LỜI NÓI ĐẦU
Assalaamu Alaikum
Tôn giáo nào cũng tốt,
Vì hướng thiện, hướng lành.
Cả Đạo Hồi, Đạo Phật,
Đạo Thiên Chúa, Tin Lành.
Tôn giáo là nền tảng
Của đạo đức ở đời.
Mục đích của tôn giáo
Là giúp người, yêu người;
Giúp kiềm chế cái ác,
Phát huy lòng vị tha;
Giúp xã hội ổn định
Và phát triển hài hòa.
Tôn giáo và tín ngưỡng
Cũng cần như thức ăn.
Trong gian nguy, thử thách
Là chỗ dựa tinh thần.
Tôi là một phật tử,
Suốt đời theo Thích Ca,
Nhưng yêu mến Thiên Chúa,
Yêu mến Đức A-la.
Làng tôi nửa theo Chúa,
Nửa theo Phật, từ lâu
Sống yên vui, hòa thuận,
Vì biết tôn trọng nhau.
Tôi đã tới Đất Thánh,
Thành Giê-ru-sa-lem,
Thầy tín đồ khác đạo
Sống như người anh em.
Ở các nước Hồi Giáo
Tôi có dịp đến thăm,
Người dân rất hiếu khách,
Thân thiện và có tâm.
Tôn giáo nào cũng tốt,
Vì hướng thiện, hướng lành.
Cả Đạo Hồi, Đạo Phật,
Đạo Thiên Chúa, Tin Lành.
Chỉ có những kẻ ác,
Với ý đồ xấu xa,
Lợi dụng các tôn giáo
Để gieo rắc bất hòa.
Họ, thực ra là kẻ,
Cố tình hay vô tình,
Đang làm xấu hình ảnh
Và bản chất Đạo mình.
*
Dẫu là người ngoại đạo,
Tôi thích đọc Cô-ran,
Như tác phẩm văn học,
Đọc cả nhiều lời bàn.
Một cuốn sách vĩ đại,
Không chỉ toàn giáo điều,
Mà có rất nhiều chuyện
Dạy về tình thương yêu.
Tập thơ này bé nhỏ
Gồm nhiều câu chuyện hay
Rút từ cuốn kinh ấy
Và các chuyện sau này.
Hy vọng các bạn trẻ
Học hỏi được nhiều điều
Đức A-la đã dạy
Về tình thương, tình yêu.
Học và thêm hiểu biết
Về các Đạo ở đời.
Vì chỉ sự hiểu biết
Mới làm cho con người
Sống yên vui, hòa thuận,
Tôn trọng, giúp đỡ nhau.
Không thù hằn tôn giáo,
Không hiểu lầm, gây đau.
Cũng nhằm mục đích ấy,
Tôi viết trong sách này
Giáo lý và lịch sử
Của Đạo Hồi xưa, nay.
Vậy mời các bạn đọc
Qua lời thơ nôm na
Để nhận lời chúc phúc
Từ Đức Thánh A-la.
Thái Bá Tân
_____________
Phần Một - KHÁI QUÁT
KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO HỒI
Đạo Hồi, trên thế giới
Thường gọi là Islam,
Nhưng trở thành Hồi Giáo
Khi nhập vào Việt Nam.
Số là ở Trung Quốc
Những người theo Đạo này
Thuộc bộ lạc Hồi Hột,
Vùng Tân Cương ngày nay.
Trung Quốc gọi Hồi Giáo,
Ta gọi theo, và rồi,
Bất chấp tên quốc tế,
Nó trở thành Đạo Hồi.
Islam tiếng Ả Rập
Có nghĩa là suốt đời
Quy phục và phụng sự
Đức Tối Thượng trên trời.
*
Đầu thế kỷ thứ bảy
Đạo Hồi đã ra đời
Ở bán đảo Ả Rập
Đất rộng và thưa người.
Đạo Hồi là Đạo lớn,
Một phẩy ba tỉ người,
Thứ hai trên thế giới,
Có mặt ở nhiều nơi.
Các tín đồ Hồi Giáo
Chỉ tôn thờ một thần
Là A-la Tối Thượng.
Thánh Kinh là Cô-ran.
Thiên sứ Mu-ha-mat
Vâng mệnh Đức A-la
Thành lập và truyền bá
Đạo mới khắp gần xa.
Như mọi tôn giáo khác,
Khi vừa mới ra đời,
Đạo Hồi bị chống đối
Bởi xã hội đương thời.
Tiên Tri Mu-ha-mat
Từ thành Mê-đi-na,
Sau tám năm chiến đấu,
Đã chiếm được Mê-ca.
Ngài cùng các chiến hữu
Bám trụ ở thành này,
Biến nó thành Thánh Địa,
Rồi dần dần, từ đây
Mở nhiều cuộc Thánh Chiến
Sang các nước lân bang,
Qui nạp tín đồ mới
Từ những người đầu hàng.
Đến thế kỷ mười một,
Hồi Giáo đã trở thành
Một tôn giáo quốc tế
Và phát triển rất nhanh.
Các tín đồ có mặt
Ở cả vùng Phi Châu,
Ba Tư, Địa Trung Hải,
Một số nước Châu Âu.
Ba thế kỷ sau đó
Đạo lan xuống phía Nam,
Nhiều nước Đông Nam Á,
Trong đấy có Việt Nam.
ĐẠO HỒI Ở VIỆT NAM
Theo Tống sử Trung Quốc,
Vào thế kỷ thứ mười,
Người Chăm ở Trung Bộ
Khi giết trâu tế trời,
Đã làm lễ cầu nguyện
Đức Thượng Đế A-la.
Tức Đạo Hồi có mặt
Ở Vương Quốc Chăm Pa.
Các nhà buôn Ả Rập
Mang Đạo Hồi đến đây,
Nhưng người dân bản xứ
Chưa muốn chấp nhận ngay.
Năm trăm năm sau đó,
Sau Một Bốn Bảy Mươi,
Nhiều người Chăm lưu tán
Và phân bổ khắp nơi.
Họ tới một số nước
Theo Hồi Giáo bấy giờ,
Như Vương Quốc Căm Bốt,
Mã Lai và In-đô.
