MƯỜI TAI HỌA XẢY RA VỚI VUA PHA-RA-ÔNG
Đúng như Thiên Chúa nói,
Pha-ra-ông, tiếc thay,
Không cho người Do Thái
Đi khỏi vùng đất này.
Điều ấy buộc Thiên Chúa
Ra tay làm phép màu
Để ông vua Ai Cập
Biết điều, không cứng đầu.
Qua Mô-sê, Thiên Chúa
Sai thầy A-ra-hon
Cầm một chiếc gậy lớn
Làm từ cành cây non,
Rồi ném cây gậy ấy
Trước mặt Pha-ra-ông.
Nó biến thành con rắn
Dữ tợn như con rồng.
Pha-ra-ông lập tức
Cho người mời đến ngay
Các pháp sư, phù thủy
Để chống con rắn này.
Họ thi nhau ném gậy,
Cũng thành rắn, tuy nhiên,
Những con rắn của họ
Bị rắn rồng ăn liền.
1.
NƯỚC
BIẾN THÀNH MÁU.
Vua Ai Cập hoảng sợ,
Nhưng vẫn không sờn lòng,
Không cho người Do Thái
Đi ra khỏi nước ông.
Mô-sê, theo lời Chúa,
Cầm con rắn khổng lồ,
Vốn trước là chiếc gậy,
Đập xuống nước sông hồ.
Lập tức nước thành máu,
Cá chết, xác nổi đầy.
Người dân khắp Ai Cập
Không thể uống nước này.
Thế mà vua của họ
Không cho người Hip-ri,
Tức là người Do Thái,
Được khăn gói ra đi.
2.
ẾCH NHÁI
Thiên Chúa lại làm phép.
Ếch nhái ngập đầy sông,
Cả trên đường, ngoài ruộng.
Không chỗ nào là không.
Chúng có trên giường ngủ,
Mọi xó xỉnh trong nhà,
Trong túp lều xơ xác,
Trong cung điện nguy nga.
Chúng bám đầy quần áo
Của vua Pha-ra-ông.
Vua gọi Mô-sê đến,
Khẩn khoản nói với ông:
“Ngươi hãy xin Thiên Chúa
Xua lũ ếch nhái này.
Lập tức, dân Do Thái
Được rời khỏi nơi đây.”
Thiên Chúa diệt ếch nhái.
Thế mà Pha-ra-ông
Lật lọng, không cho họ
Được đi khỏi nước ông.
3.
MUỖI
Qua Mô-sê, Thiên Chúa
Bảo thầy A-ha-ron
Lấy gậy đập xuống đất
Vừa đúng một vòng tròn.
Bụi bay lên mù mịt.
Lập tức, đám bụi này
Biến thành muỗi đen kịt,
Như một đám mây dày.
Đám mây muỗi khủng khiếp
Bao trùm lên khắp nơi.
Dính vào cây, vào lá,
Vào mắt mũi mọi người.
Các pháp sư, phù thủy
Của vua Pha-ra-ông
Cố tìm cách diệt muỗi,
Nhưng vô ích, uổng công.
Thế mà ông vua ấy,
Một ông vua lạ kỳ,
Không cho người Do Thái
Bỏ Ai cập ra đi.
4.
RUỒI NHẶNG
Mô-sê được Thiên Chúa
Dặn báo Pha-ra-ông
Ngài sẽ cho ruồi nhặng
Tàn phá đất nước ông,
Nếu một mực không chịu
Để những người Hip-ri,
Tức là con dân Chúa,
Được tự do ra đi.
Thế là khắp Ai Cập
Ruồi nhặng bay khắp nơi,
Tàn phá hết mọi thứ,
Che lấp cả mặt trời.
Đến mức vua khẩn khoản
Xin Thiên Chúa ngừng tay.
Nhưng lần nữa thất hứa.
Thật tráo trở vua này.
5. BỆNH DỊCH
Lại lần nữa Thiên Chúa
Buộc phải dùng phép màu,
Giáng đủ loại ôn dịch
Gây chết chóc, buồn đau.
Gia súc người Ai Cập
Chết, xác nằm khắp nơi,
Gồm cừu, dê, lừa, ngựa,
Lây bệnh cả sang người.
Trong khi đó, thật lạ,
Gia súc người It-ra-en
Vẫn béo tốt, khỏe mạnh,
Đàn nào cũng còn nguyên.
Thế mà rồi lần nữa
Pha-ra-ông, tiếc thay,
Không cho người Do Thái
Được rời khỏi nước này.
6. MỤN NHỌT
Và Thiên Chúa lại bảo
Mô-sê, A-ha-ron
Vào bếp lấy bồ hóng,
Tung trước Pha-ra-ông.
Bồ hóng thành mụn nhọt,
Trên gia súc, trên người.
Sưng tấy và mưng mủ,
Thật hiếm có trên đời.
Một cảnh tượng kinh hãi
Ở Ai Cập xưa nay.
Sự trừng phạt của Chúa
Thật đáng sợ lần này.
Thế mà vua Ai Cập,
Ương bướng đến cực kỳ,
Khắp người đầy mụn nhọt,
Vẫn không chịu cho đi.
7.
MƯA ĐÁ
Lần nữa Thiên Chúa phán:
“Đòn trừng phạt hôm nay
Đáng lẽ đã giết hết
Vua và dân nước này.
Nhưng ta cho được sống
Để biết quyền y ta.
Để mọi người thấm thía,
Khắp mọi nơi, mọi nhà.”
Mô-sê, theo lời Chúa,
Giơ chiếc gậy lên trời.
Trời trở nên đen xịt,
Nhìn không thấy mặt người.
Lập tức có mưa đá.
Đá to bằng nắm tay,
Từ trên cao rơi xuống,
Liên tục suốt mấy ngày.
Hoa màu bị chết hết.
Cây cối đổ khắp nơi.
Mưa đá cũng làm chết
Nhiều súc vật và người.
Thật lạ, vua Ai Cập,
Chẳng biết vua nghĩ gì,
Vẫn bướng bỉnh không chịu
Cho người Do Thái đi.
8. CHÂU CHẤU
Thiên Chúa lại làm phép:
Châu chấu bay khắp nơi,
Thành những đám mây lớn,
Che khuất cả mặt trời.
Chúng bay vào nhà ở
Của người nghèo, người giàu.
Ăn trụi hết cây lá,
Phá sạch hết hoa màu.
Các con dân Ai Cập
Kêu với Pha-ra-ông:
“Xin Đức Vua nghĩ lại.
Đất nước sắp diệt vong.”
Vua xin Thiên Chúa cứu.
Ngài giơ tay lên cao.
Châu chấu liền biến mất,
Không còn một con nào.
