Wednesday, February 25, 2015

AI CHO KẸO, ĐỪNG ĂN



    Truyện ngắn. Thái Bá Tân

“Tôi cảm thấy trong người thế nào ấy, bà ạ”, ông Bảy bỏ bát cơm  xuống bàn, uể oải nói.
“Ông thì lúc nào mà chẳng vậy, - bà Lý vợ ông thản nhiên đáp do vốn quen với những lời tương tự khi trái gió trở trời. - Ông ăn đi kẻo nguội”.
“Đành thế, nhưng hôm nay thì khác, khác lắm cơ”.
“Vậy thì ăn nhanh lên mà đi nằm”, bà nói rồi cúi xuống bát cơm.
Mới chập tối nhưng bên ngoài trăng đã sáng. Trăng rằm mùa hè sáng đến mức át cả mấy ngọn đèn điện tù mù trong hẻm phố của họ. Như nhiều người già khác, họ thường ăn sớm, đi ngủ sớm. Mấy hôm nay trời đẹp, chưa thấy dấu hiệu thay đổi thời tiết nào nên bà Lý lấy làm ngạc nhiên.
“Hay ông ốm?” cuối cùng bà hỏi.
“Tôi cũng chẳng biết nữa. Chỉ thấy mệt mỏi kinh khủng. Cứ như cả người tôi đang tan ra từng mảnh...”
Bà Lý ngừng ăn, chăm chú nhìn chồng. Linh tính báo bà có thể đây là trường hợp nghiêm trọng chứ không như những lần khác. Mặt ông tái nhợt. Ông nhăn nhó, vặn vẹo, đôi mày nhíu lại, môi mím chặt như đang đau đớn ghê gớm. Thân hình vốn bé nhỏ của ông càng trở nên bé nhỏ hơn, chốc chốc lại co giật.
“Ông làm sao vậy, ông Bảy?” bà Lý lo lắng hỏi.
Ông không đáp, có lẽ vì không nói được, dường cũng như chẳng nghe bà hỏi. Ông tiếp tục nhăn nhó, vặn vẹo. Cả con người ông cứ bé nhỏ và mờ nhạt dần cho đến lúc, khoảng mấy phút sau, trước sự sững sờ của bà Lý, sững sờ đến mức đờ ra không biết nói gì, ông từ từ... biến mất. Vâng, biến mất! Ngay bên bàn ăn trước mặt vợ. Bà tận mắt thấy ông... biết nói thế nào được nhỉ, tận mắt thấy ông tan vào không khí. Đúng, không thể tin nổi, nhưng đúng là ông đã tan vào không khí!
“Ông Bảy, ông Bảy ơi! Ông đâu rồi? Đâu rồi? Trời ơi, ông Bảy nhà tôi biến đi đâu mất rồi, - cuối cùng bà Lý thất thanh kêu to khi chợt hiểu chuyện gì vừa xảy ra với chồng. Bà dụi mắt, huơ hai tay về chỗ ông mới ngồi. Bà không tin ông có thể biến mất như vậy. Ông là chồng bà, là người chứ đâu phải ma. Vậy mà bây giờ không thấy ông đâu nữa. Bà cấu mạnh vào má mình xem có phải đang mơ không. Thậm chí bà còn chạy tìm quanh bếp, tìm cả trong tủ lạnh. Quả thật ông Bảy chồng bà đã tan biến vào không khí. Nhưng không thể như thế được. Không thể!
Bà Lý ngồi phịch xuống ghế, bàng hoàng không biết nghĩ gì, làm gì.

