Tuesday, February 24, 2015

THƠ CHỮ HÁN VIỆT NAM - 5



LƯU ĐÌNH CHẤT

Tác giả: Sinh năm 1566, mất 1627, người làng Quỳnh Chử, huyện Hoàng Hóa, Thanh Hóa. Năm 42 tuổi ông thi tiến sĩ, đậu đình nguyên, làm quan tới chức tể tướng thời Trịnh Tráng. Tác phẩm còn 19 bài trong "Toàn Việt thi lục".

Họa bài thơ "Ngẫu nhiên
ngâm trong mưa" của người Tây Hà

Mưa trên lá đậu, báo xuân tàn.
Đêm nằm khách sứ nghĩ miên man.
Gió thổi, trở mình, trời đã sáng.
Bên ngoài đỏ rực phía Tràng An.


NGUYỄN ĐÌNH SÁCH

Tác giả: Sinh 1638, mất 1697, hiệu Dực Hiên, người xã Văn Trưng, huyện Bạch Hạc, nay thuộc huyện Vĩnh Trường, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 33 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, đời Lê Huyền Tông. Đi sứ nhà Thanh với chức Đại lý tự khanh, lúc về được thăng chức Binh bộ tả thị lang, tước Nam. Tác phẩm có 34 bài trong "Toàn Việt thi lục".

Lên thuyền

Cảnh đời thay đổi cứ trôi qua.
Nhìn Yên, nhớ Việt 1) những xót xa.
Trường Giang mây phủ, buồn man mác.
Một mái chèo xua nỗi nhớ nhà.

(1) Yên - Yên Kinh, chỉ Trung Quốc, Việt – Việt Nam.


ĐẶNG DUNG

Tác giả: Không rõ năm sinh, năm mất, con Đặng Tất, người huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Một nhà yêu nước, một tướng tài, đánh thắng nhiều trận, sau bị quân Minh bắt đưa về Trung Quốc. Hiện có bài thơ này trong Toàn Việt thi lục.

Cảm hoài

Việc nhiều, đời ngắn, oái oăm thay,
Nay già chỉ biết hát và say.
Nổi danh gặp vận, quân xôi thịt,
Nhỡ thời nuốt nhục những người ngay.
Những muốn phò vua, lo việc nước,
Gươm thần chưa rửa nước sông mây.
Nợ nước chưa đền, đầu đã bạc,
Đành ôm mộng cũ, sống qua ngày.


NGUYỄN QUÍ ĐỨC

Tác giả: Sinh năm 1648, mất 1720, hiệu Đường Hiên, tự Thế Nhân, người làng Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội, đậu Thám Hoa năm 1676, đời Lê Hy Tông, từng đi sứ sang Trung Quốc, làm quan đến chức Thượng Thư. Ông không chỉ là nhà chính trị, ngoại giao, nhà giáo nổi tiếng, mà còn rất giỏi về sử học và văn thơ. Tác phẩm có "Thi châu tập", "Hoa Trình thi tập" (cả hai đã thất lạc). Gia đình dòng họ Nguyễn Quí đến nay còn lưu được một số thơ văn và câu đối.

Nghe ếch kêu, ngẫu nhiên thành thơ

Ngày hè, mưa tạnh ếch trong ao
Kêu lên bất chợt thật ồn ào.
Không phải cãi nhau, mà vui sướng -
Tạ ơn có được trận mưa rào.

Cuối xuân, theo hầu xa giá nhà vua xem thi,
nhân chơi sông Nhị Hà mà làm bài thơ này

Lơ thơ hoa liễu tết thành vòng.
Lên thuyền, bốn phía rộng mênh mông.
Sóng vỗ mạn thuyền như tiếng nhạc.
Hữu tình phong cảnh, trời xanh trong.
Đủ trà, đủ rượu cho thi hứng.
Khói vương xóm liễu, xốn xang lòng.
Như suối Vũ Lăng 1) xưa, cảnh vật
Giục người giang cánh lượn trên không.

(1) Theo bài "Đào hào nguyên lý" của Đào Tiên đời Tấn, có ng¬ười dân chài ở suối Vũ Lăng đi lạc đường vào suối Hoa Đào, đi mãi vào bên trong thấy chốn thần tiên, cảnh đẹp, dân cư¬ sung s¬ướng hạnh phúc.

Sau tết Trùng Cửu bốn hôm, cùng thượng thư họ Nguyễn
đến hội kiến tại nhà thiếu phó họ Đặng, tạm rót rượu uống,
khi về nhà làm bài thơ này trình lên hai ông

Gió lặng, trời cao, nắng tắt dần.
Ngồi nhàn, rót rượu tỏ tình thân.
Coi nặng nghĩa tình cùng đạo lý.
Lời gian dẫu ngọt cũng không cần.
Cúc bên bờ dậu, hương thơm ngát,
Chim trời bay đến đậu ngoài sân.
Nâng chén mời nhau, cười lại nói.
Thử hỏi gì bằng bạn cố nhân?

Cùng quan tham tấn uống rượu ở bến Nhân Lý,
sau khi từ biệt, nhớ mà gửi thơ này

Bến sông Nhân Lý chuyện râm ran.
Đêm qua vui thế, mãi không tàn.
Bạn bè gặp mặt mời nhau uống.
Thuyền nặng ánh trăng với tiếng đàn.
Nhắc nhau quá chén không quên nghĩa.
Trà ngon vẫn nhớ lúc cơ hàn.
Chia tay "vân thụ" 1) bao giờ nhỉ?
Mặt trời giờ đã quá lan can.

(1) Thơ Đỗ Phủ nhớ Lý Bạch có câu: "Vị bắc xuân thiên thụ; Giang đông nhật mộ vân" (Cây xuân ở phía bắc sông Vị; Mây chiều phía đông sông Giang).

Qua Phúc Bồi 1)

Theo sông uốn khúc giữa Quỳnh Côi,
Gặp gió, thuyền đi tới Phúc Bồi.
Bến đò Mỹ Giá nhiều cam mọc,
Dừng thuyền tạm nghỉ, nước lờ trôi.
Thuyền buồm ghé lại rồi đi mất.
Vất vả con đò cứ ngược xuôi.
Từ đây tới biển còn mấy dặm,
Mà dân đã biết: Nước lên rồi!

(1) Tên một xã thuộc huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình hiện nay.

Cảnh đẹp Động Đình

Động Đình phong cảnh đẹp như tranh.
Trải dài mặt nước tấm gương xanh.
Hai bến tây, đông đầy cánh nhạn.
Trên trăng, dưới sóng thật thanh bình.
Tuyệt đẹp, trăng thu không vết bẩn.
Như làn lụa mỏng, sóng mông mênh.
Rốt cục suối sông về với biển.
Thục Ngô sao phải cứ tranh giành?

Cảnh đẹp Vũ Xương

Nằm giữa Hoành Dương với Hán Dương,
Cảnh vật nơi đây đẹp khác thường.
Sông xuân cuộn sóng như tranh gấm.
Hoa rừng, cỏ nội ngát mùi hương.
Trên cầu Long Phục trăng soi bóng.
Sau lầu Hoàng Hạc núi mây vương.
Dấu cũ người tiên xưa chẳng thấy.
Mịt mờ lưu lại đống văn chương.


ĐẶNG ĐÌNH TƯỜNG

Tác giả: Sinh năm 1649, mất 1735, tự Đình Trường, hiệu Trúc Trai, Trúc Ông, người làng Lương Xá, huyện Chương Đức, nay là huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, xuất thân trong một dòng tộc nổi tiếng. Ông đỗ tiến sĩ năm 1670, từng làm phó sứ sang trung Quốc, làm quan đến chức Thái Phó, Quốc Lão, tước quận công. Nổi tiếng thanh liêm chính trực, gần gũi với nhân dân. Tác phẩm có "Thuật cổ quy huân lục" (tám quyển), "Linh Giang dinh vệ lục" và tập thơ đi sứ "Trúc Ông phụng sứ tập".

Xem bức tranh trúc trên vách quán trọ

Không biết ai trồng hay tự lên,
Khóm trúc xanh tươi thật dịu hiền.
Tả được cái thần phong cảnh đẹp,
Quả đúng phải cần cây bút tiên.

Buổi sớm ở thành Lạng Sơn ra đi

Tinh mơ, người ngựa đã lên đường.
Cờ sứ nửa ngày còn đẫm sương.
Ngoái nhìn chợt thấy mây năm sắc
Bao phủ thành đô, đẹp khác thường.

Buổi tối dừng lại ở Doanh Mạc phủ

Tạnh mưa, trời mát, sáng đi ngay.
Tới Doanh Mạc phủ vừa hết ngày.
Trằn trọc nhớ quê, đêm khó ngủ.
Gà rừng te tái gáy đâu đây.

Thành Hoàng Sào

Thành xưa sót lại khúc sông này.
Bờ thành thấp thoáng giữa hàng cây.
Từ lâu tiếng xấu trôi theo nước,
Hoàng Sào, tên tuổi vẫn còn đây.

Tức sự ngày lập xuân

Gió mưa lặn lội chặng đường xa.
Hững hờ xuân đến, lại đông qua.
Vội hướng về Nam, lòng kính cẩn,
Cúi lạy đức vua và mẹ cha.

Qua mộ Tỷ Can, thái sư nhà Ân

Nằm giữa rừng thông cao sát mây,
Trái tim bảy lỗ nghỉ nơi này. 1)
Nghìn năm nổi tiếng người nhân nghĩa.
Lời truyền lưu lại đến hôm nay.

(1) Vua Trụ dâm loạn quá mức, Tỷ Can liều chết khuyên can. Vua Trụ tức giận quát: "Ta nghe nói trái tim các bậc thánh như ngươi có bảy lỗ. Vậy để ta mổ xem có đúng không!" Rồi giết Tỷ Can bằng cách dã man ấy.


LÊ CẢNH TUÂN

Tác giả: Không rõ năm sinh, mất 1416, hiệu Tĩnh Trai, người huyện Đường An, nay là huyện Bình Giang, Hưng Yên. Đỗ thái học năm 1400 dưới triều Hồ, giàu lòng yêu nước, bị giặc Minh bắt giam và chết trong ngục. Hiện còn 12 bài thơ.

Ngày đầu năm

Vẫn là khách quán trọ.
Thêm xuân nữa lại về.
Đào xuân xưa đã chết.
Bao giờ ta về quê?

Đến trạm Mông Lý 1) cảm xúc thành thơ

Gác chèo lên cát, phía xa xa
Xóm nhỏ mờ xanh dưới nắng tà.
Cảnh vật như không mà lại có.
Thấp thoáng trong sương mấy mái nhà.

(1) Nằm trên đường từ nước ta sang Trung Quốc, chưa biết cụ thể nơi nào.

Ngày Nguyên Đán, ở trạm bên sông

Mồng một, đầu xuân, lại đẹp trời.
Chỉ thương ta vẫn ở quê người.
Ngồi trong quán trọ nhìn hoa nở,
Nỗi buồn đơn độc cũng vơi vơi.

Ngày xuân, mừng trời hửng nắng

Tầm tã mưa rơi suốt mấy ngày,
Cuối cùng trời nắng hửng, quang mây.
Nước biếc, non xanh khoe khí sắc.
Dịu dàng gió thổi, uốn cành cây.
Rực rỡ mặt trời, lòng ấm lại.
Ngỡ ngàng chưa uống đã ngà say.
Mưa tạnh, xuân tươi, thời tiết đẹp,
Khơi nguồn thi hứng dậy từ nay.

