. Bất giác nhìn xuống nước, ông thấy mình với khuôn mặt phờ
phạc ốm yếu, mái tóc xù, cái lưng gù gù dẫu chưa già và bộ quần áo nhàu nát.
Trụ trì là một sư thầy trạc tuổi ông nhưng trông trẻ
hơn nhiều. Bà có khuôn mặt đẹp, đôn hậu đến mức thánh thiện nhưng vô cảm. Bà
hồi lâu nhìn ông cũng với vẻ lạnh lùng, vô cảm ấy. Ông không lấy thế làm buồn
vì biết người tu hành thường có vẻ ngoài như vậy, dù họ tốt bụng.
Thay cho câu cảm ơn bình thường, ông nhắc lại hai
tiếng “mô phật” của sư thầy khi bà mang tới đĩa khoai luộc và bát nước. Bà lặng
lẽ nhìn ông ăn. Nhìn ông còn có một người nữa, đó là Bồ Tát. Ngài đang ngự trên
một đài sen bằng đá cẩm thạch màu trắng như ở hồ Kim Đài, ngay gần ông nhưng
chắc mải ăn nên ông không nhìn thấy. Ông cũng không nhận thấy khuôn mặt thánh
thiện của sư thầy trụ trì có màu hồng hồng trông giống một bông chưa nở. Bông
sen Bồ Tát.
Ăn xong, ông tựa lưng vào chiếc tràng kỷ gỗ rồi thiếp
lúc nào không biết.
Lát sau, cô gái bước vào:
“Ông ấy đâu rồi mẹ?”
“Bồ Tát đưa ông ấy về rồi”, sư thầy trụ trì đáp.
“Trông ông ấy tội nghiệp quá”.
“Ừ, tội nghiệp. Bố con đấy”.
Hồi lâu, cô gái mới lên tiếng, giọng bình thản.:
“Sao mẹ không giữ ông ấy lại?”
“Chưa phải lúc. Vì bố con không thấy mẹ đã khóc. Bố
con chưa đau khổ đến mức có thế thấy người khác khóc mà không cần nước mắt hay
thay đổi nét mặt”.
Hà Nội, 25. 7. 2011
16. CHUYỆN LÀNG VÀ NGƯỜI LÀNG
Hồi cải cách ruộng đất năm 1956 tôi còn nhỏ, nhưng
cũng đủ lớn để chứng kiến khá nhiều chuyện xẩy ra trong làng. Mãi đến giờ tôi
vẫn không sao quên nổi cái không khí điên khùng, kỳ cục những ngày ấy. Cả làng
như đang trong cơn lên đồng tập thể. Đêm nào cũng họp hành và đấu tố. Hàng xóm
đấu hàng xóm, thằng ở đấu ông chủ, có cả trường hợp anh em đấu nhau hay thậm
chí con cái đấu cha mẹ. Toàn những mày tao chi tớ, nhổ nước bọt, chỉ tay dí mặt
trông mà khiếp. Ban ngày thì cả làng kéo nhau đi xem xử bắn bọn “gián điệp” và
“cường hào gian ác”. Làng mình không hoặc chưa có thì xem ở làng khác.
Nổi bật nhất là lễ rước “quả thực”, tức là lễ rước
khắp làng những của cải, đồ đạc tịch thu của địa chủ trước khi chia cho dân
làng. Vui lắm, thích lắm. Nhưng địa chủ thì ít, lại chủ yếu thuộc diện qui chụp
theo chỉ tiêu trên giao xuống, nên cũng chẳng có nhiều để chia. Thế mà ai cũng
hỉ hả ra mặt. Tự dưng không đâu người ta cho mình cái này cái nọ, hỏi làm sao
không vui? Nhà tôi thuộc diện bần cố nông nên cũng được một cái chum và nửa con
trâu, chung với ông bác. Bố mẹ tôi cũng hỉ hả lắm, dù tôi biết hai cụ chưa bao
giờ phải đi ở hay làm thuê cuốc mướn cho tên địa chủ nào. Qua vụ này, tôi đâm
ra ghét mấy ông bà nông dân tham lam, tráo trở.
Chỉ đạo toàn bộ cuộc lên đồng tập thể kéo dài cả tháng
ấy là hai ông Đội, một từ Vinh, một từ tận trung ương về. Ông trung ương là
người làng, có tên Hoạt, nghe nói ông tự xung phong, chứ cỡ ông không ai xuống
cấp xã. Ông này trạc ba mươi lăm, bốn mươi tuổi, người vạm vỡ, ít nói và có
thói quen chốc chốc lại ngúc ngắc đầu như đang cố xua một con ruồi vô hình.
Để nêu gương cách mạng, ông chọn ở nhà lão Thọt theo
phương châm ba cùng, là cùng ăn, cùng ở và cùng làm việc, mặc dù ông chỉ về ngủ
vào lúc đêm khuya, trên cái giường duy nhất trong nhà. Lão Thọt thì ngủ trong ổ
rơm dưới bếp, thường có tôi ngủ cùng vì lão có cả một kho truyện ma để kể. Bù
lại, ban ngày tôi nhổ tóc bạc và bắt rận cho lão. Không hiểu sao người ta gọi
Thọt khi lão đi đứng bình thường như mọi người. Lão còn khỏe mạnh dù đã hơn sáu
mươi, trước từng đi lính sang Dijon
bên Pháp. Nhưng lão mù, mà cũng mới đây thôi, sau một lần đau mắt và được ông
thầy lang làng bên chữa bằng cách đắp hai con nhái đã nướng chín lên mắt.
Mấy ngày sau khi Đội về, đêm nằm lão bảo tôi:
“Chúng nó bắt đầu ăn thịt nhau đấy mày ạ?”
“Sao phải ăn thịt nhau?” tôi hỏi.
“Rồi mày xem. Bọn này chẳng hay ho gì đâu”.
“Bọn nào ạ?”
“Bọn Đội. Bọn chó chết. Nhất là thằng Lan”.
Lan là tên anh Đội thứ hai. Hắn còn trẻ nhưng rất hống
hách, chuyên xúi người ta đấu nhau, và là thằng đầu têu đánh dã man những người
bị qui oan. Đã thế hắn còn tham ăn và háu gái. Người ta thấy hắn bắt gà vịt và
sờ mông, bóp vú đàn bà giữa ban ngày ban mặt mà chẳng ai dám nói gì. So với
hắn, ông Hoạt còn tử tế hơn nhiều, dẫu vì ông khối người phải khốn khổ.
Một tối nọ cô Bích, cháu đằng ngoại của lão Thọt, tấm
tức chạy đến bảo lão cô bị hắn đè ra hiếp, dọa nếu không chịu, cả nhà cô sẽ bị
qui địa chủ, tức là bị xử bắn. Lão Thọt nghe không nói một lời nào. Đêm ấy tôi
nghe lão nghiến răng kèn kẹt mãi. Tối hôm sau, lúc ấy đã khuya, lão chui vào ổ
rơm, ôm chặt tôi rồi thì thầm:
“Tao giết hắn rồi!”
“Giết ai?” tôi ngạc nhiên hỏi.
“Thằng chó chết ấy chứ còn ai nữa. Chém một phát đứt
ngang cuống họng. Ngoài đíếm canh”.
“Nhưng bác mù…”
“Mù ít thôi. Tao giả vờ đấy. Cấm mà bép xép với ai đấy
nhé! Tao giết!”
Khỏi phải nói cả làng bị một phen điêu đứng thế nào.
Người ta khám từng nhà, tra khảo từng người. Có hẳn một đoàn công an từ huyện
về mà cuối cùng vẫn không tìm ra thủ phạm giết thằng Lan. Tất nhiên không ai
nghi ngờ lão Thọt, vì lão mù.
Dần dần mọi chuyện cũng lắng xuống. Tiếp đến là sửa
sai và làng lại đi vào nếp cũ. Ông Hoạt quay ra Hà Nội với công việc xưa nay
của mình trong ngành an ninh. Ông thăng quan tiến chức nhanh chóng và chẳng bao
lâu trở thành người danh giá nhất làng, đặc biệt khi ông về thăm quê bằng ô tô
con, chiếc đài bé xíu đeo bên hông. Ở thủ đô, lần nào gặp mặt đồng hương xã
nhân năm mới ông cũng có mặt, và đương nhiên ngồi ở chỗ nổi bật nhất, được
trọng vọng nhất. Tôi cũng nhiều lần bắt tay, nói chuyện với ông, dẫu không mấy
thân mật vì chênh lệch tuổi tác và nghề nghiệp. Tôi tặng ông một vài cuốn sách
tôi viết, và ngạc nhiên khi biết ông đọc chúng. Thậm chí đọc kỹ, có lần còn gọi điện nhận xét. Hình như ông thích
tôi, tôi không biết vì sao, nhưng có cảm giác như thế. Một lần vui miệng, ông
nói ông đã cứu tôi khỏi bị công an bắt.
“Ngày mới về nước, cậu viết mấy bài thơ ủy mị, kêu
khổ. Chúng nó đưa vào sổ đen, định bắt nhưng tớ đỡ cho, bảo người cùng làng và
thằng ấy tốt nên mới thôi”.
Tôi cảm ơn ông và chẳng biết nói gì thêm. Tôi có biết
mình bị theo dõi, nhưng bị bắt và đi tù như một số văn nghệ sỹ lúc ấy thì quả
thật không ngờ tới. Mà rồi tôi chỉ mới tập tạnh vào nghề chứ đâu đã thành danh
như bây giờ.
Một hôm, cách đây khoảng ba năm, ông gọi điện cho tôi và
nói, giọng quan trọng:
“Cậu đến ngay nhà tớ, có việc muốn nhờ!”
Đến nơi, tôi ngạc nhiên thấy ông đang đứng chờ trước
cổng nhà, mặc bộ quân phục đại lễ, huân huy chương đầy ngực. Ông vội chui vào
xe và nói như ra lệnh:
“Lên Chèm! Khoan hẵng hỏi. Tớ sẽ chỉ đường.” Ông vẫn
chưa quên cái giọng nói chuyện với cấp dưới khi ở cơ quan, dù đã về hưu gần hai
chục năm nay, và tôi là người làng ông đang nhờ giúp đỡ.
Tôi lặng lẽ làm theo, tò mò muốn biết chuyện gì đang
xẩy ra.
Cuối cùng, ông bảo tôi dừng xe bên sông Hồng, cách đền
Ông Trọng không xa. Lúc ấy đã sáu giờ và mặt trời đang tắt dần ở phía Tây. Tôi
bước theo ông đi xuống mép sông, vẫn hoàn toàn chưa biết ông định làm gì. Ở
tuổi tám mươi, trông ông còn khỏe và cao lớn. Cái đầu vẫn thỉnh thoảng lắc lắc
như xưa. Thế mà nghe nói như ông đang bệnh nặng.
Chỗ sông này nước xuáy, ăn lõm vào bờ khá sâu. Ông
đứng lên tảng đá lớn sát bờ, ra hiệu tôi lại gần và nói, cũng bằng cái giọng ra
lệnh lúc nãy:
“Hãy nhìn cho kỹ những gì tớ sắp làm…”
“Bác định làm gì?” tôi hỏi, không dấu nổi sự ngạc
nhiên và sợ ông nhảy xuống sông tự tử.
“Cậu sẽ biết ngay đây. Tớ chỉ cần cậu như một người
làm chứng”.
Rồi ông thong thả cởi từng chiếc huân, huy chương trên
bộ quần áo đại lễ màu trắng, vứt mạnh xuống dòng nước chảy xiết. Khoảng dăm chiếc,
và tôi chẳng biết đó là huân, huy chương gì.
“Xong. Ta về! Coi như cậu đã trả ơn tớ không cho công
an bắt ngày nào.”
“Vì sao bác làm thế?” tôi hỏi khi đã ngồi trên xe.
“Vì tớ sắp chết”. Biết tôi đang ngạc nhiên, ông nói
tiếp: “Mà trước khi chết ai cũng muốn lòng mình thanh thản”.
“Vâng, nhưng chuyện này liên quan gì đến mấy chiếc
huân chương?”
“Tại chỗ nước xuáy kia, sau khi cướp chính quyền năm
bốn lăm, tớ đã giết một lãnh tụ đảng Việt Quốc. Bắt cóc giữa đường, cho vào bao
tải rồi ném úm xuống đó. Ban đêm, tất nhiên, và cùng hai đồng chí khác của Nha
cảnh sát cách mạng”.
Tôi ngồi im, chẳng biết nói gì.
“Và người ta tặng huân chương cho tớ về việc ấy”, ông
hạ giọng, vẻ chua chát.
Im lặng một lúc, tôi nói, cốt để an ủi ông:
“Cái thời nó thế thì phải thế. Vả lại, đấy là nhiệm vụ
cách mạng giao.”
“Đành vậy, nhưng dẫu sao… Nếu là tớ, cậu có thể chết
thảnh thơi được không?”
“Không”.
Khi xe về gần đến nhà, tôi hỏi:
“Sao bác không bảo con cháu làm cái việc bác nhờ tôi
hôm nay?”
“Cái bọn hời hợt, hãnh tiến ấy, nhờ để chúng phá à?
Chúng chỉ có một niềm tự hào duy nhất là con cháu cán bộ cách mạng lão thành”.
Một tháng sau ông chết ở bệnh viện K, suýt đươc an
táng trong nghĩa trang Mai Dịch. Tất nhiên các đài, báo trung ương đều đưa tin,
long trọng và cảm động.
Hà Nội, 29. 7. 2011
17. ĐÒ ƠI
Buổi chiều, trời thấp và nhiều mây. Mưa phùn bàng bạc,
ẩm lạnh. Chiếc lò gạch giữa đồng giờ chỉ là một khối mờ mờ không rõ nét. Vùng
này gần biển nên lắm sương mù, cả những ngày nơi khác trời quang mây tạnh.
Dòng sông Cấm cũng biến mất trong màn sương bàng bạc
ấy, dù nó nằm đâu đó không xa trước mặt.
Tiếng gọi “đò ơi” chắc phải vất vả lắm mới vượt qua
được khoảng cách từ người gọi đến người nghe.
Phía dưới
làng Vĩnh Lợi khoảng cây số có bến đò Ngự. Bến đò có từ ngày xa xưa, thời chiến
tranh rộ lên khá mạnh vì nhu cầu vận chuyển hàng và người ra tiền tuyến, thậm
chí có cả chiếc phà con, giờ hết chiến tranh, nó trở lại như cũ, buồn buồn và
ngái ngủ.
Chèo đò chở khách sang sông là cô Lành, con bà Thắm ở
làng Mít bên kia sông, một cô gái ít nói, có nét mặt xạm nắng và khô ráp như
chiếc đò của cô. Nhưng cô xinh, ít ra là ưa nhìn.
Anh giáo làng Trần Văn An cứ cách một ngày đi đò của
cô một lần. Anh người làng Vĩnh Lợi và là giáo viên trường tiểu học ở đó, nhưng
bà con bên ngoại lại ở làng Mít. Thực ra anh không có nhu cầu thăm viếng họ
hàng nhiều đến thế. Anh đi đò là cốt được nhìn thấy cô Lành. Hình như anh mê cô
từ lần đầu mới gặp, khi ngồi trên mép thuyền ngắm nhìn khuôn mặt trái xoan lấm
tấm mồ hôi và các đường cong mềm mại trên cơ thể trẻ trung của cô. Vì dút dát
và hay xấu hổ, anh không nhìn lên ngực cô, nhưng vẫn đoán biết đôi vú của cô
cũng rất đẹp. Thậm chí anh còn hình dung chúng khi cô tắm.
Vì tính dút dát và hay xấu hổ ấy, ba tháng dài trôi
qua mà anh giáo làng không dám, mà cũng không biết, bày tỏ tình cảm của mình
thế nào. Tháng thứ tư thì người ta xây chiếc cầu xi măng bắc qua sông, và cô
Lành hết việc. Tháng thứ năm cô lấy chồng, lấy một anh vừa đi lao động xuất
khẩu bên Trung Đông về. Chính mắt anh nhìn thấy hôm cưới chú rể chở cô dâu về
làng mình, cách làng Vĩnh Lợi hai làng nữa về phía Tây, trên chiếc xe Suziki
đít vuông anh ta mới mua. Loại xe này trên thành phố người ta hay dùng để chở
thịt lợn. Theo sau là rất nhiều xe máy của hai họ.
Vậy là cô Lành đi lấy chồng, bỏ lại đằng sau bến đò
Ngự cùng chiếc thuyền không và một anh giáo làng đã buồn càng thêm buồn. Chiếc
cầu xi măng bị anh ghét oan. Không đâu anh ghét cả cái nước Nhật chi tiền tài
trợ xây nó. Họ ngoại nhà anh bên làng Mít thì ngạc nhiên thấy anh lạnh nhạt
hẳn, và chỉ sang thăm họ một năm vài lần vào dịp giỗ chạp. Những ngày xấu trời,
vùng này vẫn nhiều mây mù như xưa. Chiếc lò gạch bị phá bỏ từ lâu trong một đợt
ra quân bảo vệ môi trường do xã đoàn phát động. Bến đò bây giờ cỏ dại mọc gần
kín, là chỗ thuận lợi cho trai gái làng đêm đêm tìm đến tình tự hay làm chuyện
bậy bạ. Anh giáo làng Trần Văn An cũng đến đấy, nhưng vào ban ngày, và chỉ một
mình. Anh thường ngồi rất lâu, có hôm không đâu cất tiếng gọi “đò ơi” nghe khá
ai oán.
Nhiều năm trôi qua.
Một hôm, có một người đàn bà đến gặp anh, lúc này đã
là hiệu trưởng trường Trung Học Cơ Sở Nam Diễn Châu 3. Người ấy đến theo
yêu cầu của cô chủ nhiệm vì một chuyện nào đấy của cậu con trai bà.
“Chào cô Lành”, ông hiệu trưởng nói vì ngay cái nhìn
đầu tiên đã nhận ra bà.
Việc cậu con không có gì quan trọng và được giải quyết
nhanh chóng.
Ông hơi lạ khi thấy khách có ý dùng dằng chưa muốn về.
“Cô và gia đình, mọi chuyện ổn thỏa cả chứ?”, ông hỏi.
“Cảm ơn thầy. Mọi chuyện đều tốt. Còn thầy?”
“Tôi à?... Tôi thì vẫn thế”. Dù đã cố giữ bình thản,
giọng ông vẫn hơi chùng xuống và thoáng buồn. Nói “vẫn thế” là hàm ý ông sống
độc thân và vẫn chưa quên mối tình ngày nào.
Bất chợt, trái với sự dút dát thường ngày, ông nói:
“Ngày xưa tôi yêu bà đấy. Yêu lắm, nhưng bà không
biết”.
“Tôi biết”.
“Bà biết?”
“Vâng. Và tôi đã chờ…”
Ông hiệu trưởng đứng lặng, chẳng biết nói gì thêm.
Đêm ấy ông lại ra ngồi bên bến đò xưa. Ngồi rất lâu,
nhưng lạ là không một lần gọi “đò ơi”.
Hai tháng sau, ông xin chuyển công tác lên Kỳ Sơn, một
huyện miền núi mà cánh giáo viên ai cũng sợ.
Hà Nội, 5. 8. 2011
18. NHỮNG NGÔI SAO SÁNG
Ngày nhỏ đọc truyện Tam Quốc, tôi thấy mỗi lần có vị
tướng tài hay ông quân sư giỏi nào đấy chết là một ngôi sao lớn lóe lên rồi vụt
tắt, để lại vệt sáng lớn trên bầu trời. “Ngôi sao to bằng chiếc đấu” - người ta viết như vậy. Nghĩa là những vị tài
giỏi ấy không chỉ được người mà cả trời đất yêu quí.
Cũng ngày nhỏ, một lần tôi được bọn bạn có bố mẹ theo
đạo dẫn đi xem lễ Giáng Sinh ở nhà thờ làng trên. Chúng dẫn tôi đến một góc
vườn nhà thờ được trang trí bằng đèn nhiều màu. Trong chiếc nôi giữa đám cỏ khô
là một đứa bé bằng gỗ quét sơn hồng - Chúa Jesus. Chúng bảo tôi Chúa được sinh
trong máng cỏ chuồng ngựa, và đúng lúc Ngài ra đời, một ngôi sao lớn xuất hiện
trên bầu trời, theo đó ba nhà thông thái phương Đông đã tìm đến tặng quà cho mẹ
con Ngài. Cạnh máng cỏ lúc ấy có chiếc đèn lồng năm cánh dán giấy bóng màu
xanh, tượng trưng cho ngôi sao ấy. Tôi hỏi vì sao khi Chúa sinh lại xuất hiện
ngôi sao? Chúng bảo đó là bằng chứng Ngài được yêu mến và mong đợi.