   *   
Sáng hôm sau bà Lý được mời lên công an quận để giải thích về sự mất tích bí ẩn của chồng bà. Cái câu “ông ấy bỗng nhiên biến mất trước mặt tôi” không chỉ không thuyết phục được ai mà còn làm tăng thêm sự nghi ngờ rằng có thể đây là vụ hình sự nghiêm trọng, tất nhiên bà là nghi can số một. Cũng vì lẽ ấy, bà bị giữ luôn ở đồn. Đích thân ông trưởng công an quận tiếp bà, hay chính xác hơn, hỏi cung bà. Do chỗ quen biết nên bà được đối xử khá lịch sự. Tuy vậy, công việc là công việc, và ông kia vẫn phải làm trọn bổn sự của mình. Ông chăm chú nghe bà kể hết mọi chuyện, chỉ thỉnh thoảng nhướn mày có vẻ ngạc nhiên nhưng không một lần ngắt lời. Sau đó ông cho mời bác sĩ thần kinh tới, ra lệnh lập một tổ điều tra đặc biệt về vụ này vì bản thân ông cũng ý thức được mức độ phức tạp và có thể nghiêm trọng của nó. Ông còn ra lệnh tuyệt đối không để giới báo chí biết, sợ họ đưa tin thất thiệt gây hoang mang, và do vậy cản trở công việc điều tra của ông.
Đêm đầu tiên bà Lý phải ngủ ở đồn công an không may lại mất điện. Trời oi nồng, phòng bà ở tầng một nên chẳng có tí gió nào. Một căn phòng tử tế có đủ buồng tắm, vệ sinh - bà biết đó là sự ưu ái của người bạn cũ - nhưng cửa phòng vẫn bị khóa bên ngoài. Quy định bắt phải vậy. Bà nằm yên, trân trân nhìn lên trần nhà tối om. Ngọn đèn dầu leo lét trên chiếc bàn con bên cạnh. Bà vẫn chưa hết sững sờ với những gì mới xảy ra. Lòng thương chồng, sự ngạc nhiên bối rối, cộng với nỗi sợ về cuộc sống cô đơn đang chờ phía trước cứ làm đầu óc bà rối lên, muốn chợp mắt một chút cho đỡ căng thẳng mà không sao chợp mắt nổi. Đấy là chưa nói đến những phiền toái mà bà có thể gặp phải khi người ta điều tra “vụ này”.
“Ông Bảy ơi, sao ông có thể ra đi một cách oái oăm như thế? - bà thốt lên thành lời. - Sao ông nỡ đẩy tôi vào cái cảnh tù tội này?”
Rồi bà tấm tức khóc, khóc rất lâu. Lúc này chắc đã khuya. Xung quanh yên lặng như tờ, chỉ thỉnh thoảng từ xa vọng lại tiếng xe máy đều đều ngái ngủ. Bỗng bà nghe hình như có gì khẽ sột soạt. Mà sát chỗ bà nằm. Gì thế nhỉ? Bà nín thở, lo lắng theo dõi. Cuối cùng, trong ánh sáng nhờ nhờ của ngọn đèn dầu, bà thấy tấm vải che cửa sổ ngay trên đầu bà đang đung đưa. Bà thở phào nhẹ nhõm, nhưng chợt lấy làm lạ là sao trong căn phòng đóng kín nghẹt thở này chiếc mành có thể đung đưa được. Hơn thế, bà có cảm giác như ai đó đang nhìn mình ở khoảng cách gần.
“Ai đấy? - bà khẽ hỏi khi vùng dậy ngồi xuống cạnh chiếc bàn, đối diện với ngọn đèn. Bà run lên vì sợ. - Hay là ông, ông Bảy?” bà buột miệng hỏi, chẳng hiểu vì sao.
Tất nhiên ông Bảy không đáp, nếu quả thật đó là ông. Liền sau đó ngọn đèn dầu không ai thổi mà bỗng dưng tắt. Bà Lý càng ngạc nhiên hơn, nhưng vốn nhanh trí, bà quẹt diêm châm đèn. Bà chợt nảy một ý định, thông minh và táo bạo, khiến bà trở nên dũng cảm.
“Có thật đúng là ông không, ông Bảy?” - bà thì thầm hỏi.
Chiếc đèn lại tắt. Bà ngồi thừ người. Lần này thì bà cảm thấy có gió thật, một luồng gió nhỏ ngoằn ngoèo lướt nhẹ qua mặt bà. Các cửa vẫn đóng kín, kể cả chiếc cửa con sát trần. Bà thử thắp đèn hai lần nữa, và cả hai lần đều bị ai đó thổi tắt. “Ông Bảy! Đúng là ông Bảy rồi. Ông ấy chẳng biến thành không khí đó sao?” Giờ thì bà tin chắc như vậy. Điều này làm bà vừa sợ vừa mừng.
Sáng hôm sau bà xin được gặp ngay bạn bà, ông trưởng công an quận. Bà háo hức kể chuyện đêm trước, nhưng ông kia chỉ cười. Thấy thế, bà đứng dậy đóng hết cửa, thắp chiếc đèn dầu, đặt ngay giữa hai người.
“Nào, ông Bảy, có đúng thật ông đã tan vào không khí như tôi nói thì ông hãy làm tắt ngọn đèn này đi cho ông Vinh công an đây thấy,” - bà nói, thong thả và rõ ràng từng tiếng như ra lệnh.
Ngọn đèn tắt. Cố giấu vẻ ngạc nhiên, ông Vinh ngồi im một chốc rồi dịch chiếc đèn ra xa và tự tay châm lửa.
“Nào thử lần nữa đi, ông Bảy,” - bà Lý nói.
Chiếc đèn lại tắt. Hai người không nói hoặc làm gì thêm.
Chiều hôm ấy ông Vinh cho bà Lý về nhà, nhưng vẫn chỉ thị đội điều tra tiếp tục công việc theo hai hướng: tăng cường tìm kiếm ông Bảy và xem xét khả năng đây là một vụ hình sự nghiêm trọng.