Tiếp thu tôn giáo mới,
Họ quay về, và rồi,
Bỏ Ấn Giáo, đạo cũ,
Để truyền bá Đạo Hồi.
Đạo này chịu ảnh hưởng
Của Đạo Bà La Môn,
Thành một dạng đặc biệt,
Phát triển và lưu tồn.
Qua rất nhiều thử thách,
Tồn tại và thích nghi,
Đạo Hồi Nam
Trung bộ
Thành Đạo Hồi Bà-ni.
Tướng Nguyễn, Trương Minh Giảng
Năm Một Tám Bốn Mươi
Rời bỏ đất Chân Lạp,
Kéo theo rất nhiều người
Vốn đã theo Hồi Giáo,
Đến thượng nguồn sông Tiền,
Thuộc An Giang, Châu Đốc,
Thành một cộng đồng riêng.
Cộng đồng này phát triển,
Bám trụ ở Việt Nam
Thành một vùng Hồi Giáo
Là Đạo Hồi Islam.
Đầu thế kỷ mười chín,
Vùng Gia Định, Sài Gòn,
Nhờ khai thông bến cảng,
Mở cửa đón nhà buôn.
Nhiều người trong số họ
Từ thế giới Đạo Hồi,
Như Ả Rập, Ấn Độ,
Hay Mã Lai, và rồi
Họ an cư lạc nghiệp,
Xây nhà thờ nơi này,
Thành một cộng đồng nhỏ
Theo Đạo Hồi ở đây.
Hiện nay trên toàn quốc
Các tín đồ Đạo Hồi
Sống rải rác, tổng cộng
Bảy mươi lăm nghìn người.
Khi chiến tranh kết thúc,
Tức vào năm bảy lăm,
Bỏ sang Mã Lai sống
Bảy lăm nghìn người Chăm.
Mười tám nghìn người khác,
Cũng tín đồ Bà-ni
Sang Yemen
tị nạn,
Định cư ở Ta-iz.
Họ, tín đồ Hồi Giáo
Người Việt ở nước ngoài,
Được người dân bản địa
Kính trọng vì đức, tài.
Cả nước đang hoạt động
Bảy mươi chín thánh đường,
Phục vụ nghi lễ lớn
Và tụng niệm ngày thường.
Như tín đồ Đạo khác,
Các tín đồ Đạo Hồi
Được tự do tín ngưỡng,
Sống đẹp Đạo, tốt Đời.
KINH
CÔ-RAN
Kinh
Cô-ran Hồi Giáo
Dài
hơn sáu nghìn câu,
Gồm
ba mươi phần lớn,
Không
kể phần nói đầu.
Là
Thánh Thư Tuyệt Đối,
Một
trăm mười bốn chương,
Viết
bằng tiếng Ả Rập,
Thứ
ngôn ngữ bình thường,
Kinh
Cô-ran tập hợp
Lời
dạy của A-la,
Tiên
Tri Mu-ha-mat
Lĩnh
hội và chép ra.
Hăm
hai năm liên tục
Ngài
đã làm việc này
Khi
Ngài vào hang núi
Để
tụng niệm đêm ngày.
Các
tín đồ Hồi Giáo
Coi
Thánh Kinh của mình
Là
cuốn sách vĩ đại,
Toàn
chân lý thông minh.
Kinh
Cô-ran không chỉ
Gồm
giáo lý răn đời,
Mà
còn là bộ luật
Cư
xử người với người.
Có
nhiều chương, nhiều đoạn
Dạy
về cách làm ăn,
Các
quan hệ giao tiếp,
Vệ
sinh và hôn nhân.
Còn
có các qui định
Về
đạo đức, tình thương,
Về
tội ác, hình phạt
Và
sinh hoạt đời thường.
Kinh
Cô-ran Hồi Giáo
Lời
của Đức A-la.
Đồng
thời là cơ sở
Của
Luật Sha-ri-a.
LUẬT
SHA-RI-A
Sha-ri-a
có nghĩa
Là
Đạo, là Con Đường,
Là
bộ Luật Cơ Bản
Áp
dụng trong đời thường.
Bộ
luật này qui định
Nhiều
điều cấm khắt khe
Mà
nếu ai vi phạm
Sẽ
bị phạt nặng nề.
Các
quốc gia Hồi Giáo,
Cả
xưa cũng như nay,
Có
khác nhau khi hiểu
Và
thực hiện luật này.
Xin
sơ bộ tóm lược
Một
số điều như sau
Áp
dụng cho phụ nữ
Và
cho đấng mày râu.
VỚI ĐÀN ÔNG
Một,
tụng kinh thành kính
Đúng
năm lần mỗi ngày.
Thực
hiện các qui định
Về
tháng Lễ Ăn Chay.
Hai,
tuy không bắt buộc,
Đàn
ông để râu cằm.
Ba,
đọc Kinh chăm chỉ,
Toàn
ý và toàn tâm.
Bốn,
trừ bọn phá Đạo,
Không
được phép giết người.
Năm,
khi nghe múa, nhạc,
Không
nhảy nhót, vui cười.
Sáu,
bị ném đá chết
Nếu
mắc tội dâm tà.
Tội
ngoại tình bị đánh
Đúng
một trăm roi da.
Bảy,
nghiêm cấm đánh vợ.
Trường
hợp vợ quá hư,
Thì
lựa lời khuyên bảo
Với
thái độ nhân từ.
Tám,
không được ăn cắp.
Nếu
ăn cắp tay nào,
Sẽ
bị chặt tay ấy,
Chặt
thấp hoặc chặt cao.
Chín,
nghiêm cấm uống rượu
Hoặc
các chất có men.
Mười,
vào ngày cưới vợ,
Phải
nộp một khoản tiền.
Khi
không thể chung sống,
Phải
nhẹ nhàng chia tay.
Nếu
được vợ đồng ý,
Chồng
giữ khoản tiền này.
Mười,
không ăn thịt lợn,
Cũng
như thịt chó mèo,
Là
giống ăn đồ bẩn
Và
các thứ ôi thiu.
VỚI PHỤ NỮ
Một,
ra đường nhất thiết
Phải
có người đi cùng.