Vậy là rõ: Những ai được người khác yêu mến khi sinh
hoặc chết đều được trời đánh dấu bằng những ngôi sao sáng. Tôi đã nghĩ và tin
như vậy.
Tôi có một người ông rất khác thường, nhiều người cho
là gàn dỏ, nhưng tôi thì rất yêu. Ông cao lớn, trực tính, ăn to nói lớn và rất
tốt bụng. Ngày bé tôi nghịch thường bị bố đánh, và ông luôn che chở cho tôi.
Ông hay đưa tôi đi chơi xa, kể đủ thứ chuyện thú vị ông biết hay tự phịa ra.
Đêm tôi chui vào ổ rơm ngủ với ông nhiều hơn ngủ ở nhà. Cuối năm 1959 ông tôi
mất. Khỏi nói tôi buồn và thương nhớ ông thế nào. Đêm hôm ấy tôi ra đồng Rục,
đứng trên gò đất cao nhìn như dán khắp bầu trời xem có ngôi sao nào lóe sáng
không. Cuối cùng tôi đã nhìn thấy nó, vào lúc gần sáng. Một ngôi sao đổi ngôi
rất sáng ở phía chân trời. Vậy là ông tôi là người tốt, được yêu mến và khi
chết đã biến thành sao. Không bằng ngôi sao lớn như chiếc đấu của Khổng Minh,
nhưng là một ngôi sao đẹp.
Ba mươi năm sau tôi lấy vợ và sinh con đầu lòng, con
gái. Hôm ấy bầu trời đen kịt vì đang có mưa, nhưng khi ngước nhìn lên, tôi nghĩ
tôi đã nhìn thấy sau lớp mây dày đặc một ngôi sao lấp lánh, đẹp như ngôi sao
báo hiệu sự ra đời của Chúa.
Lại ba mươi năm nữa trôi qua, cách đây hai tháng, tôi
có cháu ngoại. Hôm ấy vợ chồng tôi ở Vũng Tàu. Tôi đưa vợ tôi lên tầng cao nhất
của tòa nhà hai mươi hai tầng nơi con tôi sống. Cao trên đầu chúng tôi là cả
một trời sao tuyệt đẹp. Ngôi nào cũng xanh, nhấp nháy và trẻ trung đến lạ kỳ.
Hơn thế, cũng hôm ấy, giờ phút ấy, người ta đang bắn pháo hoa ở Đà Nẵng, có thể
một phần để chào mừng sự ra đời của cháu tôi.
“Cả trời sao đẹp thế này là để chào đón cháu mình ra
đời đấy”, tôi nói.
Vợ tôi không hiểu, nhưng có vẻ xúc động bởi lời nói
bóng bẩy, lãng mạn ấy. Bà đứng lặng. Trong đôi mắt ngước nhìn lên lấp lánh hai
giọt nước mắt. Hai ngôi sao.
Còn tôi, tôi nóng lòng chờ cháu chóng lớn để kể cho nó
nghe về ngôi sao của cụ nó, mẹ nó và cả của nó. Tôi thầm hứa với cháu rằng tôi
sẽ cố sống tốt, thật tốt, để một ngày nào đó, có lẽ cũng không còn xa, khi tôi
chết, nó, mẹ nó, bà nó và nhiều người khác sẽ thấy một ngôi sao, có thể không
lớn lắm, nhưng xanh, đẹp, lóe sáng trên bầu trời như ngôi sao của ông tôi ngày
xưa.
Cũng có nghĩa rằng tôi, một người tốt, khi chết, được
hóa thành sao.
Hà Nội 7. 8. 2011
19. SƯỞI NẮNG
Tôi ngồi sau bàn viết ngoài hiên, dưới bóng dàn mướp
đang ra hoa, lơ đãng nhìn đồng lúa xanh trải dài trước mặt.
Có vẻ như đã hết đông. Hết cả những ngày sương mù ẩm
ướt. Một dây mướp sà xuống như chìa những bàn tay lá xanh và ấm.
Con Cún sưởi nắng trong góc sân, lười đến mức không
thèm dậy ve vẩy đuôi mừng khi tôi ra chơi với nó.
Vậy là thêm một mùa xuân nữa đến. Cây cối, đất trời
đang sống lại. Vạn vật cựa mình chào đón những tia nắng vàng khô. Thế mà tôi,
không hiểu sao tôi vẫn thấy có cái gì đó ẩm ướt, ủ ê trong lòng. Cái buồn không
tên. Sự mệt mỏi không tên. Cái gì đó làm tôi không hài lòng với bản thân mình.
Cái gì? Nhiều cái lắm, mà cũng chẳng có cái gì cả. Tôi tự nguyện dấn thân và
con đường văn chương vất vả. Đọc đến mụ người, viết đến mụ người, mà nói chung
chỉ toàn chuyện đâu đâu chẳng mấy ích lợi cho đời và cả cho tôi. Thì đây, không
ai bắt mà tôi cứ ngồi lì bên bàn, hàng giờ liền chưa được chữ nào nên vẫn trân
trân nhìn phía trước như người mất hồn.
Trên con đường đất đỏ từ làng xuống đồng Rục, một
người đàn bà quảy gánh đi làm. Một bên là thằng bé lên ba. Bên kia là cái cuốc,
ấm nước, bữa cơm trưa cho hai mẹ con và thêm cái gì đó để đủ nặng, gánh không
lệch. Đó là cô Mến, con dâu bà Hạnh, vừa bị chồng say rượu đánh hôm qua. Cô một
mình đi trồng ruộng khoai vốn đã quá ngày. Nghe nói cả xóm, nhà cô duy nhất còn
thiếu ăn. Con nhà nghèo ngoan. Thằng bé không khóc, lại còn bi bô nói hát. Chốc
chốc thấy vướng, nó vứt chiếc nón rách trên đầu, và mẹ nó phải dừng lại nhặt
lên, bắt đội.
“Lại đọc sách
à?”
Bà hàng xóm to béo xuất hiện lúc nào, tay ôm bó chăn
lớn đứng ở sân nhà bên.
“Vâng. Tôi thì còn làm được gì nữa ngoài đọc sách?”
tôi đáp.
“Sống như ông chán bỏ mẹ”.
“Ừ”.
“Thì vứt sách mà đi chơi. Trên phố vừa mở quán karaoke
to lắm. Có cả các em út nữa đấy”. Bà nói, tự nhiên cười khúc khích, với tay
treo chiếc chăn lên dây thép rồi lấy gậy đập đập, bụi bay mù mịt. “Trời với chả
đất. Cả mấy tháng sụt sùi, đến người cũng ẩm mốc chứ nói gì đến chăn”.
“Đến người cũng ẩm mốc”. Cái bà này nói hay thật. Hay
định ám chỉ mình?
Một lát sau, tôi xách ghế, đầu trần ra ngồi phơi nắng
giữa sân. Bên kia bờ rào là chiếc chăn ẩm xỉn màu.
Mặt trời mớ quá con sào nhưng đã bắt đầu nắng gắt. Kệ.
Tôi cứ ngồi, mấy lần xù tóc đế nắng xuyên qua đầu, sưởi ấm những ý nghĩ ẩm mốc
bên trong.
Có lẽ đã hơn một giờ. Chắc vì nóng, con Cún chạy vào
nhà từ lúc nào.
“Ông làm gì mà ngồi chang giữa nắng thế này?” vợ tôi
đi chợ về, ngạc nhiên hỏi.
“Tôi sưởi nắng.”
“Sưởi nắng giữa trưa? Và phải xù đầu xù tóc thế kia?”
“Thì tôi sưởi cả ý nghĩ trông đầu nữa”.
“Ông điên vừa vừa thôi”.
Đấy là câu vợ tôi vẫn nói khi thấy chồng làm điều gì
đấy kỳ cục. Không ác ý hay châm chọc, lâu dần thành quen, tôi coi như chuyện
bình thường, thậm chí là lời mắng yêu.
Tôi nhìn theo, chợt thấy hôm nay hôm nay vợ diện áo
đep, dù chẳng đi đâu. Hay hôm nào cũng diện mà mình không thấy? Dẫu có đẫy ra,
nhưng bà ấy vẫn giữ được những nét đẹp của thời con gái. Tự nhiên thấy thương
vợ. Một mình phải lo toan bao nhiêu việc trong nhà, lai còn phải chịu đựng một
ông chồng to béo ngồi lù lù bên bàn suốt ngày và không bao giờ đụng tay làm gì.
Được, lát nữa mình sẽ vào giúp bà ấy nhặt rau! Chắc phải ngạc nhiên lắm, và lại
mắng “ông điên vừa vừa thôi”.
Không văn chương gì hết. Hôm nay nghỉ. Mai kia cũng
nghỉ!
Chiếc chăn bà hàng xóm có thể chưa khô, nhưng ý nghĩ
của tôi hình như đã ấm hơn, thậm chí có đôi chút le lói.
Lát sau, với cái đầu tỉnh táo của một người vừa qua
cơn sốt li bì, tôi bỏ vào nhà nhặt rau cho vợ, vừa đi vừa nghĩ ngày mai sẽ bảo
cô Mến gửi thằng bé bác trông cho, kẻo chang nắng nó ốm thì chết.
10. 8. 2011
20. LÀNG VÔ THẦN
Sau bốn mươi lăm năm xa xứ, ông trở về thăm làng lần
đầu. Nghe nói ông là Việt kiều Mỹ rất giàu và đang có ý định làm từ thiện lớn
nên người ta rất quan tâm và chào đón thái quá, đôi khi khiến ông thấy bất
tiện.
Ngay trong buổi tiếp đầu tiên do trưởng thôn tổ chức,
có cả bí thư chi bộ và đại diện thanh niên, phụ nữ, ông bí thư đảng nói không
úp mở:
“Trước làng ta có Chùa Mít. Chắc bác còn nhớ? Chiến
tranh phá mất rồi. Mà đền chùa là cái mặt văn hóa của làng. Giờ có điều kiện
xây lại thì tốt quá.”
Ông còn nhớ không ư? Vì nó mà ông phải xa làng chừng
ấy năm. Số là thời ấy, tức giữa những năm sáu mươi, ông là bí thư xã đoàn. Một
hôm, người ta đi họp trên huyện về, giao cho thanh niên phá Chùa Mít. “Làng đã
lên hợp tác xã, ruộng đất và tư liệu sản xuất trở thành của chung. Nay đến lượt
xây dựng văn hóa mới. Nhà nước vô sản. Làng phải là làng vô thần. Không thể để
cái chùa mê tín dị đoan ấy đứng mãi thế được!” “Nhưng đó là chỗ lễ bái, tín
ngưỡng của dân làng?” ông rụt rè lên tiếng. “Vả lại, có để cũng chẳng hại gì”.
“Không được. Đồng chí nói thế là chưa quán triệt tinh thần của trên. Người cộng
sản vô thần, nên không thờ bất kỳ ai ngoài các lãnh tụ của mình!”
Một tuần sau ông lên đường vào Nam, dù không thuộc
diện nhập ngũ vì là cán bộ cốt cán và là con một trong gia đình. Trước đó mấy
ngày người ta bắt đầu đập phá Chùa Mít, có cả lễ ra quân và cờ trống rầm rộ. Ở
mặt trận Tây Nam năm 1972 ông bị quân Sài Gòn bắt nhưng trốn được qua Cămpuchia,
rồi Thái Lan và năm 76 thì được sang Mỹ định cư. Trước khi có thư từ Mỹ về, mọi
người trong làng nghĩ ông đã chết, nhưng do không xác định được cụ thể, người
ta không coi ông là liệt sĩ, giờ thì đương nhiên là một tên đào ngũ phản bội.
Còn nay đổi mới, trong con mắt của mọi người, ông là Việt Kiều yêu nước.
Bố mẹ chết từ lâu, bà con thân thích hầu như chẳng còn
ai nên ông ở trong nhà nghỉ mới xây của xã bên, rất gần làng. Ở đấy cậu nhân
viên nháy mắt bảo ông có cần gì nữa không. Mấy ngày sau ông còn nghe nói làng
có dịch vụ tươi mát, đến mùa gặt mới phải thanh toán. Bằng thóc.
Làng ông bây giờ quả nhiều cái mới. No đủ hơn. Nhiều
nhà ngói, thậm chí có vài nhà hai ba tầng, bắt chước kiểu biệt thự Pháp nhưng
quét vôi màu lòe loẹt. Đường làng và các ngõ ngách đều đổ xi măng. Đình làng
xưa cổ kính giờ được thay bằng Nhà Văn Hóa mái bằng lợp fibrô xi măng. Trên nền
Chùa Mít đầu làng cỏ mọc um tùm, lổn nhổn những phiến đá lớn người ta không bê
đi được. Có cả một khối đá tròn, phần sót lại của bức tượng Phật, nay làm nơi
ngồi tình tự của đám thanh niên mới lớn. Dân làng bây giờ cũng khác lắm. Khác
cả cách ăn mặc, đi đứng và ăn nói. Có vẻ như hiện đại hơn, tốt hơn, thế mà ông
vẫn thấy trơ trơ thế nào, cứ như thiếu một cái gì đó.
Ở thêm mấy ngày nữa, ông hiểu cái đó là gì. Khuôn mặt
của làng. Thì ngay từ đầu người ta chẳng bảo ông: “Đền chùa là cái mặt văn hóa
của làng” đó sao? Chính xác hơn là thiếu hồn. Các tấm áp phích to và những câu
khẩu hiệu chính trị viết cũng như nói không lấp nổi sự trống vắng tâm linh mà bây
giờ đã không còn chỗ thể hiện. Trước kia ngày rằm, ngày đầu tháng người ta vào
chùa thắp hương, sắm lễ. Giờ chỗ lui tới là quán rượu của mụ Bốn, người kiêm cả
nghề ghi số đề cho mấy đại gia ngoài phố huyện.
Ông đi một vòng quanh làng với tâm trạng buồn buồn khó
tả, rồi mỏi chân, ngồi xuống tảng đá, phần còn lại của Đức Phật trên nền Chùa
Mít.
Mặt trời sắp lặn. Một chiếc Công Nông đang lại gần,
kêu tành tạch từng tràng như tiếng súng đại liên. Kế đến là chiếc xe tải loại
lớn chạy về phía xã trên. Mấy bà đi làm về, chiếc gánh tòng teng trên vai. Trai
làng phóng xe máy vù vù.
Vậy là cái chủ trương xây làng vô sản đã không thành.
Nhưng làng vô thần thì thành. Không chỉ không thờ Phật, giờ người ta cũng chẳng
thờ các lãnh tụ cộng sản, không cần biết ai, sợ ai ngoài cái dạ dày của mình.
Thêm một cái “vô” nữa là vô danh. Trước xã ông có bảy làng với bảy cái tên dung
dị dễ thương từ xa xưa, sau khi thành lập hợp tác xã, chúng được thay bằng các
con số đội sản xuất. Làng ông được gọi là Đội Bảy. Hợp tác xã giải tán cả chục
năm nay mà cái tên khô khốc, vô hồn ấy vẫn còn đến ngày nay.
Ông ngồi lặng người hồi lâu như thế giữa nền Chùa Mit
ở làng Đội Bảy của ông. Giờ người ta xin ông tiền dựng lại nó, tức là để phục
lại phần nào thần linh và “mê tín dị đoan”, cái người ta một thời dứt khoát phá
bỏ và đẩy ông ra nơi súng đạn. Nhưng liệu có chùa rồi, những cái ấy có trở lại
không, khi tư tưởng vô thần và những người nghĩ ra chúng vẫn còn?
Trời tối lúc nào không biết. Có ai đó đang lại gần.
Ông giáo Hoàn. Ông đang dắt con nghé con từ Đồng Chùa về. Ông giáo trạc tuổi
ông, về hưu đã lâu và trước cùng học trường làng. Hôm mới về hai người đã gặp
nhau và nói chuyện một lúc. Ông này thời cải cách có bố bị treo cổ oan.
“Vẫn chưa quyết định nên giúp làng xây lại chùa không
à?” ông giáo hỏi như đoán được ý nghĩ ông.
“Theo ông thì
thế nào?”
“Thì kệ nó. Ai phá, người ấy phải xây lại”.
“Nhưng họ biết lấy đâu ra tiền?”
“Đó là việc của họ. Rồi có ngày người ta sẽ bắt họ
chịu trách nhiệm về chuyện này. Không người thì thần linh, mà cũng chẳng lâu
nữa đâu. Một lũ ngu dốt và độc ác!”
Ông giáo về hưu nói một cách giận dữ. Rồi ông hạ giọng
nói thêm:
“Nếu bác định giúp làng thì làm ơn sửa lại trường cấp
một. Bảy tám chục đứa trẻ bị nhét vào môt phòng tranh tre và dột nát như bác
thấy. Chứ không thì cái làng này chẳng mấy chốc mà thành vô học.”
Hai hôm sau ông lên đường về Mỹ, để lại phía sau khu
ngôi làng của ông - vô danh, vô thần và gần như vô học. Có thể cả vô đạo đức và
văn hóa nữa, dẫu hai đầu làng có hai tấm biến rất to “Làng văn hóa mới”, và nhà
nào trong làng cũng có tờ giấy chứng nhận “Gia đình văn hóa”.
“Thì ra cái ‘văn hóa mới’ là tập hợp tất cả các cái
‘vô’ ấy lại,” ông nghĩ và khẽ rùng mình.
23. 8. 2011
21. DI SẢN VĂN HÓA
Một nhà nghiên cứu văn hóa bất ngờ phát hiện thấy ở
đền nọ một sự thật không mấy thú vị. Thì ra suốt hai trăm năm qua ngôi đền này
(vì những lý do dễ hiểu tôi xin phép không nói tên, kể cả tên những người liên
quan) đã thờ một nhân vật không xứng đáng, thậm chí còn là người xấu, kẻ đã
khôn khéo leo lên bục thờ nhờ mưu mô xảo quyệt. Ngày xưa những chuyện như thế
vẫn xẩy ra, một số vua triều Nguyễn còn có luật trị nghiêm tội này.
Vậy là bao đời nay hàng ngày khách thập phương háo hức
kéo đến dâng hương lễ, cung phụng, tôn vinh hắn và nhờ hắn ban ơn giúp đỡ. Còn
hắn thì nghiễm nhiên ngồi trên bệ thờ được sơn son thếp vàng, tôn nghiêm, thánh
thiện ngang hàng các vị anh hùng dân tộc.
“Ông không nhầm đấy chứ?” tôi hỏi nhà nghiên cứu văn
hóa kia, cũng là một người bạn của tôi.
“Không. Tôi đã bỏ ra ba tháng tìm đọc hàng đống tài
liệu mới khám phá được vụ này. Hắn là một tên quan xảo quyệt, đầy quyền lực của
triều vua Tự Đức. Quyền lực và sự xảo quyệt ấy của hắn từng làm nhiều trung
thần thiệt mạng, giúp hắn dựng nên chùa này để thờ chính hắn và một chùa nữa
thờ bố mẹ hắn. Nhưng chùa ấy đã bị phá thời cải cách ruộng đất.”
“Thì bây giờ ta phá nốt chùa này,” tôi hăng hái nói.
“Không được,” bạn tôi tỏ ý thất vọng.
“Vì sao?”
“Vì cái thời phá chùa đập tượng qua rồi. Xã hội văn
minh không bao giờ làm những việc tương tự.”
“Nhưng đây là chùa rổm, tượng rổm. Hắn đã và đang lừa
dối biết bao người.”
“Đúng thế. Thời gian đã kịp biến cái rổm ấy thành di
sản văn hóa. Mà di sản văn hóa thì không thể phá được. Hơn thế, nó lại được xếp
hạng, thuộc diện cấm xâm phạm.”
“Các ông xếp hạng ấy có biết không?”
“Chắc không. Mà có biết cũng chẳng làm gì được.”
“Cả những người trông coi ngôi đền?”
“Tất nhiên.”
“Vậy ông bỏ công khám phá cái sự thật này làm gì?”
“Chẳng làm gì cả. Cùng lắm chỉ để biết người đời dễ bị
lường gạt thế nào.”