                           *   
Ngẫu nhiên tôi cũng là bạn cũ của gia đình bà Lý. Tôi được bà tin cậy cho biết những gì đã kể trên. Ngay lập tức tôi nghĩ đến truyện ngắn Horla của nhà văn Pháp thế kỷ mười chín mà tôi yêu thích, Guy de Maupassant. Truyện kể về một giống người, hay chính xác hơn, một loài sinh vật vô hình nào đó đã theo tàu buôn từ Brasil tới Pháp rồi xuất hiện trong phòng ngủ nhân vật của ông. Người (sinh vật) tàng hình ấy luôn hiện diện đâu đó rất gần bên cạnh, ăn những thứ dạng lỏng, biết giở sách báo và cầm các đồ vật nhẹ. Theo Maupassant thì đó là một dạng tiến hóa cao hơn loài người nên chúng ta không nhìn thấy và không lý giải nổi, và rằng do bất lực, chúng ta dễ dàng chụp cho nó cái mũ mê tín dị đoan hay đại loại như vậy. Tôi là người đầu óc duy lý và tỉnh táo. Tôi không tin những chuyện như thế mặc dù thích đọc chúng, nhưng cũng chỉ là cái thích đối với một loại hình văn học mà bây giờ người ta hay gọi là kỳ ảo, phi thực. Mà rồi điều này chẳng liên quan gì đến câu chuyện của bà Lý, một người trung thực mà tôi biết rõ hàng chục năm nay. Tôi không có cơ sở cũng như không có quyền mảy may nghi ngờ bà.
Một lần, hôm ấy là ngày thứ bảy sau sự kiện có một không hai ấy, tiện đường, tôi ghé thăm bà. Tôi không biết lúc này bà có còn là đối tượng bị nghi ngờ, theo dõi nữa không, nhưng nghe nói cuộc điều tra đang bế tắc. Mặc dù rất cố, người ta vẫn không tìm ra được động cơ nào khiến bà có thể giết ông chồng mà bà gắn bó suốt cả đời. Họ không có tài sản đáng giá để giết nhau nhằm chiếm đoạt. Yếu tố yêu đương thì ngay từ đầu đã được loại bỏ vì chính bản thân sự phi lý của nó. Việc ông Bảy đi đâu đấy rồi mất tích cũng chẳng mấy thuyết phục. Vậy chỉ còn lại duy nhất một cách lý giải, rằng những gì bà Lý kể là có thật. Tức là ông Bảy quả đúng đã “bỗng dưng tan vào không khí và mất tăm luôn!” Nghĩa là ông đang tồn tại đâu đó quanh ta dưới dạng trong suốt, tàng hình hay một dạng nào đó ta chưa hiểu. Nhưng thế thì thật phi lý và không thể tin nổi. Tôi cũng không tin.
Tôi đến thăm bà trong tâm trạng như vậy. Khi bước vào nhà, tôi thấy bà đang ngồi với ông trưởng công an quận. Trước đấy tôi có gặp và nói chuyện với ông mấy lần nhưng không thuộc loại quen thân. Sợ họ có chuyện riêng, tôi định ra về, hẹn lần khác sẽ đến, nhưng hai người hình như lấy làm mừng vì sự có mặt của tôi.