Người
đó là nam giới,
Đằng
mình hoặc đằng chồng.
Hai,
đeo khăn Hijab,
Trùm
đầu, bịt kín tai,
Để
tránh sự thô lỗ
Cái
nhìn của người ngoài.
Ba,
tụng kinh đều đặn
Đúng
mỗi ngày năm lần.
Không
tụng cùng nam giới,
Kể
cả với người thân.
Bốn,
khi chồng nói đúng,
Tuyệt
đối phải nghe chồng.
Năm
không được nhìn thẳng
Vào
mắt người đàn ông.
Sáu,
bị ném đá chết
Nếu
mắc tội dâm tà.
Tội
ngoại tình bị đánh
Đúng
một trăm roi da.
Bảy,
lấy chồng cùng đạo.
Tám,
không tô móng tay,
Cười
to nơi công cộng,
Đeo
trang sức hàng ngày.
Chín,
trẻ con nam nữ
Không
được ngồi chung bàn,
Không
được học chung lớp
Và
không chơi cùng sân.
Mười,
khi chồng đi vắng,
Phụ
nữ làm việc nhà,
Chăm
con, lo nội trợ
Và
cầu Đức A-la.
MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA ĐẠO HỒI
Giống như đạo Thiên Chúa,
Đạo Hồi, theo Cô-ran,
Cũng qui định rất rõ
Cụ thể mười điều răn.
Một, chỉ thờ một chúa,
Tức là Đức A-la.
Hai, tôn trọng người khác.
Ba, yêu quí mẹ cha.
Bốn, rộng lòng bố thí.
Năm, nghiêm cấm giết người.
Sáu, nhún nhường, khiêm tốn.
Bảy, nuôi trẻ mồ côi.
Tám, giữ gìn tình cảm
Trong sạch và tốt lành.
Chín, cư xử bình đẳng
Mười, không được ngoại tình.
Tuy nhiên, có ngoại lệ
Với điều năm - giết người:
Có thể giết kẻ ác
Để trừ hại cho đời.
Hoặc trong khi chiến đấu
Chống kẻ phá Đạo mình,
Nhưng đối xử nhân đạo
Và tha cho tù binh.
MƯỜI ĐIỀU LUẬT ĐỐI VỚI TÍN ĐỒ HỒI GIÁO
Một, bắt buộc cầu nguyện
Ngày năm lần hoặc hơn:
Vào lúc mặt trời mọc,
Trưa, xế chiều, hoàng hôn.
Cuối cùng là buổi tối.
Phải cầu nguyện chân thành,
Toàn tâm và toàn ý,
Để được ban phúc lành.
Hai, trong đời ít nhất
Một lần đến Mê-ca
Để hành hương, tay chạm
Vào hòn đá Ka-ba.
Ba, không ăn thịt lợn,
Đơn giản vì giống này
Bẩn thỉu và ô tạp,
Rúc trong phân suốt ngày.
Bốn, không ăn thịt chó,
Thịt chuột và thịt mèo,
Vì chúng ăn thịt sống,
Và những thứ hôi thiu.
Năm, nghiêm cấm uống rượu
Và các chất có men.
Sáu, nghiêm cấm cờ bạc,
Cùng các trò đỏ đen.
Bảy, cấm chuyện tình dục
Giữ đàn ông, đàn bà
Trước khi có lễ cưới.
Cấm cả việc dâm tà.
Tám, tín đồ Hồi giáo
Chỉ ăn thịt ha-lan,
Tức thịt đã giết mổ
Đúng như Kinh Cô-ran.
Chín, nghiêm cấm kỳ thị
Tôn giáo và màu da,
Vì đó là công việc
Của Đức Thánh A-la.
Mười, mỗi năm một tháng,
Gọi là Ra-ma-dan,
Phải ăn chay, để nhớ
Người nghèo khổ, bần hàn.
Tháng này, theo quí định,
Khi còn ánh mặt trời,
Không ai được ăn uống
Hoặc ca hát, vui chơi.
Chờ khi mặt trời lặn,
Muốn ăn mới được ăn.
Luật này cũng áp dụng
Cả với chuyện ái ân.
Tuy nhiên, có ngoại lệ
Với bà chửa, trẻ em.
Họ có thể ăn uống
Mà không chờ đến đêm.
SU-NI VÀ SHI-A
Hồi Giáo có hai nhánh,
Su-ni và Shi-a.
Dù cùng chung một gốc,
Nhưng thường hay bất hòa.
Sự bất hòa không phải
Ở tôn giáo, tinh thần,
Mà toan tính chính trị,
Sau thành nghiêm trọng dần.
Nguồn gốc chia rẽ ấy
Đã nẩy sinh từ ngày
Đức Mu-ha-mat chết
Và ai sẽ lên thay.
Một trong những chiến hữu
Thân cận nhất của Ngài,
Abu Bakr được chọn,
Thành Caliph 1) thứ hai.
Người chọn ông tự nhận
Là tín đồ Su-ni,
Nghĩa là theo truyền thống
Mu-ha-mat tiên tri.
Nhưng nhiều tín đồ khác
Lại chọn con rể Ngài,
Ali bin Abu Talib
Thành Caliph thứ hai.
Shi-a, tên đầy đủ
Là “Shia-t-Ali”
Tức Nhóm người ủng hộ
Con rể Đức Tiên Tri.
Vậy là một tôn giáo,
Hai lãnh tụ tinh thần.
Và cái hố ngăn cách,
Rất tiếc, cứ lớn dần.
Hiện nay trên thế giới,
Số tín đồ Đạo Hồi
Dòng Su-ni vượt trội,
Khoảng hơn tám phần mười.
Dòng Shi-a chủ yếu
Ở I-rắc, I-ran.
Cả hai dòng, tuy vậy
Vẫn dùng chung Cô-ran.
Chỉ khác nhau chút ít
Về đời sống tâm linh,
Các cách thức hành lễ,
Và lãnh tụ của mình.
Phần vì chiếm đa số,
Các tín đồ Su-ni
Tự nhận mình chính thống,
Theo truyền thống tiên tri.
Họ phân biệt đối xử
Với tín đồ Shi-a,
Ngăn không cho tham dự
Vào đại sự quốc gia.