Tôi im lặng, tấm tức không biết nói gì thêm. Nhận ra
điều đó, anh bạn tôi hạ giọng, với giáng vẻ một nhà hiền triết:
“Cái gì trót đưa lên bàn thờ thì cứ giữ nguyên ở đó.
Không phải mọi cái được tôn thờ đều thiêng liêng. Vả lại, người ta đến đây thực
chất không vì thằng kia. Thậm chí không biết và cũng chẵng muốn biết hắn là
ai.”
Mấy hôm sau có việc đi ngang, hai chúng tôi lại rẽ vào
đền. Như một người mộ đạo thực thụ, bạn tôi, nhà nghiên cứu văn hóa có công
khám phá điều giả dối ấy, đã thắp một nén hương, kính cẩn cắm trước bức tượng
gỗ tên gian thần. Còn thằng kia, bằng cái nhìn ban ơn và nụ cười giả dối cũng
được sơn son thếp vàng, từ trên cao khinh khỉnh nhìn xuống lũ chúng sinh thông
minh quá mà thành ngu ngốc đang xun xoe khúm núm trước hắn.
22. KHI ĐI VỀ PHÍA MẶT TRỜI …
Như thường lệ, tôi dậy sớm, ngồi vào bàn viết.
Cũng như thường lệ, câu chữ không chịu xuất hiện, một
cảm giác buồn khó tả dần dần xâm chiếm người tôi.
Trời chưa sáng hẳn. Rời rạc vài tiếng chó sủa từ phía
làng Hạ bên kia sông. Nhà bên, lão Bảy đang mở chuồng trâu đi bừa sớm thửa
ruộng ngoài đồng Rục. Tối qua nước lên, người ta kịp tranh thủ bơm vào ruộng.
Qua ô cửa sổ, vành trăng gầy đang nhìn tôi như có điều
gì muốn nói. Trăng cũng buồn, và lạnh. Thứ ánh sáng ẩm ướt và nhờn nhợt ấy dinh
dính trên đầu ngón tay.
Tôi ngồi lặng, trân trân nhìn phía trước, liên tục hút
hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác.
Không hiểu sao dạo này đầu óc tôi như mụ mị hẳn. Một
truyện ngắn bé tí viết mãi không xong. Một truyện bình thường, tôi cũng cố viết
bằng những câu chữ bình thường, giản dị, tươi sáng, thế mà câu chữ nào cũng
nhạt nhẽo, u ám. Ở cái tuổi hơn sáu mươi, tất nhiên không còn trẻ, nhưng chưa
hẳn đã già vì hàng ngày tôi còn đi dạy học kiếm tiền và lái ô tô vù vù về quê
vào những ngày cuối tuần thế này. Tôi dứt khoát không chịu tham gia câu lạc bộ
những người lớn tuổi, không theo các cụ tập những bài thái cực quyền như múa
trông rất buồn cười. Tuy nhiên, sâu trong lòng, tôi biết mình thực sự đã mệt
mỏi sau chừng ấy năm đọc và viết liên tục. Cái cơ thể to béo chín mươi cân như
muốn dính chặt vào chiếc ghế. Cũng vì sức nặng ấy, tư tưởng và ý nghĩ, mà bây
giờ đã ít hơn rất nhiều, không còn, hay thậm chí, không mơ ước bay xa, bay cao.
Tôi mệt và muốn được nghỉ. Phải chăng do đã đi kha khá trên con đường văn
chương của mình, giờ là lúc tôi có quyền dừng lại, sưởi ấm trong thứ hào quang,
cứ cho đó là hào quang, những gì mình đạt được?
Có hai người đang đi về phía Cầu Tre. Từ lâu nó được
thay bằng chiếc cầu xi măng khá vững chắc, nhưng dân làng vẫn tiếp tục gọi theo
tên cũ.
Đó là cậu Nhất, con bà Hương, và người yêu của cậu, cô
Loan, con ông Mậu. Hôm trước họp làng, thấy nói năm nay Nhất và một cậu nữa
nhập ngũ.
Mặt trời nhô lên từ lúc nào. Loáng thoáng mấy con cò
trắng chao lượn trên đồng. Đứng bên cầu, đôi bạn trẻ dùng dằng mãi không chịu
chia tay. Nước sông mùa này đục, nhưng chắc cũng đủ trong để soi bóng hai
người. Cuối cùng, cậu Nhất quay người bước đi, gần như chạy. Cô Loan tần ngần
đứng thêm lát nữa rồi quay về làng. Một cảnh điền viên giản dị và cảm động. Hệt
như trong lời một bài hát xưa tôi còn nhớ: Họ để lại phía sau/ Một dòng sông
nước đục/ Và ba bốn nhịp cầu/ Nối những ngày hạnh phúc.
Từ cửa sổ nhìn theo, tôi bất giác thở dài, và lần nữa
lại thấy buồn. Buồn vì không được xa ai, không ai tiễn và cũng không có lý do
gì để đau khổ. Một cái buồn vẩn vơ, có thể nói vớ vẩn.
Đêm qua. Mặt trời mọc. Lão Bảy cùng con trâu đi bừa.
Cậu Nhất lên đường nhập ngũ. Cô Loan quay lại với công việc thường ngày của
mình. Nghĩa là cả thế giới này đang vận động như vẫn thế nghìn vạn năm nay. Còn
tôi, cái lão già chưa già, vẫn ngồi yên một chỗ và tự dằn vặt mình bằng cái
buồn vu vơ, vớ vẩn.
Không được! Tôi đứng dậy, vươn vai, vặn mình mấy cái
rồi bước ra khỏi nhà. Hóa ra trời không u ám như tôi tưởng. Có vẻ mùa đông, mùa
ẩm ướt đã hết.
Khi hít sâu bầu không khí trong lành của buổi sáng,
bất chợt tôi nhớ ai đấy đã nói câu này:
“Khi đi về hướng mặt trời, bạn để lại bóng tối sau
lưng, và đêm đến, trên đầu bạn sẽ là một bầu trời sao tuyệt đẹp”.
Chí lý thật. Ai nói nhỉ?
24. 8. 2011
23. CHÓ CỨ SỦA, VÀ TRĂNG SAO CỨ SÁNG
Lại nói chuyện những ngày Cải cách Ruộng Đất kinh
khủng ấy.
Một hôm,
ăn tối xong, tôi thấy ông tôi đến bảo đi ngay có việc. Giọng ông bỗng nhiên
khản đặc, phải cố lắm mới nghe được.
“Đi đâu ông?” tôi hỏi.
“Ra Đồng Chùa cho mát”.
“Nhưng hôm nay không nóng!”
“Sẽ nóng
đấy. Rồi chốc nữa cháu biết”.
Điều này thì tôi biết, là ý ông tôi nói tối nay người
ta tổ chức đấu tố Lão Hội. Suốt ngày hôm nay loa rao khắp xóm. Lão Hội là em
Lão Cương, bảy mươi tuổi, một người thuộc diện ‘địa chủ kháng chiến’ vì có con
trai đang làm to trong quân đội cách mạng, nghe đâu đến chức tá hay thậm chí
được phong anh hùng. Lão Cương thì người ta để yên, nhưng em lão thì bị đấu tố,
chuẩn bị qui lên thành địa chủ, dù lão chỉ là anh nông phu cày sâu cuốc bẫm,
khác chăng do biết lo toan nên không đói. Suốt cả tuần người ta rậm rịch chuẩn
bị việc này. Cán bộ Đội bỏ nhiều giờ dạy người đấu kỹ càng từng lời nói, cử chỉ
và cách khóc, cách nhảy chồm chồm trước mặt lão. Nếu buổi đấu tố diễn ra suôn
sẻ, mà chắc chắn là suôn sẻ, tên lão sẽ được đưa vào danh sách địa chủ của làng
để gửi lên huyện, coi như hoàn thành chỉ tiêu trên giao.
Hai ông cháu tôi ra đến Đồng Chùa thì trăng vừa lên.
Trăng non và mờ mờ như ngái ngủ. Phía dưới một chút là Kênh Nhà Lê, nơi ban đêm
thường có người làng xuống mò tôm cá, và dẫu ít hơn trước nhưng thỉnh thoảng
vẫn có thuyền đi qua, chở cam quýt từ Hà Tĩnh ra Thanh Hóa và chở lúa gạo, hải
sản lúc quay vào.
Ồng tôi nằm xuống một gò đất cao rồi khoan khoái thở
dài, nói:
“Sướng!”
Rồi ông cởi hết cúc áo, phanh bụng, bảo tôi:
“Cháu cũng nằm xuống đi”.
Cao trên đầu chúng tôi là cả một trời sao thật đẹp.
Những chấm nhỏ li ti lấp lánh thức suốt năm canh, yên bình, lặng lẽ dọi ánh
sáng huyền diệu của mình xuống thế giới trần gian của những con người, cũng bé
nhỏ, li ti nhưng chẳng bình yên chút nào. Từ phía Kênh có tiếng hát đều đều,
mỏi mệt của mấy anh chị nhà thuyền vọng lại. Kể cũng lạ rằng giữa những ngày
sôi sục, điên loạn này mà vẫn có người hát được, dẫu những tiếng hát buồn.
Phía làng, chó bắt đầu sủa rộ. Nghĩa là người của Đội
đang đi từng nhà giục dân làng ra sân đình tham gia hoặc xem đấu tố. Háo hức
nhất là bọn trẻ con, dù không biết chuyện gì đang xẩy ra. Ngoài tiếng chó còn
có cả tiếng trống và tiếng chiếc mõ làng bằng gỗ hình con cá, treo ở điếm canh
đầu làng.
Cuối cùng mớ âm thanh ấy hỗn độn, chói tai ấy cũng
lắng xuống, và tôi biết cuộc đấu tố đã bắt đầu. Những tiếng kể khổ ngoa ngắt,
tiếng chửi rủa, vu cáo, tiếng những cái tát vào mặt người bị đấu, tiếng cán bộ
đứng bên gà lời khi người đấu quên, và tất nhiên cả tiếng kèn kẹt nghiến răng
chịu đựng của khổ chủ không thể bay xa đến Đồng Chùa nơi chúng tôi đang nằm.
Trước đó tôi đã mấy lần chứng kiến những cảnh như thế.
Tôi quay sang bảo ông:
“Ông ơi, cháu sợ.”
“Ông biết. Vì thế ông mới đưa cháu ra đây. Trẻ con
không nên biết những trò ấy!”
Rồi ông chỉ tay lên trời, nói:
“Cháu nhìn kìa, cả một trời sao thật đẹp. Kệ những
chuyện xẩy ra trong làng. Cháu ngắm chúng đi, đẹp không? Mà bao đời nay đã thế
và vẫn mãi mãi như thế.”
Tôi nghe lời ông, lơ đãng nhìn lên bầu trời đầy sao.
Vâng, chúng đẹp thật, nhưng vẫn là những ngôi sao bình thường tôi thấy nhiều
lần và không mấy quan tâm. Nhưng tôi cũng lờ mờ hiểu được cái triết lý giản dị
mà ông tôi muốn cho cháu biết, rằng cái xấu, cái ác luôn tồn tại, nhưng chỉ
nhất thời, còn cái tốt, cái đẹp thì trường tồn mãi mãi. Hoặc có thế nói một
cách nôm na: Chó cứ sủa, và trăng sao cứ sáng!
“Hôm kia, thằng Lan bảo ông phải đấu tố lão Hội, nhưng
ông không chịu.” ông tôi chợt nói, giọng mơ màng.
Lan là tên anh cán bộ Đội cải cách được cử về phụ
trách làng tôi.
“Tố gì ạ?”
“Hắn bảo tố lão bóc lột, đánh đập ông, đại loại như
thế”.
“Nhưng có đúng như vậy không?”
“Bậy. Lão hiền như cục đất. Còn nhiều lần giúp nhà ta
khi thiếu đói đấy”.
“Thế sao người ta phải đấu tố bác Hội?”
“Thì bảo chúng điên mà lị. Nên ông phải ăn uống mấy
thứ linh tinh cho cổ họng khản đặc thế này, bảo bị ốm không làm cách mạng được.
May chúng tin mà tha cho, không khéo bị qui địa chủ thì khốn”.
Một tuần sau lão Hội bị xử bắn, vì ngoài tội địa chủ
cường hào gian ác, lão còn một tội khác nghiêm trọng hơn là tội làm gián điệp
cho đế quốc. Số là khi khám nhà, người ta phát hiện thấy dưới mái hiên một cuốn
sách chữ Tây, cuốn Từ Điển Tiếng Pháp, do ông em sĩ quan cách mạng để lại. Đó
là bằng chứng không thể chối cãi được.
*
Suốt nhiều năm, thậm chí cả bây giờ, tôi vẫn chưa hết
băn khuăn sao người ta có thể nghĩ ra hay du nhập những trò bất nhân, ngu xuẩn
đến thế. Những trò ấy phần lớn bắt nguồn từ nước Trung Hoa cộng sản, và được
các đồng chí Việt Nam làm theo, tự nguyện hoặc do ép buộc.
Nhưng rốt cục, ông tôi đã đúng. Vào đêm đấu tố và cả
đêm lão Hội bị xử bắn trăng và sao vẫn sáng. Những đêm sau đó cũng vậy, khi có
chủ trương sửa sai từ Trung Ương gửi về. Trăng và sao vẫn sáng, vẫn đẹp cả
những thời điểm về sau, khi con người và đất nước đau thương này của chúng ta
phải chứng kiến nhiều điều oan trái khác.
Tháng Chín năm 1967, đi xe lửa từ Hà Nội sang Matscơva
học tập, chúng tôi bị kẹt lại nhiều lần ở Trung Quốc do hai phái kình địch đánh
nhau. Tôi nhớ ở Vũ Hán, lúc ấy ban đêm, nhìn qua ô cửa sổ bé nhỏ, tôi thấy cảnh
các Hồng Vệ Binh bắt bớ, đánh đập người dân của họ. Bên ngoài là ánh đêm bàng
bạc, và tôi biết cao trên đầu, những vì sao vẫn không ngừng nhấp nháy, dọi
những tia sáng lung linh, huyền diệu của mình xuống trái đất nhỏ bé và đầy đau
khổ này.
Tóm lại, chó cứ sủa và trăng sao cứ sáng!
31. 8. 2011
24. TÌNH MUỘN
Một ngày sau khi chiến dịch Điện Biên kết thúc, họ hẹn
sẽ gặp nhau và tổ chức lễ cưới ở Hà Nội.
“Gia đình anh sang Pháp hết rồi. Có thể giờ không còn
nhà, nhưng em cứ đến Hồ Gươm, chỗ Nhà hàng Phú Gia ấy. Em nhớ chưa: Hồ Gươm,
Nhà hàng Phú Gia? Thế nào em cũng gặp anh ở đó”.
Chàng trai nói với người yêu như thế khi theo đồng đội
tiến về phía đồng bằng. Anh là chiến sĩ Vệ Quốc quân, người Hà Nội gốc. Cô là
giao liên trung đoàn, người Thái, nổi tiếng dũng cảm và xinh đẹp. Họ yêu nhau
đã mấy tháng, yêu công khai, thậm chí còn được ông già trung đoàn trưởng khó
tính đồng ý. Khi chia tay, cô đưa cho anh tấm khăn thêu màu đỏ, cô giữ một cái
tương tự. Đôi khăn thêu là vật không thể thiếu trong lễ cưới dân tộc cô.
Năm mươi năm trôi qua, họ vẫn chưa gặp nhau. Một lần
tắm suối, cô bị nước lũ về đột ngột cuốn mất, không tìm thấy xác.
Từ ấy đến nay, đất nước thêm mấy cuộc chiến tranh.
Nhân dân thêm mấy lần lầm than, đói khổ. Cả khu phố cổ Hà Nội cũng thay đổi
nhiều, gần như khác hẳn. Nhưng Hồ gươm thì vẫn còn. Con phố có Nhà hàng Phú Gia
vẫn còn, dẫu bản thân nhà hàng ấy bị phá bỏ từ lâu. Đối diện với nó, phía bên
kia đường, gần hồ vẫn còn chiếc ghế sắt cũ kỹ sót lại từ thời Pháp.
Cũng suốt mấy chục năm nay có một người luôn ngồi trên
chiếc ghế ấy. Buổi sáng từ tám đến mười một giờ, chiều từ hai đến sáu giờ. Mọi
người biết thế và luôn nhường nó cho ông.
Đó là một ông cụ đầu tóc bạc phơ, dáng người gầy gầy.
Lúc nào ông cũng ngồi yên, trân trân nhìn ra mặt hồ. Chiếc ba-toong khảm xà cừ
một bên, bên kia là chiếc mũ phớt sờn cũ ông đội quanh năm, bất kể mùa đông hay
mùa hè.
Hôm nay trời chớm lạnh. Có vẻ như thời tiết sắp thay
đổi vì một bên vai, nơi có viên đạn chưa lấy ra, bắt đầu đau âm ỉ. Đã gần sáu
giờ. Hồ Gươm vẫn thế, như hôm qua và nhiều ngày trước đó. Lãng mạn, thanh bình
và buồn buồn. Suốt đời ông chỉ sống với nó và những kỷ niệm xa xưa của mình.
Đúng giờ, khi ông định đứng dậy đi về nhà thì có một
người bước lại rồi nhẹ nhàng ngồi xuống ghế, sát bên ông.
“Vàng à?” ông quay sang, cầm lấy bàn tay người ấy.
Đó là một cô
gái trẻ, rất trẻ, ăn mặc theo kiểu miền núi.
“Vâng, em đây”.
“Em bắt anh chờ lâu quá”.
“Em không thể đến sớm hơn được. - cô nói, giọng nghẹn
ngào - Nhưng bây giờ em
đang ở bên anh, và chúng ta sẽ không bao giờ xa nhau
nữa.”
“Ừ, đúng thế. Không bao giờ xa nhau nữa, - ông đáp. -
Còn bây giờ để anh đưa em đi một vòng quanh Hà Nội. Quê chồng mà”.
Ông lẩy bẩy chống gậy đứng dậy. Cô Vàng rút ra từ ngực
một tấm khăn thêu. Ông cũng móc túi trong áo vét một chiếc tương tự.
“Lát nữa ta vào nhà thờ làm lễ cưới. Nhà thờ Lớn, ngay
gần đây thôi”, ông nói.
“Vâng. Và em sẽ nhập đạo theo anh”, cô Vàng nhỏ nhẹ
đáp rồi đưa hai tay vuốt ve khuôn mặt nhăn nheo của người yêu. “Em yêu anh lắm
lắm! Không yêu như thế, em không thể về đây với anh được đâu”.
“Anh cũng rất yêu em, - ông nói. - Năm mươi năm qua
ngày nào anh cũng ra chờ em ở đây”.
Suốt đêm ấy đôi uyên ương không ngủ. Họ khoác tay nhau
đi giữa phố phường Hà Nội. Chàng, một ông già tám mươi, lưng hơi gù với vết
thương bên vai đang nhức nhối, hào hứng giơ ba - toong chỉ cho người yêu xem
các danh lam thắng cảnh thủ đô. Còn nàng, hai mươi tuổi và rất tươi trẻ, thì
háo hức như đứa con nít, mở to mắt uống từng lời của chàng. Nàng nắm chặt tay
người yêu, vừa để có cảm giác gần gũi, cũng vừa đỡ để chàng không ngã. Ở quán
kem bên hồ, nàng ăn một lúc ba chiếc. Và cười. Chàng không ăn vì sợ cảm, chỉ
nhìn nàng. Và cũng cười. Cả hai tràn trề hạnh phúc.
Sáng hôm sau, người trông coi Nhà Thờ Lớn Hà Nội ngạc
nhiên khi thấy có người chết ở trong phòng nguyện của nhà thờ, dù tất cả các
cửa vẫn đóng.
Đó là một ông già gầy yếu, tóc bạc. Ông chết trong tư
thế đang quỳ trước Chúa, mặt rạng ngời hạnh phúc. Cạnh ông, phía phải, có một
lớp tro mỏng màu xám như tro người ta đốt vàng mã. Lạ nữa, cái tư thế ông chết
và hiện trường xung quanh cho thấy ở đây vừa diễn ra một nghi lễ trang trọng,
Có vẻ như hôn lễ, vì trên một ngón tay phải của ông có chiếc nhẫn cưới kim
cương còn mới.
PS.