Thế mà vua không chịu
Để người Do Thái đi,
Vì bị chính Thiên Chúa
Làm trái tim chai lì.
9. CẢNH TỐI TĂM
Mô-sê, theo lời Chúa,
Giơ hai tay lên trời.
Lập tức, trong giây lát,
Bóng tối trùm khắp nơi.
Toàn đất nước Ai Cập
Tối tăm trong ba ngày.
Khắp nơi tiếng than khóc
Suốt quãng thời gian này.
Nhưng lạ, trời vẫn sáng
Những nơi người Hip-ri
Và gia súc sinh sống,
Như không hề có gì.
Pha-ra-ông hoảng sợ,
Bảo Mô-sê: “Thôi, thôi!
Ta cho đi, đi hết,
Nhưng chỉ người mà thôi.
Còn gia súc, của cải
Phải để lại nơi này.
Và các ngươi có thể
Lên đường ngay hôm nay.
10. CÁC CON ĐẦU LÒNG PHẢI CHẾT
Nhưng Thiên Chúa lại phán
Với Mô-sê, rằng Ngài
Trước khi rời Ai Cập
Muốn lần nữa ra oai,
Giáng thêm tai họa nữa
Lên người dân nước này.
Ngài đi khắp đất nước,
Đúng nửa đêm hôm nay,
Ngài làm phép, giết hết
Những đứa con đầu lòng
Của người dân Ai Cập,
Kể cả Pha-ra-ông.
Và rồi đúng như thế.
Ngay rạng sáng hôm sau
Tất cả dân Ai Cập
Khóc thương đứa con đầu.
Toàn bộ dân Do Thái,
Do Mô-sê dẫn đường,
Đã đi vào sa mạc
Giữa sáng sớm mù sương.
DÂN IT-RA-EN RỜI KHỎI ĐẤT AI
CẬP
1
LỄ VƯỢT QUA
Trước đó, Thiên Chúa phán
Với dân It-ra-en:
“Mỗi gia đình phải nhớ
Để dành một con chiên.
Chỉ chiên đực, một tuổi,
Ngày mồng mười, hôm nay,
Và giữ nó cẩn thận
Đến mười bốn tháng này
Toàn cộng đồng Do Thái
Sẽ dâng tế, rồi đem
Máu nó bôi lên cửa,
Thịt thì ăn ban đêm.
Thịt ăn cùng rau đắng
Và bánh mì không men.
Sáng hôm sau, tất cả
Con dân It-ra-en,
Không bỏ gì sót lại,
Với chiếc gậy cầm tay,
Rời khỏi đất Ai Cập.
Và đó chính là ngày
Lễ Vượt Qua mừng Chúa
Đã dẫn dắt các con
Đi đến vùng đất mới
Rộng và tươi tốt hơn.”
*
Từ đấy dân Do Thái
Tổ chức ngày lễ này
Như ngày lễ lớn nhất,
Mãi đến tận ngày nay.
Bắt đầu từ chiều tối,
Mười bốn tháng Ni-san,
Tháng Ba, Tư, Dương lịch,
Mọi người ngồi bên bàn,
Cùng uống bốn cốc rượu,
Ăn bánh mì không men
Với vài loại rau đắng
Và các món thịt chiên.
Người Do Thái làm lễ
Suốt hai tuần linh đình,
Để tưởng nhớ Thiên Chúa
Đã cứu giúp dân mình.
2
PHÉP LẠ TRÊN
BIỂN ĐỎ
Hay tin dân Do
Thái
Đã lên đường ra
đi,
Vua Ai Cập chợt
nghĩ:
“Ta đúng chẳng
biết gì.
Để chúng đi
khỏi nước,
Ai nô lệ cho
ta?
Phải bắt chúng
quay lại.
Có lẽ chưa đi
xa.”
Rồi vua liền ra
lệnh
Xe và lính đuổi
theo.
Sáu trăm chiến
xa tốt.
Binh lính thì
rất nhiều.
Khi đến bờ Biển
Đỏ
Quân của Pha-ra-ông
Đuổi kịp người
Do Thái
Cắm trại thành
đám đông.
Nhiều người
trong số họ
Sợ hãi, trách
Mô-sê.
Một số người
thậm chí
Còn muốn được
quay về.
Mô-sê đáp: Đừng
sợ.
Anh em cứ ngồi
yên.
Thiên Chúa sẽ
nhất định
Cứu dân It-ra-en.”
Theo lời Thiên
Chúa phán,
Mô-sê đưa hai
tay
Là là trên mặt
biển,
Và mặt biển, lạ
thay,
Bị tách thành
hai nửa,
Lộ một dải đất
liền
Với hai bức
tường nước
Sừng sững đứng
hai bên.
Các con dân Do
Thái
Đi vào dải đất
này.
Quân Ai Cập
truy đuổi,
Đi theo mà
không hay.
Đến gần sáng,
Thiên Chúa
Lại làm phép -
chiến xa
Quân Ai Cập bị
hỏng.
Binh lính thì
kêu ca.
“Hãy giơ tay
lần nữa!”
Ngài nói với Mô-sê.
Ngay lập tức
nước biển
Từ khắp nơi đổ
về.
Quân Ai Cập
chết hết,
Không sống sót
tên nào.
Trong khi người
Do Thái
Như đi giữ đất
cao.
Thế là một lần
nữa
Thiên Chúa rất
anh linh
Đã ra tay cứu
giúp
Các con dân của
mình.
3
BÁNH MAN-NA TỪ
TRÊN TRỜI
Rời đất nước Ai
Cập,
Người dân It-ra-en,
Vượt qua nhiều
khổ ải,
Đến được sa mạc
Sin.
Nhưng rồi đói
và khát,
Rồi đường xa,
nặng nề,
Không ít người
lên tiếng
Oán trách ông
Mô-sê.
Rằng họ thà ở
lại
Làm nô lệ chẳng
sao,
Hơn chết giữa
sa mạc
Với bụng đói
cồn cào.
Rằng cuối cùng
không lẽ
Họ bỏ mình ở
đây
Giữa bốn bề cát
trắng,
Sau vất vả bao
ngày?
Mô-sê được
Thiên Chúa
Sai báo với mọi
người:
Thiên Chúa sẽ
làm phép
Bánh rơi từ
trên trời.
Hàng ngày mọi
người nhặt
Khẩu phần bánh
của mình.
Ngày nào ăn
ngày ấy,
Không nhặt
nhiều để dành.
Vào các ngày
thứ Sáu,
Khẩu phần sẽ
gấp hai,
Để còn ăn Thứ
Bảy.
Không ai giành
phần ai.
Thiên Chúa còn
cho thịt,
Cũng đều đặn
hàng ngày.