Cảm xúc nhân ngày giỗ tổ tiên

Tài nhỏ, không kham nổi gánh đời,
Lang thang phiêu bạt tám năm trời.
Tê tái buồn đau nơi đất khách,
Hôm nay có giỗ, ở quê người.
Nhà cũ ông cha bên Trạch Thủy,
Sát bờ sông Tả, mộ sương rơi.
Đạm bạc rau tần xin cúng tạm.
Ngoái trông mây trắng cuộn bời bời.

Đêm dừng thuyền ở trạm
Tư Giang, huyện Nam Hải 1)

Thành bại, công danh bởi ý trời.
Trôi nổi lênh đênh một kiếp người.
Đầu rối, thân gầy, hai thứ tóc.
Một chiếc thuyền con đi khắp nơi.
Triệu Võ 2)  gặp thời thành nghiệp lớn.
Ngũ Viên 3) lỡ vận, phải lìa đời.
Cập bến Tư Giang, buồn đất khách,
Nhớ nhà, nhớ nước, lệ trào rơi.

(1) Thuộc tỉnh Giang Đông. Bài này Lê Cảnh Chân làm lúc bị bắt sang Yên Kinh.
(2) Tức Triệu Mạnh, người nước Tấn thời Xuân Thu, giúp nước Tấn cường thịnh, khuất phục được các nước khác.
(3) Tức Ngũ Tử Tư , người nước Sở thời Xuân Thu, nhiều lần can khuyên vua Phù Sai nước Ngô không nên hòa với Câu Tiễn. Vua không nghe còn giết Ngũ Tử Tư. Quả sau nước Ngô bị Câu Tiễn diệt.

Trên sông, gặp ngày lập xuân

Năm cũ sắp qua, ngày lại ngày,
Trên đường gió tuyết vẫn còn bay.
Núi sông trùng điệp, đường heo hút.
Đông hết, xuân về, luôn đổi thay.
Mọi việc luân hồi theo thứ tự.
Mặc đời, con tạo cứ vần xoay.
Sắp tết, kinh thành hoa nở rộ.
Người vui, chắc đẹp lắm xuân này.

Ghi nỗi lòng trong ngày chí nhật 1)

Cảnh trời thay đổi, lại mùa đông.
Thời gian như nước, cứ xuôi dòng.
Tuyết sương trước mặt, buồn da diết.
Người nhà không có, bạn bè không.
Đêm nằm trăn trở, luôn suy nghĩ.
Nửa đời sống uổng, kiếp lông bông.
Mai kia trời ấm, thân tù tội,
Chỉ lo không xứng với xuân hồng.

(1) Theo chó thÝch ë Kinh DÞch, ngµy h¹ chÝ vµ ®«ng chÝ ®Òu gäi lµ chÝ nhËt. Theo c¶nh t¶ trong bµi nµy th× ®©y lµ ngµy ®«ng chÝ.

Đi thuyền trên sông Cống Châu, 1) đúng ngày giỗ mẹ

Thấm thoắt bao ngày xa tổ tiên,
Hôm nay giỗ mẹ lúc đi thuyền.
Chữ hiếu ngậm buồn, mong ai đó
Ở nhà hương khói cúng dâng lên.
Ngàn dặm đường xa, nơi đất khách.
Hơn bốn mươi năm vắng mẹ hiền.
Khôn cầm giọt lệ lòng đau thắt.
Nước đục, trời buồn, gió lặng yên.

(2) Tªn mét phñ ë Giang T©y.


LÊ THÁI TỔ

Tức anh hùng dân tộc Lê Lợi, (1381 - 1433) dấy binh khởi nghĩ ở Lam Sơn, chống giặc Minh trong mười năm, giải phóng đất nước và lên ngôi vua, trị vì 6 năm, thọ 51 tuổi, được táng ở Hữu Lăng, Lam Sơn, Thanh Hóa.

Thân chinh đi dẹp giặc ở châu Thái Nguyên

Chỉnh quân, không ngại vượt đường xa.
Mong dân sơn cước sống yên hòa.
Vẫn thế xưa nay phường phản nghịch
Đất trời trừng trị, quyết không tha.
Ân phúc cho ai trung, trọng nghĩa.
Tấm thân khó giữ, kẻ gian tà.
Tín trung với nước, lòng không đổi,
Tên tuổi lưu danh với nước nhà.

Thân chinh đánh dẹp Diệu Cát Hãn 1) ở châu Phục Lễ

Giặc kia đừng hòng thoát.
Dân mong vua bao ngày.
Thời nào cũng có phản.
Sơn cước yên từ nay.
Núi sông liền một dải.
Nay ta viết thơ này
Cho khắc lên núi đá,
Trấn giữ cả miền Tây.

1). Diêu Cát Hãn người dân tộc Thái vùng Thập Châu, nay thuộc Sơn La, Lai Châu, Điện Biên. Sau khi Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, một số thủ lĩnh bộ tộc chưa quy hàng, trong đó có Diêu Cát Hãn.


LÊ THÁI TÔNG

Tên húy là Nguyên Long, (1423 - 1442) con trai thứ hai của Lê Lợi, bản chất thông minh nhưng ham chơi bời, lúc lên làm vua mới 11 tuổi, ở ngôi được 9 năm, thọ 20 tuổi.

Thân chinh đi dẹp giặc ở Võ Linh Hương 1)

Non xa giặc cỏ dám ra tay,
Làm nhọc đại binh đi mấy ngày.
Quân tướng chỉnh tề, luôn giữ lệnh.
Tiết trời ấm áp, lá xanh cây.
Vì dân, điếu phạt quân tàn bạo.
Xong việc binh đao, lo cấy cày.
Bờ cõi yên bình, trời lắng bụi,
Dân tình an lạc sống từ nay.

1). Có sách chép là Võ Hợp Hương, tên một làng chưa rõ ở đâu, chắc ở vùng miền núi.


LÊ THÁNH TÔNG

Tác giả: Sinh năm 1442, mất 1497, tên thật là Lê Tư Thành, hiệu Thiên Nam Động chủ, con trai thứ tư của vua Lê Thái Tông. Ông là nhà vua - thi sĩ, có công lớn với đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá. Tác phẩm: hàng trăm bài thơ chữ Hán, mấy chục bài thơ Nôm và một số bài phú nổi tiếng.

Đạo trung thần

Đức của người phò tá
Là giữ đạo trung thần.
Cái điều cao đẹp ấy
Xa lạ với tiểu nhân.

Thảnh thơi

Du Lượng 1) thôi chức lớn,
Chỉ lên lầu ngồi chơi.
Khi không màng danh vọng,
Tự nhiên lòng thảnh thơi.

(1) Tên tự là Nguyễn Qui, đời Tấn, từng từ chức Tể tướng về sống ẩn dật ở Vũ Xương.

Đình Ngư Phủ

Khuất Nguyên 1) bị đuổi, lòng day dứt,
Mang nặng buồn lo vận nước nhà.
Bài thơ ngư phủ chưa ngâm trọn,
Đã tự gieo mình xuống Mịch La.

(1) Nhà thơ vĩ đại Trung Quốc, thấy vận nước sắp nguy, can vua Sở không được, đã nhẩy xuống sông Mịch La tự tử.

Bài thơ mừng lúa tốt 1)

Một màu xanh biếc trải mênh mông.
Nuôi dân phải nhớ trọng nghề nông.
"Năm nay lúa tốt hơn năm ngoái!"
Mấy lão nông phu đứng ngắm đồng.

(1 Bài này Lê Thánh Tông viết khi đi qua một cánh đồng lúa tốt ở làng Động Bàng, Thanh Hóa.

Dừng chân ở núi Cổ Quý 1)

Gió thổi, cờ bay giữa nắng tà.
Lá đỏ còn hơn hoa tháng Ba.
Đời người nhìn lại, không như trước.
Vui buồn trăm mối, rối lòng ta.

(1) Tên một ngọn núi ở tỉnh Kiến An cũ, nay thuộc Hải Phòng.

Đi tuần phía đông, dừng lại ở Đồng Cảng 1)

Vùng biển, gạo như ngọc.
Cá rẻ như cho không.
Thấp thoáng chim về tổ.
Hoàng hôn, mặt trời hồng.

(1 Chưa rõ ở đâu.

Đậu thuyền dưới chân chùa Quang Khánh 1)

Ngoài vườn chim hót, gió hây hây,
Trời xế, mặt đường phủ bóng cây.
Sẵn rượu làm sao không cạn chén -
Ai sống ở đời thoát cái say?

(3) Tên một ngôi chùa ở xã Dương Mông, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.

Qua bến Phù Tang 1)

Trên bến Phù Tang mưa lắt lay.
Tiết xuân, trời đất ấm từng ngày.
Chỉ thương những kẻ ham danh lợi,
Quên đời trôi thoáng tựa làn mây.

(1) Chưa rõ ở đâu.

Qua đền Hưng Đạo vương 1)

Lá đỏ trên cây khẽ xạc xào.
Trời đầy mây trắng, nắng xôn xao.
Tượng đá, chùa đây, người chẳng thấy,
Chỉ thấy bên ngoài rặng núi cao.

(1) Ở sơn phận xã Vạn Yên, nay là xã Vạn Kiếp, huyện Chí Linh, Hải Dương.

Dừng lại ở Xương Giang 1)

Nắng chiều, nửa núi xạm dần đen.
Hai bờ như có khói bay lên.
Sách xưa đọc mãi mà không hết,
Dù đã mười năm đọc trước đèn.

(1) Tức sông Thương, chảy qua thị xã Bắc Ninh, gần sông có thành Xương Giang do giặc Minh xây đắp, nay không còn nữa.

Bến cảng Vân Đồn 1)

Nắng chiều óng ả, bến bình yên.
Con thuyền lướt nhẹ, nước đang lên.
Gái trai bên biển cười vui vẻ,
Át cả gió reo trước mũi thuyền.

(1) Tên một thương cảng ở lộ An Bàng thời Lý - Trần, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh.

Bãi Đông Ngạc 1)

Thơ làm xong, đi ngủ.
Trăng nhú nơi chân trời.
Hoa rụng bao tình ý,
Khẽ chạm vào áo người.

(1) Có lẽ là bãi sông Hồng, nay thuộc vùng Chèm Vẽ, Hà Nội.

Đêm cắm thuyền ở bãi Trung Giang 1)

Không gió, không sương, đêm tĩnh yên.
Ngồi đợi bình minh trước mũi thuyền.
Sắp sáng, hé nhìn qua cửa sổ,
Dòng sông phẳng lặng, nước triều lên.

(1 Chưa rõ ở đâu.

Qua núi Điệp Sơn 1)

Triều dâng, sông đỏ gặp sông vàng. 2)
Liễu thêm xanh biếc lúc xuân sang.
Thuyền ghé, khách thơ bèn ướm hỏi
Chuyện xưa, tên núi lẫn tên làng.

(1 Tức núi Tam Điệp, nằm giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình ngày nay.
(2 Chỉ chỗ sông Hồng và sông Thanh Hóa gặp nhau.

Thác nước

Từ trên đổ xuống, nước như mây,
Âm vang trắng xóa suốt đêm ngày.
Cảnh xuân bị cuốn trôi theo nước.
Mấy ai để ý thấy điều này.

Con trai, con gái ở Lỵ Nhân 1)

Trên đê trời lạnh, sắp sang xuân.
Đẹp như mỹ nữ nước Yên, Tần,
Ở đây con gái xinh, hiền dịu.
Xấu hổ con trai, chẳng dám gần.