Thời gian gần đây ở Hà Nội xuất hiện ngày càng nhiều
lời đồn về một cặp uyên ương không cân xứng, một rất già và một rất trẻ. Cặp
này đêm khuya thường khoác tay nhau dạo quanh các quanh phố, đặc biệt những hôm
trời lạnh và mưa phùn lất phất. Như mọi lời đồn khác, có thế điều ấy đúng, có
thể không. Không quan trọng. Vả lại, thủ đô chúng ta có thêm một thiên tình
muộn đẹp và lãng mạn như thế thì càng tốt chứ sao? Nếu ngẫu nhiên gặp họ, các
bạn có thể yên tâm rằng họ chính là hai nhân vật trong câu chuyện này, một câu
chuyện tôi cam đoan có thật vì tôi biết ông già ấy, thỉnh thoảng còn ngồi trò
chuyện với cụ bên Hồ Gươm. Tôi cũng có mặt hôm chôn cất cụ ở nghĩa trang Giáo
xứ N.V. Hơn thế, cũng hôm ấy tôi nhìn thấy một người lạ mà không hiểu sao không
ai chú ý. Đó là cô Vàng. Khác với mọi người, cô không có vẻ mặt đau buồn mà
ngược lại. Cô lặng lẽ đứng một bên, sốt ruột chờ người ta hoàn tất các thủ tục
an táng cần phải có đối với một con chiên ngoan đạo.
Và tôi hiểu: Cô đến đón người yêu của mình để, như họ
đã ước hẹn, “từ nay không bao giờ xa nhau nữa”.
6. 9. 2011
25. NHÂN QUẢ
Lão sống một mình trong túp lều ngay sát Cầu Sắt. Suốt
đời lão chỉ làm một nghề là mài dao kéo cho cả vùng Nho Lâm rộng lớn này, và
cũng nổi tiếng cả vùng nhờ cái nghề ấy. Chắc phải có một bí quyết hay đồ nghề
đặc biệt nào đó nên các con dao lão mài sắc ngọt một cách khác thường. Vả lại,
lão kỹ tính và làm cẩn thận lắm. Chiếc dao nhỏ lão mài miết cả tiếng đồng hồ,
bao giờ xong cũng lấy một sợi tóc đặt lên lưỡi dao, thổi một cái đứt đôi mới
giao cho khách.
Vợ lão chết từ lâu. Cậu con trai duy nhất lấy vợ, ở rể
ở huyện trên, nghe nói “chuột sa chĩnh gạo” nhưng không bao giờ thăm hỏi hay
giúp đỡ gì bố. Trước còn khỏe, lão quảy chiếc gánh toòng teng đi khắp vùng. Mấy
năm gần đây vì già, vì cả đôi chân phù thũng, lão chỉ quanh quẩn trong làng
hoặc ngồi ở nhà, ai cần thì mang dao kéo tới. Bây giờ đồ Trung Quốc nhiều và rẻ
nên thậm chí cả ở nông thôn, người ta cũng ít mài, mà mua cái mới. Thành ra
việc không nhiều, tức là cái ăn cũng không nhiều. Có hôm lão phải ôm bụng đói
đi ngủ. Đáng ra ở tuổi lão, tức là tám mươi trở lên, theo chế độ gần đây của
nhà nước, lão phải được trợ cấp mấy chục nghìn đồng một tháng, nhưng do lão
không có giấy khai sinh nên đành chịu. Thỉnh thoảng dân làng thương tình, người
cho cân gạo, kẻ mấy quả trứng, hay mang những chiếc dao còn sắc đến nhờ lão
mài. Có người còn cất công tìm gặp con trai lão. Anh ta hứa sẽ về đưa bố lên ở
với mình nhưng mãi chẳng thấy tăm hơi đâu.
Một hôm tôi đến nhà lão và ngồi với lão cả buổi chiều.
Lão nằm thu lu trên chiếc giường tre ọp ẹp, trùm kín
đầu chiếc chăn chiên sờn cũ, dù trời không lạnh. Biết tôi đến, lão ngồi dậy
ngay.
“Ông giáo quí hóa quá, lúc nào cũng cho quà”, lão nói
khi tôi bày ra bàn mấy bắp ngô luộc, xị rượu và ít đồ nhắm.
“Tôi đến nhờ bác mài cho con dao”, tôi cười đáp.
“Tôi biết”, lão cũng cười, miệng méo xệch, một dòng
nước đục rỉ ra từ khóe miệng, trông thật tội.
“Dạo này bác có
vẻ yếu hơn trước”.
“Ừ ừ. Tại đôi chân khốn khổ này. Cả ho nữa.”
Lão cùng tôi làm vài ly nhỏ rồi bắt tay vào mài con
dao của tôi, vốn còn rất sắc. Thế mà gần ba mươi phút sau lão mới chịu dừng
tay, sau khi vừa mài vừa dấp dấp chất gì đó lên lưỡi dao, chốc chốc dừng lại
làm hớp rượu.
“Ông giáo xem này!” lão bảo tôi rồi nhổ sợi tóc bạc
trên đầu, đặt lên lưỡi dao. Sợi tóc đứt đôi.
“Sắc quá!” tôi thốt lên.
“Cũng thường thôi,” lão nói, không phải không pha chút
tự hào. “Tôi có một con còn sắc hơn nhiều”.
Nói rồi, lão lấy dưới gầm giường ra một con dao được
bọc trong lớp giấy xi-măng bẩn. Nó dài, mỏng như một thanh kiếm Nhật, đầu nhọn
và sáng loáng.
“Tôi lấy từ xác một tên lính Nhật hồi năm bốn tư đấy.
Nó bị du kích giết ở Phủ Diễn. Đúng là cái bọn lùn ấy làm cái gì cũng tốt.” Lão
nói rồi bất chợt thở dài: “Có điều chẳng biết dùng nó làm gì.”
Lão lấy tờ giấy quét lên lưỡi dao nhiều lần, quét đến
đâu, các vụn giấy rơi đến đấy. Tôi nhìn mà thấy sờ sợ. Lát sau tôi chuyển đề
tài:
“Bác đau ốm thế này, sao anh con không về nhỉ?” Lão im
không nói gì. “Mà rồi chính quyền mãi không làm cho bác cái trợ cấp người già.
Bác tám mươi tuổi rồi mà”.
“Đúng thế. Tôi sinh ngày mồng Một tháng Năm năm 30,
khi bố tôi bị Pháp bắn chết vì tham gia đình công ở Bến Thủy, Vinh.” Tợp thêm
chén rượu, lão nói tiếp, mắt rơm rớm: “Nhân quả đấy bác ạ. Cả chuyện thằng con
bất hiếu cũng nhân quả nốt!”
Tôi nhìn lão vẻ không hiểu.
“Suốt đời tôi mài dao cho đời. Mà dao thì không chỉ
cắt thái mà còn đâm chém. Tức là tôi tham gia vào tội ác. Giờ thì tôi phải chịu
cảnh này.”
“Bác nghĩ quẩn rồi. Nghề của bác vô hại, nếu không
muốn nói có ích cho đời”, tôi an ủi lão.
“Không. Đêm đêm chúng vẫn đến đấy. Cái bọn trâu bò,
lợn gà bị giết ấy mà. Cả người nữa. Thời kháng chiến, thời cải cách ruộng đất
tôi mài dao kiếm cho du kích. Bây giờ bọn Việt gian, địa chủ cường hào đến bắt
đền tôi, nhiều lắm. Đêm nào cũng đến. Chúng bảo chúng bị oan. Tội tôi đáng
chết. Nhân nào quả ấy thôi, ông giáo ạ”.
*
Cách một ngày, tôi lại đến, thấy lão chết, nằm trên
giường, cuống họng bị cắt, tay phải lão còn giữ chặt chiếc kiếm Nhật sáng
loáng.
12. 9. 2011
26. ĐIỀU KHÔNG HIỂU NỔI
Thực ra chẳng có gì đáng nói về hắn, một thanh niên
nông thôn chất phác, ngờ nghệch ở một nước Nam Âu cũng chất phác, ngờ nghệch
như hắn.
Năm bốn mươi mốt thế kỷ trước, hắn sung lính để tránh
khỏi chết đói, mà lại sung lính cho phe Trục Phát Xít. Ba năm sau hắn bị quân
Pháp bắt làm tù binh. Chiến tranh kết thúc, cũng vì miếng ăn, thay cho việc trở
về quê hương, hắn tình nguyện làm lính lê-dương sang Việt Nam.
Vừa chân ướt chân ráo đến mảnh đất nhiệt đới này, hắn
bị tống vào chiến trường Khu Năm và chẳng bao lâu sau bị Việt Minh bắt trong
một trận càn. Ở với Việt Minh, lúc đầu hắn sợ, sau quen dần và cuối cùng thì
thấy thích. Thích những con người nhỏ bé, hiền lành. Thích cái không khí yên ả
ở căn cứ. Thích cái tiếng Việt kỳ lạ nhưng hay hay mà hắn học rất tấn tới. Rồi
hắn quyết định ở lại với họ, chiến đấu trong hàng ngũ của họ. Trước kia cũng
như lúc này, hắn chẳng bao giờ có khái niệm chính nghĩa hay phi nghĩa. Lý tưởng
lại càng không. Hắn nghĩ đơn giản đã cầm súng thì phải bắn, bắn thật mạnh vào
phía bên kia, nếu không sẽ bị bắn lại và tiêu diệt.
Như những anh phổi bò khác, hắn chiến đấu dũng cảm,
nhiều lần lập chiến công, được đề bạt làm tiểu đội trưởng, trung đội trưởng.
Rồi người ta bảo hắn vào Đảng. Hắn hỏi: Đảng là gì? Người ta bảo thế này, thế
này. Thế là hắn thành đảng viên, chẳng hiểu và cũng chẳng mấy quan tâm đến lý
tưởng của nó.
Năm năm mươi tư, chiến tranh kết thúc, hắn cùng đơn vị
tập kết ra Bắc. Khác với những người cùng cảnh ngộ, hắn không về nước mà ở lại
Việt Nam, sống và làm việc như một người Việt Nam bình thường. Từ lâu hắn đã
mang tên Việt, tên Tây xưa chỉ còn trong giấy tờ và ký ức. Theo phân công, hắn
làm khá nhiều nghề, từ thợ xây cầu đến lái máy cày, thậm chí cả đóng phim. Lao động
nặng nhọc và sinh hoạt kham khổ chẳng là gì với hắn vì hắn vốn xuất thân nghèo
hèn. Có điều bây giờ, sống hòa bình ở thủ đô, đầu óc chậm chạp của hắn bắt đầu
lờ mờ thấy có gì đấy không ổn với cái đảng hắn tham gia. Hắn ghét và luôn tìm
mọi cách trốn các buổi sinh hoạt chi bộ, cả trước kia cũng vậy. May người ta
thấy hắn hiền lành, gốc gác Tây nên cũng châm chước phần nào.
Ở Hà Nội, hắn hay lui tới Khâm Thiên, phố ả đào nổi
tiếng trước giải phóng. Một hôm, mặt ngời ngời hạnh phúc, hắn báo với bạn bè
hắn sắp lấy vợ, lấy một cô đào hát ở đấy. Thời đó đào hát cũng na ná như đĩ
điếm bây giờ. Trong khi lặng lẽ chuẩn bị cho lễ cưới của mình, hắn không biết
người ta đang điều tra nhân thân cô vợ tương lai của hắn. Cuối cùng, hắn được
ông bí thư đảng bộ xí nghiệp nơi hắn đang làm việc mời lên gặp.
“Đồng chí không được lấy cô L. làm vợ!” ông này nói.
“Vì sao?” hắn hỏi.
“Vì đồng chí là đảng viên...”
“Thì sao?”
“Quy định của đảng không cho phép đảng viên kết hôn
với những người thuộc tầng lớp không tương xứng. Trong trường hợp của đồng chí
là lấy đĩ điếm”.
Dẫu đã Việt hóa khá nhiều, nhưng chất bộc trực của
người Âu vẫn còn, hắn phải vất vả lắm mới không đấm và mặt ông kia vì sự xúc
phạm ghê gớm ấy. “Đ. m. cái quy định của mày!” hắn nghĩ. Hắn cũng rất giỏi chửi
thề những lúc tức giận.
“Nhưng bây giờ chế độ mới, cô ấy không hành nghề nữa,
nếu trước kia cô ấy từng làm nghề này”.
“Không được.”
“Thì tôi cưới, coi như cứu cô ấy khỏi bùn nhơ...”
“Không được.”
“Vậy tôi phải ra khỏi đảng mới được lấy cô ấy?”
“Cũng không được”.
“Vì sao?”
“Vì cán bộ nhà nước không được lấy người ngoài biên
chế”.
Đấy là một cú đòn rất mạnh đánh vào hắn, một người
đang yêu và quyết tâm bảo vê tình yêu của mình. Đầu óc chậm chạp của hắn không
thể nào hiểu nổi vì sao lại có những qui định kỳ cục như thế.
Một tuần sau, hắn trả thẻ đảng và bỏ việc. Ba tháng
sau nữa, hắn đưa “con đĩ” của mình về nước.
*
Nhiều năm đã trôi qua kể từ ngày ấy. Thỉnh thoảng báo
chí trong nước lại có bài viết về hắn, một chiến sĩ quốc tế trung kiên, tình
nguyện tham gia cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc. Hắn được tặng huân, huy
chương, được lãnh đạo nhà nước tiếp và mời sang Việt Nam tham dự các dịp lễ long trọng.
Tôi, tác giả truyện này, cũng nhờ những bài báo ấy mới
biết đến hắn, từ giờ xin được gọi là ông. Năm 1994, nhân một chuyến công tác,
tôi cất công tìm đến nhà ông tận châu Âu xa xôi. Ông sống trong một chung cư
cao tầng. Tôi đứng phía dưới, bấm chuông chờ gần ba mươi phút không thấy ai
xuống đưa lên nên đành bỏ đi. Mấy tháng sau, gặp ông trong một khách sạn nhỏ ở
phố Mai Hắc Đế, ông bảo tôi khi xuống đến nơi thì không thấy ai nữa. Chả là ông
đã già, chân lại đau nên đi đứng chậm chạp.
Chuyện trò với
nhau cả buổi trong khách sạn, ông đã kể tôi nghe câu chuyện cuộc đời mình.
“Vợ tôi là một người đàn bà tuyệt vời!” Ông nói khi
nhớ lại chuyện vợ chồng ông phải vất vả thế nào những ngày đầu về nước. “Bà ấy
không hé răng kêu ca một lời. Một sự chịu đựng nhẫn nhục và dịu dàng tôi nghĩ
chỉ phụ nữ Việt Nam
mới có. Nhờ bà ấy mà cả khu phố chúng tôi ai cũng yêu quí Việt Nam!”
Ông cũng hào hứng kể lại những kỷ niệm xưa. Tôi chăm
chú lắng nghe, thầm xấu hổ nghĩ mình người Việt mà có lẽ không yêu đất nước
mình bằng ông già người Tây này.
“Nếu phải làm lại từ đầu, tôi vẫn sẽ làm như mình đã
làm!” ông nói chắc như đinh đóng cột khi chia tay tôi.
“Tiếc lần này bà nhà tôi không thể về cùng. Một người
đàn bà tuyệt vời! Thế mà người ta nhất quyết không cho tôi lấy bà ấy! Kỳ thật.”
Rồi ông quay sang hỏi tôi: “Ông, người Việt, ông có hiểu nổi không?”
“Không,” tôi đáp. “Và cả nhiều điều khác nữa.”
Ông thở dài:
“Ừ, cả nhiều điều khác nữa”.
14. 9. 2011
27. TỘI NGHIỆP CON BÉ
Nó còi cọc và nhỏ xíu. Nhìn nó, người ta có thể đoán
mười tuổi hoặc năm mươi. Thực ra nó mới lên chín, với đôi mắt sáng của đứa bé
đói ăn và lớp da nhăn xám của cụ già ốm yếu. Hơn thế, đôi chân khẳng khiu của
nó phải gánh cái bướu khá to trên lưng. Thành ra khi đi, dẫu cố đứng thẳng, nó
vẫn khiến ta nghĩ tới hình ảnh một bà già lưng còng. Chỉ thiếu chiếc gậy chống.
Bị chiếc bướu lớn ấy đè lên người quá lâu, thời gian
gần đây nó cảm thấy có cái gì đau nhói trong ngực, đến mức bà mẹ khốn khổ của
nó phải đưa con đến bệnh viện. Bố nó chết từ lâu và hai mẹ con xưa nay sinh
sống nhờ vào bãi rác thành phố.
Trung âm thành phố không có bãi rác nên cả hai phải
sống nhờ những bát cháo từ thiện do mấy người hảo tâm mang đến vào buổi sáng.
Buổi tối họ ăn cháo ở một bệnh viện khác cách đấy không xa. Trưa thì nhịn.
Ở bệnh viện, do không có tiền, không có phong bao cho
bác sĩ nên mãi một tuần sau nó mới được khám. Mà việc này cũng hoàn toàn ngẫu
nhiên, đơn giản là nó gặp may. Số là hôm ấy ngẫu nhiên ông giám đốc bệnh viện
đi ngang, hỏi chuyện mẹ con nó. Vốn người tốt, ông cho nó nhập viện mà không
cần tiền hay bất kỳ giấy tờ gì. Hơn thế, ông còn tự mình khám bệnh cho nó.
Ông khám rất lâu, sử dụng đủ các loại máy móc hiện
đại. Cuối cùng ông nói:
“Phải mổ”.
Nhưng liền sau đấy, ông nhíu mày bảo mẹ nó:
“Có điều cháu yếu quá. Gầy quá. Chị cố gắng cho cháu
ăn thật nhiều chóng béo, tôi sẽ mổ”.
Hệt như anh đồ tể bảo chủ nhà vỗ béo con lợn cho anh
ta làm thịt.
Tất nhiên ông giám đốc không hề có cái ý nghĩ độc ác
ấy. Như những người tốt bụng và có tài khác, ông không quá lựa lời khi nói. Hơn
thế, ông có tính hay quên. Ông quên câu chuyện vừa mới làm ông cảm động, rằng
họ phải sống bằng những bát cháo từ thiện, thế thì họ lấy đâu ra tiền bồi dưỡng
cho nó chóng béo để ông mổ?
Việc chữa bệnh có vẻ diễn biến thuận lợi. Chỉ còn một
vấn đề nhỏ là làm sao béo lên. Một tí thôi cũng được. Không béo là không mổ. Mà
không mổ thì đau lắm, có thể chết.
Từ đó bà mẹ chỉ ăn mỗi bữa nửa bát cháo. Nửa kia
nhường cho con. Bà còn luôn tay xoa bóp người nó, hy vọng làm thế da thịt nó sẽ
giãn ra, tức là béo hơn, hay trông có vẻ béo hơn. Còn con bé thì hăm hở nuốt
hết các loại thuốc bệnh viện phát cho theo lệnh của ông giám đốc, như thể chúng
là những chất béo bổ nó đang cần.
Cũng từ đó hai mẹ con luôn nhìn những người béo với
con mắt thèm thuồng.
Một tuần sau, ông giám đốc bệnh viện lại đến. Ông nhìn
con bé, lắc đầu:
“Cháu cố gắng ăn nhiều vào nhé!”
Con bé lễ phép đáp:
“Dạ, vâng ạ”.
Mẹ nó thì rơm rớm nước mắt.
Ngay hôm ấy, bà mẹ khốn khổ bắt đầu đi nhặt ve chai.
Buổi tối thì con bé lẻn ra đường bán vé số, vì ban ngày nó phải nằm trên giường
bệnh như mọi bệnh nhân khác. Một ông già làm nghề này nhường cho nó nửa tập vé
mình có, bảo bán được bao nhiêu sẽ chi hỏa hồng bấy nhiêu. Một cách kiếm tiền
lý tưởng không cần vốn.
*
Kia, nó kia. Nó đang đứng co ro dưới ánh sáng vàng vọt
của ngọn đèn đường trên con phố nhỏ cạnh bệnh viện. Không biết đây đã là đêm
thứ mấy trong nổ lực bền bỉ của nó nhằm béo thêm một chút.
Đêm nay trời trở lạnh, hình như sắp mưa. Nó đứng bất
động với tập vé trăng trắng trên cánh tay đang chìa ra phía trước. Không thấy
nó mời khách mua. Cũng có thể nó mời nhưng giọng yếu quá nên không nghe thấy.
Chưa đến mười giờ và phố vẫn đông. Hết người này đến
người khác đi qua, nhưng không một ai chú ý đến nó. Toàn những người béo tốt.