Tiếc là cùng một Đạo,
Mà xưa nay hai dòng
Có nhiều cuộc xung đột
Đẫm máu và đau lòng.
1. Vua,
cũng là giáo chủ, lãnh tụ tôn giáo cao nhất của một nước thời ấy.
TIÊN TRI MU-HA-MAT
1
Tiên tri Mu-ham-mat
Có gốc gác, tổ tiên
Rất lâu đời, từ thuở
Tiên tri Is-ma-en.
Is-ma-en, ta biết
Là con Ap-ra-ham -
Ông tổ ba đạo lớn:
Đạo Ki-tô, Is-lam
Và đạo cổ Do Thái.
Có nghĩa là chúng ta,
Người của cả ba đạo
Cùng anh em một nhà.
Ngài sinh ngày mười bảy,
Tháng Ra-bi đẹp trời
Ở Mêc-ca, thánh địa,
Năm năm trăm bảy mươi.
Bố Ngài là thủ lĩnh
Một dòng họ vẻ vang.
Đông đúc và hùng mạnh,
Có nhiều trang sử vàng.
Ngài bắt đầu giảng đạo
Vào năm sáu trăm mười,
Hăm hai năm liên tục,
Khi nhận được ý Trời.
Ngài ốm nặng, rồi chết
Để lại nỗi thương đau,
Vào ngày thứ hăm tám,
Tháng Sa-pha buồn rầu.
2
Còn nằm trong bụng mẹ,
Ngài đã mồ côi cha,
Để lại cô hầu gái
Và năm con lạc đà.
Lên bảy, mẹ Ngài chết,
Ông nội, rồi bác Ngài
Nhận Ngài về nuôi dưỡng,
Thương yêu như con trai.
Lớn lên, Mu-ha-mat
Rất khôi ngô, thông minh,
Trung thực và nhã nhặn,
Biết người và biết mình.
Được yêu mến, kính trọng
Trong con mắt mọi người,
Ngài sẽ là thiên sứ
Truyền đạt ý Chúa Trời
Ngài thường hay theo bác
Sang các nước láng giềng,
Hiểu biết thêm cuộc sống,
Các nghi lễ linh thiêng.
Khi trở thành người lớn,
Ngài là một thương gia
Buôn hàng giữa Đa-mat
Và thành phố Mec-ca.
Thời gian này Ngài gặp
Và yêu Kha-đi-gia,
Một nhà buôn giàu có,
Cũng là một quí bà.
Lúc Ngài hai mươi tuổi,
Kha-li-gia - bốn mươi,
Họ thành hôn, sau đó
Sống hạnh phúc suốt đời.
Ba con trai của họ
Đều mất sớm, trong nhà
Chỉ có cô con gái,
Tên là Fa-ti-ma.
A-li ibn Ta-lib
Là chồng Fa-ti-ma,
Một con người kiệt xuất,
Thông minh và tài ba.
A-li đã khởi xướng,
Sau cái chết của Ngài,
Một giáo phái quan trọng,
Nay gọi là Shi-ai.
3
Tiên tri Mu-ha-mat
Dành rất nhiều thời gian
Để tụng kinh, thờ cúng,
Cả khi bận, khi nhàn.
Ngài hay làm điều ấy
Ở hang núi Hi-ra,
Một nơi rất yên tĩnh,
Không xa thành Mec-ca.
Tiên tri Mu-ha-mat
Lần đầu lãnh ý Trời
Khi Ngài bốn mươi tuổi,
Vào năm sáu trăm mười.
Đức A-la cao cả
Giao cho Ngài từ nay
Truyền đạo Hồi tốt đẹp
Khắp cả trái đất này.
Đó là một đạo mới,
Chỉ thờ Thánh A-la,
Duy nhất chỉ mình Thánh.
Đạo dành cho mọi nhà.
Như với các Đạo khác,
Việc truyền Đạo lúc đầu
Gặp khá nhiều trắc trở,
Thậm chí cả buồn đau.
Nhưng nhờ Ngài thuyết giảng,
Nhờ A-la lòng lành,
Số người theo Đạo mới
Đã không ngừng tăng nhanh.
Ở Mêc-ca thời ấy
Người ta thờ Đa Thần.
Các bộ lạc cai trị
Sợ Đạo Ngài lớn dần
Sẽ làm lu mờ họ,
Nên họ gây phiền hà,
Thậm chí còn truy bức
Các tín đồ A-la.
Bản thân Mu-ha-mat
Cũng suýt chết nhiều lần,
Thoát được, nhờ ông bác
Và một số bạn thân.
Cuối cùng, để tồn tại,
Ngài rời khỏi Mec-ca,
Cùng tín đồ Đạo mới,
Đến thành Mê-đi-na.
4
Và ngày Ngài đến đấy,
Năm sáu trăm hăm hai
Đánh dấu lịch Hồi Giáo,
Cứ thế mãi kéo dài.
Cũng ở đấy, Ngài soạn
“Hiến pháp Mê-đi-na”,
Tập hợp các bộ lạc,
Quyết đánh thành Mêc-ca.
Khoảng tám năm sau đó
Các tín đồ đạo Hồi,
Lúc ấy hơn một vạn,
Chiếm Mêc-ca, và rồi
Ngài ra lệnh phá hết
Các miếu đền Đa Thần
Cùng các vật thờ cúng,
Ở xa cũng như gần.
Nhưng mấy tháng sau đó,
Năm sáu trăm ba hai,
Ngài ốm nặng, rồi mất.
Tất cả tiếc thương Ngài.
Cả bán đảo Xê-út
Đã chuyển sang Đạo Hồi
Vào thời điểm Ngài chết.
Cầu mong Ngài thảnh thơi!
KHA-ĐI-GIA
Có một người giàu có
Làm nghề buôn bán xa
Thời ấy ở Ả Rập,
Là bà Kha-đi-gia.
Bà đã bốn mươi tuổi,
Góa chồng, có hai con,
Đang cần một người trẻ
Để giúp bà đi buôn.
Chàng trai Mu-ha-mat
Dẫn nhiều đàn lạc đà
Chở hàng đến Đa-mát
Để buôn bán thay bà.