Mọi người ăn
lấy sức
Vượt qua khó
khăn này.
Ngay buổi chiều
hôm ấy,
Bỗng nhiên từ
khắp nơi
Chim cút kéo
nhau đến
Bay rợp cả bầu
trời.
Các con chiên
của Chúa
Bắt chúng, xâu
từng dây.
Buổi sáng, xung
quanh trại
Sương trắng phủ
rất dày.
Khi sương tan,
họ thấy
Một lớp bột mịn
màng,
Như những chiếc
bánh lớn
Nằm trên cát
màu vàng.
Họ hỏi: “Cái gì
vậy?”
Mô-sê đáp: “Cái
này
Là bánh của
Thiên Chúa
Cho chúng ta
hàng ngày.”
“Man hu? Gì thế nhỉ?”
Các con chiên
hỏi nhau.
Và rồi hai chữ
ấy
Thành tên bánh
về sau.
Đó là một loại
bánh
Giống bánh
tráng, xốp phồng,
Rất mịn, màu
ngà trắng,
Có hương vị mật
ong.
Người Do Thái
ăn nó
Trong bốn mươi
năm liền
Khi họ rời Ai
Cập
Tới đất It-ra-en.
4
MƯỜI ĐIỀU RĂN
CỦA THIÊN CHÚA
Con dân người
Do Thái
Rồng rắn một
đoàn dài,
Đi, cuối cùng
dựng trại
Trước ngọn núi
Si-nai.
Mô-sê leo lên
núi
Gặp Thiên Chúa
anh linh.
Ngài phán, sai
nhắn lại
Với con dân của mình:
“Các ngươi nay đã biết
Ta là người thế nào.
Giúp thoát khỏi Ai Cập,
Cho bánh, thịt ra sao.
Nếu các ngươi thực sự
Nghe theo lời của ta,
Giữ đúng như Giao Ước,
Một ngày kia không xa,
Các ngươi, dân Do Thái,
Có vương quốc của mình,
Ở một vùng đất thánh,
Màu mỡ và tốt lành.
Ta hứa vùng đất ấy,
Hứa che chở các ngươi
Là con dân Thiên Chúa,
Được ân phước suốt đời.”
Ông Mô-sê xuống núi,
Báo toàn trại của mình:
“Ba ngày nữa các bạn
Thấy Thiên Chúa hiện hình.”
Đúng ba ngày sau đó,
Sấm chớp nổ vang trời.
Chợt Thiên Chúa xuất hiện
Trong ánh lửa sáng ngời.
Từ núi cao bốc khói,
Thiên Chúa phán thế này:
“Ta đã làm phép lạ,
Đưa các người tới đây.
Giờ hãy nghe ta phán
Mười điều răn như sau.
Các ngươi phải thực hiện,
Với mình và với nhau.
Một, con dân Thiên Chúa
Không được thờ phụng ai
Ngoài thờ ta, Thiên Chúa,
Mãi mãi và lâu dài.
Hai, phải luôn ghi nhớ,
Không được dùng danh ta,
Sai trái và bất xứng,
Để làm việc gian tà.
Ba, không được làm ác.
Phải ăn ở có tình.
Luôn thương yêu người khác
Như chính bản thân mình.
Bốn, sáu ngày vất vả,
Ta tạo thế giới này.
Ngày tiếp theo, ta nghỉ.
Và đó cũng là ngày
Được ta ban ân phước,
Ngày Sa-bat, các ngươi
Không ai phải làm việc,
Được tùy mình nghỉ ngơi.
Năm, các ngươi phải nhớ
Luôn thờ kính mẹ cha,
Để họ sống trường thọ
Hưởng ân phước của ta.
Sáu, không được độc ác,
Không giết người, sát sinh.
Bảy, phải thương yêu vợ
Và không được ngoại tình.
Tám, không được trộm cắp.
Chín, không làm chứng gian.
Mười, thấy của người khác
Không được nổi lòng tham.
Tức là không ham muốn
Cái không phải của mình,
Dù đó là lừa, ngựa
Hay cô hầu gái xinh.”
Thiên Chúa đã phán thế
Từ đỉnh núi Si-nai
Mười điều răn bắt buộc
Đối với con dân Ngài.
5
CON BÊ BẰNG
VÀNG
Mô-sê ở trên
núi
Với Thiên Chúa
khá lâu.
Dân It-ra-en
đợi mãi,
Vẫn không thấy
ông đâu.
Cuối cùng họ
đến gặp
A-ra-hon, và
rồi
Nói: “Ông chọn
thần khác
Để dẫn dắt
chúng tôi.”
A-ra-hon bảo họ
Gom vàng trong
toàn dân,
Đúc một con bê
nhỏ,
Mọi người tôn
làm thần.
“Hỡi con dân Do
Thái,
Thần của chúng
ta đây.
Hãy cúi đầu thờ
phụng
Con bê bằng
vàng này!”
Thiên Chúa
nghe, tức giận
Nói với ông Mô-sê:
“Dân ngươi đã
hư hỏng.
Hãy nhanh chóng
quay về.
Để mặc ta với
chúng.
Chúng sẽ biết
uy ta.
Sẽ có sự trừng
phạt
Với mọi người,
mọi nhà!”
Ông Mô-sê xuống
núi
Sau bốn mươi
đêm ngày
Được ở cùng
Thiên Chúa
Trên núi cao
đầy mây.
Khi mới đến gần
trại,
Ông nhìn thấy
con bê
Và đám đông
nhảy múa
Xung quanh nó,
say mê.
Trong tay ông
lúc ấy
Là hai tấm bia
dày.
Hai tấm bia
Chứng Ước,
Chúa sai mang
về đây.
Trên hai tấm
bia ấy,
Cả mặt trước,
mặt sau,
Đều có chữ của
Chúa
Từng nét một,
khắc sâu.
Ông đập chúng
vỡ vụn
Vì phẫn nộ, bất
bình,
Rồi lại leo lên
núi,
Thưa với Chúa
của mình:
“Đúng là đám
dân ấy
Đã phạm tội,
tiếc thay.
Nhưng con xin
Thiên Chúa
Tha cho chúng
lần này.”
6
HÒM BIA CỦA THIÊN
CHÚA
Khi nghe xong,
Thiên Chúa
Bảo Mô-sê thế
này:
“Tiếc là con
đập nát
Hai bia đá
trước đây.
Vậy làm hai bia
mới,
Mang lên núi
cho ta.”
Rồi Thiên Chúa
viết lại
Các dòng chữ,
đó là
Mười Điều Răn
quan trọng
Ngài nói với
dân Ngài
Khi đứng trong
khói lửa
Trên đỉnh núi Si-nai.