Nhìn họ, nó chợt nảy một ý nghĩ thật buồn cười, rằng giá có bà tiên nào đó hóa
phép cắt một cân thịt của họ, đắp lên người nó thì tốt biết bao. Không, có lẽ
phải hai, ba hay dăm cân mới đủ.
Mười một giờ, trời bắt đầu mưa. Nó lạnh. Lại đói nữa.
Phải về thôi. Nhưng hôm nay chưa bán được vé nào. Chờ chút nữa, biết đâu ai đấy
sẽ mua, có thể mua một lúc cả tập. Thế là nó cứ nán lại, nán lại mãi.
Nó ho. Tự nhiên ho rũ rượi. Tay
chân run lẩy bẩy.
Có ba thằng choai choai đi ngang, cười nói ầm ĩ. Một
đứa dừng lại, cúi nhặt một hòn đá, đặt vào lòng bàn tay con bé rồi đi tiếp.
*
Sáng hôm sau người ta thấy nó đã chết, nằm còng queo
bên đường. Cả người nó ướt sũng vì mưa. Mái tóc bẩn bù xù còn dính những giọt
nước long lanh dưới ánh mặt trời mới mọc, trông như những ngôi sao đang nhấp
nháy.
Tội nghiệp con bé. Vậy là cuối cùng nó vẫn chưa đủ béo
để lên bàn mổ của ông giám đốc bệnh viện.
16. 9. 2011
28. QUAN LỚN HOÀNG THẠCH
Một cô gái trẻ, con nhà giàu, vướng tình với một thư
sinh, có bầu, bị người tình bỏ rơi và bố mẹ đuổi ra khỏi nhà. Cô ở nhờ một
người bạn, chờ đứa con ra đời. Trước khi nhảy xuống sông quyên sinh, cô đem đứa
bé đặt trong vườn chùa Diệu Pháp.
Chùa ít người.
Không may lúc ấy cả hai thầy trò sư trụ trì đi sang chùa bên có việc.
Đứa bé nằm một mình trên nền đất ẩm lạnh hơn một giờ.
Kiến bắt đầu bu lại, những con kiến to và háu đói. Chúng bám đầy người nó, chui
cả vào chiếc miệng bé nhỏ đang khóc.
Đúng lúc ấy, Mực, con chó to lớn của nhà chùa, chạy
ra, tha nó vào nhà. Nó kiên nhẫn liếm hết bầy kiến trên cơ thể con bé. Vậy là
con bé được cứu sống, sau này thành sư trụ trì chùa Diệu Pháp.
Khi con Mực chết già, bố mẹ cô gái xấu số kia chi tiền
chôn cất nó long trọng. Họ còn thuê thợ tạc một bức tượng chó bằng đá, đem về
đặt trước sân nhà mình, quanh năm hương khói chu đáo để tỏ lòng tri ân với nó.
Con chó đá được gọi là Hoàng Thạch, sau tôn thành Quan Lớn Hoàng Thạch, tức là
Quan Lớn Chó Đá.
Quan ở đây vậy là đã bốn đời kể từ ngày cô bé kia được
cứu sống. Quan thiêng lắm. Gần một trăm năm qua biết bao nhiêu câu chuyện về sự
thiêng ấy của Ngài truyền tụng trong dân chúng. Ít nhất có ba tên trộm từng bị
Ngài cắn đứt cổ. Nhiều đứa trẻ ngã suýt chết khi dám ngỗ nghịch trèo lên lưng
Ngài. Cụ cố gia đình này tuyên bố cụ đỗ Thám Hoa là nhờ Ngài, vì hôm lên đường
lều chõng ra kinh, Ngài đã sủa mừng và ve vẩy cái đuôi bằng đá của mình. Ai
không tin có thể đọc gia phả nhà cụ, nơi cụ ghi lại chi tiết sự kiện đó. Rồi
quan chó thành thần của cả làng, cả khu vực rộng lớn xung quanh. Ngoài ngày
rằm, ngày mồng một coi như đương nhiên phải cúng lễ như ở nhà chùa, ngày
thường, ai có công chuyện cũng đến cầu xin Ngài. Nếu không, sớm muộn tai họa sẽ
đến. Ai cũng tin là thế, và không ai muốn hay dám làm trái.
Đến đời thứ tư, tức là đời chúng ta đang sống, gia
đình cụ cố đã không còn giữ được nếp gia phong xưa đáng kính, dù vẫn khá giả
nhờ sự bảo trợ của Quan Lớn Hoàng Thạch. Anh cháu đích tôn đi học Tây về tỏ ý
hơi khó chịu về sự hiện diện của Ngài, đặc biệt cảnh lễ bái đông đúc của dân từ
khắp nơi kéo đến. Tuy vậy, anh ta không dám làm điều gì thất lễ, vì cái uy của
Ngài lớn lắm.
Một hôm, hoàn toàn xuất phát từ ý định tốt, anh ta bảo
cô vợ mới cưới của mình:
“Có lẽ Ngài sống một mình cũng buồn. Sao ta không thuê
tạc thêm một tượng quan Bà cho Ngài?”
“Anh nói đúng.” Cô vợ đáp. “Vạn vật sống có đôi. Quan
và thần linh cũng vậy. Vả lại, có thêm bức tượng nữa, nhà sẽ cân đối hơn”.
Nói là làm. Một tuần sau Quan Bà được khiêng về. Đó là
tượng một con chó cái cũng to lớn không kém, được đẽo gọt công phu rất đẹp nhờ
công nghệ hiện đại, và trông rất nữ tính.
Mọi việc vẫn diễn ra bình thường, dù khách đến lễ có
ngạc nhiên chút ít, nhưng thỉnh thoảng vẫn thắp nén hương hay đặt bó hoa lên
tượng Quan Bà. Điều khác thường là từ khi có tượng mới, đêm đêm vợ chồng anh
chủ nghe như ngoài sân có ai đấy đang vật lộn rất dữ, nhưng vì sợ, họ không dám
ra xem chuyện gì đang xẩy ra.
Khác thường hơn nữa là một sáng nọ tỉnh dậy, họ thấy
một bầy chó con bằng đá lúc nhúc ngoài sân. Quan Lớn Hoàng Thạch vẫn uy nghi
như Ngai vốn có, nhưng Quan Bà thì có vẻ mệt mỏi, sự mệt mỏi hạnh phúc thường
thấy ở những người đàn bà mới sinh con.
Từ đấy Quan Chó không thiêng nữa. Người tới cúng viếng
cũng thưa dần. Lũ trẻ lại hỗn láo với Ngài. Chúng đập vỡ một bên tai mà Ngài
bất lực chẳng làm được gì chúng.
Vậy là cái ý định tốt đẹp đầy tính nhân văn của anh
Tây học đã làm hại Quan Lớn Hoàng Thạch, khiến Ngài rơi ngã từ cõi thần linh
thiêng liêng xuống đời trần dung tục. Hóa ra, như người, đôi khi thần cũng khó
vượt qua được sự cám dỗ của đàn bà.
16. 9. 2011
29. NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL TOÁN HỌC
Hồi học đại học ở Liên Xô, tôi chơi thân với một cậu
khá kỳ quặc. Chơi vì cùng đồng hương Nghệ An và cả vì sự kỳ quặc ấy. Từ nhỏ toi
vốn không ưa những gì bình thường, nhàm chán.
Hắn là sinh viên một trường danh tiếng ở Matscơva,
thông minh và học giỏi. Giỏi với nghĩa xuất sắc thật sự chứ không phải loại khá
hơn bình thường. Ngay năm thứ hai, hắn đã có hai bài báo được đăng trên một tạp
chí chuyên ngành quốc tế về sinh học, là môn hắn được gửi sang đây để học. Tuy
nhiên, đam mê thực sự của hắn, đam mê suốt đời, lại là toán. Thành ra thành
tích sinh học của hắn chỉ dừng lại ở hai bài báo ấy và cái bằng phó tiến sĩ hắn
nhận được không mấy khó khăn khi về nước.
Hắn mày mò tự học toán và chắc cũng đạt được điều gì
đó, nhưng là người ngoại đạo nên tôi không thể đánh giá.
Một hôm đến chơi, hắn bảo tôi với vẻ rất tự tin:
“Tớ sẽ đoạt giả Nobel Toán học!”
“Nobel không có giải dành cho môn toán,” tôi đáp.
“Tớ biết. Rồi người ta sẽ lập cái giải ấy cho tớ.” Hắn
nói, cũng rất tự tin. “Toán là môn khoa học mẹ của tất cả các môn khác. Chỉ tại
lão Nobel nhỏ nhen không lập giải này vì vợ lão có bồ là một nhà toán học mà
thôi.”
Lần sau gặp, hắn lại nói:
“Cậu dịch thơ được đấy. Phải thừa nhận nhiều bài rất
hay. Sao cậu không phấn đấu đoạt giải Nobel về dịch thuật?”
“Xưa nay chưa ai đoạt cái giải ấy. Mà nó cũng chẳng
có”.
“Thì người ta sẽ lập nó cho cậu, nếu cậu dịch thực sự
hay”.
“Tớ là người bình thường, dịch dọt cho vui chứ Nobel
nỗi gì! Khéo người ta cười cho thối mũi,” tôi đáp, rất chân thành.
Thế mà hắn xửng cồ, cái thằng kỳ quặc ấy. Hắn quát vào
mặt tôi:
“Cậu tầm thường chứ không phải bình thường. Sống mà
không mơ ước, không hoài bão thì sống làm đếch gì! Dịch dọt làm đếch gì!”
“Nhưng tớ phải biết sức mình...” tôi yếu ớt chống đỡ.
“Làm sao biết được sức mình khi chưa thử thách? Nói
chuyện với cậu chán bỏ mẹ!”
Rồi hắn lại ngồi vào bàn làm việc, hý húi với môn toán
của mình, ra ý đuổi tôi về, chỉ vì tội không muốn nhận giải Nobel dịch thuật.
Về nước, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau. Sự kỳ
cục, cực đoan của hắn không giảm mà còn tăng, và nhiều lần tôi vẫn bị hắn mắng
té tát như trước. Công bằng mà nói thì tôi bị hắn mắng oan. Tôi chỉ bình thường
chứ không tầm thường. Như anh nông dân lo cày sâu cuốc bẫm để thu hoạch thật
nhiều thóc, tôi cố dịch thật nhiều, cặm cụi ngày đêm viết lách, gọt dũa từng
câu, từng ý đến mức hài lòng mới thôi. Tôi không thi vị hóa mà cũng chẳng coi
thường cái nghề mình đã chọn, không mảy may mơ ước các giải thưởng này nọ,
trong nước chứ chưa nói đến giải Nobel. Nghĩa là tôi cũng tử tế, dám sống chết
với nghề, và cũng có hoài bão đấy chứ!
Hắn được phân về làm việc ở một viện nghiên cứu sinh
học, đúng chuyên môn đã học. Hắn giỏi đến mức được người ta phân một mình một
căn hộ ở khu tập thể Kim Liên, là điều hiếm xảy ra thời đó. Hơn thế, hắn được
quyền cả tháng không đến viện ngày nào. Độ sáu tháng một lần hắn ôm một tập dày
các nghiên cứu của hắn nộp lãnh đạo viện. Mọi người, kể cả chuyên gia đầu ngành
đọc không hiểu gì, nhưng chẳng dám bác, đành gửi sang Liên Xô nhờ thẩm định hộ.
Tôi cũng nhiều lần phải khốn khổ ngồi nghe hắn thuyết trình hàng giờ các công
trình nghiên cứu cao siêu mà tôi hoàn toàn mù tịt ấy.
Như trước, đam mê của hắn vẫn là toán, và hắn vẫn
không ngừng say mê nghiên cứu để đoạt cái giải Nobel hắn mơ ước.
Một hôm, đang đi trên đường, tôi bị ai đó gọi to chặn
lại. Thì ra là hắn. Đã mấy năm chúng tôi không gặp nhau, nhưng quả tình tôi
không ngờ hắn thay đổi đến thế. Trước mặt tôi là một ông già nhếch nhác, ăn mặc
luộm thuộm và cáu bẩn.
“Cậu đãi tớ một chầu bia đi!” Hắn nói với vẻ hống hách
như ra lệnh. “Lâu lắm chưa được ăn bữa nào ra hồn.”
Chúng tôi vào một quán bia gần đó. Thú thật tôi không
thể cầm lòng khi nhìn hắn ăn một cách ngấu nghiến các món dọn ra và liên tục tu
hết cốc bia này đến cốc khác. Chỉ những người phải nhịn đói lâu ngày mới có
kiểu ăn như vậy.
Ăn uống no nê, hắn bắt đầu hăng hái nói một thôi một
hồi những việc hắn đã và đang làm. Vất vả lắm tôi mới lái được câu chuyện sang
hướng tôi muốn, tức là chuyện gì đã xẩy ra với hắn những năm vừa rồi. Thì ra
hắn bị đuổi việc vì, theo lời hắn, “tớ đếch thèm bận tâm mấy cái chuyện sinh
học vớ vẩn ấy nữa. Để dành thời gian cho toán.” Rồi hắn quay lại với đề tài hắn
yêu thích, thao thao bất tuyêt, đôi mắt đỏ ngầu và tinh sáng một cách khác
thường. Thỉnh thoảng bọt mép sùi ra hai bên khóe miệng. Dẫu chua xót, tôi vẫn
phải tự bảo mình rằng hắn đã phát điên, chí ít thì tâm thần nặng. Kiểu “phát rồ
vì ngộ chữ” như dân gian vẫn nói.
Sau đó tôi đều đặn đến thăm hắn tại căn hộ nhỏ ở Kim
Liên. Quả thật tôi không biết hắn sống thế nào và ăn uống những gì. Lần nào
đến, tôi cũng thấy hắn đang cắm cúi làm việc bên chiếc bàn sờn cũ. Thường thì
hắn vừa ăn những gì tôi mang tới, vừa mắng tôi cái tội không chịu phấn đấu để
lấy cái giải Nobel về dịch thuật. Hắn xem việc tôi đến thăm hắn là chuyện đương
nhiên, và chưa một lần cảm ơn tôi. Dần dần tôi học được cách kiên nhẫn ngồi
nghe hắn nói về các công trình của hắn mà tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi thực sự
thương xót, ái ngại cho hắn, một người sống có niềm tin và sự đam mê mãnh liệt.
Không loại trừ khả năng chính nhờ niềm tin và sự đam mê ấy, hắn mới có thể tiếp
tục sống và làm việc hết năm này đến năm khác trong điều kiện cùng cực như vậy.
Tuy nhiên, cái phải đến cuối cùng đã đến. Hắn chết
cách đây mười năm trong căn phòng đơn độc, giữa một đống lớn giấy tờ bề bộn và
chắc với cái dạ dày trống rỗng. Do không có ai thân thích ở Hà Nội, ông hàng
xóm gọi điện cho tôi khi phát hiện hắn chết.
Ông nói:
“Tội nghiệp bác ấy.”
“Vâng. Tiếc ông ấy không sống được đến ngày nhận giải
Nobel”.
Tôi đáp, trong thâm tâm thực sự coi hắn đã nhận được
cái giải cao quí ấy. Từ ấy đến nay tôi luôn nhớ đến hắn như một người đoạt giải
Nobel toán học.
Sau cái chết của hắn, tôi hay ngẫm nghĩ về bản thân,
và vẫn chưa dứt khoát xếp mình vào hạng người nào - bình thường hay tầm thường
như hắn nói.
28. 9. 2011
30. AI?
Vào năm ấy, ở
mặt trận ấy, hai nghìn người lính trẻ được lệnh xuống đồng bằng tham chiến. Sau
một đêm, chỉ ba mươi người sống sót trở về!
Nhiều năm qua tôi luôn bị ám ảnh bởi con số khủng
khiếp này trong một câu khô khan và thuần túy mang tính thông tin. Chính xác đó
là câu thơ trong bài “Ai? Tôi!” của nhà thơ Chế Lan Viên khi ông viết về chiến
dịch Mậu Thân. Tác giả nêu câu hỏi: “Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người
đó?” Và chính ông tự trả lời mình: “Tôi! Tôi/ người viết những câu thơ cổ võ/
Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong”.
Một tâm hồn nhạy cảm! Một nhân cách lớn! (Anh Chế Lan
Viên ơi, em đây, Thái Bá Tân đây. Cảm ơn anh đã nói hộ lòng em. Em còn giữ tập
thơ anh tặng ngày nào.)
Đằng sau những con số này là những con số khác còn
khủng khiếp hơn: Một triệu người lính cách mạng và hai triệu dân thường Việt Nam đã hy sinh
trong cái ta thường gọi là “cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc”.
Như nhà thơ, tôi cũng bị ám ảnh bởi câu hỏi của ông:
Ai chịu trách nhiệm về cái chết của 2000 người đó? Không phải tôi, tất nhiên,
vì tôi là người bình thường và chỉ nhờ ngẫu nhiên mới không bị gộp vào con số
đó. Tôi không ra lệnh, không đưa ra các quyết sách lớn về đại cục. Tuy nhiên,
nói thế không có nghĩa tôi hoàn toàn vô tội. Không, tôi vẫn phải chịu một phần
trách nhiệm vì đơn giản tôi là một công dân và đã để đất nước mình rơi vào hoàn
cảnh như vậy. Một công dân tốt còn biết đau về cái chết của đồng bào.
Câu hỏi tiếp: Liêu có đáng phải hy sinh ghê gớm như
thế để “giải phóng dân tộc” không, mà rồi, giải phóng khỏi ai? Khỏi những đồng
bào Việt Nam
khác ở bên kia chiến tuyến?
Một câu hỏi nữa: Ba mươi người sống sót trong số 2000
người ấy bây giờ thế nào, và họ nghĩ gì về sự trận đánh ấy của họ mà đài báo ta
lúc ấy gọi là “thắng lợi, nhưng ta phải chịu một số thương vong nhất định”?
Khá vất vả, cuối cùng tôi cũng tìm được một người,
ngay trong huyện Diễn Châu quê tôi. Điều này lần nữa làm tôi giật mình: Sao lúc
nào, ở đâu có đánh nhau ác liệt nhất và nhiều người chết nhất cũng có mặt những
người lính nông dân Nghệ Tĩnh của tôi? Có thể chỉ ngẫu nhiên, nhưng vẫn giật
mình.
Đó là một lão nông trạc tuổi tôi, trên sáu mươi chút
ít, nhưng trông hom hem với một chân thọt và một tay hơi khuỳnh khuỳnh.
“Chuyện từ đời tám hoánh nào, hơi đâu mà nhớ đến. Mà
cũng chẳng còn lúc nào rỗi để nhớ”. Ông nói khi tôi gợi chuyện. “Con cháu một
bầy, toàn ăn hại. Lại thêm trận lụt vừa rồi ngập hết lúa như bác thấy.”
“Bác có cảm giác thế nào khi sống sót trở về rừng?”
“May! Còn thế nào nữa. May thoát chết như bác nói. Nhờ
giả vờ chết mà sống đấy.”
“Sau đó thì sao?”
“Thì đánh nhau tiếp. Trong số ba mươi người sống sót
lần ấy, nghe nói chỉ năm người trở về nhà khi chiến tranh kết thúc. Trong đó có
tôi. Cũng nhờ may rủi thôi”.
Tôi lặng người, chẳng biết nói gì thêm.
“Sự hy sinh của các bác thật to lớn.” Tôi lên tiếng
khi thấy im lặng mãi bất tiện. “Các bác là những người anh hùng, dũng cảm, dám
xã thân vì nước...”
“Anh hùng, dũng cảm cái đếch gì. Người ta bảo đi lính
thì đi. Bảo xung phong thì xung phong. Không xung phong, không dũng cảm mà được
à? Không bị địch bắn chết thì cũng bị đồng đội đằng sau bắn vào lưng!”
Mấy thằng nhỏ thấy có khách, xúm lại hóng hớt. Ông
chúng quát:
“Chúng mày biến! Mai kia thằng Tàu nó đánh, sẽ đến
lượt chúng mày! Không thoát được đâu!”
Cuộc gặp này để lại trong tôi một ấn tượng nặng nề.
Tôi cũng may. May chưa bao giờ viết thơ cổ vũ người
khác ra trận. May không phải là một trong ba mươi người sống sót ấy, chính xác
hơn, năm người. Nếu không tôi sẽ đau khổ lắm. Chả là đời trót cho tôi cái chữ
nên hay suy luận và mặc cảm. May nữa là tôi không bao giờ phải bắn vào lưng
đồng đội nếu họ không xung phong, và ngược lại. May! Và tôi cảm ơn số phận điều
ấy.