Tận tụy và trung thực,
Chàng hóa ra là người
Có năng khiếu đặc biệt,
Buôn chuyến nào cũng lời.
Cảm phục tài năng ấy,
Cả tư chất, tính tình,
Bà chủ động đề nghị
Chàng trai làm chồng mình.
Dù có chênh lệch tuổi,
Chính xác là hai mươi,
Hai gia đình đồng ý
Làm lễ cho hai người.
Chính A-bu Ta-lib
Dàn xếp hôn nhân này,
Theo đúng truyền thống cổ
Được tôn trọng xưa nay.
Cưới xong, Mu-ha-mát
Dọn đến ở cùng bà,
Rồi sinh một bé gái,
Tên là Fa-ti-ma.
Bà có với chồng trước
Hai cô gái dịu hiền.
Cả ba cô chung sống
Hòa thuận và bình yên.
Có thêm một người nữa
Sống trong nhà Tiên Tri -
Con A-bu Ta-lib,
Tên gọi là A-li.
Mu-ha-mat với cậu
Thân thương như con trai.
Sau này, khi khôn lớn,
A-li cưới con Ngài.
Kể từ ngày có vợ,
Ngài thường hay một mình
Lặng lẽ ngồi thiền định,
Nhiều khi giấu gia đình.
Ngài thường đến hang núi
Được gọi là Nô-ô,
Đó là một hang đá
Vừa sâu vừa rất to.
Ở đấy, nơi tĩnh mịch,
Ngài chăm chú ngồi thiền,
Quên cả ăn, cả ngủ.
Có khi mấy ngày liền.
Nhiều lần Ngài quyết định
Cho A-li đi theo.
Cả hai người ngồi lặng,
Thiền từ sáng đến chiều.
Một hôm, như thường lệ,
Đang ngồi yên, mơ màng,
Ngài bỗng nghe bất chợt
Có tiếng nói trong hang.
Giọng nói nói: “Hãy đọc!”
Ngài đáp: “Nhưng đọc gì?”
“Rằng A-la tối thượng
Cho con làm Tiên Tri
Để truyền bá Đạo Pháp
Của Thánh Kinh Cô-ran
Cứu giúp người lầm lạc
Đang sống giữa trần gian.”
Đó là lần thứ nhất
Ngài lãnh hội ý hiền
Từ A-la Tối Thượng
Qua Thiên Sứ Gab-rien.
Tối ấy Ngài đem chuyện
Kể với Kha-đi-gia.
Bà tin chồng thực sự
Là Tiên Tri A-la.
Theo bà, nhiều người khác
Cũng tin vào điều này.
Sau đấy Ngài tiếp tục
Nghe A-la hàng ngày.
Ngài bắt đầu thuyết giảng
Đạo Hồi của A-la,
Cả sau khi chiến thắng
Chiếm được thành Mê-ca.
Giúp đỡ Ngài đắc lực
Là bà vợ của Ngài
Và A-li, con rể,
Vừa có đức, có tài.
Vợ Ngài cùng con rể
Và người thân là người
Thành tín đồ sớm nhất,
Khi Đạo mới ra đời.
GIÁO CHỦ A-LI
A-li ibn Ta-lib
Sinh năm Sáu Không Không,
Mất năm Sáu Sáu Một,
Ở Mê-ca, Trung Đông.
Con A-bu Ta-lib,
Được bà
Kha-đi-gia
Đưa về nhà nuôi nấng
Như con cái trong nhà,
A-li thành con rể,
Rồi Ca-liph thứ tư,
Kế tục Mu-ha-mat,
Rất thông minh, nhân từ.
Ngài nổi tiếng dũng cảm,
Không biết sợ là gì,
Là người thân tín nhất
Của bố vợ, Tiên Tri.
Khi Tiên Tri ốm chết,
Vì không có con trai,
Người Shi-a tuyên bố
A-li kế vị Ngài.
Vì Ngài là con rể,
Được sinh ở Mê-ca,
Người đầu tiên chấp nhận
Đạo mới của A-la.
Thế nhưng Abu Bakr,
Rồi U-mar, Uth-man
Thay nhau làm Ca-liph,
Bất chấp tiếng phàn nàn.
Đó là nguyên nhân chính
Các bất đồng sau này
Giữa hai nhóm Hồi Gáo,
Cho đến tận ngày nay.
Chỉ khi Uth-man chết,
Ngài mới được lên thay,
Đúng lúc có bạo loạn
Liên quan đến chuyện này.
Ngài đã phải đối mặt
Một cuộc chiến kéo dài.
Và một buổi sáng nọ,
Trong nhà thờ, khi Ngài
Đang cầu kinh, bất chợt
Kẻ thù đã tấn công.
Hai ngày sau, Ngài chết,
Gây xúc động cộng đồng.
Các tín đồ Hồi Giáo
Yêu Giáo Chủ A-li
Vì trung thành, tận tụy
Với bố vợ, Tiên Tri;
Yêu vì Ngài dũng cảm,
Vì đối xử nghĩa tình
Với tín đồ khác nhánh
Và với cả tù binh.
Phần Hai
TRUYỆN VỀ TIÊN TRI MU-HA-MAT
TIÊN TRI MU-HA-MAT VÀ LOÀI VẬT
1
Thời ấy, ở Ả Rập
Khi mới có Đạo Hồi,
Người ta thường đối xử
Với loài vật rất tồi.
Tiên tri Mu-ha-mat
Dạy: Loài vật ở đời
Cũng đáng được đối xử
Nhân đạo như với người.
Không được đánh đập chúng,
Cho uống nước hàng ngày.
Khi bò mệt, cho nghỉ,
Lúc khỏe mới đi cày.
Có một cô điếm nọ,
Ngài kể cùng bạn đường,
Nhờ cứu một con chó
Mà được lên thiên đường.
Ngoài chợ có con chó
Sắp chết khát, rất may
Được cô điếm nhìn thấy,
Dẫu nguy hiểm, cô này
Trèo xuống giếng lấy nước
Cho nó uống thật no.
Thánh A-la nhìn thấy,
Tha hết tội cho cô.