Ngài còn sai
ông đóng
Một chiếc hòm
gỗ dày,
Rồi mang bia
xuống núi
Đựng trong
chiếc hòm này.
Mô-sê vâng lời
Chúa,
Cất giữ bia của
Ngài
Trong hòm gỗ
mới đóng,
Để truyền giữ
lâu dài.
Cả đoàn người
Do Thái
Đi tới
Mô-xê-ra.
Ông A-ha-ron
chết,
Con ông,
Ê-la-đa
Thay ông làm tư
tế,
Công tâm và
nhiệt tình,
Lo các việc tế
lễ
Như trước đây
cha mình.
Thiên Chúa đã
ưu ái
Giao chi tộc
Lê-vi
Giữ Hòm Bia
Chứng Ước
Trong suốt cả
chuyến đi.
Mô-sê ở trên
núi
Với Thiên Chúa,
lần này
Cũng lâu như
lần trước.
Vừa đúng bốn
mươi ngày.
Nghe lời ông
cầu khẩn,
Thiên Chúa đã
mủi lòng,
Không đang tâm
trừng phạt
Người anh em
của ông.
Ngài phán: “Hãy
xuống núi
Dẫn dắt đoàn
con dân
Đi vào vùng Đất
Hứa
Mà ta đã ban
ân!”
ĐẾN MIỀN ĐẤT
HỨA
1
DO THÁM MIỀN
ĐẤT HỨA
Sau khi Mô-sê
chết,
Chúa nói với
Giô-suê:
“Ta giao con kế
tục
Công việc của
Mô-sê.
Hãy đưa con dân
Chúa
Vượt qua sông
Giô-đan,
Đi tới Miền Đất
Hứa
Mà ta đã ân
ban.
Ta sẽ luôn bên
cạnh,
Giúp đỡ con khi
cần.
Như Mô-sê ngày
trước,
Hãy dẫn dắt con
dân.”
Hai người rất
thân tín
Được ông
Giô-suê cho
Thám thính vùng
đất Thánh,
Và thành
Giê-ri-khô.
Từ Sít-tim,
lặng lẽ
Họ đột nhập vào
thành.
Đến nhà bà
Ra-kháp,
Một phụ nữ lòng
lành.
Có người đã bẩm
báo
Với vua
Giê-ri-khô
Về việc này bí
mật.
Tất nhiên vua
rất lo.
Vua lập tức ban
lệnh
Để người dân
trong thành
Bắt hai người
Do Thái,
Giao nộp ngài
thật nhanh.
Ngài còn cho binh
lính
Đi lùng sục
từng nhà.
Họ đến gặp
Ra-kháp
Để tra hỏi, và
bà
Nói hai người
có đến,
Nhưng vừa ra
khỏi thành,
Và rằng muốn
bắt họ,
Cần phải đuổi
theo nhanh.
Thật ra thì lúc
ấy
Hai người
It-ra-en
Đang được bà
che giấu
Rất kín ở tầng
trên.
Khi bọn lính đi
khỏi,
Bà bảo hai
người này:
“Tôi đoán, biết
Thiên Chúa
Gửi hai người
tới đây.
Toàn năng và uy
lực,
Thiên Chúa của
hai người
Mang lại nhiều
phép lạ
Và hiện hữu
khắp nơi.
Với hai người,
lúc nãy
Tôi xử sự có
tình.
Vậy xin nhân
danh Chúa
Và tính mạng của
mình,
Hãy thề, có
chiến sự,
Khi các ông tới
đây,
Sẽ bảo vệ mạng
sống
Mọi người trong
nhà này.”
Hai ông kia
đồng ý,
Còn dặn bà đừng
quên
Cột chỉ đỏ lên
cửa,
Nhắc người
It-ra-en.
Rồi từ trên gác
thượng,
Bà thòng một
sợi dây
Để hai người
tụt xuống,
Nhanh chóng rời
thành này.
Nhờ bà Ra-kháp
giúp,
Họ bình yên
quay về,
Đem mọi chuyện
kể lại
Cho tư tế
Giô-suê.
Vậy là biết
được địch,
Giải tỏa nhiều
mối lo,
Người Do Thái
chuẩn bị
Đánh thành
Giê-ri-khô.
2
CHIẾM THÀNH
GIÊ-RI-KHÔ
Giê-ri-khô đóng
chặt,
Nhất định không
đầu hàng.
Người Do Thái
muốn chiếm,
Nhưng không thể
dễ dàng.
Đang thất vọng,
buồn bực,
Ông Giô-suê,
một ngày,
Thấy một người
to lớn,
Chiếc gươm sáng
cầm tay.
Biết đó là vị
tướng
Của thiên binh
nhà trời,
Giô-suê liền
sụp lạy
Để lắng nghe ý
Người.
Qua vị tướng,
Thiên Chúa
Giúp các con
dân mình,
Bằng cách bày
mưu kế
Nhanh chóng hạ
được thành.
Ông Giô-suê sau
đó
Bảo người
It-ra-en
Xếp thành hàng,
rầm rộ,
Liên tục sáu
ngày liền
Mỗi ngày đúng
một lượt
Đi quanh
Giê-ri-khô,
Cùng tù và,
chiêng trống
Và những tiếng
hô to.
Bước sang ngày
thứ bảy,
Bảy tư tế dẫn
đầu
Cùng Hòm Bia
Giao Ước.
Đoàn người đi
theo sau.
Tiếng tù và
vang dậy.
Họ đi đúng bảy
vòng.
Và vừa đi, tất
cả
Vừa hô lớn:
“Xung phong!”
Khi hết vòng
thứ bảy,
Tường thành
Giê-ri-khô
Lập tức liền
sụp đổ.
Dân Do Thái reo
hò,
Vào thành như
chỗ trống.
Như đã hứa, họ
tha
Không giết bà
Ra-kháp
Và người thân
của bà.
CÁC VUA DO THÁI
SA-UN, VỊ VUA DO THÁI ĐẦU TIÊN
Bà An-na phiền muộn,
Mong có đứa con trai.
Bà cầu xin Thiên Chúa
Rất thành tâm, và Ngài
Đã cho bà sinh hạ
Một bé trai dịu hiền,
Rất đẹp lòng Thiên Chúa,
Gọi là Sa-mu-en.
Được Thiên Chúa yêu mến,
Cho gần gũi bên mình,
Ông trở thành ngôn sứ
Của Đức Chúa lòng lành.
Sa-mu-en lấy vợ.
Có hai con, đó là
Giô-en, người con trưởng.
Con thứ - A-vi-gia.
Tiếc là hai người ấy
Không theo đường cha mình.
Ham quà cáp, lợi lộc,
Vô đạo và vô tình.