Nhưng tôi cũng có con cháu, và như ông ấy nói, mai kia
thằng Tàu đánh mình, sẽ đến lượt chúng. Nghĩ mà sợ. Sợ và buồn. Vì lão nông
kia, tôi và con cháu của tôi không có sự lựa chọn nào khác. Vì chúng tôi, vì
tất cả chúng ta, đơn giản chỉ là những con tốt vô danh trên bàn cờ của các nhà
lãnh đạo đất nước.
Mong sao cho họ biết thương dân và có những quyết định
sáng suốt.
1. 11. 2011
31. LẠI NÓI VỀ CHIẾN TRANH
Một cô thanh niên xung phong bị phát hiện đang lén lút
làm cái việc “tự sướng” bên con suối nhỏ sâu trong rừng.
Suốt ba đêm liền, từ sau bữa ăn tối cho đến gần sáng,
cô bị đồng chí của mình, toàn nữ, kiểm điểm gay gắt và không ngớt lời sỉ vả.
“Ghê tởm, thật ghê tởm!” “Một biểu hiện
suy đồi đạo đức!” Một hành động bêu xấu hình ảnh người chiến sĩ cách mạng, đi
ngược với lý tưởng và lối sống cách mạng tốt đẹp!” “Xử bắn con đĩ tư sản thối
nát ấy đi!”. Vân vân.
Sang ngày thứ tư, không chờ đồng đội xử bắn, “con đĩ
tư sản thối nát” ấy đã treo cổ tự tử trên cành cây bị bom chặt đứt một nữa.
Chủ trì và cũng lớn tiếng sỉ vả nhất trong ba đêm đấu
tố ấy là cô Duyên. Đơn giản vì cô là đội trưởng đội thanh niên xung phong ấy.
Duyên là người làng tôi, thậm chí suýt thành chị dâu, nếu anh trai con ông bác
tôi không hy sinh ở Quảng Trị năm 68. Tự cô kể tôi nghe chuyện này khi hết
chiến tranh trở về nhà.
“Tội nghiệp nó! Người ta bảo thì bọn chị phải làm thế
chứ thương lắm!” cô nói, rơm rớm nước mắt. “Khối đứa như nó. Chị biết”.
“Cả chị?” tôi hỏi.
Ngập ngừng một lúc, chị nói, giọng thách thức:
“Thì sao? Chị không là người chắc? Cả bầy con gái thui
thủi một mình trong rừng không một mống đàn ông suốt mấy năm trời! Đơn vị chị
thì không, nhưng nghe nói ở Đrao, Tây Nguyên, có mấy chục đứa phát cuồng, lúc
ôm nhau cười mãi không thôi, lúc xé hết quần áo kéo chạy tồng ngồng gữa rừng
như những con điên.
Mắt chị lại rưng rưng.
Về làng được bốn năm, do lỡ thì, và cũng do chẳng còn
đàn ông nào nữa mà lấy, chị Duyên xuống tóc đi tu, ở ngay Chùa Mít bên sông
Bùng. Vợ chồng bác tôi thương lắm, nhưng chẳng can ngăn. Trong thâm tâm hai cụ
vẫn coi chị là con dâu. Có người nói chị bị ai đó trên tỉnh lừa tình. Chuyện
này thì tôi không rõ, mà cũng chẳng quan trọng. Tôi chỉ thấy ngỡ ngàng, thậm
chí đau nhói trong ngực khi hình dung chị dâu hụt của tôi, - một người xinh
đẹp, yêu đời, từng nhiều năm làm đội trưởng đội văn nghệ xã, - lại tự nguyện
giam mình trong ngôi chùa hiu quạnh, đổ nát, với bộ quần áo màu nâu nhà Phật.
Mấy ngày sau, tôi đến tìm chị, định hỏi cho ra chuyện, nhưng tôi đã không vào
chùa khi đứng từ xa nhìn thấy chị đang thẫn thờ đưa chổi quét đi quét lại cái
sân vốn đã sạch.
Lặng lẽ ra về, tôi cố lý giải mà không lý giải nỗi cái
gì đã biến một cô gái tươi vui, hồn nhiên, tràn trề hạnh phúc và xứng đáng được
hưởng hạnh phúc thành một người yếm thế, bất hạnh như vậy.
Chiến tranh? Phải chăng đây là cái giá của chiến
tranh?
Bẵng đi nhiều năm, tôi lại vào chùa Mít.
Nó vẫn thế. Hai cây nhãn trước chùa vẫn thế, và vẫn
thế, chúng không chịu cho quả.
Đang vắng người, tôi vào thẳng phòng riêng sư trụ trì,
sư thầy Đàm Duyên. Sư thầy chứ không phải sư cô như ngày nào.
“Chào chị Duyên,” tôi lên tiếng, không hiểu sao còn cố
tình nói to.
“Mô phật. Xin xưng hô với kẻ tu hành này theo đúng
cách của nhà phật. Chào chú.”
Đứng chắp tay trước mặt tôi, đầu hơi cúi, là một bà
già nhỏ bé, khô đét và không còn tí dấu vết nào của cô Duyên ngày xưa cũng như
sư cô Đàm Duyên sau đó tôi gặp. Nét mặt bà không chỉ vô cảm mà bất động như
được nặn bằng sáp. Cái đầu trọc bóng loáng cũng có lớp sáp nhờn nhợt ấy.
Bất giác, tôi chợt nghĩ: “Nếu không trọc, không biết
tóc chị sẽ bạc đến đâu?”
“Chị khỏe chứ?”
“Mô phật.”
“Người ta nói nay mai chùa Mít bị đập bỏ để xây đường
lớn lên Đô Lương và sang Lào?”
“Mô phật,” và chị khẽ cúi đầu.
“Thế chị và mọi người đi đâu?”
Sư thầy Đàm Duyên không đáp. Chất sáp trên mặt và cái
đầu trọc của bà càng trở nên rõ nét hơn. Hình như bà đang khóc, dù đôi mắt sâu
vô hồn vẫn ráo hoảnh.
Lát sau tôi bỏ về, vô cớ hậm hực với ngôi chùa tội
nghiệp sắp bị phá bỏ, với hai cây nhãn xum xuê mà không chịu cho quả. Với cả
chính tôi vì mãi vẫn lấn cấn tìm lời giải thích cho số phận chị dâu mình và
những người như chị.
Chiến tranh! Ừ, chiến tranh! Tiên sư thằng chiến
tranh!
Tôi thấy có cái gì nghèn nghẹn trong cuống họng, muốn
văng tục chửi ai đó, đập phá cái gì đó mà không được. Chửi cái thằng gây ra
chiến tranh chẳng hạn. Tiên sư thằng gây ra chiến tranh!
Đừng nói với tôi về chiến tranh bảo vệ tổ quốc và
chính nghĩa. Tôi đã đủ khôn lớn để hiểu rằng cái cuộc chiến tranh ấy, nếu quả
là bảo vệ tổ quốc và chính nghĩa như người ta nói, cũng chẳng là gì nếu nó là
thủ phạm của hàng triệu cái chết dân Việt, hàng chục triệu cuộc chia ly đau
đớn, thủ phạm của một sự đảo lộn triệt để các giá trị truyền thống dân tộc. Nó
trở thành nhảm nhí khi vì nó các cô gái của chúng ta phải “tự sướng” và tự treo
cổ, khi một người trẻ trung, tươi vui và tràn trề nhựa sống như chị Duyên của
tôi phải biến thành một hình sáp vô hồn.
“Ừ, mà nếu không cạo đầu, tóc của chị sẽ bạc đến đâu
nhỉ?”
14. 11. 2011
32. CÔ GÁI MÙ
Đó là một cô gái xinh đẹp, nhỏ nhắn, với
chiếc cổ trắng thon dài, mái tóc xoăn tự nhiên có màu nâu vàng nhạt,
chắc cũng tự nhiên. Khuôn mặt cô hao hao giống Đức mẹ Đồng trinh ta
thường thấy trong nhà thờ. Ở cô toát lên một sự hiền dịu và sạch
sẽ đến mức thánh thiện.
Chỉ tiếc cô mù. Cũng có thể vì mù, không phải
chứng kiến bao cảnh bẩn thỉu của cuộc đời nên cô có được sự hiền
dịu và sạch sẽ thánh thiện ấy.
Tiếc nữa là cô nghèo, và phải tự kiếm sống
nuôi mình.
Hàng ngày, từ sáu giờ sáng người ta đã thấy
cô ngồi bán hoa bên cột đèn điện ở góc một con phố nhỏ yên tĩnh. Con
chó bé xíu màu vàng dắt cô đi về hàng ngày ngồi bên, hếch mõm, nghiêng
đầu nhìn mỗi lần có khách dừng lại mua hoa. Nó khôn lắm, chăm chăm
nhìn khách đếm tiền, và biết sủa hai tiếng chép chép khi khách quên
hay chậm thanh toán.
Khu phố này nghèo, người dân lam lũ, nhưng vì
hoa rẻ và chắc muốn giúp cô gái mù dễ thương nên người ta vẫn mua hoa
của cô. Nhiều người cẩn thận chọn hoa, trả tiền xong lại lặng lẽ
đặt vào chỗ cũ. Cô gái không nhìn thấy, chỉ mỉm cười cảm ơn. Con
chó thì biết, nhưng nó im, ngoe nguẩy cái đuôi ngắn tũn. Cây cột điện
bê tông đầy giấy dán quảng cáo và những dòng chữ bậy bạ đỡ trơ
trẽn hơn nhờ nó. Nhờ chủ nó, người dân ở đây, trong đó có vợ chồng
tôi, hình như cảm thấy đời đẹp hơn và ấm áp hơn chút ít
Mọi việc cứ thế đều đều diễn ra, lặng lẽ,
bình dị và quen thuộc.
Bỗng một hôm không thấy cô gái mù bán hoa cùng
con chó nhỏ của cô. Hôm sau mọi người nhốn nháo bàn tán. Hôm sau nữa
thì cả phố xếp hàng đưa tang cô. Cô gái xinh đẹp, tội nghiệp ấy đã
bị ai đó cưỡng hiếp rồi giết chết, vứt xác xuống hồ Thanh Nhàn ngay
giữa trung tâm thành phố.
Vợ chồng tôi theo đám đông cùng lặng lẽ đưa
tiễn cô. Mọi người cúi mặt bước đi, xấu hổ với cảm giác bất lực
không bảo vệ được cô khỏi cái ác đang ẩn nấp đâu đó ngay trong cộng
đồng mình. Sao người ta nỡ cướp đi mạng sống của một thiên thần vô
hại như cô? Sao người ta nỡ tước đi của chúng tôi một trong số những
bông hoa hiếm hoi mang chút hơi ấm cho cuộc đời lạnh lẽo này?
Không còn cô, con phố trở nên vắng hẳn. Hình như
rác bụi cũng nhiều hơn.
Không còn cô, con chó nhỏ trở thành chó hoang,
để lại cây cột đèn bê tông một mình không bạn. Nó sẽ phải tự vật
lộn kiếm sống, cạnh tranh với những con chó hoang như nó nhưng lọc
lõi và độc ác hơn. Hơn nữa, nó còn phải luyện chạy thật nhanh, nhìn
thật rõ để khộng bị người ta bắt làm thịt. Tội nghiệp nó. Nếu
biết suy nghĩ và viết văn như tôi, liệu nó sẽ nghĩ và viết gì nhỉ?
Ai đó đặt chiếc bàn thờ nhỏ bằng gỗ ọp ẹp
lên chỗ cô gái mù vẫn hàng ngày thường ngồi bán hoa. Trước nén hương
nghi ngút khói là hoa, rất nhiều hoa màu trắng.
Cô trao cho đời những bông hoa đẹp đủ màu, giờ
nhận được chỉ toàn hoa màu trắng.
16. 11. 2011
33. VIÊM ĐAU TÂM THẦN
Tạp chí Văn Học Nước Ngoài số 5 năm 2005 có truyện
ngắn “Chú bé Do Thái” của Rudolf Leonhard. Nhân vật chính là Jacob, chín tuổi,
bị một ông thầy có tư tưởng kỳ thị chủng tộc bắt hát một bài có câu: “Hãy để
dòng máu Do Thái phun trào khi ta đâm mạnh lưỡi dao vào chúng. Lúc đó ta sẽ nói
hôm nay trời đẹp sao!” Cậu phải hát hàng ngày cùng cả lớp, mà hát to, hát rõ
từng tiếng, nhất là chú, vì chú là người Do Thái.
Chuyện xẩy ra ở nước Đức ngày Hitle mới cầm quyền.
Lưỡi dao chọc vào người, dòng máu phun ra và ngày đẹp trời ấy đã làm chú bé
hoảng sợ đến mức mê sảng và phát ốm. Bố mẹ phải đưa chú sang Pháp lánh nạn
phát-xít. Một thời gian sau chú có vẻ bình tĩnh trở lại. Thế mà một đêm khuya
nọ cả nhà chú và hàng xóm chợt thức giấc vì chú chồm dậy hát: “Hãy để dòng máu
Do Thái phun trào khi ta đâm mạnh lưỡi dao vào chúng. Lúc đó ta sẽ nói hôm nay
trời đẹp sao!” Chú hát đi, hát lại mãi một câu ấy và không thể ngừng được. “Con
không muốn, nhưng nó cứ đầy ắp trong đầu và tự tuôn ra”, chú mếu máo. Rồi chú
lại ốm, còn nặng hơn trước và miệng vẫn không ngừng hát. Bác sĩ khám, nói chú
mắc chứng bệnh “viêm đâu tâm thần”.
Một truyện ngắn gây ấn tượng mạnh, và nó làm tôi nhớ
lại một trường hợp gần như tương tự ở Việt Nam. Chuyện có thật và xẩy ra với
một người ở làng tôi.
*
Đó là một sinh viên mới du học ở nước ngoài về, đúng
vào những ngày đầu đất nước vừa thống nhất. Anh có dáng người lẻo khẻo, da xanh
mướt, mái tóc xoăn tự nhiên trùm lút gáy và cặp kính cận dày cộm. Nghe nói anh
học văn hay triết học gì đấy bên Tiệp.
Rủi cho anh, và cả cho tôi nữa, vì tôi cũng về quê lần
ấy, mới đặt chân đến cổng làng thì trời bắt đầu mưa to, mưa liên tục suốt ba
ngày. Sau đó là lụt lớn, và làng bị cô
lập hoàn toàn. Tức là không ai ra và cũng chẳng ai vào được làng, trừ đi thuyền
mủng. Và trong suốt bảy ngày ấy cộng với ba ngày trời mưa, chiếc loa phóng
thanh mới được huyện phát cạnh nhà anh ra rả nói suốt từ sang đến tối, chính
xác là từ năm giờ đến mười rưỡi đêm. Trời ơi, mà nó nói to, to kinh khủng. Cái
loa nói về chiến thắng lẫy lừng của dân tộc, về niềm vui đất nước thống nhất,
về cơn lụt lịch sử, về số lượng bò và lợn chết trôi. Nội dung giống hệt nhau
hoặc na ná như nhau, đại khái giống câu “Hãy để dòng máu Do Thái phun trào khi
ta đâm mạnh lưỡi dao vào chúng. Lúc đó ta sẽ nói hôm nay trời đẹp sao!” của chú
bé Jacob.
Ngay tối đầu tiên anh đến gặp tôi, nhăn nhó:
“Cái loa nó ông ổng thế cả ngày thì chết mất!”
“Phải chịu thôi. Bao nhiêu năm thế rồi. Và sẽ còn
nhiều năm nữa.”
“Nhưng nó ở ngay trên đầu nhà tớ. Mà quanh đi quẩn lại
cũng chỉ mấy bài, mấy lời thông báo ấy. Chết mất!”
Tôi cũng khổ sở không kém. Có điều nghe mãi thành
quen. Không quen cũng phải quen. Cũng có thể da tôi dày hơn và thần kinh vững
hơn. Chỉ duy nhất một điều không thể quen được, là câu hỏi tại sao người ta lại
cho lắp cái hệ thống loa đài này để tra tấn người dân, tất cả mọi người dân
trên cả nước? Hầu như nhà nào cũng có một cái đài thu thanh được mang từ miền
Nam ra, bán nhiều và khá rẻ. Có gì cần thông báo thì cho người vác loa đi a-lô
a-lô như xưa nếu ở nông thôn. Ở thành phố thì ông tổ trưởng đến từng nhà báo.
Tiếc là người ta không nghĩ thế, và các loa phóng thanh vẫn ông ổng hàng ngày ở
mọi ngóc ngách của đất nước. Hay người ta giữ nó như một nét đặc trưng của lối
sống cộng sản?
Mờ sang hôm sau, anh lại đến, mặt bơ phờ vì suốt đêm
không ngủ:
“Tớ chết mất!”
“Không chết được đâu. Gắng mà chịu.” Tôi đáp, nửa đùa
nửa thật. “Ở Hà Nội cậu không phải nghe nó à?”
“Không. Tớ mới về nước, chưa phân công công tác nên ở
nhờ nhà ông bác làm to ở khu Ba Đình. Ở đấy không thấy có loa kiểu này.”
‘Rồi cậu sẽ phải nghe. Hàng ngày. Không thoát được
đâu. Trừ phi chết, hoặc vượt biên ra nước ngoài.”
“Thật à?” Anh nhìn tôi ngơ ngác, hai mắt lộ vẻ sợ hãi.
Ngày thứ tư, anh bảo tôi
“Ta ra Hà Nội đi.”
“Cách nào?”
“Thuê thuyền xuống ga Mỹ Lý rồi lên tàu.”
“Nhưng đường sắp ngập có đi được đâu. Đường bộ lại
càng ngập.”
“Ừ nhỉ. Nhưng phải làm một cái gì đó. Tớ không thể
chịu thêm được nữa. Đến phát điên mất. Mà có lẽ đã điên rồi. Mấy đêm nay tớ
không ngủ chút nào. Thần kinh yếu mà.”
“Thì cậu bắt chước tớ, bơ nó đi, coi như chẳng có.”
“Tớ không làm được. Thử rồi. Cả khi nó tắt, cái loa ấy
vẫn không thôi ám ảnh tớ. Không để yên một phút nào.”
Anh còn nói một lúc nữa, đại khái như lời chú Jacob:
“Con không muốn, nhưng nó cứ đầy ắp trong đầu và tự tuôn ra.”
Tám giờ tối hôm ấy làng có sự cố. Đang nói hát ra rả
như thường ngày, bỗng chiếc loa im bặt. Tiếp đến là một sự yên tĩnh ngỡ ngàng
đến không tin là thật. Thậm chí có người thấy hụt hẫng.
Lát sau thì cả làng biết là theo yêu cầu của anh, ông
bố đã trèo lên cắt đứt dây điện của chiếc loa. Chưa đầy ba mươi phút sau nó lại
kêu, hình như còn to hơn. Ông bố anh suýt bị làng bắt bồi thường thiệt hại, sau
xét hai sợi dây điện bị cắt chẳng đáng bao nhiêu, vả lại nối lại được nên thôi.
Nhưng ông bị trưởng thôn khiển trách nặng về những lời thóa mạ chính sách tuyên
truyền của đảng. Ông còn dọa nếu lập lại, sẽ cho mời công an xã.
Nước rút, anh ra ngay Hà Nội, còn tôi thì ở lại, chờ
được nhà nước gọi đi làm.
“Kinh khủng quá! Không kheo tớ chết mất,” anh nói khi
chia tay. Trông anh đáng ngại thật - đôi mắt sâu không có vẻ lờ đờ của người
thiếu ngủ mà ngược lại rất sáng. Sáng một cách bất bình thường và đáng ngờ.
Nhưng tôi vẫn cười:
“Chết thế nào được.”
*
Thế mà anh chết thật.
Vế sống với ông bác ở khu Ba Đình dành cho các quan
chức to không có loa công cộng, mấy tháng sau anh trở lại bình thường. Sau đó
anh được phân về làm việc ở một viện nghiên cứu và sống trong khu tập thể của
viện, nơi chiếc loa cộng cộng là kẻ tra tấn hàng ngày không kém gì ở làng.
Và anh đã phát điên.
Một thời gian sau nữa thì bị một chiếc xe tải cán chết
ở Như Quỳnh, khi anh trốn nhà thương điên đi lang thang như thường lệ.
Nếu được khám và có bác sĩ giỏi khám, chắc người ta sẽ
ghi vào bệnh án của anh: “Viêm đau tâm thần”, như trường hợp của chú bé Jacob.