Trong khi đó, Ngài kể,
Lại có một bà già
Để con mèo chết đói
Vì bị nhốt trong nhà.
Bị ném xuống địa ngục,
Bị tra tấn đêm ngày
Chỉ vì bà già ấy
Để mèo chết cách này.
Thánh A-la vĩ đại
Ban thưởng hậu cho người
Xử tốt với loài vật
Như đối với người đời.
2
Tiên tri Mu-ha-mat,
Một lần nọ ở nhà,
Đang rửa đồ thờ cúng,
Có con mèo đi qua.
Thấy con vật đang khát,
Ngài vội vã dừng tay,
Lấy nước cho nó uống,
Mới làm tiếp việc này.
Riêng điều ấy đủ nói
Tình thương Ngài bao la.
Giúp con vật tội nghiệp
Rồi mới thờ A-la.
Ngài còn ra đạo luật
Bắt các lò sát sinh
Gây ít đau đớn nhất
Cho con vật của mình.
Ngài có nhiều đệ tử.
Lần nọ có một người
Thẳng tay đánh nô lệ,
Khiến anh ta kêu trời.
“Xin ông chủ đừng đánh.
Hãy vì Đức A-la,
Xin ông chủ đừng đánh!”
Nhưng ông kia không tha.
Được mọi người cấp báo,
Mu-ha-mat ra ngay.
Khi thấy tiên tri đến,
Ông kia mới ngừng tay.
Ngài nói: “Vừa lúc nãy,
Nhân danh thánh A-la
Người ta xin đừng đánh,
Mà ngươi cũng không tha?
Vậy sao ngươi có thể
Nhìn mặt ta lúc này?”
Ông kia nghe, xấu hổ
Chỉ cúi đầu, đứng ngây.
Và rồi, không ai bắt,
Ông ấy, một tín đồ,
Liền cho anh nô lệ
Được thành người tự do.
CẬU BÉ MỒ CÔI
Lúc ấy là lễ Eid,
Chấm dứt tháng ăn chay.
Ai cũng ăn mặc đẹp,
Vui cả đêm lẫn ngày.
Tiên Tri Mu-ha-mat,
Ở thành Mê-đi-na,
Chủ lễ xong, thong thả
Đang trên đường về nhà,
Bất chợt Ngài nhìn thấy
Một cậu bé bên đường.
Hình như cậu vừa khóc,
Với vẻ mặt chán chường.
Khác với bọn trẻ khác
Đang chơi đùa xung quanh,
Cậu co mình, ủ rũ,
Quần áo cũng chẳng lành.
Ngài lại gần và hỏi:
“Vì sao cháu buồn rầu?”
Nhưng chú bé không đáp,
Chỉ lặng lẽ cúi đầu.
Như người cha, âu yếm,
Ngài luồn các ngón tay,
Gỡ tóc rối cho cậu,
Rồi hỏi lại câu này.
“Cháu khóc bởi bố cháu
Hy sinh vì A-la.
Chồng mới của mẹ cháu
Đuổi cháu ra khỏi nhà.
Nên hôm nay, lễ Eid
Mà chẳng có gì ăn.
Đêm, không có nơi ngủ,
Không ai tặng áo quần…”
Tiên Tri Mu-ha-mat
Bảo cậu: “Bác hiểu rồi.
Vì bác ngay từ nhỏ
Cũng sống cảnh mồ côi.
Bây giờ thế này nhé.
Cháu nghĩ sao nếu ta
Là bố cháu, còn cháu
Là em Fa-ti-ma?”
Chỉ lúc ấy cậu bé
Mới ngước lên, tức thì
Cậu cúi xuống, sụp lạy
Dưới chân Ngài, Tiên Tri.
Ngay trong ngày hôm ấy
Ngài đưa cậu về nhà,
Tắm rửa, mua quần áo,
Sống cùng Fa-ti-ma.
Từ đấy đời cậu bé
Đầy ắp những tiếng cười.
Và vào ngày lễ Eid,
Mặc đẹp như mọi người.
Fa-ti-ma là con gái Tiên Tri
Mu-ha-mat, sau này là vợ của Giáo Chủ A-li.
LỜI KHUYÊN CỦA TIÊN TRI MU-HA-MAT
Nói thật, chỉ nói thật
Là cách giúp chúng ta
Bỏ được nhiều thói xấu
Và tránh khỏi phiền hà.
Dưới đây là câu chuyện
Được truyền tụng bao đời
Về việc Mu-ha-mat
Đã cứu giúp một người.
Người ấy một lần nọ
Gặp Ngài, nói thế này:
“Tôi có nhiều tật xấu,
Mà xấu đã lâu nay.
Giờ muốn thành người tốt,
Ngài bảo phải làm gì?
Bắt đầu từ gì trước?
Xin hỏi Ngài Tiên Tri.”
Tiên Tri nghiêm khắc đáp:
“Là tín đồ Đạo Hồi,
Nói thật, chỉ nói thật.
Duy nhất cách ấy thôi!”
Người kia thề long trọng
Sẽ làm theo ý Ngài,
Định quyết tâm thay đổi,
Thành tử tế như ai.
Tối đó, như thường lệ,
Đến giờ đi kiếm ăn,
Tức là đi ăn trộm,
Ông này chợt bần thần:
“Chết, mình đi ăn trộm.
Một việc chẳng hay gì.
Sau được hỏi, không lẽ
Nói dối Đức Tiên Tri?
Nếu nói rõ sự thật,
Mọi người sẽ coi khinh.
Nói dối cũng không được,
Vì Ngài đã tin mình.”
Cuối cùng tối hôm ấy,
Người đàn ông ở nhà,
Bỏ hẳn thói ăn trộm,
Sống lương thiện, hiền hòa.
Hôm sau, ông chợt muốn
Uống rượu như mọi khi,
Nhưng rồi không, vì nhớ
Lời hứa với Tiên Tri.
Vì không muốn nói dối,
Nên cả thói xấu này
Rốt cục ông cũng bỏ,
Chỉ uống sữa hàng ngày.
*
Nói thật, chỉ nói thật
Là cách giúp chúng ta
Bỏ được nhiều thói xấu
Và tránh khỏi phiền hà.