(1) Nay là huyện Lý Nhân, Hà Nam.

Ngày xuân, mới ốm dậy

Chỉ một mình, ốm yếu,
Dạo nhiều vòng quanh sân.
Oanh hót vang, xin hỏi:
“Cho ai chim gọi xuân?”

Ốm dậy, cảm hoài

Hôm nay có vẻ bệnh thuyên dần.
Suốt ngày thư thái dạo quanh sân.
Nhờ thuốc, nên vui vì khỏi bệnh,
Tiếc chẳng có gì níu tuổi xuân.

Thơ đề trên quạt

Nam Huân gác tía giữa ban ngày,
Nhẹ nhàng quạt lụa phẩy trên tay.
Gió mát hiu hiu, trưa ngủ thiếp,
Không biết mồ hôi của dân cày.

Đề nơi chốn mây nước của đạo sĩ
Bài một

Tuổi già ẩn dật chốn thâm u,
Trút bỏ áo quan, chiếc áo tù.
Lấy sự vô tâm làm tâm đắc,
An nhàn tiếp bạn, tiếp nhà tu.

Đề nơi chốn mây nước của đạo sĩ
Bài hai

Non sông tít tắp một màu xanh.
Mây chiều ráng đỏ, nước long lanh.
Chỉ tiếc không tài như tạo hóa,
Đưa hết cảnh này vào bức tranh.

Đề nơi chốn mây nước của đạo sĩ
Bài ba

Thấp thoáng ngôi nhà giữa núi mây.
Chắc am ẩn sĩ ở nơi này.
Chiều xế, trời quang, cơn gió thổi.
Ráng trời soi nước, bóng chim bay.

Đề nơi chốn mây nước của đạo sĩ
Bài bốn

Thuyền trong tán lá, cánh chim hồng.
Gác chèo, gió nhẹ, nước mênh mông.
Mây trắng chợt rơi vào cốc rượu.
Ráng chiều như máu nửa dòng sông.

Đề nơi chốn mây nước của đạo sĩ
Bài năm

Mấy gian nhà nứa gối hồ sen.
Không vướng bụi trần, lòng tĩnh yên.
Đời sau chắc chẳng mong hơn thế,
Khi đến nơi này, nơi cõi tiên.

Đề nơi chốn mây nước của đạo sĩ
Bài mười bảy

Bóng tre râm mát, nắng lung linh.
Ve kêu ngày hạ thật vô tình.
Vừa mới thiu thiu thì chợt tỉnh.
Sen nở làm chim khẽ giật mình.

Thơ đề chốn mây nước của đạo sĩ
Bài hai mươi tư

Hai bờ lau nở, trắng như bông.
Sông vén màn đêm, chảy phía đông.
Nỗi buồn du khách, vành trăng sáng
Như chiếu xuyên qua, thấu nỗi lòng.

Vịnh Mi Ổ

Lòng tham của kẻ ác
Khiến mọi người ngỡ ngàng.
Lửa cháy, thiêu gian tặc
Mà không soi thấy vàng.

1). Mi Ổ, kho vàng của Đổng Trác thời Tam quốc. Với chức ngang Tể tướng, cậy thế chuyên quyền, Đổng Trác vơ vét nhiều vàng bạc châu báu giấu ở Mi Ổ. Sau hắn bị Lã Bố giết chết, thây phơi ngoài chợ. Lính  canh cắm đuốc vào xác Đổng Trác, lửu cháy sáng rực suốt đêm.

Thơ đề bức vẽ chân dung đại học sĩ Vũ Vĩnh Trinh 1)

Hơn sáu chục năm sách với đèn.
Kim Đường 2) nhàn nhã giống như tiên.
Tầm sư học đạo, tôn Nho Giáo.
Nhà rộng, ung dung luận thánh hiền.

1). Vũ Vĩnh Trinh tự Hựu Chi, người huyện Vụ Bản, Nam Định. Không rõ năm sinh, năm mất. Ông đậu khoa Minh Kinh năm Kỷ Dậu (1422), làm chức Giáo Thụ. Đời Lê Thánh Tông làm Hàn lâm Học viện sĩ và Bí thư Giám học sĩ.
2). Kim Mã, Ngọc Đường: các cung điện đời Hán. Ở đây chỉ cung điện nói chung.

Thơ đề ở động Bạch Nha 1)
Năm Quang Thuận thứ 8 (1467)

Lô xô núi biếc giữa nắng tà.
Tiết trời dìu dịu, lá xen hoa.
Mây che cửa động, ngôi chùa cổ.
Xuân về, gió lặng, tiếng chim ca.
Từ thuở hỗn mang trời đã tạo,
Quỉ thần đẽo gọt mãi mà ra.
Chắc Nữ Oa thương, không động đến,
Để ghi công đức của triều ta.

(1) Tên một ngôi động ở dãy núi Thần Phù, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa.

535. Thơ đề trên núi Dục Thúy
Năm Quang Thuận thứ 8 (1464)

Dục Thúy nằm kề ba khúc sông.
Đỉnh cao lạnh lẽo vút lên không.
Leo lên theo gió, bên chùa cổ,
Bia đá xế chiều mới đọc xong.
Xuống hang, cứ tưởng trời không rộng.
Lên cao mới biết đất mênh mông.
Núi sông vẫn thế, không thay đổi.
Như mơ, ngoái lại, thấy anh hùng.

Lên núi Long Đọi 1) đề sau tấm bia
Bảo tháp Sùng Thiện Diêu Linh

Núi cao, chùa cổ đứng chơi vơi.
Đường dốc, leo hoài mới tới nơi.
Giặc Minh phá hết, còn bia đá.
Vua Lý ghi bao chuyện lạ đời.
Đường ít vết chân, rêu phủ kín.
Núi nhiều mưa ẩm, cảnh xinh tươi.
Lên cao, tầm mắt nhìn, vô tận
Cây cỏ xanh xanh đến cuối trời.

(1. Tªn ngän nói phÝa ®«ng nam huyÖn Duy Tiªn, nay thuéc tØnh Ninh B×nh.

Thơ khắc ở cột chùa Tu Mộng

Chùa cổ nghiêng xiêu đã nửa phần.
Sư dắt thăm chùa, nhẹ bước chân.
Chân sư dễ vượt vòng đai giác.
Ta bước đường đời thật khó khăn.
Ngũ viên mạnh mẽ mà không sắc.
Lục độ sáng ngời vẫn có nhân.
Thấy khách cúi đầu như giác ngộ,
Sư thôi không giảng, lặng im dần.

Thơ đề ở chùa Sài Sơn 1)

Đứng bên vách núi, xốn xang lòng.
Theo mây, chân nhẹ bước lên không.
Hoa nở lặng im bên cửa động,
Chào người, chim hót dưới rừng thông.
Tay ngắt vì sao trời thứ nhất.
Ba nghìn thế giới cõi mênh mông,
Quét rêu, nguệch ngoạc thơ lên đá,
Ngọn bút làm rung cả núi sông.

1. Tøc chïa ThÇy ë huyÖn Quèc Oai, S¬n T©y.

Thơ đề núi Chiếu Bạch 1)

Nước trời hòa nhập, sóng mông mênh.
Núi già soi bóng xuống sông xanh.
Cổ thụ như xưa, nhô phía trước.
Hoa nở đua nhau điểm trắng cành.
Ý thơ lai láng, ngâm nga mãi.
Tâm hồn thanh bạch, dạo loanh quanh.
Đang xuân, trong động nhiều hoang thú.
Bao đời phong cảnh đẹp như tranh.

(1) Tªn ngän nói ë huyÖn Nga S¬n, Thanh Ho¸.

Thơ đề động Hồ Công 1)

Quỷ thần đẽo gọt mới làm ra
Thành hang đá rộng, giống ngôi nhà.
Công danh thế tục đều như mộng.
Trong quả bầu tiên sống nhởn nha 2).
Như tự cõi trời rơi ngọc trắng,
Hoa Dương 3) rồng hóa giống châu sa.
Những muốn cưỡi mây lên đỉnh núi
Để nhìn đất nước giữa bao la.

1) Tên một động đẹp ở núi Xuân Đà, phía tây huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.
2) Thi Tồn người nước Sở học được phép tiên, có một trái bầu chứa toàn bộ vũ trụ, có đủ trăng sao trời đất. Đêm ông vào ngủ trong quả bầu ấy, tự đặt hiệu là Hồ Thiên, người đời gọi ông là Hồ Công.
3) Tên một ngọn núi ở An Huy, Trung Quốc, Hồ Công gặp Phí Trường Phòng. Phòng xin về thăm nhà, Hồ Công đưa cho cây gậy trúc bảo Phòng cuỡi lên. Cây gậy hóa thành rồng.

Thơ đề động Long Quang 1)

Dừng chân ngắm cảnh núi xanh tươi.
Leo lên càng thấy rộng đất trời.
Như thể bất ngờ lên Ngọc Kiểm, 2)
Tưởng mình đang lạc chốn Thiên Thai.
Mây vương đầy đất không ai quét.
Hang động vươn cao lấp mặt trời.
Cảnh đẹp, đẹp từ rừng đến suối,
Tình ý như mời vua đến chơi.

(1) Tên một động đẹp ở huyện Đông Sơn, Thanh Hoá.
(2) Tên ngọn núi gần vùng Lam Sơn, Thanh Hóa.

Đi trên sông

Bến sông tiếng trống giục vang xa.
Thuyền rồng lướt sóng chạy ngang qua.
Bát ngát ruộng nương xanh nghìn khoảnh.
Lác đác kề sông mấy nóc nhà.
Như thể sắp mưa, trời rất thấp,
Dẫu biển đằng Đông nắng chói lòa.
Buổi sớm, núi xanh như trịnh trọng
Mời vua qua cửa biển Hà Hoa.

Hồng Đức năm thứ nhất, ngày 11 tháng 12.
Đóng quân tại cửa bể Hà Hoa 1), đêm khuya
ngồi nghe tiếng mưa, sinh lòng thương cảm

Tựa mui thuyền vắng, nghĩ lan man.
Đêm mưa, hơi lạnh thấm qua màn.
Như cánh ve sầu, màn rất mỏng.
Đầy trời mưa gió, ngủ không an.
Sông nước mênh mang nhìn hút mắt.
Lặng trôi ngày tháng, tiếc thời gian.
Nghĩ thương binh sĩ chân dầm đất,
Ngã chết, không tiền mua áo quan.

(1) Tức cửa Khẩu, thôn Hải Khẩu, xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh.

Ngồi ngắm trăng, bày tỏ nỗi lòng

Quan sơn nghìn dặm, lộ trình xa.
Mây trôi, biển sóng, ánh trăng tà.
Trăng sát bên thuyền, không ngủ được,
Như vành ngọc sáng giữa bao la.
Muốn hiểu biết thêm, cần học hỏi,
Trau dồi kiến thức của ông cha.
Kéo lại mặt trời, trai chí lớn,
Không buồn năm tháng vụt trôi qua.

Nghỉ lại ở cửa Bể Du 1)

Một dòng cuồn cuộn chảy ra khơi,
Sông lớn mênh mông nước với trời.
Nguyệt Áng 2) đêm trăng soi bóng nước.
Xuân ấm Chu Bàn 3) sóng bốc hơi.
Rải rác trên bờ phơi lưới cá.
Thuyền buôn cập bến tự muôn nơi.
Sông nước giữa chiều đưa mắt ngắm,
Như thấy Bông Lai phía mặt trời.