Một hôm, các kỳ mục
Con dân It-ra-en
Gặp ông, ngôn sứ Chúa,
Rồi tỏ ý than phiền:
“Các con ông hư hỏng.
Ông cũng già yếu rồi.
Không có người thích hợp
Để dẫn dắt chúng tôi.
Như các dân tộc khác,
Ta, người Ít-ra-en,
Cần có vua cai trị
Để đất nước bình yên.
Vậy xin ông nhanh chóng
Bầu cho một vị vua.”
Sa-mu-en khó chịu.
Lúc đầu tưởng họ đùa.
Vì như thế là họ
Vi phạm Mười Điều Răn,
Và không xem Thiên Chúa
Là vua của muôn dân.
Ông đã dùng lý lẽ,
Giải thích một hồi lâu,
Rằng vua chỉ mang lại
Toàn cái khổ, cái đau.
Vua sẽ bắt tất cả
Phục vụ cho ông ta.
Bắt đóng thuế, đi lính,
Xây cung điện, xây nhà.
Bắt ngày đêm hầu hạ
Và lao dịch nặng nề.
Lúc ấy có kêu cứu,
Thiên Chúa cũng không nghe.
Thế mà các kỳ mục
Một mực đòi có vua.
Có vua bằng mọi giá.
Nghiêm túc, không phải đùa.
Sa-mu-en thấy thế,
Tức giận và đau lòng,
Kể lại với Thiên Chúa.
Thiên Chúa nói với ông:
“Vậy là chúng, ngu ngốc,
Chối bỏ ta hôm nay.
Được, cứ để mặc chúng
Trả giá về chuyện này.”
Sa-mu-en triệu tập
Kỳ mục và dân tình,
Cho rút thăm để chọn
Một ông vua của mình.
Cuối cùng, con ông Kit,
Là Sa-un, tráng niên,
Trúng thăm, thành vua mới
Của người It-ra-en.
Ông là người to lớn,
Thông minh và đẹp trai.
Một người rất dũng cảm,
Bản lĩnh và có tài.
Vậy là người Do Thái,
Còn gọi It-ra-en,
Qua bốc thăm, rốt cục,
Có vị vua đầu tiên.
*
Trong một trận đánh lớn
Với người Phi-li-tin,
Ông rút gươm tự sát
Để bảo vệ đức tin.
Cũng trong trận đánh ấy
Cả ba con trai ông
Đã hy sinh dũng cảm,
Khiến quân địch nản lòng.
Sinh Một Không Bảy Chín
Trước Công Lịch, qua đời
Năm Một Không Không Bảy,
Ông thực sự là người
Được dân chúng mến mộ
Và sử sách lưu danh,
Dẫu không được ban phước
Bởi Thiên Chúa lòng lành.
ĐA-VÍT, VỊ VUA DO THÁI THỨ HAI
1
ĐA-VÍT ĐƯỢC CHÚA CHỌN LÀM VUA
Vua Sa-un, ta biết,
Không được Chúa hài lòng,
Nên Ngài có ý định
Tìm người khác thay ông.
Một hôm Thiên Chúa phán,
Bảo ông Sa-mu-en
Lên đường tìm vua mới
Cho người Ít-ra-en.
Theo lời Thiên Chúa dặn,
Ông tới đất Bết-lem
Có mang theo dầu xức.
Đi suốt cả ngày đêm.
Ở đấy, ông làm lễ
Rồi mời ông Giê-sê
Cùng con trai đến dự.
Xong việc mới quay về.
Theo lời Thiên Chúa nói,
Trong gia đình ông này
Có một người có thể
Làm vua mới, lên thay.
Trong buổi lễ hôm ấy,
Trang trọng và linh đình,
Ông Giê-sê có mặt
Cùng bảy con trai mình.
Lĩnh hội ý Thiên Chúa,
Sa-mu-en hỏi ông:
“Bảy người con có mặt.
Còn người nào nữa không?”
“Còn có một đứa nữa,
Là thằng út nhà tôi.
Nó tên là Đa-vit,
Đang chăn chiên trên đồi.”
“Vậy xin ông nhanh chóng
Đưa cậu ấy về đây.”
Một lúc sau, Đa-vit
Được dẫn tới, cậu này
Có đôi mắt rất đẹp,
Khuôn mặt cũng thật xinh.
Mái tóc màu hung nhạt.
Tự tin và thông minh.
Ngay lập tức Thiên Chúa
Nói với Sa-mu-en:
“Hãy xức dầu cho nó,
Vua mới It-ra-en!”
Sa-mu-en làm lễ
Xức dầu thơm, từ nay
Thần khí của Thiên Chúa
Nhập vào cậu bé này.
Vua Sa-un biết chuyện,
Cho người đến Bê-lem
Tìm và đưa Đa-vít
Về cung để vua xem.
Vua rất thích Đa-vít,
Cho hầu hạ bên ngai.
Về sau, chàng khôn lớn,
Thành con rể của ngài.
Không ít khi Đa-vít
Ngồi chơi đàn vua nghe,
Giúp vua bớt mệt mỏi
Và suy nghĩ nặng nề.
Khi vua Sau-un chết,
Đa-vít, con rể ngài,
Trở thành vua Do Thái,
Tức vị vua thứ hai.
*
Thọ hơn bảy mươi tuổi,
Trị vì ba mươi năm,
Đa-vít là vua lớn,
Có tầm và có tâm.
Khác Sau-un, vua trước,
Ông kính Chúa hết lòng.
Một chiến binh dũng mãnh,
Lập được nhiều chiến công.
Ông cũng là bố đẻ
Của vị vua thứ ba,
Sa-lô-môn thông thái,
Nổi tiếng khắp gần xa.
2
ĐA-VÍT CHIẾN THẮNG GÔ-LI-ÁT
Thời ấy, ở Do Thái,
Dưới triều vua đầu tiên,
Có cậu bé Đa-vít
Hàng ngày đi chăn chiên.
Cậu là người con út
Trong tám anh em trai,
Hết lòng kính trọng Chúa,
Dũng cảm và có tài.
Một hôm, ngoài đồng cỏ,
Có con sư tử già
Xông tới bắt cừu cậu.
Một mình, lại ở xa,
Nhưng cậu không hề sợ.
Cậu đá nó vào hông,
Rồi túm bờm, vặn cổ,
Giết nó bằng tay không.
Đa-vít liền chợt hiểu
Rằng Chúa đã giúp mình.
Cậu quì xuống, cung kính
Lạy Thiên Chúa lòng lành.
Sa-un yêu Đa-vít
Còn vì lẽ rằng chàng
Đánh thắng Gô-li-at,
Làm quân địch kinh hoàng.