Còn tôi, có thể cả các bạn, tôi không chết nhưng cũng
bị bệnh vì chiếc loa công cộng khủng khiếp ấy. Tôi căm thù nó, căm thù tận
xương tủy mà chẳng làm gì được. Khi viết những dòng này, nó đang kêu ông ổng
ngoài phố, về đảng vĩ đại, nhân dân anh hùng và về thiên đường cộng sản. May
chỉ mỗi ngày hai lần vào sáng sớm và buổi chiều trước lúc ăn cơm.
Tôi tự chẩn đoán: Mình đang mắc bệnh “viêm đau tinh
thần.”
Tự nhiên nhớ đến Hitler và Goebel, bậc thầy nhồi sọ
của hắn.
Hà Nội, 1. 5. 2012
34. MÙI HOÀNG HÔN
Lái xe từ Hát Lót về Hà Nội, đến Mai Châu, ông ghé
thăm một người bạn.
“Bố cháu xuống Ủy Ban, chập tối mới có nhà ạ”. Một con
bé khoảng mười tuổi, người dài ngoẵng vừa nói, vừa mút mút cây kem nửa xanh nửa
đỏ.
Tức là còn hơn tiếng nữa.
“Bảo bố cháu có bác Hoạt Hà Nội ghé chơi. Bác ấy đang
đi dạo ngoài đồi”.
Ông không “đi dạo”, mà nửa nằm nửa ngồi dưới bóng một
cây to râm mát, lơ đãng đưa mát bao quát cả khoảng không rộng phía dưới. Ở
thành phố chật chội lâu ngày, được buổi thế này ông thấy vui thích, thậm chí
người như mềm ra.
Một chiều trung du điển hình. Nắng nhạt, gió hây hây
và màu xanh rờn của đồi núi. Con đường đất ngoằn ngoèo từ thung lũng đi lên như
vết son đỏ, hai bên có loại bụi rậm gì đó ông không biết tên, hoa trắng và xốp
như những quả bóng bàn. Xa xa phía dưới là một vệt xanh kéo dài, chắc có con
suối và mùa này đang cạn nước.
Treo lửng lơ phía trên là mặt trời hoàng hôn, không đỏ
mà vàng như trái cam mới hái.
Có hai anh chị còn trẻ đi đâu về. Chị ăn bận kiểu
người Thái với bộ váy màu xanh chàm, đầu
che chiếc ô Tàu vải lụa hồng. Chàng thì mặc như người Kinh, có phần hơi nhếch
nhác. Chiếc mũ cối còn mới chẳng ăn nhập tí nào, trông lấc cấc. Rõ ràng hắn
đang tán cô nàng, mà tán theo cách rất dân dã. Chốc chốc hắn vỗ vào mông hay
chạm ngực nàng. Tất nhiên nàng đẩy ra nhưng không kiên quyết lắm. Để làm lành,
hắn ngắt mấy bông hoa bóng bàn, dúi vào tay nàng. Và nàng nhận. Ngang qua chỗ
ông, thấy có người, họ mới chịu nghiêm chỉnh đi đứng bình thường.
Tự nhiên ông mỉm cười một mình.
Sau đó ông thầy một cô bé gánh nước từ dưới suối lên.
Hai chiếc xô nhựa cũng bé xíu như người nó. Chiếc đỏ trước, chiếc xanh sau. Còn
nó ở giữa thì màu đen. Khi nó đến gần, ông phát hiện thêm một màu nữa. Màu hoe
vàng của mái tóc. Không phải nhuộm, tất nhiên, mà do nắng sém.
“Cháu cho ông ngụm nước được không?” Ông lên tiếng
hỏi, dù không khát.
Nó đặt đôi xô xuống đất, mặt lấm tấm mồ hôi.
Thấy ông lúng túng không biết uống bằng cách nào, nó
nói:
“Ông vúc hai tay. Hay úp mặt xuống mà uống cũng được.”
“Nhưng ông sợ làm bẩn nước của cháu.”
Nó lắc đầu:
“Bọn cháu ở nhà toàn uống thế.”
Ông vục mặt xuống chiếc xô màu đỏ. Tưởng không khát,
thế mà ông uống khá nhiều, và uống lâu. Ngon tuyệt. Có cảm giác như ông không
uống nước mà uống một cái gì đấy thật tốt lành, thật sạch sẽ ở thành phố của
ông không có. Cái gì nhỉ? Cái giản dị, chân chất theo bản năng của con người,
kiểu tán gái thì vỗ vào mông, hay uống nước thì vục mặt xuống xô? Cái bản năng
mà cố ý hay vô tình bị ta vùi lấp trong cuộc sống hiện đại tưởng văn minh mà
thực ra cũng chẳng văn minh lắm?
Cuối cùng ông ngẩng mặt, khà một tiếng khoan khoái.
Cái cảm giác thích thú vẫn đầy ắp trên đầu và lưỡi. Cảm giác lâng lâng như khi
người ta bất chợt thấy mình thoát tục, thoát khỏi cuộc sống xã hội ước lệ để
trở về với thiên nhiên và thành một phần của thiên nhiên. Như bằng chứng của sự
thoát tục ấy, ông nghĩ mình đang ngửi thấy mùi của hoàng hôn - nhạn nhạt và
buốn. Cả mùi của mái tóc con bé nữa - khen khét và mặn. Người ta chẳng bảo loài
vật có khướu giác nhạy hơn con người nhiều lần đấy ư?
Con bé có nét mặt xinh và dễ thương. Được rửa ráy sạch
sẽ, không chang nắng hàng ngày và mặc những bộ quần áo xinh đẹp như búp bê, nó
sẽ là một thiên thần. Và ông thầm hình dung từ hai xương vai gầy nhô cao sau
chiếc áo vải đen bạc màu của nó từ từ nhú lên đôi cánh trắng như cánh chim câu.
Ông những muốn ôm ghì lấy nó, nhấc lên cao.
“Cháu phải gánh nước hàng ngày thế này à?” Cuối cùng
ông hỏi.
“Vâng ạ. Mỗi ngày hai lần sáng và chiều. Mỗi lần hai
gánh.”
“Sao một mình cháu phải gánh?”
“Vì bà ngoại cháu mù, không đi được.”
“Còn bố mẹ?”
“Mẹ cháu bị bán sang Trung Quốc đã lâu.”
Ông khựng lại một lúc rồi hỏi tiếp:
“Còn bố?”
“Bố cháu buôn ma túy bị tù. Năm năm rồi.”
Nó nói thản nhiên, thậm chí không thay đổi nét mặt.
Còn ông thì thấy nghèn nghẹn trong cuống họng.
“Vì sao cháu biết?”
“Cả bản nói thế ạ. Và người ta gọi cháu là “con ma
túy”.
“Thế cháu có biết ma túy là gì không?”
“Không,” nó đáp cộc lốc, rồi nhấc gánh nước đi tiếp.
Hai mắt cay cay, ông đứng lặng nhìn theo thiên thần
của mình.
Và buồn, vì không còn ngửi thấy mùi hoàng hôn và mùi
mái tóc khét của nó.
Hà Nội, 3. 5. 2012
35. KHÔNG NƯỚC, KHÔNG TRĂNG
Ni-cô Chiyono học Thiền với thầy Bukko ở
chùa Engaku. Trong một thời gian dài cô chăm chỉ thiền định mà không gặt hái
được kết quả gì.
Một đêm trăng nọ, ni-cô đi lấy nước
trong cái gàu cũ được néo bằng một thanh tre. Thanh tre gãy, chiếc gàu rơi, nước
đổ lênh láng.
Đúng lúc ấy cô giác ngộ, và thấy tâm
thức mình được giải phóng.
Sau đấy ni-cô đã viết một bài thơ thế
này về sự kiện đó:
Tôi cố giữ chiếc gàu nước ấy.
Nhưng thanh tre gãy,
Chiếc gàu rơi.
Không còn nước trong gàu.
Không còn trăng trong nước.
Được một ông bạn già giới thiệu, thời gian gần đây tôi
mê đọc các bài nói chuyện về Thiền của Osho. Câu chuyện trên về sự giác ngộ của
ni-cô Chiyono mở đầu cho cuốn “Bài nói về các câu chuyện Thiền” cùng tên của
ông, “Không nước, không trăng.”
“Không nước, không trăng, cậu hiểu chứ?” ông bạn tôi
sôi nổi nói. “Và ni-cô Chiyono đã giác ngộ, tâm thức được giải phóng đúng vào
cái lúc không nước không trăng ấy...”
“Vì sao?”
“Vì thanh tre mục gãy làm chiếc gàu rơi xuống đất. Gàu
rơi thì nước đổ. Nước đổ thì ánh trăng soi trong đó cũng không còn. Gàu và nước
là lối tư duy dựa vào những gì mắt thấy tai nghe và sờ mó được. Lối tư duy sáo
mòn, cũ kỹ của người đời, của tôi, của ông. Và nó chỉ cho ta thấy cái ảo là ánh
trăng hời hợt trên bề mặt của nó.”
“Nhưng cái trăng soi mặt nước ấy cũng đẹp lắm. Và vô
hại.”
“Đúng. Người ta tưởng thế, và đó mới thực sư là điều
đáng lo ngài. Vì nó mà ni-cô Chiyono chăm chỉ thiền định mãi vẫn không gặt hái
được kết quả gì. Vì nó mà tớ và cậu suốt ngày quẩn quanh than với thở như những
lão già dở hơi. Suốt đời bám lấy cái trăng và nước ấy, mà trăng thì mờ, mà nước
thì đục...”
Câu chuyện của Osho và những lời bạn nói khiến tôi suy
nghĩ rất lung.
Quen nhau từ lâu, tôi đoán ông này đang có chuyện gì
đó bức xúc lắm.
Một tuần sau ông lại đến. Vừa bước vào nhà, ông nói
luôn:
“Cái gàu nước của tớ đổ rồi!”
Tôi chăm chú nhìn ông, chờ nghe tiếp.
“Tớ đã viết đơn xin ra khỏi đảng. Đơn đàng hoàng chứ
không phải lẳng lặng bỏ sinh hoạt như khối đứa bây giờ.”
“Vậy nay không nước, không trăng, cậu có cái gì?”
“Tự do.”
Rồi ông nói thêm:
“Tức là tất cả!”.
Hà Nội, 4. 5. 2012
36. NHỤC
Hay tin, ông
bỏ cả việc đang làm giở ở Sài Gòn, vội vàng bay ra Hà Nội.
Vừa đặt
va-li xuống nền nhà, ông cao giọng hỏi vợ:
“Làm sao mà
người ta trả lễ?”
“Vì con ông
làm công an.”
“Công an thì
sao mà trả lễ?”
“Ông đi mà
hỏi người ta ấy.”
“Nhưng trước
đồng ý, người ta đã biết nó là công an rồi cơ mà?”
“Tôi biết
đâu đấy. Sao ông cáu với tôi?”
“Nhục!”
*
Con trai ông
và con gái gia đình ông giáo phố bên học cùng nhau từ bé rồi yêu nhau và định
lấy nhau. Cả hai đều ngoan, lại môn đăng hộ đối, tưởng chẳng còn gì nữa phải
bàn. Thế mà khi nghe tin con ông vào Học viện công an, gia đình ông giáo có ý
ngãng ra. May hai đứa yêu nhau thực sự nên cuối cùng cũng xuôi xuôi, và tuần trước
họ đã đồng ý cho làm lễ dạm hỏi. Thế mà bây giờ... Trả thì trả, thành phố này
thiếu gì con gái! ông nghĩ. Đành là thế, nhưng ông thấy bị sĩ nhục. Một gia
đình như ông, với một thằng con hiền lành, tử tế như con ông mà bị trả lễ thì
thật nhục. Hàng xóm sẽ khối anh được dịp đơm đặt.
Tối đến, ông
gọi riêng con trai ra một chỗ, hỏi chuyện.
“Lý bảo bố
mẹ cô ấy lần này làm căng, dứt khoát không chịu.” Anh con nói.
“Vì sao?”
Anh ta im
một lúc mới đáp:
“Vì có ai đó
nhìn thấy con hôm công an dẹp vụ cưỡng chế đất ở Cống Bầu.”
“Con ở đấy
thật à?”
“Vâng.”
“Tưởng con
lính văn phòng không phải làm những việc đó...”
“Bây giờ cần
là người ta điều hết.”
“Thế con làm
gì ở đấy?”
Anh con
ngước mắt nhìn bố, vẻ ngạc nhiên:
“Làm những
việc công an phải làm với bọn phản động. Bọn bị các thế lực thù địch kích động
làm loạn...”
Đến lượt ông
bố dướn mắt ngạc nhiên:
“Con có đánh
người ta không? Thậm chí nổ súng?”
“Con thì
không, vì chưa cần.”
“Còn nếu
cần?”
Anh con
không trả lời.
“Hôm dẹp mấy
vụ biểu tình chống Tàu con có tham gia không?
“Có.”
“Có đánh ai
không?”
“Không. Chỉ
xô đẩy. Mà bố hỏi kỹ thế làm gì nhỉ? Đấy là việc của con. Nhiệm vụ của chúng
con là bảo vệ đảng, bảo vệ đất nước, bảo vệ nhân dân.” Anh con thậm chí cao
giọng, là việc xưa nay ông chưa từng thấy, vì nó vốn là đứa hiền và ngoan nhất
nhà.
Rồi anh ta
nói thêm:
“Trước bố đi
bộ đội, cũng để bảo vệ đảng, bảo vệ đất nước và nhân dân như con bây giờ thôi.
Việc bố xưa bố làm. Việc con nay con làm. Thế cả.”
Ông thấy
vương vướng trong cuống họng.
“Không, khác
hẳn. Xưa bố đánh giặc, đánh Mỹ. Nay chúng mày đánh nhân dân. Xưa nhà nước lấy
đất người giàu chia cho người nghèo. Giờ thì ngược lại.”
Ông định nói
thế. Thậm chí định tát và mặt thằng con của mình, nhưng nghĩ thế nào, ông im
lặng bỏ vào phòng mình.
*
Ông nằm
ngửa, mắt nhìn trân trân lên trần nhà.
Vậy là con
ông đã thay đổi. Trong nhà với bố mẹ có thể nó vẫn như xưa, nhưng ra ngoài thì
đã khác. Mà chỉ sau mấy năm học ở trường cảnh sát. Người ta đã dạy cho nó những
gì nhỉ? Chắc các ông thầy ở đấy phải giỏi lắm mới thuyết phục được nó tin mấy
ông bà nông dân chân đất mắt toét và mấy vị trí thức già yêu nước là phản động
để xô đẩy và đánh họ. Hay đạp vào mặt họ. Hay thậm chí có thể bắn họ. Lúc nãy
nó chẳng bảo “chưa cần” đấy thôi.
Láo! Nhục!
Hôm sau, ông
nhẹ nhàng bảo vợ:
“Thôi, bà ạ.
Người ta đã muốn thế thì mình cũng im đi cho xong. Chắc họ phải có lý do của
họ. Nhục cũng phải chịu chứ biết làm thế nào.”
Bà vợ ông
chỉ hiểu chữ “nhục’ theo nghĩa bẽ bàng với hàng xóm chứ không biết ông hàm ý
cái nhục khác còn lớn hơn.
37. CÒN GÌ
NỮA KHÔNG?
Một lần, khi
thuyết pháp ở làng nọ, bỗng có người chạy lại nhổ vào mặt Đức Phật rồi buông
lời thóa mạ.
Các đệ tử
định can ngăn nhưng Ngài giơ tay ra hiệu đừng, rồi ôn tồn hỏi người kia:
“Còn gì nữa
không?”
Câu nói ấy
sau này được nhiều người nhắc lại khi chuyện liên quan đến sự nhẫn nhục. Phật
hỏi “Còn gì nữa không?” vì Ngài nghĩ có thể người ấy còn điều ấm ức chưa nói
hết. Thì để cho anh ta nói hết.
Sừng sờ
trước thái độ nhẫn nhục ấy của Phật, người kia không nói gì thêm, hôm sau đến
cúi rạp trước Ngài xin tha tội. Phật nói:
“Trong một
ngày có nhiều nước chảy qua sông Hằng. Ta không còn là ta của ngày hôm qua. Cả ông cũng vậy. Hôm
qua ông phỉ nhổ, hôm nay ông xin tha lỗi. Cả người nhổ và người bị nhổ đã đổi
khác. Mọi vật cũng đổi khác, chỉ trong một ngày ngắn ngủi. Vậy hãy đứng dậy,
mong ông từ nay chỉ bình tĩnh dùng lời bày tỏ lòng mình.”
Rồi Ngài lại
hỏi:
“Còn gì nữa
không?”
*
Đúng mười
một giờ, giờ lên giường, chuông điện thoại di động kêu. Ông cầm máy.
“Tôi cảnh
cáo ông: Già rồi nên nghỉ ngơi vui vầy với con cháu. Ngứa nghề thì viết thơ trẻ
con như xưa nay vẫn viết. Và thôi đi cái cái trò bài tung bài lên mạng chửi
đảng, chửi chế độ!”
“Dạ, xin hỏi
ông là ai ạ?”
“Không cần
biết.” Im lặng.
“Tôi không
chửi đảng, chửi chế độ. Tôi chỉ nói lên suy nghĩ của mình. Một cách trung thực
và có trách nhiệm. Tôi ký tên thật tất cả các bài mình viết, còn ghi cả địa chỉ
nhà riêng và điện thoại.” Ông đáp, có ý trách người gọi điện không chịu nói
tên.
“Những bài
báo phản động! Ăn phải bã nước ngoài rồi làm phản động, hại dân, hại nước!”
Người kia,
giọng trong và trẻ, còn tuôn ra một thôi những lời buộc tội gay gắt, đôi lúc
tục tĩu và hăm dọa.
Khi thấy anh
ta ngừng, ông nhẹ nhàng nói:
“Tôi vẫn
nghe. Còn gì nữa không?”
Đầu dây bên
kia tắt máy.
Ba hôm sau,
khi ông đăng một bài ngắn trên mang “lề trái”, người kia lại gọi điện, vẫn đúng
mười một giờ đêm, và anh ta nhắc lại gần
toàn bộ những gì đã nói lần trước, nhưng lời lẽ bớt căng thẳng hơn.
Ông vẫn kiên
nhẫn lắng nghe, cuối cùng nhắc lại cái câu nói ấy của Phật:
“Anh còn
muốn nói gì nữa không?”
Đến lần thứ
năm, anh ta chỉ nói:
“Dẫu sao tôi
nghĩ bác nên thôi đi thì hơn. Đỡ phiền cho mình, và cho cả người khác.”
Ông hiểu
“người khác” là anh ta. Anh ta được giao nhiệm vụ này. Rồi ông nhẹ nhàng nói:
“Tôi tôn trọng
anh, và đã lắng nghe những gì anh muốn nói. Giờ anh có muốn nghe tôi không?”
“Bác nói
đi.”
“Thực ra tôi
không nói. Tôi chỉ muốn đọc anh nghe một bài thơ nới về Đức Phật. Anh có vội
không?”
“Không. Bác
đọc đi.”
Và ông đọc
một truyện thơ ông tìm thấy trên mạng cách đây không lâu:
Một ngày nọ, Đức Phật
Đi qua một ngôi làng
Có một người thô lỗ
Sỉ nhục Ngài sỗ sàng.
Anh ta còn trẻ tuổi,
Ăn nói như người điên,
Bảo Ngài cũng ngu dốt
Như người khác, tuy nhiên,
Do rất giỏi lừa phỉnh
Nên người ta tin Ngài.
Tóm lại, toàn nhảm nhí,
Không đáng lọt vào tai.
Đức Phật nghe, bình thản
Trước lời nhục mạ này.
Bất chợt, Ngài khẽ hỏi:
“Xin anh nói tôi hay.
Nếu anh tặng ai đó,
Thí dụ,
chiếc áo dài,
Nhưng người ấy không nhận,
Thì nó là của ai?”
Anh kia hơi bối rối,
Nhìn Đức Phật, và rồi
Liền đáp: “Món quà ấy
Tất nhiên là của tôi!”
Đức Phật cười thân mật:
“Anh nói đúng, vậy thì
Những lời anh vừa nói
Là của anh, nhận đi.
Anh mắng tôi thậm tệ,
Tôi không nhận, làm thinh,
Nghĩa là anh thực sự
Đang mắng bản thân mình.
Ở đời, anh bạn ạ,
Đừng gây ra cho người
Những gì mình không muốn.