(1) Cßn cã tªn lµ Du Xuyªn, cöa B¹ch, ë huyÖn Ngäc S¬n, Thanh Ho¸.
(2) (3) Tªn ®Þa phư¬ng ë cöa BÓ.

Đạo làm vua

Nhớ lời các bậc đế vương răn:
Trên chăm thần thánh, dưới chăm dân,
Lo xây dựng nước, lo đời thịnh,
Với mình luôn nhớ phải tu thân.
Chiêu hiền đãi sĩ, lo văn đức,
Trọng tài tướng lĩnh, giỏi nuôi quân.
Đạo lớn làm vua là sáng suốt,
Mọi người Kinh, Thượng được ban ân.

Nghỉ lại ở cửa biển Hà Hoa

Trời mưa suốt sáng khắp Hà Hoa.
Đất trời bốn phía rộng bao la.
Vách núi xanh xanh mây quấn quýt.
Sóng triều dồn dập vỗ xa xa.
Đầm nước Thủy Tiên  1) mây vẫn thế.
Quanh đồn Chế Thắng 2) tiếng chim ca.
Tựa thuyền, say rượu, thơ lai láng.
Thơ mang nỗi nhớ khách xa nhà.

(1) Tªn ®Çm c¹nh nói Bµn §é gÇn cöa biÓn.
(2) §Òn thê nµng NguyÔn BÝch Ch©n, cung nh©n vua TrÇn DuÖ T«ng, t×nh nguyÖn hy sinh th©n m×nh cho thñy thÇn ®Ó gióp vua Nam Chinh.

Động Lục Vân

Vách núi xanh mờ, động Lục Vân, 1)
Ở chốn bao la thoát bụi trần.
Nắng xế bờ khe, hoa chớm nụ.
Chim chuyền rặng liễu, báo mùa xuân.
Nước suối rửa tai, lòng tĩnh lặng.
Công việc đời thường chẳng vướng chân.
Nhà tối thắp đèn, đời chẳng mộng.
Bầu tiên ngày tháng sống thanh bần.

(1) Theo nguyªn chó th× ®éng nµy thuéc xã ChÝnh §¹i, huyÖn Tèng S¬n, nay lµ Nga S¬n, Thanh Hóa

Đi trên sông, ngẫu nhiên thành thơ

Hạnh phúc đời ta được mấy giờ?
Thành công, thất bại giống chơi cờ.
Bao la đất rộng, trời xanh biếc,
Bốn mùa cảnh đẹp gợi hồn thơ.
Xin làm con nhạn nơi sông núi,
Hơn trong lăng miếu tượng thờ ơ.
Chẳng theo Duy Hàn 1) mài nghiên sắt,
Sông nước vẫy vùng, thỏa ước mơ.

(1) Theo truyÒn thuyÕt, Di Hµn thi trư¬ît tiÕn sÜ, cã ngưêi khuyªn «ng ®eo ®uæi hưíng kh¸c. Hµn ®óc mét chiÕc nghiªn b»ng s¾t vµ nãi víi mäi ngưêi: "Nghiªn háng th× söa chø kh«ng ®æi hưíng kh¸c". Cuèi cïng «ng ®ç tiÕn sÜ.

Đi tuần phía đông, qua An Lão 1)

Con đường nghìn dặm chạy quanh quanh.
Gió thổi, nâng thuyền khẽ lướt nhanh.
Chiều xế, mặt trời soi bóng nước.
Theo áng mây hồng, lòng nhẹ tênh.
Sương muối rơi nhiều, cây úa lá.
Bãi dâu khói nhạt, cảnh yên lành.
Núi biển mờ mờ như nhập một,
Kéo dài thành vệt biếc màu xanh.

(1) Tªn mét huyÖn thuéc thµnh phè H¶i Phßng ngµy nay.

Qua bến Phù Thạch 1)

Triều dâng, nước lạnh chảy về đông.
Mấy mỏm đá nhô chính giữa dòng.
Mây như mũ trắng treo đầu núi.
Ráng in trên nước giống tơ hồng.
Rồng không ẩn mãi nơi sâu thẳm,
Khi lửa mặt trời bốc lên không.
Nay lúc việc văn hơn việc võ,
Ân vua phải tưới khắp non sông.

Đừng lại ở núi Cổ Quý 1)

Tâm hồn như ngọc sáng bao la.
Ngoài sông mờ ảo ánh trăng nhòa.
Xưa nay đời tục thành hay bại,
Vui buồn cũng chỉ giấc mơ qua.
Là vua, đọc hết năm xe sách,
Làm ba việc lớn giống ông cha.
Dẫu đời bèo bọt, đừng lo nghĩ,
Vì đời tất cả ở lòng ta.

(1) Tªn mét ngän nói thuéc KiÕn An.

Qua sông Bạch Đằng

Thuyền như tranh vẽ lướt trên sông.
Bạch Đằng con nước cứ mênh mông.
Chợt nhớ cái ngày Toa Đô chết,
Nhớ thời Hưng Đạo lập chiến công.
Xã tắc nhà Trần ngày ấy mạnh,
Giang sơn đất Việt vững như đồng.
Hư danh, ảo mộng thời xưa ấy,
Nay giống làn mây trắng bập bồng.

Đêm đậu thuyền ở bến Bình Than

Như ngọc, trăng lên sáng một vành.
Bãi bồi tít tắp một màu xanh.
Rau tần trắng bãi, heo may lạnh.
Sau mưa lá đỏ kín trên cành.
Trên thuyền khách thấy như lơ lửng.
Bên trời, bên nước sáng long lanh.
Lòng đạo tuy già còn cứng cỏi,
Hơn cả đàn tiêu cung Thái Thành.

Cảm xúc ở Xương Giang

Dừng chân bên bến, ngắm dòng sông.
Chớm mọc xa xa vệt ráng hồng.
Cảnh đẹp gợi nên tâm ý cũ,
Xua tan bao thói dục trong lòng.
Xao xuyến tai nghe chày đập vải.
Mắt nhìn trăng sáng giữa tầng không.
Vạn vật như xưa không đổi khác.
Cái buồn như nước, vẫn mênh mông.

Uống rượu với khách

Khách mới ngồi dự tiệc,
Mà như say nửa phần.
Thơ cứ ra lai láng,
Cười nói giống cổ nhân.
Hết ngâm rồi bình luận,
Kẻ xướng, người họa vần.
Khi khách chào tạm biệt,
Trăng chỉ còn góc sân.

Tiễn thượng thư bộ lễ
Lê Hạo Nhiên đi sứ phương bắc

Cái chí làm trai đi bốn phương.
Làm thơ tiễn sứ lúc lên đường.
Bên đình bẻ liễu, xuân đang rộ.
Hoa nhiều trong trạm, ngát mùi hương.
Non sông quan sứ từng đi hết,
Việc nước, việc nhà giỏi đảm đương.
Khi về mạnh khỏe, thơ đầy túi,
Đầy thuyền trăng sáng lẫn hơi sương.

Ra cửa biển Bạch Đằng, đi tuần ở An Bang 1)

Mười hai cửa biển nước mênh mông.
Đường đi vời vợi, trời xanh trong.
Chí lớn làm nên đài chiến thắng.
Sinh khí mùa xuân khắp ruộng đồng.
Xưa nay hưng phế là giấc mộng.
Con người sống mãi với non sông.
Chợt buồn, làm thơ cho khuây khỏa,
Sao vẫn buồn khi thơ viết xong?

(1) Tªn vïng ®t nay thuéc tØnh Qu¶ng Ninh.


LÊ HIẾN TÔNG

Tên húy là Tăng, (1497 - 1504) con đầu lòng của vua Lê Thánh Tông, bản tính khoan hòa, đức độ, tuân giữ phép tắc của triều trước. Lên ngôi lúc 8 tuổi, thọ 44 tuổi, táng ở Dụ Lăng, Lam Sơn, Thanh Hóa.

Theo xa giá về Tây Kinh, vâng họa bài thơ ngự chế
“Buổi sớm khởi hành ở sông Thiên Vực”

Mờ mờ ánh nắng, lúa xôn xao.
Nước sông dào dạt sóng hoa đào.
Trai gái Nam Dương 1) nô nức đón.
Miền Tây sông biếc, núi thanh cao.
Ba năm, theo lệ, đi tuần thú,
Để biết người dân sống thế nào.
Lam Sơn sắc núi xanh muôn thuở.
Công đức Cao Hoàng 2) thật lớn lao

1). Nam Dương, dất khởi nghiệp của Quang Vũ Đế nhà Đồn Hán, Trung Quốc. Ở đây chỉ người dân Tây Kinh, Thanh Hóa.
2). Tức Lê Lợi.

Thơ đề động Lục Vân 1)

Chon von vách đá, nắng long lanh.
Nước Nam sông núi đẹp, yên lành.
Trước nhớ theo vua, ba lần đến.
Nay về xe sáu ngựa phi nhanh.
Núi cao, trời ấm, màu hoa đỏ.
Đường đi ẩm ướt, phủ rêu xanh.
Bình yên đâu chỉ nơi nhà Phật -
Khắp nước nhân dân hưởng thái bình.

1). Tên một đông đá trong dãy núi Tam Điệp.

Thơ đề núi Bàn A 1)
Năm Cảnh Thống thứ tư, Tan Dậu (1501), tiết Hoa Triêu 2), có việc đi Tây Kinh, lên chơi đề thơ

Dãy núi như đê, uốn lượn vòng
Vây quanh dải đất rộng mênh mông.
Còn bận việc nhân, lo nghĩa nước,
Chưa về vui thú với non sông.
Xuống nước, dong thuyền nghe vượn hót.
Lên non đứng ngắm mặt trời hồng.
Thời nay văn vận đang hưng thịnh,
Cứ việc đề thơ, chớ bận lòng.

1). Tên một ngọn núi thuộc xã Đại Khánh, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, có nhiều cảnh đẹp được các thi nhân ngâm vịnh, đề thơ lên đá. Ngô Thì Sĩ, cha Ngô Thì Nhậm thời cuối Lê có mười bài hơ khắc vào đá ở đây, gọi là Bàn A Thập Vịnh.
2). Hoa Triêu - buổi sáng của hoa. Đời Đường lấy ngày rằm tháng Hai là ngày Hoa Triêu.


LÝ TỬ CẤU

Năm sinh, năm mất không rõ, hiệu Hạ Trai, người làng Hồng Châu (Hải Dương) đậu tiến sĩ. Hồ Quý Ly lên ngôi, mời ông giữ chức Thái tử hữu dự đức nhưng ông từ chối. Quân Minh sang chiếm nước ta, muốn dùng ông làm quan cũng không đươc.Hồi đầu Lê, mặc dù được Nguyễn Mộng Tuân hết sức tiến cử, ômng vẫn quyết tâm ở ẩn. Khí tiết thanh cao cua ông rất được người đương thời tôn trọng.

Tự nói lòng mình

Chẳng rừng, chẳng chợ chẳng khanh công.
Chẳng học Tô Tần 1) áo rách bong.
Ngâm thơ - nguồn hứng đầy trăng gió.
Bè bạn cùng vui cảnh núi sông.
Nghiên mực Tang Quân 2) không chịu đổi.
Bài thơ Vương Xán 3) nhớ ghi lòng.
Người đời chê trách, ta không giận,
Cầm bằng không giận chiếc thuyền không 4).