Có một trận đánh lớn
Giữa người Phi-li-tin
Đang diễn ra lúc ấy
Với người It-ra-en.
Người của cả hai phía
Đóng quân đối diện nhau,
Suốt ngày luôn hò hét
Bên một thung lũng sâu.
Phi-li-tin thắng thế.
Chúng có gã khổng lồ
Tên là Gô-li-at.
Hắn luôn miệng hô to,
Thách đối phương ra đấu.
Nhưng quân It-ra-en,
Vừa ít lại vừa yếu,
Phải co cụm, nằm yên.
Ai ai cũng sợ hắn.
Nhất là vua nước này.
Sa-un, vua Do Thái,
Phải mất ngủ đêm ngày.
Đa-vít là con út
Của ông bà Giê-sê.
Cậu ra chỗ chiến sự
Để mang tin tức về.
Thấy gã Gô-li-at
Thách quân It-ra-en,
Mà không ai dám đánh,
Thật nhục nhã, thật hèn.
Cậu xin ra đánh hắn.
Vua Sa-un không cho.
Làm sao một cậu bé
Địch nổi người khổng lồ?
Nhưng cậu nằn nì mãi,
Cuối cùng ngài gật đầu.
Thế là cậu và hắn
Cùng lao vào đánh nhau.
Cậu chỉ có chiếc gậy
Hàng ngày vẫn chăn dê,
Một túi đựng đầy đá
Treo bên hông nặng nề.
Cậu quát Gô-li-at:
“Mày là thằng bù nhìn.
Ta có đức Thiên Chúa,
Đánh mày bằng niềm tin!”
Gô-li-at khinh khỉnh,
Định túm cậu bằng tay.
Cậu ném một hòn đá
Đúng vào trán tên này.
Bất ngờ và rất mạnh,
Hắn ngã vật vì đau.
Đa-vit lấy kiếm hắn,
Vung một nhát, chém đầu.
Thấy tướng mình bị giết,
Quân địch liền vội vàng
Kéo nhau chạy, số khác
Bị giết hoặc đầu hàng.
Binh lính người Do Thái
Ào lên như sóng cồn,
Đuổi quân địch tháo chạy
Tới tận thành Éc-rôn.
Sau lần ấy, Đa-vít
Càng được vua thương yêu,
Cho chỉ huy quân đội
Và quyết định nhiều điều.
Nhưng thật tiếc, sau đó
Thấy người It-ra-en
Quá tôn vinh Đa-vít,
Vua Sa-un sinh ghen.
Vua thầm sợ Đa-vít,
Vì lo chàng sau này
Sẽ gây nên hậu họa
Và những điều không hay.
Thế là vua nung nấu
Tìm cách giết hại chàng,
Cũng là giết con rể,
Do sợ mất ngai vàng.
Con trai vua biết chuyện,
Chàng là Giô-na-than,
Liền báo với Đa-vít
Lo trốn chạy thoát thân.
Đêm ấy, vợ Đa-vít
Làm hình nộm bằng bông
Đặt lên giường, đợi sẵn,
Còn mình thì giúp chồng
Thòng dây qua cửa sổ
Để chồng thoát ra ngoài.
Khi quân nhà vua đến
Thì chẳng còn thấy ai.
Lúc chia tay, Đa-vít
Cùng chàng Giô-na-than
Thề giúp nhau, chung thủy
Trong thử thách, gian nan.
Thế là chàng từ đó
Phải bỏ trốn đi xa,
Để người vợ yêu quí
Và bạn hiền ở nhà.
3
ĐA-VÍT BỊ TRUY ĐUỔI
Đa-vít bị truy đuổi,
Sống ẩn mình trong hang
Cùng bốn trăm người bạn
Tình nguyện đi theo chàng.
Nhiều lần suýt bị bắt,
Nhờ dũng cảm, thông minh,
Nên chàng vẫn trốn thoát
Cùng các bạn của mình.
Một cận thần độc ác
Tâu với vua thế này,
Rằng Đa-vít trốn thoát
Là do nhờ lâu nay
Được các vị tu sĩ
Luôn che chở cho chàng,
Cả khi ngoài sa mạc,
Cả khi trốn trong hang.
Vua nghe, tin là thật,
Liền cho hắn tự mình
Giết một trăm tu sĩ
Cùng người trong gia đình.
Máu những người vô tội
Đã đổ xuống thành sông.
Một hành động man rợ
Khiến Đa-vít đau lòng.
*
Lần nọ, như thường lệ,
Vua xuất quân bắt chàng,
Một mình vua, khinh xuất,
Đi sâu vào cái hang
Nơi Đa-vít ẩn náu
Cùng các bạn lâu nay.
Nếu muốn, chàng có thể
Giết Sa-un lúc này.
Nhưng chàng đã không giết,
Chỉ lấy gươm, nhẹ nhàng
Cắt một phần vạt áo
Rồi cho ra khỏi hang.
Chàng nói: “Như vua biết,
Tôi không oán thù Ngài,
Mà cũng không có ý
Tiếm quyền hay cướp ngai.”
Vua tỏ ý hối hận,
Hứa sẽ để chàng yên.
Hứa sẽ để chàng yên.
Thật tiếc, lời hứa ấy
Chẳng bao lâu, Ngài quên.
Lần nữa vua huy động
Hơn ba nghìn tinh binh,
Quyết tâm giết Đa-vit,
Trừ hậu họa cho mình.
Đêm hôm sau, Đa-vít
Cùng bạn, A-bi-sai,
Đột nhập hàng ngũ địch,
Lọt vào lều của Ngài.
Lúc ấy vua đang ngủ.
A-bi-sai thầm thì:
“Chàng để tôi giết hắn.
Cơ hội tốt, chờ gì!”
Đa-vít chỉ lặng lẽ
Lấy chiếc kiếm của Ngài,
Rồi cùng bạn nhanh chóng
Len lỏi, vượt ra ngoài.
Từ ngọn đồi đối diện,
Chàng kêu để vua nghe:
“Xin trả vua chiếc kiếm,
Nếu Ngài rút quân về.”
Vua Sa-un lập tức
Cho quân rút về thành.
Sau, trong một trận đánh,
Ngài anh dũng hy sinh.
Trong trận đánh lần ấy
Với người Phi-li-tin,
Ngài thua bởi Thiên Chúa
Phạt vì thiếu đức tin.
Các con vua cũng chết
Trong ngọn lửa điêu tàn.
Cả bạn của Đa-vit,
Là chàng Giô-na-than.
Nghe tin dữ, Đa-vít
Khóc, nhịn ăn mấy ngày,
Thương Sa-un, bố vợ,
Vua của chàng trước đây.
Rất đẹp lòng Thiên Chúa,
Chàng Đa-vít được Ngài
Cho làm vua Do Thái,
Tức là vua thứ hai.