Từ một tên ăn trộm,
Nhờ nói thật, một người
Đã trở thành tử tế,
Sống có ích cho đời.
TIÊN TRI MU-HA-MAT VÀ NGƯỜI DU MỤC
Một người du mục nọ
Nghe nói Đức Tiên Tri
Rất hào phóng, có thể
Tặng không tiếc cái gì.
Nên ông đã hăng hái,
Không quản ngại đường xa,
Cưỡi lạc đà, vất vả
Tới thành Mê-đi-na.
Đến nơi, ông nhanh chóng
Tìm gặp Đức Tiên Tri.
Ngài đang cùng các bạn
Đàm đạo như mọi khi.
Tiên Tri Mu-ha-mat
Móc túi cho ông ta
Một món tiền nho nhỏ,
Gọi là để làm quà.
Ông này thấy tiền ít,
Liền tỏ ý chê bai,
Thậm chí dùng từ ngữ
Bất kính đối với Ngài.
Vì tội bất kính ấy,
Các bạn của Tiên Tri
Định chém ngay tại chỗ.
Ngài bảo: “Không hề gì!”
Rồi Ngài dẫn người ấy
Về nhà riêng của mình.
Một ngôi nhà khiêm tốn,
Của cải cũng thường tình.
Tiên Tri Mu-ha-mat
Lục lọi mãi trong nhà,
Kiếm được cái gì đó,
Rồi đưa cho ông ta.
Giờ ông ta mới biết
Rằng chính Ngài cũng nghèo,
Và rằng cho như thế
Tức là đã cho nhiều.
Ông cúi đầu sụp lạy
Đức Tiên Tri, và rồi
Xin được Ngài chấp nhận
Thành tín đồ Đạo Hồi.
BA NGƯỜI BẠN
Một lần, khi đàm đạo
Như thường lệ hàng ngày,
Tiên Tri Mu-ha-mat
Kể câu chuyện thế này.
Một người đàn ông nọ
Bệnh sắp chết, rất lo
Phải một mình, lạnh lẽo
Và cô đơn dưới mồ.
Cuối cùng ông quyết định
Hỏi các bạn của ông
Có thể giúp bằng cách
Chết cùng ông hay không.
Người thứ nhất ông hỏi
Đã đáp lại thế này:
“Tôi và ông là bạn,
Mà bạn tốt xưa nay.
Ông sống, tôi giúp được.
Chết còn biết làm gì,
Ngoài việc giúp tiền bạc
Chôn cất, tiễn ông đi?”
Người bệnh nghe, buồn lắm,
Tìm đến người thứ hai.
“Tôi chỉ giúp được bác
Bằng việc khiêng quan tài.”
Dẫu không còn hy vọng,
Ông gặp người thứ ba.
Khác với hai người trước,
Thật không ngờ, ông ta
Đồng ý chết theo bạn,
Coi đó là lẽ thường.
Hơn thế còn đưa bạn
Lên tận chốn thiên đường.
Nghe xong lời hứa ấy,
Ông vui mừng, nhẹ người,
Về nhà nằm xuống ngủ,
Rồi bình thản qua đời.
*
Kể xong câu chuyện ấy,
Ngài nói với bạn mình:
“Bây giờ các vị biết
Ai chung thủy, có tình.
Thực ra không khó đoán
Ba người ấy là ai.
Đó là ba người bạn
Ta vẫn có hàng ngày.
Người thứ nhất là bạn,
Thứ hai là người nhà.
Những việc làm tốt đẹp
Là người bạn thứ ba.
Bạn đơn giản là bạn.
Ta chết, họ buồn đau
Đưa ta ra nghĩa địa,
Lặng lẽ đứng cúi đầu.
Thương ta hơn chút ít
Là người thân, người nhà.
Nhưng họ chỉ có thể
Khiêng quan tài đưa ta.
Nhưng người bạn tốt nhất
Là việc thiện đời thường
Sẽ theo ta xuống mộ
Để cùng lên thiên đường.
CHUYỆN TIÊN TRI MU-HA-MAT MUA ÁO
Tiên Tri Mu-ha-mat
Nhờ con rể của Ngài
Ra cửa hàng ngoài chợ
Mua giùm chiếc áo ngoài.
Con rể Ngài quay lại
Với chiếc áo trên tay.
“Mười hai đồng là giá
Con mua chiếc áo này.”
“Ta không cần áo tốt,
Chỉ cần ấm mùa đông.
Hãy ra hỏi ông chủ
Có cho trả lại không?”
Ông chủ quán đồng ý
Trả lại tiền, lát sau
Tiên Tri cùng con rể
Đi vào chợ với nhau.
Một cô bé nô lệ
Đang ngồi khóc bên đường.
Cô gầy gò, bé nhỏ,
Mái tóc xù đáng thương.
Tiên Tri Mu-ha-mat
Nhẹ nhàng bước lại gần.
“Vì sao cháu phải khóc?”
Ngài hỏi, giọng ân cần.
“Ông chủ sai đi chợ,
Đưa cho cháu bốn đồng.
Cháu để rơi đâu mất,
Không dám về gặp ông.”
Ngài liền đưa cho cháu
Bốn trong số mười hai
Đồng đi-ham đang có
Định mua áo cho Ngài.
“Đây, bốn đồng cho cháu.
Hãy mua cái mình cần.
Rồi về nhà, nhanh nhé,
Kẽo lại nhỡ giờ ăn.”
Rồi Ngài lại đi tiếp,
Cảm thấy rất hài lòng.
Vào chợ, mua chiếc áo
Loại rẻ, chỉ bốn đồng.
Ngài mặc nó, thích lắm.
Đang trên đường về nhà,
Chợt thấy có ông lão
Đứng trần truồng, xuýt xoa.
Ngài cởi chiếc áo mới
Khoác lên người cho ông.
Rồi vào chợ mua tiếp
Một chiếc áo bốn đồng.
Quay ra, Ngài lại thấy
Cô bé ấy đáng thương,
Cô nô lệ bé nhỏ,
Vẫn ngồi khóc bên đường.
Hỏi, cô nói quá muộn
Nên không dám về nhà.
Sợ ông chủ sẽ đánh
Và bà chủ kêu la.