1. Một thuyết khách đời chiến quốc. Ông rất ngèho, luôn mặc chiếc áo cừu rách, về nhà bị vợ và chị dâu hắt hủi.
2. Tức Tang Duy Hàn,người tỉnh Hà Nam thời Ngũ Đại ở Trung Quốc. Ông học giỏi nhưng quan trường không thích tên họ của ông (cây dâu) nên đánh hỏng. Ông đúc một chiếc nghiên lớn bằng sắt, bảo khi nào chiếc nghiên thủng mới thôi học. Sau này ông đậu tiến sĩ, làm quan to.
3. Người đời Tam Quốc, lánh nạn ở nước Ngụy, làm bài phú Đăng Lâu nổi tiếng nói về nỗ nhớ nhà.
4. Thuyền không - hư chu, nghĩa là thiuyền không có người. Trang Tử nói: Chiếc thuyền có người va phải mình thì mắng. Thuyền không người thì cho qua, không giận.

Gửi Trình Sư Mạnh 1) tiên sinh ở Từ Liêm

Từng nuôi chí lớn đã bao ngày.
Việc hỏng, giờ già, thật tiếc thay.
Không màng lương bổng, đua quan chức,
Bầu bạn suốt ngày với cỏ cây.
Gặp lúc trời mưa, che nón lá.
Tô Tần áo rách, bụi không giây.
Hẹn đến mùa xuân mang áo mới
Thưởng ngoạn hai người khắp đó đây.

1. Xem tiểu sử của ông ở phần sau.


TRÌNH SƯ MẠNH

Năm sinh, năm mất không rõ, hiệu Chúc Lý Tử, người vùng Từ Liêm (nay thuộc Hà Nội).Buổi đầu Lê ở ẩn không ra làm quan.

Cảnh thu ngoài phía thành nam

Mùa thu trăng sáng, gió hây hây.
Phía nam thành cổ mù giăng dày.
Khói lam biêng biếc trôi theo sóng.
Lá ngả màu hồng trên khóm cây.
Mờ mờ sông núi như tranh vẽ
Thấm đượm mùa thu của tháng ngày.
Thi hứng trào dâng, ngâm chẳng được.
Buồn buồn đơn độc đám mây bay.


LÊ THIẾU DĨNH

Năm sinh, năm mất không rõ, tự Tử Kỳ, người xã Mộ Trạch, huyện Đường An (Hưng Yên ngày nay). Ông là con Lê Cảnh Tuân, từng được Lê Thái Tổ cho sang nhà Minh cầu phong, làm đến chức Tham tri Viện sự, sau vì can gián trái ý vua bị giáng xuống làm Bộ viên ngoại lang. Tác phẩm có tập Tiết  Trai.

Lễ chùa trên núi

Khe vắng, ngôi chùa cổ.
Mây trắng bay trên cao.
Khách đến, sư không nói.
Gió tự đẩy cửa vào.

Lời cung nhân

Hoa rụng cho hoa nở.
Bỏ người để yêu người.
Muốn vua yêu mình mãi,
Phải trang điểm thật tươi.

Chùa trên núi

Buổi sáng một mình lên núi chơi.
Tay bám dây leo, leo tận trời.
Chìm trong mây trắng, chùa không thấy.
Nghe tiến chuông rơi, biết có người.

Vườn cũ ở thôn Trạch 1)

Cảnh cũ quê nhà, kia núi sông.
Mồ mả ông bà viếng, sửa xong.
Cây tang cây tử 2) còn xanh tốt.
Vẫn lá xùm xòa mấy gốc thông.
Muôn thuở xuân qua rồi lại đến,
Sao cứ than hoài sự nghiệp công?
Trăm kế sinh nhai quên, thật lạ,
Sót lại thương quê một nỗi lòng.

1). Tức làng Mộ Trạch ở quê tác giả.
2). Cây tang, tức cây dâu, để nuôi tằm. Cây tử gỗ tốt làm nhà. Thường được ví để chỉ quê hương cha mẹ.


NGUYỄN PHU TIÊN

Năm sinh, năm mất không rõ, hiệu Tân Kiều tiên sinh, người làng Vĩnh Đông, huyện Koái Châu (Hưng Yên ngày nay). Làm quân đến Hàn lâm Học viện thừa chỉ, Thẩm hình viện sứ.

Ngọa vần thơ Trạch Thôn 1)

Rời kinh thành năm ngoái,
Lều tranh ẩn nơi đây.
Thời trẻ vô tích sự,
Giờ già lười chảy thây.
Theo ông Đào 2) mài bút,
Học ông Vũ 3) cầm cày.
Nhìn người xe tíu tít,
Thương phù du đời này.

1. Tức Lê Thiếu Dĩnh.
2. Chỉ Đào Tiềm, một danh sĩ đời Tấn, làm quan được ít ngày rồi bỏ về, vui cảnh gia đình và đồng quê.
3.. Vua Vũ nhà Hán, người có công trị thủy ở Trung Quốc thời xưa.

Về thăm quê cũ
Bài một

Còn sống thăm quê lúc cuối đời.
Khác trước - đìu hiu cảnh lẫn người.
Quyên kêu khắc khoải cành cây lạnh.
Ngoài đồng hoa rụng, bướm chơi vơi.
Sên leo, viết chữ trên tường đất.
Kiến bò, dàn trận giữa sân phơi.
Giận không về được, về càng giận.
Trời tối lúc nào, giọt lệ rơi.

Về thăm quê cũ
Bài hai

Gạt lệ, rẽ gai tìm lại nhà.
Không tìm thấy cả ngói, rui xà.
Ao khô, cầu đá rêu xanh phủ.
Thềm đầy cỏ dại, vườn không hoa.
Ngõ hẻm chỉ vừa chân ngựa bước.
Ruộng cằn, vất vả chuyện nông gia.
Mong ngày trở lại miền thôn dã
Cày ruộng dưới trăng với bạn già.


BÙI CÔNG SOẠN

Tức Tân Khanh (1381 – 1458), người làng Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ (Hưng Yên ngày nay). Khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa, ông ra đón quân nhà vua. Ông ba lần đi sứ Trung Quốc, làm đến chức Thượng Thu hành khiển, tính tình ôn hậu và liêm khiết, thọ 78 tuổi.

Cảm hứng đêm trừ tịch

Thỏ trắng, quạ đen 1) cứ lại qua.
Xuân đến, nhớ ngày vui đạp ca 2).
Học văn không bằng học làm ruộng.
Không có thuốc tiên chữa bệnh già.
Nhân tình bền chặt khi thanh đạm.
Mai rụng chờ ngày lại mọc hoa.
Cứ việc uống say, không cần biết
Suốt đêm gió thổi trước hiên nhà.

1). Chỉ mặt trời và mặt trăng.
2). Dẫm chân làm nhịp hát phong tục ngày xưa, mỗi khi có dịp vui mọi người tập họp ca hát, dẫm chân làm nhịp.

Ngày xuân, đến thăm bạn không gặp

Lần theo bụi rậm dọc bờ khe.
Hoa trên đất ướt, cỏ xum xuê.
Khói xuân ấm áp, dâu xanh tốt.
Ruộng sâu mạ bén, gió se se.
Giúp bạn, hiếm người như Bảo Thúc 1).
Lưu An 2) giờ ít, nghĩ buồn ghê.
Viết thơ gửi lại trên tàu chuối,
Dưới trăng bạn đọc lúc quay về.

1). Bả Thúc Nha, người nước Tề thời Xuân Thu, làm bạn với Quản Trọng. Quản Trong nghèo, thường được ông giúp đỡ.
2). Người đời Hán, cháu vua Cao Tổ, thường học đạo thần tiên tu luyện, tác giả cuốn Hoài Nam Tử.


HOÀNG ĐỨC LƯƠNG

Không rõ năm sinh, năm mất, người huyện Gia Lâm, nay thuộc Hà Nội, làm đến chức tham nghị, có đi sứ Trung Quốc. Ông viết thơ theo khuôn thước thơ Đường, tuyển chọn thơ hay từ thời Trần đến thời Lê, làm thành tập Trích Diển 15 quyển.

Viết khi đi trên đường

Thật dài con đường này.
Người nay đi không nghỉ.
Đã bao người đi qua?
Người xưa giờ đâu nhỉ?

Thôn quê

Én nuôi con trên mái.
Lão nông vai vác bừa.
Trên nong dâu tằm ngủ.
Tu hú kêu giữa trưa.

Chơi chùa Thiên Phúc trên núi Phật Tích

Nhìn cảnh đẹp ngất ngây
Quên cái mệt trong ngày.
Khách đến, sư không biết,
Giữa núi nhặt trái cây.
Thu muộn gối trên đá.
Ngủ lúc nào không hay.
Không người mà chợt tỉnh.
Sân rộng, lá rơi đầy.

Trên thuyền, sáng sớm trời lạnh ở Yên Khánh

Ôm chăn nhìn lên bờ.
Đã nhiều người qua lại.
Chủ quán rượu bên sông
Đang quét sân uể oải.

Chơi chùa núi Kính Chủ 1)

Từng thấy nhiều cảnh đẹp.
Chùa này nên đề thơ.
Làm quan, luôn đây đó,
Chưa dám hẹn với sư.

1). Ở xã Kính Chủ, huyện Giáp Sơn, Hải Dương, cũng còn gọi là núi Xuyên Châu, quê hương Phạm Sư Mạnh.

Cảm hứng mùa đông

Việc đời luôn bề bộn.
Hết thu lại đến đông.
Báo tin mùa xuân tới,
Mai đã nở vài bông.

Tự diễu mình

Tính khác thường, gàn dở.
Lo nghĩ chuyện đâu đâu.
Được câu thơ tâm đắc,
Đêm dậy, gọi thằng hầu.

Đi dạo bên sông Dương Tử 1)

Nhà chài đứng rải rác.
Bóng liễu che cổng tre.
Đường bên sông, chiều muộn.
Đâu cũng thấy người về.

1). Cũng là sông Trường Giâng. Bài này viết khi tác giả đi sứ sang Trung Quốc.

Thơ đề trên lầu Trích Tiên 1) ở Thái Thạch 2)

Từng đến Phượng Hoàng, nhưng đã lâu.
Buồn bã chòi canh, sông đục ngầu.
Trích tiên người cũ giờ đâu nhỉ,
Làm ai tư lự, muốn lên lầu.

1). Trích tiên - chỉ người thanh cao siêu việt như tiên trời giáng xuống.
2). Tên bến đò ở tỉnh An Huy, Trung Quốc, tương truyền Lý Bạch cưỡi cá kình ở đây.

Chiều đứng nhìn núi, ngẫu nhiên thành thơ

Thảnh thơi, nhàn nhã dạo, cuối ngày,
Mắt nhìn cánh nhạn hướng về tây.
Mênh mông trời rộng như vô tận.
Một áng mây buồn côi cút bay.


NGUYỄN HÚC

Không rõ năm sinh, năm mất, tự Dần Tân, người Kệ Sơn, Đông Triều, làm quan tới chức Tri phủ. Thơ có tập Cưu Đài Tập.

Chơi chùa Trung Thiết 1)

Lên núi gặp sư, như thể hẹn.
Sư ngồi, lên áo bóng hoa rơi.
Đàn chim vội vã bay về tổ.
Mang tấm màn đêm phủ đất trời.

1). Chưa rõ chùa này ở đâu.

Thanh nhàn ở xóm núi

Ao trong nửa mẫu, trời bao la.
Long lanh ánh nước tận hiên nhà.
Việc lớn không màng, kê gối ngủ.
Sen nở hây hây giữa nắng tà.