Được thế, sẽ tuyệt vời.
Anh thù hận người khác,
Tức là thù hận anh.
Chính anh sẽ đau khổ,
Vì anh làm hại mình.”
“Cảm ơn.”
Anh kia nghe xong nói, rồi tắt máy.
Ông vẫn tiếp
tục viết bài cho các báo mạng “lề trái”. Chỉ nêu vấn đề, phân tích sự kiện với
những lập luận xác đáng và không một từ mang tính thóa mạ, theo đúng phong cách
xưa nay ông vẫn viết.
Người gọi
điện thoại giấu tên không gọi cho ông lần nào nữa.
Mãi gần đây
ông mới nhận được tin nhắn của anh ta với vẻn vẹn ba chữ: “Xin lỗi bác”.
38. BẦY SÂU VÀ QUẢ TÁO THỐI
Hôm
nọ, ông bạn trung tá cùng quê tôi viết trong truyện “Người Việt xấu xí” lại đến
chơi.
Mỗi
lần ông đến là tôi nghĩ chắc có chuyện ông muốn “tâm sự. Ngày nhỏ, ông phịa chuyện
ông bác giấu thóc khiến ông này bị cán bộ cải cách bắn chết. Lại còn dám bảo bố
mẹ bóc lột tá điền, nên bị đánh một trận thừa sống thiếu chết phải trốn biệt,
đến bố chết cũng không dám vác mặt về làng. Chính ông tự nhận mình là “người
Việt xấu xí” nhất, tức là đốn mạt nhất trong số những người Việt đốn mạt.
Khác
mọi lần, hôm nay ông chào tôi bằng tiếng cười hề hề:
“Khá
lắm. Ông chửi được đấy!”
“Tôi không hiểu,” tôi đáp, vẻ dè chừng.
“Tôi chửi? Chửi ai?”
“Còn giả vờ không hiểu! Chửi cái bọn
quan chức cầm quyền đục khoét dân như những con sâu nung núc cỡ bự. Bà Dương
Thu Hương nói thế phải không nhỉ? Ừ đúng, bà ấy nói thế. Còn ông thì kín đáo
hơn nhưng cũng chua cay không kém...”
“Lại càng không hiểu.”
“Thật ư? Đây, không chửi thì là gì?”
Rồi ông lấy ra một tờ giấy, và đọc to
như đọc quân lệnh cho lính:
Đức
Phật bảo đệ tử:
“Hãy
nhìn kia, bầy sâu
Đang
ăn quả táo thối.
Mà
cắn xé, tranh nhau.
Chúng
tưởng chúng hạnh phúc
Ăn
thứ nhơ bẩn này.
Ta,
người thường, thấy chúng
Là
loài đáng thương thay.
Còn
những người giác ngộ
Thì
thấy người vô minh
Như
sâu ăn táo thối,
Rất
hài lòng với mình.”
“Thì
ra là thế,” tôi nói. “Đó là một bài trong tập thơ tôi viết về Phật và Đạo Phật,
350 trang, đang in sắp xong, định ít bữa nữa tặng ông. Nhưng nó chẳng liên quan
gì đến những điều ông nói. Đây thuần túy là bài thơ răn đời của Phật để nhắc
mọi người thoát khỏi chốn u minh...”
“Đúng, nhưng ông mượn nó để chửi chúng.”
“Chửi
thế nào?”
“Lại còn hỏi. Bọn quan cách mạng bây giờ
là bầy sâu tranh nhau ăn táo thối. Còn quả táo thối ấy chính là đất nước ta
hiện nay. Mà chúng sắp ăn hết rồi. Chúng ta sắp toi rồi...”
“Là ông suy diễn vậy.”
“Suy diễn thế nào? Trong bài viết của
mình, “lề phải” hẳn hoi nhé, ông cứ tưng tửng, tưng tửng, không nói thế mà nói
thế, và người ta hiểu thế. Ông thâm và gian lắm. Nhưng chửi là đúng. Cái bọn
sâu ấy thì phải tru di chứ nói gì chửi.”
Chờ ông hạ nhiệt, tôi nói:
“Ông còn lạ gì tôi. Nói hiền cũng được
mà hèn cũng được. Suốt đời tôi có chửi ai đâu. Chửi cái chế độ này như ông nói
lại càng không, vì ông thừa biết tôi được thế này cũng nhờ nó. Thay cho đi
chiến trường tôi được gửi ra nước ngoài học. Sau làm cái nghề văn thơ, dịch
giả. Dịch giả mà ăn thật như có đứa nói. Không ai đánh tôi, tôi chẳng bị oan
khiên gì. Thế thì sao tôi còn chửi? Cái đạo của người tử tế không cho phép vừa
được ăn lại còn được chửi...”
“Nghĩa là ông bênh vực chúng, cái bọn
sâu tham nhũng ấy?”
“Không, ngược lại. Tôi căm ghét chúng
như căm ghét mọi sự xấu xa khác, nhưng...”
“Nhưng sao?”
“Nhưng nói thật, tôi thấy thương hại
chúng, thậm chí nói thương cũng được, nếu ông muốn.”
Ông dướn mắt nhìn tôi ngạc nhiên, nhưng
không nói gì.
“Ông đã bao giờ tự hỏi cái bọn sâu ấy,
trước khi thành sâu chúng là gì chưa? Là người, đúng không? Như tôi, như ông.
Có đứa còn tốt hơn. Vì sao? Vì rơi vào quả táo thối thì chúng phải thành sâu để
ăn nó. Đó là qui luật. Mà khi cả bầy ăn thì một con hay hai con không muốn cũng
phải ăn. Cũng qui luật nốt. Vậy vấn đề ở chỗ là đừng có quả táo thối ấy. Nghĩa
là phải có cái gì đó giữ cho nó không thối. Táo không thối thì không có sâu.
Chắc ông còn nhớ vụ cái Hồng làng ta mấy năm trước. Trước kia trong lớp nó
chẳng hơn đứt chúng tôi à? Lớp trưởng nhé, bí thư chi đoàn, đẹp gái, giỏi văn
nghệ nhé... Rồi sao? Rồi xong đại học nó phấn đấu vào đảng, được đề bạt lên
trưởng phòng, rồi người ta giao cho nó chức giám đốc cái công ty nghệ thuật của
nó. Rồi nó đút tiền để trúng thầu xây dựng tượng đài và phải ăn bớt xi măng và
đồng, ăn bớt nhiều, để bù cho khoản hối lộ ấy và đút túi phần dư thừa. Rồi nó
vào tù. Thế đấy. Nôm na là nó rơi vào quả táo thối, lúc đầu còn là người, hay
nửa người, sau thành sâu như những con sâu khác trong đó. Vậy thì ai đáng trách
hơn, con sâu hay kẻ làm quả táo thối?”
Tôi dừng lại chiêu một ngụm nước, có ý
chờ ông phản bác, nhưng ông vẫn ngồi im.
“Tất nhiên nó cũng có lỗi vì cái thói
thích làm sâu ăn bẩn của nó,” tôi hạ giọng, nói tiếp. “Bắt đầu từ cái việc
“phấn đấu vào đảng” mà thực chất là để có cơ hội ngoi lên làm sâu chứ lý tưởng
gì. Ông quân đội thì một nhẽ, chứ tôi không tham đường quan trường, không vào
đảng nên không có cơ hội thành sâu. Chứ dính vào, ai dám chắc mình sạch được
mãi. Tóm lại, cái chính và là nguyên nhân của mọi vấn đề là cái môi trường ấy.
Phải làm cho nó trong sạch, lúc đầu cố đỡ bẩn, rồi sạch hơn, cuối cùng hoàn
toàn sạch. Nghĩa là phải xóa bỏ cái ấy, cái bây giờ người ta hay gọi là lỗi...
lỗi gì nhỉ?”
“Lỗi hệ thống.”
“Đúng. Lỗi hệ thống. Cơ chế. Và nó chi
phối mọi cái dưới nó...”
Tôi ngồi im, thú thật cũng hơi mệt vì ít
khi nói dài, nói căng thẳng về một vấn đề nghiêm túc như thế.
Cuối cùng ông lên tiếng:
“Vì vậy mà ông yêu lũ sâu đó?”
“Không, chỉ thương hại. Kể ra nếu yêu
được như Phật cũng chẳng sao.”
Rồi tôi nói với ông dạo này do đọc
nhiều, viết nhiều về Phật nên thấm tư tưởng của Ngài, và rằng tôi đang cố yêu
tất cả mọi người, thậm chí cả những chú công an đòi hối lộ vi phạm luật giao
thông. Việc ấy làm tôi bớt căng thẳng.
Ông nghe, không nói gì, chỉ cười. Kiểu
cười mỉa, tôi biết.
“Vậy làm cách nào để xóa cái lỗi hệ
thống, cơ chế đó?”
“Phật nói chỉ tình thương yêu mới chiến
thắng được cái ác,” tôi đáp một cách lấp lửng.
Ông lại cười mỉa. Cười tôi
thơ ngây, tất nhiên, nhưng quả thật tôi nghĩ như thế.
“Phật còn dạy phải biết
kiềm chế sự tức giận của mình, vì nó không mang lại gì ngoài tai họa,” tôi nói
tiếp. “Mà rồi, nghịch lý là ở chỗ chính những con sâu hệ quả của hệ thống, ít
ra những con bự, chứ chẳng phải ai khác, có thể xóa bỏ được cái hệ thống ấy.
Không phải những người đứng ngoài la hét, nguyền rủa. Chúng từng là người, và
khi phải chịu những tác động nội tại hay bên ngoài nào đó, có thể chúng quay
lại thành người. Đừng quên chúng cũng từng như ta hay tốt hơn ta. Cõi người
nhiều tầng nhiều lớp lắm. Lớp ngoài chưa hẳn phản ánh đúng bản chất lớp trong.”
Nụ cười mỉa biến mất trên
môi, ông hỏi tôi với giọng rất nghiêm túc:
“Vậy rốt cục ông viết câu
chuyện ấy của Phật để làm gì?”
“Để chúng ta thấy dưới con
mắt của Ngài, chúng ta đang sống tầm thường thế nào trong sự vô minh của mình.
Thấy để cố gắng thoát ra khỏi nó. Còn hiểu theo cách suy diễn của ông thì ông
đã nói rồi. Tức là cái bọn quan chức sâu mọt đang đục khoét đất nước mà ta phải
lên án, phải làm cho chúng tỉnh lại, với hy vọng có thể một ngày nào đó tự
chúng xóa bỏ cái cơ chế đẻ ra chúng. Và cũng để những người còn u mê nhận diện
bộ mặt thật của chúng hiện nay. Đại khái như vậy.”
“Dạo này tôi thấy ông thay
đổi nhiều lắm,” ông thở dài khi đứng dậy ra về. “Hy vọng theo hướng tốt hơn.”
“Ừ, hy vọng thế,” tôi đáp.
*
Ba ngày sau ông gọi điện
nhắc tôi tặng ông một cuốn thơ Phật. Sau đó, như sực nhớ điều gì, ông nói thêm:
“Mà hôm nào tôi và ông vào Trại giam
Thanh Hóa thăm cái Hồng xem nó thế nào.”
BẦY SÂU VÀ
QUẢ TÁO THỐI
Lúc ấy đã xế chiều.
Hai ông già, một gầy một béo, ghé vào quán nước để nói
chuyện “nhân tình thế thái”, tức là chuyện chính trị.
Dạo này đâu người ta cũng thấy các ông già nói chuyện
chính trị. Mà nói to, không thèm thậm thụt như trước.
Ông gầy lấy ra một tờ giấy, thích thú đặt nó lên bàn
rồi nói:
“Ông đọc đi.”
BẦY SÂU VÀ QUẢ TÁO THỐI
Đức Phật bảo đệ tử:
“Hãy
nhìn kia, bầy sâu
Đang
ăn quả táo thối.
Mà
cắn xé, tranh nhau.
Chúng
tưởng chúng hạnh phúc
Ăn
thứ nhơ bẩn này.
Ta,
người thường, thấy chúng
Là
loài đáng thương thay.
Còn
những người giác ngộ
Thì
thấy người vô minh
Như
sâu ăn táo thối,
Rất
hài lòng với mình.”
Ông
béo đọc xong, ngước lên hỏi:
“Thì sao?”
“Thì nó nói đúng phóc chứ sao?”
“Nói gì?”
Ông gầy không trả lời thẳng vào câu hỏi
của bạn:
“Đây là bài thơ trên một tờ báo chính
thống. Để bàn về cái nhân, cái đức, cái gì gì đấy của Phật. Không quan trọng.
Quan trọng là nó nói đúng thực trạng của ta hiện nay. Tôi biết lão tác giả này.
Lão thâm lắm. Là ông quan văn ăn lương nhà nước nên lão phải mượn cổ nói kim,
mượn người nói ta. Cũng phải thông cảm cho lão.”
Ông béo gật gù:
“Đúng là bọn quan tham nhũng đang đục
khoét đất nước như bầy sâu tranh nhau ăn quả áo thối. Vấn đề ở chỗ là có quả
táo thối trước để sâu đến ăn hay ngược lại, vì sâu ăn mà quả táo thành thối.
Táo chín, tự rơi xuống đất cũng có thể thành thối.”
“Thế ông nghĩ sao?”
“Ở một nước bình thường thì đa phần táo
rụng mà thối. Còn nước ta thì do sâu ăn.”
Ông gầy thở dài:
“Mà bọn chúng tranh nhau ăn kinh lắm.
Sắp hết quả táo rồi. Đất nước ta sắp toi rồi.”
Ông béo cũng thở dài theo.
Im lặng một lúc, ông gầy lại nói:
“Tôi đọc kỹ bài thơ, thấy Phật nói đúng.
Cứ như Ngài đang nói về ta ấy.”
Ông béo cầm tờ giấy đọc lần nữa, rồi
hỏi:
“Ông có thương hại chúng không?”
“Không. Chỉ Phật mới có thể yêu hết mọi
người. Với Ngài, không có người xấu, chỉ có người tốt và chưa tốt. Tôi thì tôi
nghĩ phải giết chúng. Giết hết!”
“Thời buổi sâu nhiều người ít, giết thế
nào xuể.”
“Thì phải làm sao cho người nhiều sâu
ít.”
“Làm cách nào?”
“Phật chẳng đã nhắc đến hai chữ “giác
ngộ” đó sao? Không ít người thậm chí giờ còn chưa nhận thấy chúng là sâu. Phải
làm cho họ “giác ngộ để thấy bộ mặt thật của chúng.”
“Đành thế, nhưng khó.”
“Ừ, khó.”
Rồi cả hai ông gãi tai, gần như cùng một
lúc.
Bất chợt, ông béo nói, giọng hồ hởi:
“Tôi nghĩ lại rồi. Về việc sâu trước hay
táo thối trước ấy mà, tôi cho rằng ở ta nhất định phải do táo thối trước. Ý tôi
muốn nói tới môi trường xã hội, hay cơ chế, hệ thống gì đó như bây giờ người ta
hay nói. Nó bị lỗi, bị thối nên mới đẻ ra lắm sâu thế. Những con sâu vốn dĩ
cũng là người bình thường như ta, có con còn tốt hơn. Thế mà thành sâu. Sâu
cũng ba bảy loại. Loại sâu hoàn toàn, loại nửa người nửa sâu hay sâu một phần,
người ba phần. Nhưng chung qui vẫn là sâu, vì trong một quả táo đã thối thì
không thành sâu cũng khó. Hoặc cái miệng ăn, cái tay vơ là sâu, còn cái đầu,
cái tâm thức vẫn sót lại đôi chút chất người...”
Đến lượt ông gầy hồ hởi:
“Bác nói thế làm tôi chợt nảy ý này. Có
thể làm cho người nhiều sâu ít bằng cách khơi gợi, khuyến khích, hoặc nếu được
thì bắt sâu trở lại làm người, nhất là những con sâu bự. Từ người thành sâu
được thì cũng có thể từ sâu lại thành người được chứ sao.”
“Miễn là có điều kiện cần và đủ,” ông
béo chêm vào.
“Đúng. Bài thơ này về lời Phật dạy cũng
góp phần tạo nên điều kiện ấy. Và rồi chính những con sâu quay lại làm người ấy
sẽ tự mình chữa cái “lỗi hệ thống” kia,
và làm cho quả táo không thối nữa. Đừng quên trước khi thành sâu chúng cũng
từng là người, và trong chừng mực nào đó, chúng cũng là nạn nhân của cái “ hệ
thống” được áp đặt từ trước.”
“Ông nói cứ ngon ơ. Chúng không dễ gì
muốn trở lại thành người đâu.”
“Có thể. Nhưng hiện giờ tôi nghĩ đó là
điều khả thi hơn cả, nếu không muốn nói duy nhất.”
Khi đứng dậy ra về, ông béo nói một câu
không ăn nhập mấy với những điều vừa tranh luận:
“Giá bây giờ có Phật sống lại nhỉ?”
Hà
Nội, 30. 4. 2012
39. MẶT NẠ -
2
Hôm ấy trời
mưa lất phất.
Khách đến
vào lúc nửa đêm. Hắn không gõ mà đấm mạnh vào cửa ba lần, như một ám hiệu.
Chủ nhà, một
lão loắt choắt khoảng năm mươi, vội vã chạy ra.
“Đại ca mới
về ạ.”
Khách không
đáp, khinh khỉnh bước vào rồi vứt chiếc túi vải cáu bẩn xuống ghế.
“Một chai gì
đấy thật mạnh. Loại to.”
Hắn ném mình
xuống chiếc xô-pha mềm, tựa đầu lên thành ghế.
Mặt hắn sần
sùi, đen xạm và đông cứng như miếng thịt trâu vừa lấy từ tủ đá ra, với những
chấm nước li ti trên đó. Thoạt nhìn, người ta nghĩ hắn mới ba mươi, mà cũng có
thể đã sáu mươi. Một khuôn mặt vô hồn và dữ dằn. Một chiếc mặt nạ.
Tu một hơi
gần hết cả chai rượu lớn, hắn quát:
“Dìu tao vào
ngủ.”
Lão chủ
ngoan ngoãn làm theo. Lão sợ hắn. Quá sợ. Từ nãy đến giờ lão nhẫn nhục đứng
cạnh chờ lệnh.
Xong, lão
nhẹ nhàng khép cửa rồi quay ra, ngồi xuống ghế, thừ mặt.
Khách vốn là
cậu chủ trước đây của lão. Con nhà giàu, gia giáo. Một hôm, cãi nhau gì đó với
bố, hắn bỏ đi làm giang hồ đâu đó tận miền ngược. Sau hắn mang lão đi cùng, mua
ngôi nhà ở thành phố bắt lão trông, và chỉ thỉnh thoảng mới về.
Lão không
biết hắn làm gì và ở đâu. Nhưng luôn có nhiều tiền, tính tình hay thay đổi và
ngày càng khắc nghiệt. Không thể tin nổi trước hắn từng là một cậu học sinh
ngoan ngoãn, thông thạo tiếng Pháp và biết chơi đàn piano.
Nửa giờ sau,
lão bê chiếc chăn mỏng, rón rén đẩy cửa vào phòng chủ vì trời đang rét.
Bất chợt,
chiếc chăn tuột khỏi tay. Lão đứng há hốc mồm vì kinh ngạc.
Cậu chủ lão
đang ngủ say bên mép giường, một chân thõng xuống đất. Lăn lóc dưới đất là mấy
các mặt nạ. Lão đếm, năm. Cùng cỡ nhưng khác màu và khác cả vẻ diễn đạt. Có lẽ
chất liệu cũng khác. Cái thì dữ dằn độc ác. Cái lãnh đạm khinh khi. Cái lõi
đời, sắc sảo. Một cái bình thường với hai nốt ruồi lớn bên mũi. Cuối cùng là
một cái màu hồng. Mỏng và nhẹ hơn. Đó là khuôn mặt một đứa trẻ, hồn nhiên và
thơ ngây. Cậu chủ của lão ngày còn bé.
Còn giờ thì
hắn nằm trên giường, mặt ngửa lên trần. Không phải mặt, mà là một tấm thịt dẹt
và nhẵn thín, với ba bốn vết tròn mờ mờ là mắt, mũi và miệng.
Định thần
trở lại, lão rón rén nhặt chiếc mặt nạ trẻ con, ốp lên mặt hắn.
Rồi lặng lẽ
đi ra.
Hà Nội 25. 2. 2013
Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple@gmail.com)
ReplyDelete