Thế là Ngài, dù bận,
Cầm tay cô bé này,
Dắt đưa về gặp chủ.
Vào tận nhà, ở đây
Ông chủ vui sướng quá,
Được Tiên Tri tới nhà,
Còn nói chuyện thân mật,
Và cuối cùng ông ta
Nhờ Tiên Tri khích lệ,
Không chỉ không đánh cô,
Mà long trọng tuyên bố
Cho cô được tự do.
Tiên Tri Mu-ha-mat
Tạ ơn Đức A-la:
Mười hai đồng Ngài có
Tiêu hợp lý, đó là
Mua được hai áo ấm
Cho Ngài và cho người,
Cứu được một cô bé
Khỏi nô lệ suốt đời.
TỪ KẺ THÙ THÀNH BẠN
Tiên Tri Mu-ha-mat
(Cầu bình yên cho Ngài)
Sau sáu năm lập Đạo,
Muốn truyền bá ra ngoài.
Ngài gửi nhiều sứ giả
Tới các nước Trung Đông
Thuyết phục các lãnh chúa
Theo Đạo Hồi thêm đông.
Một trong những lãnh chúa,
U-than Thu-ma-ma,
Giàu có và hùng mạnh,
Ba-nu Ha-ni-pha.
Đang trong cơn tức giận,
Sứ giả đến, ông này
Liền từ chối đề nghị,
Ra lệnh đuổi đi ngay.
Hơn thế, ông còn muốn
Tìm cách giết hại Ngài,
Tức là giết cả Đạo,
Một thứ Đạo ngoại lai.
Với dã tâm như vậy,
Dẫu chẳng vì cớ gì,
Ông ta giết hàng chục
Tín đồ của Tiên Tri.
Tiên Tri Mu-ha-mat
Buộc phải đưa ông ta
Vào danh sách cần giết,
Nhân danh Đức A-la.
Chẳng bao lâu sau đó,
Vì những lý do riêng,
Ông ta đến làm lễ
Ở Mêc-ca linh thiêng.
Rất tình cờ, lần ấy
Một tốp lính tuần tra
Của Tiên Tri bất chợt
Đã bắt giữ ông ta.
Thấy lạ, tốp lính ấy,
Dù không biết là ai,
Vẫn đưa tên lãnh chúa
Đến giao nộp cho Ngài.
Tiên tri Mu-ha-mat
Nhận ngay ra người này,
Ra lệnh cấp nước uống
Và thức ăn hàng ngày.
Hôm sau, Ngài đến hỏi:
“Ông muốn gì, nói đi.”
Ông kia ngẩng đầu đáp:
“Tôi không muốn nói gì.
Thích giết thì cứ giết.
Muốn tha thì cứ tha.
Muốn chuộc có tiền chuộc,
Khỏi nhiêu khê, phiền hà.”
Ngài lặng im không nói,
Cho nước uống, thức ăn,
Đối xử rất tử tế,
Cấp những thứ ông cần.
Hôm tiếp Ngài lại đến,
Lại vẫn câu hỏi này.
Vẫn câu trả lời ấy.
Cứ thế suốt mấy ngày.
Cuối cùng Ngài ra lệnh
Để cho ông ta đi,
Cùng thức ăn, nước uống,
Mà không đòi hỏi gì.
Ngỡ ngàng vì sung sướng,
Lãnh chúa Thu-ma-ma
Cảm ơn rồi nhanh chóng
Cưỡi lạc đà về nhà.
Rõ ràng ông xúc động,
Không biết đang nghĩ gì.
Tới một khu rừng vắng,
Nơi cây cỏ xanh rì,
Bất chợt ông dừng lại,
Lấy nước cho lạc đà,
Tắm rửa rất sạch sẽ,
Quay lại Mê-đi-na.
Tiên Tri Mu-ha-mat
Như biết trước, đang chờ.
Cầm tay kẻ thù cũ
Rồi dắt vào nhà thờ.
Ở đấy, ông sụp lạy
Trước bàn thờ A-la,
Rồi đứng lên, tuyên bố:
“Tôi là Thu-ma-ma.
Từ nay tôi công nhận
Đức A-la hiển linh
Là vị thánh duy nhất
Tôi đã chọn cho mình.
Và rằng Mu-ha-mat
Là tiên Tri của Ngài,
Đồng thời là Ngôn Sứ
Được phái xuống cõi trần ai.”
Thế là vị thủ lĩnh
Đã nhập Đạo, và rồi
Tất cả dân trong nước
Thành tín đồ Đạo Hồi.
BÀI HỌC CHO VỊ GIÁO SĨ
Một giáo sĩ lần nọ
Vô cớ bị một người,
Bực mình chuyện gì đấy,
Nhiếc mắng không tiếc lời.
Tiên Tri Mu-ha-mat
Lúc ấy ngồi không xa.
Ngẫu nhiên Ngài nghe hết
Mọi lời của ông ta.
Nhưng Ngài giữ im lặng,
Chỉ thỉnh thoảng nhếch môi.
Trong khi vị giáo sĩ
Rất khó chịu, và rồi
Cuối cùng lên tiếng mắng
Con người thô lỗ này.
Đức Tiên Tri thấy thế,
Đứng dậy, bỏ đi ngay.
Vị giáo sĩ lo sợ
Mình thất thố điều gì,
Bèn đuổi theo, gạn hỏi:
“Sao Ngài lại bỏ đi?”
Ngài đáp: “Khi im lặng
Không dùng lời mắng lời,
Nghĩa là có vị thánh
Đang ngự trị trong ngươi.
Còn khi ngươi mắng lại
Người vô cớ mắng mình,
Thì đó là biểu hiện
Của người không thông minh.
A-la dạy: Ai đó
Bị mắng oan là ngu
Mà nhẫn nhục chịu đựng,
Không tìm cách trả thù,
Thì người ấy đích thực
Thông minh, đáng được khen.
Đó là sự dũng cảm,
Không phải dấu hiệu hèn.
Vừa rồi ngươi mắng lại
Con người ấy làm gì?
Vì thế ta thất vọng,
Bèn đứng dậy bỏ đi.”
No comments:
Post a Comment