PHÙNG THẠC

Không rõ năm sinh, năm mất,tự Hoàng Phủ, hiệu Phúc Trai, người La Giang, nay thuộc La Sơn, Hà Tĩnh, từng làm Chủ bạ ở phủ Kiến Xương. Tcá phẩm có tập Vong Hài.

Thơ đề tranh “Nhạn kêu sương”

Sông lạnh, nước không chảy.
Trăng sáng như ban ngày.
Tiếng thu buồn man mác.
Doi cát chìm trong mây.


PHÙ THÚC HOÀNH

Không rõ năm sinh, năm mất, tự Nhiệm Nhân, người làng Phù Xá, huyện Kim Hoa, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, từng giữ chức giáo thụ dạy Kinh Dịch ở Quốc Tử Giám, sau làm Hàn lâm học sĩ.

Ý xưa

Lá sen xanh như lọng.
Hoa đỏ tựa má đào.
Nhớ người chưa gặp mặt,
Thơ thẩn mãi bên ao.

Đi dạo trên đồng

Mưa tạnh, núi xanh ngắt.
Rừng tối, suối nước trong.
Cầu gẫy, người qua ít.
Nghe có tiếng gà đồng.


THÁI THUẬN

Tác giả: Còn gọi là Sái Thuận, nhà thơ lớn thời Hậu Lê, sinh năm 1440, ngày mất không rõ. Đỗ tiến sĩ 1475, quê ở Siêu Loại, Bắc Ninh, được Lê Thánh Tông đặc cách ban phong “Tao Đàn Phó nguyên súy” (tức chỉ sau vua trong câu lạc bộ thơ nổi tiếng thời bấy giờ). Ông tổ của dòng họ Thái Bá ở Nghệ An về sau, mà dịch giả Thái Bá Tân của tập thơ này là một hậu duệ. Tác phẩm có “Lã Đường di cảo thi tập”, được dịch in ở miền Nam trước giải phóng, năm 1972, và ở miền bắc năm 1974 và 1990. Thơ Thái Thuận tinh tế, tao nhã, rất được người đương thời ca tụng. Trong tập Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ có hẳn một truyện nói về ông.

Bến Hoàng Giang

Hoàng Giang, thuyền ghé bến.
Nhà tranh khói bập bồng.
Trẻ con, ba bốn đứa
Tìm bắt cáy ven sông.

Tiễn biệt

Sớm - oanh hót vườn cấm.
Chiều - yến bay gần xa.
Đầu hè chơi thỏa thích,
Chợt muốn về vườn nhà.

Đêm xuân

Trăng chiếu qua rèm, trắng lẫn đen.
Không người dệt gấm để hàn huyên.
Chợt tỉnh, như nghe ai khẽ gọi.
Sau bụi cúc vàng, tiếng đỗ quyên.

Oán mùa xuân ở Tây Hồ

Đêm đêm thấm lạnh ánh trăng tà.
Không thuộc nhà nào, xuân cứ qua.
Cuộc vui đã hết, buồn ngơ ngác,
Buồn không ai đến hỏi mua hoa.

Nhìn khói xuân buổi sáng sớm

Nguyệt lặn, xa xa hửng sáng dần.
Hoa lồng bóng nguyệt múa ngoài sân.
Theo mặt trời lên, trăng xạm tối,
Trao hàng liễu biếc cái sầu xuân.

Làng ven núi

Mưa tạnh, đường làng ngập xác hoa.
Nhao nhác quạ bay giữa nắng tà.
Ông lão bạc đầu hờ hững quét
Cánh đỏ cánh vàng chẳng xót xa.

Chiều muộn bên sông

Bãi sông, mưa, nước ngập,
Nhà nông tranh thủ cày,
Giục trâu đi, cò trắng
Giật mình, nháo nhác bay.

Đêm thu

Như nước, trời xanh ngỡ rất gần.
Ngô đồng không gió, rụng đầy sân.
Một mình ngồi ngắm cầu ô thước,
Thuyền thơ cập bến giữa sông Ngân.

Buổi sáng, xuất phát sớm từ làng ven sông

Xóm chài gà gáy rộn đâu đây.
Trăng mờ khói nước phía trời tây.
Gió thổi bờ lau, thu vạn dặm.
Mờ mờ bãi cát cánh chim bay.

Đi thuyền trên sông La, ngẫu nhiên làm thơ

Trên sông trăng gió gọi xa xa.
Chong đèn bên sách thức mình ta.
Chim cuốc từ đâu kêu da diết.
Muốn ngủ nằm mơ thấy ở nhà.

Xóm nhỏ ven sông

Trên sông triều rút, lộ cát lầy.
Từng đàn chim trắng rủ nhau bay.
Một chiếc áo tơi che khói lạnh.
Trên trời gió thổi, cuốn sông mây.

Trên đường Bồn Man lúc đi chinh tây

Xuống lên, đường núi một màu xanh.
Hoàn toàn tĩnh lặng bốn xung quanh.
Chỉ tiếng mùa thu đang lặng lẽ
Rơi theo từng nhịp trống quân hành.

Trào lộng

Giữ mình, luôn đóng cửa phòng the.
Kín đáo rèm châu phủ bốn bề.
Nhưng sao giữ được trăng và gió
Lọt vào tình tự lúc đêm khuya?

Đầu xuân

Năm cũ hết rồi, sương mới tan.
Đào chưa ra nụ, liễu úa tàn.
Đa tình đám cỏ ngoài sân vắng
Đã kịp xanh rờn, chạy trước xuân.

Ngày hè

Công danh, phú quí chẳng bền lâu.
Rượu ngon hãy uống để xua sầu.
Chín chục ngày hè râm mát lạ.
Gió trời ai thổi, đến từ đâu ?

Đêm thứ năm tại nhà trực Kim Phong

Tiếng chày đập vải phía xa xa.
Bên hiên chênh chếch mảnh trăng tà.
Gối lạnh đêm khuya không ngủ được.
Vạn Xuân, man mác nỗi nhớ nhà.

Lui triều

Chuông lầu Ngũ Phượng vọng về đây.
Nhà ngọc, chầu tan, đợi suốt ngày.
Mùa đông giá lạnh, mây sà thấp.
Xế chiều gió thổi, cánh mai bay.

Nhớ nhà

Phía đông, sông Nhị đợi người về.
Quán trọ một mình, buồn ủ ê.
Thêm một mùa xuân đành lỗi hẹn,
Phụ tình chim cuốc gọi về quê.

Buổi chiều ở Tân Yên, nhìn ra xa

Mờ mờ nắng tắt phía trời tây.
Điếm canh như thấp, khác thường ngày.
Đất khách cái buồn còn trĩu nặng,
Thêm buồn trăng gió kéo vào đây.

Ngắm cảnh xuân ở Thuận An

Như gấm, khói giăng bụi trúc già.
Cây cam, khóm mía mọc bên nhà.
Ngắm cảnh thái bình vui mắt thật.
Một làn gió thổi, nở muôn hoa.

Trên đường Thái Nguyên

Thưa thớt dân cư, cỏ mọc dày.
Đất cằn, gió nóng sém rừng cây.
Ngày trước tai nghe, nay mắt thấy,
Làm gì để giúp đất này đây ?

Ngày thu lên chùa trên núi ở Đông Triều

Mưa tạnh, mây tan, nắng xế tà.
Mái chùa thấp thoáng phía xa xa.
Vài tiếng chim kêu, rừng tịch mịch.
Thu về, cây quế đã ra hoa.

Đêm thu ở thành Thanh Hoa

Đêm vắng một mình bên góc sân
Ngắm cầu Ô Thước bắc sông Ngân.
Một vành trăng sáng soi thiên hạ.
Chày vải đêm thu rộn cõi trần.

Ngày đông ở Chí Linh

Xế chiều, mai nở trắng khắp nơi.
Rượu nhạt mà ngon, uống ấm người.
Sương giá mùa đông chưa kịp tới,
Bốn bề cây cối vẫn xanh tươi.

Tạm đậu thuyền ở Bình Hà

Tháng Tám, trời trong, rộn tiếng gà.
Thuyền thơ núp tạm bóng cây đa.
Ruộng lúa, bãi dừa, ăm ắp nước.
Triều dâng, trời hửng phía xa xa.

Đến bến đò Đại Than

Cây đa soi bóng nước xanh trong.
Bâng khuâng đi hết quãng đường đồng.
Tù túng mười năm ngồi một chỗ,
Bây giờ có dịp ngắm non sông.

Đề thơ ở đình Bến Chiền

Bụi đời chưa sạch, sáng hôm nay
Nhàn, buộc thuyền thơ ở bến này.
Núi sông cảnh đẹp lên thăm thú.
Chắc gì có dịp lại về đây!

Thơ để lại ở quan phủ Hải Dương

Chiều bến Bình Than, tiếng sáo thuyền.
Đêm chùa Phả Lại, Phật chong đèn.
Quan khách tới đây, thăm với viếng,
“Lo trước vui sau” mấy bậc hiền?

Thơ đề am Vân Tiên

Xuyên rừng, đường nhỏ uốn quanh quanh.
Lơ lửng trên cao, sáng một vành.
Gặp sư muốn hỏi mà không hỏi -
Ngại làm xáo động chốn rừng xanh.

Thơ đề tức cảnh chùa Tùng Nghiêm

Chuông chiều, trong núi quạ kêu ran.
Trùng điệp núi xanh, cây bạt ngàn.
Nhà chùa thanh đạm, không tơ trúc,
Chỉ tiếng thông reo tựa tiếng đàn.

Xuất phát từ Đại Than,
làm thơ lưu biệt các bạn ở Hải Dương

Kinh đô phía trước, vệt mờ xa.
Thuyền con một chiếc, chẳng nề hà.
Thân thiết như nhau, nam với bắc.
Nước ở Đại Than giống Nhị Hà.

Đầu xuân

Năm cũ qua rồi, thôi giá lạnh.
Hoa đào hé nụ, liễu chưa xanh.
Đám cỏ ngoài vườn, xuân mới đến,
Mà đã xanh tươi, thật hữu tình.

Sáng sớm, đi Đông Triều

Gà còn chưa báo sáng,
Thuyền đã đi, lúc này
Triều đang lên, nước đục,
Nhợt nhạt mảnh trăng gầy.
Gió lạnh thổi ngoài bãi.
Bến cá chìm trong mây.
Khúc Thương Lang ai hát,
Chim giật mình trên cây.

Thương xuân

Mặt trời lặng lẽ chạy về tây.
Chín chục thiều quang còn mấy ngày.
Oanh sầu, yến thảm thôn Hoa Rụng.
Bến đò, bãi cỏ phủ đầy mây.
Giấc mộng Nam Hoa 1) thường dễ mắc.
Ai như Bắc Hải 2) ở đời này?
Mờ mịt khói sông, trời chạng vạng.
Ngoái lại nhìn đời, buồn lắm thay.

1. Nam Hoa là tên sách của Trang Chu. Trong sách có chuyện Trang Chu mộng thấy mình hóa thành bướm bay nhởn nhơ rất thích, khi tỉnh ngỡ ngàng không biết mình hóa thành bướm hay ngược lại.
2. Bắc Hải  là hiệu của Khổng Dung, người đời hậu Hán, hào hoa phong nhã, trong nhà lúc nào cũng có khách, chén rượu không mấy lúc trống không.