4
ĐA-VÍT LÀM VUA
Lúc đầu vua Đa-vít
Mới chỉ là vua hiền
Xứ Giu-đa bé nhỏ,
Miền Nam
Ít-ra-en.
Trong khi I-bô-set,
Con vua vừa qua đời
Làm vua phần còn lại,
Đất rộng và đông người.
Suốt bảy năm sau đó
Đã xẩy ra chiến tranh.
I-bô-set bị giết
Bởi binh lính của mình.
Cuối cùng vua Đa-vít
Được tôn làm vua hiền
Tất cả các bộ tộc
Nhà nước It-ra-en.
Đa-vít ngay lập tức
Chiếm Giê-ru-sa-lem.
Rồi mở mang bờ cõi,
Đất nước càng rộng thêm.
Dưới thời vua cai trị,
Do Thái rộng gấp mười
So với vua trước đấy,
Nhờ ân phước Chúa Trời.
Tiếp đến vua cho rước
Hòm Chứng Ước về đây,
Mười Điều Răn của Chúa
Được thờ phụng đêm ngày.
Tuy nhiên, Hòm Chứng Ước
Tạm thời giữ trong lều.
Điều ấy làm Đa-vít
Phải suy nghĩ rất nhiều.
Cuối cùng Ngài quyết định
Xây dựng một ngôi đền
Để làm nơi thờ tự
Cho dân It-ra-en.
Nhờ ngôn sứ Thiên Chúa,
Là Na-than, đền này
Được nhanh chóng xây dựng,
To đẹp nhất xưa nay.
Vua không chỉ mộ đạo,
Mà ăn ở có tình,
Xem các con vua trước
Như con cháu của mình.
Giô-na-than khi chết
Để lại một người con
Là Mê-phi-bô-set,
Tàn tật, gầy héo hon.
Ngài thương yêu nhất mực,
Cho ngồi ăn cùng bàn,
Vì cậu là con bạn,
Con của Giô-na-than.
Ngài là người kính Chúa,
Tài và đức vô song.
Thế mà rồi có lúc
Cũng vẩn đục trong lòng.
Một đêm nọ, khó ngủ,
Ngài leo lên mái nhà
Nhìn thấy bên hàng xóm
Có một người đàn bà.
Người ấy rất xinh đẹp
Tên là Bát-sê-ba,
Vợ của một người bạn,
Chiến tướng U-ri-a.
Người đàn bà xinh đẹp
Đang tắm truồng một mình.
Vua Đa-vít nhìn thấy,
Không kìm được lửa tình,
Bèn cũng nàng chăn gối.
Rồi sau nàng có bầu.
Vua biết việc đã nhỡ,
Sẽ rắc rối mai sau.
Liền ra lệnh cho gọi
Chiến tướng U-ri-a,
Lúc ấy đang chinh phạt,
Lập tức trở về nhà.
Vua nghĩ, bằng cách ấy
Đứa con nàng đang mang
Sẽ là con hợp pháp,
Tức là con chồng nàng.
Thương bạn ngoài chiến trận
Đang đổ máu, hy sinh,
U-ri-a cương quyết
Không chịu vào nhà mình.
Chàng ngủ trên bực cửa
Giữa trời gió và sương.
Vua Đa-vít buộc phải
Cho chàng ra chiến trường.
Nhưng vua đã mật lệnh
Giết chàng khi đến nơi.
Thế là vua Đa-vít
Phạm tội nữa tày trời.
Khi U-ri-a chết,
Ngài cưới Bát-sê-ba
Thành vợ ngài chính thức,
Và cùng sống chung nhà.
Vua đã làm việc xấu.
Thiên Chúa không hài lòng.
Nhưng bao dung, nhân ái,
Ngài tha tội cho ông.
Đứa con đầu tội lỗi
Chết yểu, Bát-sê-ba
Sinh thêm đứa con nữa
Làm rạng danh nước nhà.
Một người con vĩ đại,
Tên là Sa-lô-môn,
Sau thành vua Do Thái,
Nổi tiếng về trí khôn.
SA-LÔ-MÔN, VỊ VUA DO THÁI THỨ BA
1
SA-LÔ-MÔN LÊN NGÔI
Cái phải đến đã đến.
Rồi vua Đa-vít già.
Có nghĩa đã đến lúc
Nhường cho vua thứ ba.
Là ông vua vĩ đại
Của người It-ra-en,
Vua Đa-vít mãi mãi
Được tôn là vua hiền.
Giống Sa-un, vua trước,
Ngài có nhiều con trai.
Tiếc không phải tất cả
Có đức và có tài.
Và một trong số họ
Là A-đô-ni-gia,
Người bất chấp thứ bậc,
Âm mưu lên thay cha.
Hắn là kẻ độc ác,
Bất kính với Chúa Trời.
Thế mà cứ một mực
Muốn làm vua muôn người.
Thiên Chúa đã biết trước,
Nên quyết định ra tay,
Bằng mọi cách ngăn chặn
Âm mưu của tên này.
Qua giấc mơ, Ngài báo
Hoàng hậu Bát-sê-ba,
Rằng vị vua sắp tới
Sẽ là con trai bà.
Và rằng có một kẻ
Đang rắp tâm cướp ngôi.
Bà báo Đa-vít biết.
Vua cho mời mọi người,
Và dẫu già và yếu,
Vua nói với các con:
Vua thứ ba Do Thái
Sẽ là Sa-lô-môn!
Tin này loan khắp nước.
Người dân It-ra-en
Chào đón vị vua mới,
Có đức và tài hiền.
Chẳng bao lâu sau đó
Sa-lô-môn lên ngôi.
Đa-vít rất mãn nguyện,
Và lặng lẽ qua đời.
Trước khi chết, Ngài dặn
Vị vua trẻ suốt đời
Phải kính trọng Thiên Chúa
Và thương yêu mọi người.
Dẫu trong lòng hậm hực,
Nhưng A-đô-ni-gia
Đành lặng lẽ chấp nhận
Quyết định của vua cha.
2
SA-LÔ-MÔN LÀM VUA
Vua thứ ba Do Thái
Là ông Sa-lô-môn,
Con trai vua Đa-vít,
Nổi tiếng về trí khôn.
Thông minh và uyên bác,
Lại ăn ở có lòng,
Vua thứ ba Do Thái
Là ông Sa-lô-môn,
Con trai vua Đa-vít,
Nổi tiếng về trí khôn.
Thông minh và uyên bác,
Lại ăn ở có lòng,
Ông vốn là con rể
Của vua Pha-ra-ông.
Sau khi đưa công chúa
Người Ai Cập về nhà,
Ông sống trong cung điện
Của Đa-vít vua cha.