Chúng tôi ngồi uống trà, chẳng nói gì đặc biệt ngoài những chuyện  người già thường nói, cố tế nhị không nhắc đến chuyện không vui vừa rồi. Tôi sẽ chẳng dài dòng đem kể ra đây buổi gặp này, nếu không vì một sự kiện bất ngờ, có thể nói là trọng đại, xảy ra vào đúng hôm ấy. Các bạn có thể yên tâm tin tôi như tôi tin bà Lý, vì tôi cũng là người trung thực và đáng kính.
Chuyện thế này. Khi trời tối, nể lời năn nỉ của chủ nhà, tôi và ông Vinh ngồi xuống bàn ăn cùng bà. Giữa chừng, như sau này bà Lý kể lại với mọi người, đúng vào cái lúc cách đấy một tuần ông Bảy tự dưng biến mất, thì bất ngờ ông ấy lại xuất hiện. Ông ấy xuất hiện thế nào thì quả thực không ai trong chúng tôi nhìn thấy. Chỉ thấy bỗng nhiên có ông ngồi bên cạnh, ngay trên chiếc ghế hôm nào ông ngồi. Có thể ngược lại với lần trước, lần này lúc đầu ông chỉ là cái bóng mờ nhạt, rồi cái bóng ấy đặc dần, đặc dần, rõ nét hơn và cuối cùng thì ông hiện ra bằng xương bằng thịt như vốn có. Cứ như ông chẳng hề biến đi đâu và vẫn luôn ngồi đấy trên chiếc ghế của ông suốt cả tuần vừa rồi. Ông còn chìa chiếc bát cho bà Lý xới cơm, vẻ bình thản như không có chuyện gì đặc biệt xảy ra. Còn việc ba chúng tôi đã ngạc nhiên, vui mừng và sợ hãi thế nào thì tôi buộc phải trông nhờ vào trí tưởng tượng phong phú của các bạn.
Ông Bảy có vẻ ngơ ngác không hiểu vô số các câu chúng tôi dồn dập hỏi ông. Cuối cùng, phải vất vả lắm chúng tôi mới biết được qua những lời ông nói lộn xộn điều mà chúng tôi cho là rất quan trọng, có thể là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự biến mất và trở về bí ẩn của ông. Theo ông Bảy kể lại thì buổi chiều trước hôm ông “bốc hơi”, khi ngồi nghỉ ở công viên Con Cóc, ông có bắt chuyện với một người lạ mặt và đã ăn một, vâng, chỉ một chiếc kẹo do anh ta cứ nằng nặc mời. Sau đấy ông bắt đầu cảm thấy khó chịu trong người, chiều tối thì xảy ra cái chuyện ấy. Vì sợ bà Lý trách “bạ ai mời gì cũng ăn” nên ông không cho bà biết.
Ông trưởng công an quận suy nghĩ một chốc rồi hỏi:
“Anh ta bề ngoài trông thế nào?”
“Còn trẻ, khoảng ba mươi gì đó, có ria mép, đeo kính trắng không gọng, giọng lơ lớ như Việt Kiều”.
“Còn gì nữa không?”
“À, còn cái này đặc biệt, - ông Bảy nói thêm. - Bên phải cằm anh ta có nốt ruồi đen rất to với hai sợi râu dài. Lúc ấy tôi nhìn và tự hỏi sao anh ta không cắt chúng đi, vì thế mới nhớ rõ”.
Trả lời câu hỏi của chúng tôi rằng ông đã ở đâu, làm gì trong suốt bảy ngày qua, ông Bảy chỉ lắc đầu, bảo  không nhớ gì.
“Thế có phải chính ông thổi tắt ngọn đèn ở đồn công an không?” - bà Lý hỏi.
Ông Bảy dướn mắt ngạc nhiên.
Đối với ông Vinh, đây là những chi tiết rất quan trọng. Ông vội vã từ biệt ra về, hẹn sẽ đến nói chuyện thêm với ông Bảy.