Chiều xuân

Bèo nổi thân này, nghĩ xót xa.
Xuân đến, xuân đi, ai chẳng già.
Dưới cầu nước chảy, buông tơ liễu,
Trên sông não ruột tiếng đa đa.
Vô cớ, tán cây lồng bóng nguyệt.
Gió quyện hương thơm vẫn mặn mà.
Thiều quang chín chục không còn nữa.
Thẹn lòng hiếu thảo kẻ đi xa.

Đi sớm

Ra đi trời chưa sáng,
Trăng gặp người trên sông.
Ảo mờ như trong mộng.
Mây là là trên đồng.
Trước hoa đỗ quyên hót.
Đo đỏ đèn bãi nông.
Đi qua hết chợ cũ
Mới nghe chuông chùa Bồng.

Đầu xuân

Ba tháng đông qua, xuân lại về.
Khí trời chuyển ấm, gió se se.
Giá lạnh còn vương trên mặt nước,
Sắc xuân trên lá đã tràn trề.
Liễu lại xanh tươi, oanh chửa hót.
Chớm nụ hoa đào, vắng tiếng ve.
Hoàng hôn, ngoái lại nhìn quê cũ,
Du tử bùi ngùi những tái tê.

Đêm thu ở Tràng An

Tiếng chày đập vải vọng từ đâu.
Một mình quán trọ giữa thu thâu.
Khí mát đầy sân, cơn gió thổi.
Lạnh lẽo trăng soi nửa gác lầu.
Tù và rền rĩ trên thành vắng.
Dế khóc buồn buồn ngoài bãi dâu.
Trăm mối cảm thương không nén được.
Chỉ sợ sáng mai bạc trắng đầu.

Chiều xuân ở Tràng An

Tự biết tài hèn, chẳng dám khoe.
Tràng An 1) sống uổng, phí đam mê.
Nhà quan buồn vắng như nhà sãi.
Mùa đông vất vả giống mùa hè.
Thương con bướm múa nơi vườn uyển,
Phụ lòng chim cuốc gọi về quê.
Mua rượu, trong lưng tiền chẳng có.
Vợ con cơm cháo khổ trăm bề.

1. Còn gọi Trường An, tên đất thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Bắt đầu từ đời Hán các vua Trung Hoa đều đóng đô ở Tràng An. Sau này chữ Tràng An được dùng để chỉ thủ đô, cả ở Trung Quốc lẫn Việt Nam.

Quán khách đêm thu

Nhà tranh che khuất vệt sao mờ.
Tiếng dế kêu hoài, buồn vẩn vơ.
Lá rụng một sân, thu sắp hết.
Nửa gối gió lùa, tỉnh giấc mơ.
Kẻ bắc người nam, nhiều nước mắt.
Trời đất xưa nay luôn hững hờ.
Bao bận tương tư, thi hứng tắt.
Cảm hoài, quán khách chẳng thành thơ.

Thơ đề ở chùa Phổ Lại

Núi đến đây gặp suối.
Núi chạy từ phía đông.
Tiếng chuông xuôi về biển.
Trăng thu soi xuống sông.
Rồng ngậm nước ngoài bãi.
Cò đứng ngủ bên song.
Thỉnh thoảng sư thức giấc
Vì tiếng sáo ngư ông.

Đêm thu tức sự

Mưa tạnh, sân đường hết bụi nhơ.
Đang đêm thu hứng đến bất ngờ.
Ngô đồng lá úa bay theo gió.
Lưa thưa bóng liễu dưới trăng mờ.
Sương lạnh, tiếng trùng như thấm nước.
Không cháy thành tro, cỏ đốt hờ.
Bắt chước người xưa Đào Bành Trạch 1),
Ngắm hoa, uống rượu, hứng - làm thơ.

1. Tức Đào Tiềm (365 - 427), người Đông Tấn, tự Uyên Minh, biêt hiệu Ngũ Liễu Tiên Sinh, nổi tiếng tài ba lỗi lạc, là nhà thơ lớn, thích uống rượu ngắm hoa cúc, tính tình phóng đạt.

Núi Vọng Phu

Đầu non hóa đá, ngày lại ngày
Chờ gặp lại chồng, chồng có hay?
Mỏi mắt bao năm nhìn phía trước,
Để hồn lặng lẽ thấm vào mây.
Sương đọng trong hoa như nước mắt.
Như tiếng thở dài, khói trên cây.
Nếu biết có người đau khổ thế,
Tương Phi 1) chắc đến khóc nơi này.

1. Vua Thuấn băng hà, hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh khóc ở sông Tương, nước mắt rơi xuống làm sông đỏ rực. Người đời sau gọi hai bà là Tương Phi.

Chinh phụ ngâm

Cỏ đã lại xanh, lúa trĩu bông.
Bao lâu mới hết cảnh chờ chồng?
Một tiếng quyên kêu, rơi nước mắt.
Nửa rèm trăng úa, lạnh đêm đông.
Bóng nhạn cút côi bên ải bắc.
Sông nam xuân héo, nước xuôi dòng.
Mấy bận tương tư trong giấc mộng,
Thiếp đến với chàng, chàng biết không?

Nhìn mây trắng

Lớp lớp quê nhà mây trắng bay.
Động lòng thương nhớ, ngắm từ đây.
Quê hương nghìn dặm, nhìn heo hút.
Trăm năm mẫu tử một tình này.
Gạt lệ, tự tin ngày báo đáp.
Ai người múa áo ngũ sắc đây?
Vẹn tròn trung hiếu xưa nay hiếm.
Trời xanh chứng kiến tấm lòng ngay.

Cây chuối

Cao, với không đến ngọn
Vươn lên trời bao la.
Lớp lớp xanh biếc lá.
Tầng tầng đỏ rực hoa.
Đêm mưa nghe lộp độp.
Sột soạt gió thổi qua.
Đứng sít nhau thành dãy.
Cây non giống cây già.

Tiễn quan vệ úy người phủ Thiên Trường về quê

Nghe nói Sơn Nam mười mấy phủ,
Thiên Trường - phủ lớn, đẹp xưa nay.
Nhà công bên suối, nhiều tôm cá.
Xóm làng gần núi, trái đầy cây.
Giao Thủy, chuông chùa vương vệt nắng.
Phổ Minh, vạc cũ thấm sương dày.
Bác đi chuyến này vui là chính.
Cánh buồm man mác giữa trời mây.

Lên chùa núi Yên Tử

Hoa đồng, gió núi, mây phiêu diêu.
Lối đi cỏ mọc, đá xanh rêu.
Không mộng công danh, sư lánh tục.
Trúc già, vân đẹp tựa hoa thêu.
Đắc đạo, đứng xem dâm bụt nở.
Tĩnh tâm ngồi ngắm áng mây chiều.
Có tiếng người nào đang tiễn khách,
Xen tiếng hổ gầm, tiếng vượn kêu.

Tiễn quan kiểm thảo họ Ngô về Gia Lâm

Ngựa hý, chồn chân trước cổng thành.
Nắng hửng trên sông, én lượn quanh.
Đỗ quyên cánh đỏ nhờ hoa đỏ.
Cây xanh soi bóng, nước thêm xanh.
Bạn bè cũ mới cùng nâng chén.
Tà áo phất phơ, gió mát lành.
Đừng quên thân phụ đang chờ đợi.
Dặm trường ghềnh thác, nhớ về nhanh.

Trong thuyền, ở Nghệ An

Bầu trời xanh ngắt, khói mây bay.
Chơ vơ, tít tắp cánh buồm gầy.
Ganh đua, sông núi thi nhau chạy.
Buồn buồn sóng biển, gió heo may.
Trời già, luống thẹn thuyền câu nhỏ.
Sóng lặng, tiết trời ít đổi thay.
Vùng biển đông nam nhiều cá nhám,
Ngon như gỏi ngọc ở nơi này.

Chơi núi ở Thanh Giang 1)

Chẳng ngại hùm beo, núi chọc trời,
Sáng ngồi kiệu nhỏ, đến đây chơi.
Lối đi rừng rậm in chân thú.
Đường nhỏ đầy rêu, vắng bóng người.
Từ cao suối đổ, mang hơi lạnh.
Cây khẽ uốn mình, gió lả lơi.
Hành dinh Thánh Tổ cao vòi vọi,
Lưu danh thắng giặc đến muôn đời.

1. Tên cũ huyện Thanh Chương ngày nay ở Nghệ An.

Ở ẩn

Mỏi mệt, buồn lo, lấm bụi trần,
Chọn rừng lập xóm để nương thân.
Núi sông là cảnh, hoa là khách.
Không người, không ngựa đợi ngoài sân.
Đồng Giang 1) câu cá, quên cung Hán.
Chí Lĩnh 2) cày mây, lánh nạn Tần.
Bắt chước Đào Tiềm, xong việc lớn,
Ngũ Hồ du ngoạn thật nhàn thân.

1. Một con sông phát nguyên từ Tứ Xuyên. Nghiêm Tử Lang là vị cao hiền đời Hán, không chịu xuất sĩ, hàng ngày ngồi câu cá bên sông làm vui.
2. Tên núi ở Giang Tây. Giang Vạn Lý đời Tống bị kẻ nịnh gièm pha phải mất chức, đến núi Chí Lĩnh đào ao, làm vườn, vui sống ẩn dật.

Dậy sớm

Tam Thiên 1) giấc mộng vẫn còn đây.
Mùi thơm sách cổ vấn vương bay.
Dế khóc ngoài vườn, sương đã tạnh.
Dưới hồ trăng sáng, nước lung lay.
Chủ khách trước đèn lưu luyến mãi.
Hão huyền danh vọng chẳng hề hay.
Xóm, thôn bắc gà đang gáy.
Ngước mắt nhìn sao, đã rạng ngày.

1. Phật gọi vũ trụ là Tam Thiên Thế giới. Ở đây ý nói vừa chợt giấc, như đang trong mộng.

Tiễn Đỗ Minh Phủ 1)

Áo mỏng, quạt lông, đã mấy lần
Tây Hồ tôi bác dạo chơi xuân.
Đình viện đu tiên, hoa với bướm.
Lâu đài tiếng sáo, tiếng đàn ngân.
Một sớm gió mưa, thành cách biệt.
Đôi ngả hai người sông núi ngăn.
Hôm nay ngoái lại, thầm đau xót:
Đình Châu chỉ có bãi rau tần.

1. Không rõ là ai.

Hoàng Giang 1) tức cảnh

Sóng yên, tĩnh lặng một dòng sông.
Mắt nhìn trời đất rộng mênh mông.
Làng quê đây đó đèn le lói.
Hai phía triều dâng ngập lút đồng.
Bãi lau trăng chiếu, thuyền đơn độc.
Bến đò tiếng sáo nhẹ như không.
Lữ khách ngả lưng, vừa chợp mắt,
Canh ba giấc mộng đã say nồng.

1. Tên khúc sông Hồng ở địa phận Hà Nam.

Cầu Mặc Động 1)

Khe sâu, cầu ván bắc ngang qua,
Gần con đường nhỏ chạy bên nhà.
Trên núi trăng lên, tre đổ bóng.
Trong làng gió vẳng tiếng đàn ca.
Như thể bờ đi, thuyền đứng lặng.
Nước trong như muối, chảy hiền hòa.
Con cáy dưới cầu đang nghịch cát,
Dút dát, thấy người, vội lánh xa.

1. Chưa rõ nơi nào.

Sáng sớm, qua cửa biển Trầm Hào

Côi cút ngọn đèn ở bến sông.
Gió yên, mây đứng lặng trên không.
Sóng gợn lăn tăn, cây khói nhạt.
Như mưa, mờ mịt cỏ trên đồng.
Khua nhẹ mái chèo, tôm cá quẫy.
Đàn cò quần tụ cạnh ngư ông.
Đầu thuyền uống rượu, quên không rót,
Ngồi xem nước cuộn, chảy về đông.

Thành Thuận Hóa 1) tức sự

Thuyền thuyền cập bến những miền xa.
Cửa sông cầu mống bắc ngang qua.
Mùi thơm sóng biển hòa trong gió.
Núi núi liền nhau giữa nắng tà.
Chợ chiều đông khách, quần áo đẹp.
Sáo vẳng thuyền đêm, tiếng mượt mà.
Dẫu không biết chuyện Giang Nam hận,
Người thổi thổi bài Lạc Mai Ba 2).

1. Thuộc tỉnh Thừa Thiên hiện nay.
2. Tên một khúc hát buồn. Lý Bạch có thơ: Hoàng Hạc lầu trung xuy ngọc địch/ Giang thành ngũ nguyệt Lạc Mai Ba. Hai câu cuối bai này ngụ ý chê bọn vong quốc chỉ biết hưởng thụ trước mắt mà quên hận nước nhà.

Buổi chiều đến Triều Tân, xúc cảm thành thơ

Chiều buông, gió lạnh thổi trên không.
Ở đây lắm chuyện ngẫm đau lòng.
Mất mùa, dân đói, làng xơ xác.
Lâu ngày nắng hạn, đất khô cong.
Mây bay từng tụm như lông phượng.
Ruộng hoang khói bốc, giống râu rồng.
Gặp ta, ba bốn ông già hỏi:
Ngày nào trở lại đất Thăng Long?

Hoa cúc

Thu muộn, một mình với gió sương,
Mấy bông cúc đẹp nở bên đường.
Bãi cỏ đêm đêm đom đóm lượn.
Thập thò bụi trúc giống chồn hương.
Hoa đẹp thường không quen giá lạnh.
Một lòng hoa cúc đợi Trùng Dương 1).
Ngắm hoa, chợt nhớ Đào Bành Trạch,
Tự nhiên thanh thản thật khác thường.

1. Tết Trùng Dương ngày chín tháng Chín âm lịch.

Sáo chài

Không màng phú quí lẫn công danh,
Chỉ cần ống sáo giữa đêm thanh.
Ba khúc thổi lên, thu héo lá.
Một tiếng du dương, xuân thắm cành.
Tha hương, chim nhạn về bến cũ.
Nhớ quê người đứng, nắng xuyên mành.
Không biết về đâu, thi hứng hết.
Nước vẫn xuôi dòng, núi vẫn xanh.

Cảm xúc mùa xuân

Giận mình từ thuở mới sinh ra
Chưa thể làm gì giúp mẹ cha.
Mười mấy tầng lầu xây mộng ảo.
Ba ngàn thế giới úa tàn hoa.
Gió ấm không tan sương trắng tóc.
Đêm mưa đôi mắt lệ thêm nhòa.
Không lẽ thân này như thế mãi?
Chiếc thuyền vô định giữa sông xa.

Chiều xuân

Cây đứng so le, khói biếc lồng.
Bóng chiều bảng lảng, có mà không.
Trong tiếng sáo đàn, mưa lất phất.
Hoa rụng ngoài vườn theo gió đông.
Sách vở làm ta say giống rượu.
Thời gian khiến tóc rối tơ mòng.
Nghĩa lớn mẹ cha chưa báo được,
Từ quê chợt thấy cánh chim hồng.

Cảnh mùa đông

Ba tháng mùa đông mưa, tuyết bay.
Phòng khách âm u mở suốt ngày.
Chị Hằng lạnh lẽo soi hương án,
Dì Gió hững hờ xua lá cây.
Hoa mai nở sát pho Kinh Dịch,
Lá trúc xùm xòa chạm cánh tay.
Dung hòa mọi lẽ, ngồi im lặng.
Lư hương sợi khói vật vờ bay.

Phòng khuê đêm thu

Canh năm chuông điểm, ánh trăng mờ.
Mưa gió xen vào cả giấc mơ.
Gối lẻ, đèn tàn, thu lạnh lẽo,
Cái buồn ly biệt gửi vào thơ
Không dám lên lầu trông mỏi mắt.
Phong thư đã viết vẫn nằm chờ.
Ngàn vạn đóa hoa tươi, lại héo.
Gió lạnh sen tàn, cọng xác xơ.

Mừng mưa

Nhờ vua cầu khẩn bấy lâu nay,
Trời đổ cơn mưa, nước chảy đầy.
Ruộng dưới, nương trên tràn ngập nước.
Cái nóng không còn, vui sướng thay.
Cây cối, con người đều nhẹ nhõm,
Hỉ hả nhà nông lại cấy cày.
Xúc động, khách thơ lòng cả thẹn,
Góp vui, ngẫu hứng mấy câu này.

Con người thông đạt

Không tính được thua sống ở đời,
Tuân theo số mệnh, hợp ý trời.
Rượu ngon một chén xua sầu muộn.
Sách hay dăm quyển đọc mà chơi.
Không để tên mình nhơ sử sách.
Cố sống làm sao giống mọi người.
Nhàn nhã, trăng hoa cùng mây gió.
Hứng, sai mang cáng cáng đi chơi.

Thơ đề trên vách nhà ở phường Toản Viên 1)

Kinh đô xe ngựa chạy đêm ngày.
Như nhà ẩn sĩ ngôi nhà này.
Không màng cửa Bắc 2) lo danh lợi.
Cho thơ đã có sóng Hồ Tây.
Chìm nổi kiếp đời ta sống tạm,
Thành người lánh ẩn ở nơi đây
Những muốn hẹn cùng Trần xử sĩ.
Xuân về, hoa nở, bướm ong bay.

1. Tên một phường ở Hà Nội xưa.
2. Ý nói cửa quan.

Tự thuật ở Toản Viên

Mười năm giấc mộng đất Thăng Long,
Lỗi hẹn lời thề với núi sông.
Sáng dậy theo chuông kêu Cửa Bắc,
Chiều ngóng Hồ Tây ráng rực hồng.
Tin quê thường đọc, khuya chong nến.
Hàng ngày mây lượn sát bên song.
Chạnh nhớ những lần chơi bãi liễu.
Chắc giờ hoa nở, lựu đâm bông.

Tiếng cuốc kêu

Nước Thục mất từ lâu
Mà lòng vẫn còn đau.
Cuối tháng Ba, hoa rụng,
Tiếng cuốc kêu gợi sầu.
Khách nghe, không ngủ được,
Trằn trọc mãi hồi lâu.
Cuốc kêu, nhớ quê cũ,
Không dám bước lên lầu.

Đêm đậu thuyền ở Đông Triều

Đuốc hồng, gió lặng, sóng bình yên.
Bếp lửa hiu hiu phía mũi thuyền.
Tiệc vãn, ba lần cùng cạn chén.
Thuyền đi, chèo rẽ sóng hai bên.
Nhìn núi, biết trăng đang hé mọc.
Đêm nằm nghe nước, đoán triều lên.
Bên sông bên biển, tình lưu luyến,
Thêm nữa, sáng mai xa bạn hiền.

Tiếng dế đêm thu

Sương thu lạnh lẽo, sắp sang đông.
Tiếng dế trong đêm thật não lòng.
Lúc kêu ri rỉ thềm trăng sáng,
Lúc rên ai oán sát khuê phòng.
Quán trọ, khách xa, buồn tỉnh dậy,
Ngẫm đời đơn độc, kiếp long đong.
Chạnh nhớ Âu Dương 1) xưa cảm xúc,
Chờ sao Ngọc Thắng xuống bên song 2).

1). Âu Dương Tu, nhà thơ lớn đời Tống, tác giả bài Thu Thanh (Tiếng mùa thu) rất nổi tiếng.
2). Tên một chòm sao ở phương Bắc, khi gần sáng xuống thấp tận chân trời.

Dậy sớm ở Tân Minh

Thủy triều đang xuống, nước bao la.
Te tác đó đây mấy tiếng gà.
Từ đảo Bồng Lai thuyền cập bến,
Trăng chiếu trên cao, biển sáng lòa.
Đàm đạo, thẹn mình thua Lý Bạch,
Chẳng kém Hy Văn việc nước nhà.
Chỉ mấy bông mai nơi phố huyện
Mà sương và gió quyện mùi hoa.

Bến đò Chiền 1)

Bến đò rậm rạp hướng về đông.
Gió thổi áo bay giữa ráng hồng.
Nhà thuyền căng chiếu thay buồm vải.
Gáo dừa múc rượu, quán bên sông.
Sông biển thông nhau nên nước mặn.
Lũ quạ tranh ăn, kêu giữa đồng.
Nhân nhắc chuyện xưa mà chợt nhớ
Tham chính Phạm, Bùi, cả hai ông.

1. Bến đò thuộc vùng giáp ranh giữa Kinh Bắc và Hải Dương. gần triền sông Lục Bầu.

Cảnh chiều ở Lão Nhạn 1)

Triều biển đang lên, sông nước đầy.
Chiều thu, tiếng sáo thổi đâu đây.
Chim trắng, ráng hồng, thơ với  rượu.
Nước xanh, thuyền khách lướt như bay.
Chim sáng rủ nhau sang Phạo Xá.
Chiều về Suối Chiện 2), vượt đò mây.
Có tiền muốn đến Dương Châu ngắm.
Chắc gì Dương Châu đã hơn đây?

1. Tức vụng Lão Nhạn, sau goi Triều Dương, gần bến đò Chiền, nay thuộc huyện Chí Linh.
2. Phạo Xá, Suối Chiện - tên địa danh gần đấy.
3. Tên một châu nổi tiếng phồn hoa nhiều cảnh đẹp ở Giang Tô Trung Quốc ngày xưa.

Đêm đậu thuyền, ngủ lại ở Lão Nhạn

Triều dâng, trời rét, nước tràn trề.
Lưng tựa mui thuyền, ngắm thỏa thuê.
Mây phủ núi xanh, cây đứng lặng,
Thuyền trăng, sương trắng, bến đò quê.
Trăm năm còn nhớ Hồng Đô khách 1),
Nửa đời Xích Bích 2) vẫn còn mê.
Tiếng sáo đâu đây đang vọng lại,
Xao xuyến vang xa đến Thủy Tề.

1. Khách Hồng Đô, tức Vương Bột, nhà thơ lớn đời Đường, thời trẻ dự tiệc ở Đằng Vương các tại đất Hồng Đô, viết bài Đằng Vương Các Tự được lưu truyền mãi về sau.
2. Tô Đông Pha đời Tống có viết bài Phú Xích Bích nổi tiếng khi thả thuyền chơi trên sông. Ở đây Thái Thuận mượn tích này nói mình muốn được phóng khoáng, thư nhàn như Tô Đông Pha.

Ngủ đêm ở xã Hạo Xã, huyện Chân Phúc

Ánh lửa đồng sâu tiễn nắng tà.
Trên giậu co ro mấy chú gà.
Sóng biển âm vang ngay sát gối.
Mờ mờ trên núi ả Hằng Nga.
Kính cẩn xông hương vua mới tặng.
Luôn tay rót rượu khách chơi nhà.
Đêm khuya tỉnh giấc, trời như nước.
Mây trời năm sắc phía đằng xa.

No comments:

Post a Comment