   *   
Mấy ngày sau, ngẫu nhiên tôi gặp ông Vinh tại quán bia Ngã Năm Lò Đúc. Ông thường tới đó vào giờ nghỉ trưa. Ông cho tôi biết một tin rất đáng chú ý và hiện còn phải giữ bí mật. Hôm qua công an Cần Thơ có báo về Bộ một trường hợp tương tự như ông Bảy, có điều người kia, một phụ nữ trẻ, chỉ xuất hiện trở lại sau hai tuần. Người nhà cho biết cô kể trước đấy có ăn hai chiếc kẹo của một người có đặc điểm giống hệt người ông Bảy miêu tả. Rõ ràng các sự việc bí ẩn kia có mối liên quan nào đó với những chiếc kẹo của người này. Ngoại vụ thành phố Hồ Chí Minh cho biết có một Việt Kiều như thế đã đến Việt Nam cách đây ba tháng với danh nghĩa đại diện chào hàng cho một công ty dược phẩm lớn ở Mỹ. Hiện anh ta chưa xuất cảnh. Cảnh sát dò tìm tung tích khắp nơi nhưng chưa có kết quả. Căn cứ vào ý kiến của bộ phận khoa học hình sự, một trong những giả thiết được nhiều người cho khả dĩ hơn cả, là công ty dược kia đã sản xuất được một loại thuốc mới có khả năng phân hóa cơ thể người thành các phân tử nhỏ mắt thường không thấy, và sau một thời gian tùy vào liều lượng đã dùng, thuốc hết tác dụng, các phân tử ấy keo đặc trở lại và con bệnh sẽ quay về hình hài cũ. Có thể đây là thứ thuốc giúp người ta có thời gian chờ phát minh những loại biệt dược điều trị các căn bệnh hiện nay được xem là nan y. Thuyết này có bằng chứng hết sức thuyết phục, đó là việc ông Bảy ăn một chiếc kẹo đã phải biến mất một tuần, còn cô gái Cần Thơ trót ăn hai nên phải bắt người thân lo lắng gấp đôi.
Hôm nay, khi tôi đang viết những dòng này thì bà vợ tôi xăm xăm bước vào với tờ báo mới trong tay. Báo Công An, tất nhiên, vì bà ấy vốn là độc giả nhiệt tình của nó, còn bây giờ bà đến chắc để bắt tôi đọc một bài rùng rợn nào đấy về các thủ đoạn bất lương của thời bây giờ. Để biết mà phòng! Tôi dừng gõ máy vi tính, liếc nhìn chỗ ngón tay bà ấy đang dí vào. Đó là lệnh truy nã toàn quốc tên... quốc tịch Mỹ có kèm theo bức ảnh của hắn. Một khuôn mặt dễ coi, còn trẻ, đeo kính trắng với nốt ruồi to phía bên phải cằm. Không thấy mấy sợi lông. Chắc ảnh nhỏ nhìn không rõ hoặc hắn đã cắt ngắn. Phía dưới là lời cảnh báo mọi người chớ ăn những chiếc kẹo mà hắn có thể mời.
“Ông nhớ chưa, phải luôn cảnh giác đề phòng mới được, - vợ tôi nói như ra lệnh. - Từ nay ai cho kẹo đừng ăn! Ông thì chẳng khác gì con nít. Bạ ai cho gì cũng ăn!”
Rồi bà ấy bỏ đi, với cảm giác hài lòng như vừa làm một việc thiện.

Hà Nội, 19. 4. 2002                

No comments:

Post a Comment