Ông là người xây dựng
Đền Thờ Chúa đầu tiên
Để làm nơi tế lễ
Cho người It-ra-en.
Của vua Pha-ra-ông.
Sau khi đưa công chúa
Người Ai Cập về nhà,
Ông sống trong cung điện
Của Đa-vít vua cha.
Ông là người xây dựng
Đền Thờ Chúa đầu tiên
Để làm nơi tế lễ
Cho người It-ra-en.
Đền thờ ấy vĩ đại
Xây bảy năm mới xong.
Nổi tiếng lớn và đẹp
Khắp hai miền Tây, Đông.
Ông là vua giàu có,
Thông thái và công tâm,
Được người dân yêu mến,
Trị vì bốn mươi năm.
Ông là vua giàu có,
Thông thái và công tâm,
Được người dân yêu mến,
Trị vì bốn mươi năm.
Tại Ghip-ôn lần nọ,
Ông làm lễ rất to
Để dâng lên Thiên Chúa,
Hàng trăm cừu và bò.
Đêm, Thiên Chúa báo mộng,
Rằng Ngài sẽ cho ông
Bất kỳ gì ông muốn,
Mà Ngài cũng đẹp lòng.
Sa-lô-môn sụp lạy,
Rất cung kính mà rằng:
“Con vốn người thấp kém
Được Thiên Chúa toàn năng
Cho kế vị ngôi báu
Của Đa-vít vua cha,
Dẫu còn trẻ, chưa biết
Cách cai trị nước nhà.
Hơn thế, con dân Chúa,
Người Do Thái, rất đông.
Con lo trách nhiệm lớn,
Có gánh vác được không.
Vậy con xin Thiên Chúa
Cho con cái con cần.
Đó là sự thông thái
Để biết lắng nghe dân,
Dạy họ biết tôn trọng
Lẽ phải và công bằng,
Và một lòng thờ phụng
Đức Thiên Chúa toàn năng.”
Thiên Chúa nghe, rồi phán:
“Ta hài lòng với con.
Vậy thì con sẽ có
Thông thái và trí khôn.
Con không xin của cải,
Cũng không xin sống lâu,
Nhưng ta cho con sống
Trường thọ và rất giàu.”
Ông làm lễ rất to
Để dâng lên Thiên Chúa,
Hàng trăm cừu và bò.
Đêm, Thiên Chúa báo mộng,
Rằng Ngài sẽ cho ông
Bất kỳ gì ông muốn,
Mà Ngài cũng đẹp lòng.
Sa-lô-môn sụp lạy,
Rất cung kính mà rằng:
“Con vốn người thấp kém
Được Thiên Chúa toàn năng
Cho kế vị ngôi báu
Của Đa-vít vua cha,
Dẫu còn trẻ, chưa biết
Cách cai trị nước nhà.
Hơn thế, con dân Chúa,
Người Do Thái, rất đông.
Con lo trách nhiệm lớn,
Có gánh vác được không.
Vậy con xin Thiên Chúa
Cho con cái con cần.
Đó là sự thông thái
Để biết lắng nghe dân,
Dạy họ biết tôn trọng
Lẽ phải và công bằng,
Và một lòng thờ phụng
Đức Thiên Chúa toàn năng.”
Thiên Chúa nghe, rồi phán:
“Ta hài lòng với con.
Vậy thì con sẽ có
Thông thái và trí khôn.
Con không xin của cải,
Cũng không xin sống lâu,
Nhưng ta cho con sống
Trường thọ và rất giàu.”
3
SA-LÔ-MÔN XỬ KIỆN
Lần nọ, hai phụ nữ
Vào gặp Sa-lô-môn.
Một bà cúi rạp nói:
“Tâu Đức Vua, chúng con
Là thân phận tôi tớ,
Sống chung nhà, gần đây
Con sinh con, sau đó
Thì đến lượt bà này.
Tiếc rằng đêm bà ngủ,
Đè chết con của mình.
Nhưng bà đã đánh tráo
Đứa bé con vừa sinh…”
Bà kia liền dãy nãy:
“Bà nói dối, thực ra
Đứa con tôi còn sống.
Đứa chết mới con bà.”
Cả hai người phụ nữ
To tiếng, cố phân bua.
Ai cũng cho mình đúng
Hồi lâu trước đức vua.
Sa-lô-môn ra lệnh
Mang gươm lại cho ông
Để chặt đôi đứa bé
Cho ai cũng vừa lòng.
Một trong hai phụ nữ,
Nghe thế, cúi xin vua
Để đứa bé được sống,
Dù bà đành chịu thua.
Sa-lô-môn lập tức
Trao đứa bé cho bà.
Vì bà không nỡ giết
Đứa con mình sinh ra.
4
VUA SA-LÔ-MÔN KHÔNG ĐẸP LÒNG CHÚA
Một ông vua hùng mạnh,
Đức độ và thông minh,
Sa-lô-môn có lúc
Làm trái ý Chúa mình.
Ông lấy rất nhiều vợ,
Tổng cộng bảy trăm bà,
Cộng ba trăm tỳ thiếp,
Mà chẳng thấy phiền hà.
Trong số các bà vợ
Có nhiều người rất giàu.
Lại con nhà thế lực,
Nên chính họ về sau
Bắt được vua quên lãng
Thậm chí cả Chúa Trời.
Bắt được ông thờ phụng
Tượng vật và tượng người.
Vua làm trái ý Chúa,
Khiến Ngài không hài lòng.
Và Ngài đã trừng phạt,
Làm yếu quyền lực ông.
Vua có vị tướng giỏi
Là Giê-rô-bô-am,
Một người rất thân cận,
Trong ý nghĩ, việc làm.
Ngôn sứ của Thiên Chúa
Lần nọ báo rằng Ngài
Sẽ chia đất Do Thái
Và cả dân, thành hai.
Trong mười hai bộ tộc,
Ông sẽ cai trị mười.
Toàn những vùng đất rộng
Phì nhiêu và đông người.
Hai bộ tộc còn lại
Thuộc quyền Sa-lô-môn,
Người không đẹp lòng Chúa
Và đã mất trí khôn.
Nghe tin lạ lùng ấy,
Ông vội vã lên đường,
Chạy trốn sang Ai Cập,
Vất vả mấy ngày đường.
Một thời gian sau đó
Sa-lô-môn qua đời.
Rê-bô-ham, còn trẻ,
Con trai ông, lên ngôi.
Vị vua mới đánh thuế
Còn nhiều hơn cha mình.
Mười bộ tộc nổi loạn,
Làm khốn khổ dân tình.
Rồi mười bộ tộc ấy
Từ bỏ Rê-bô-ham,
Chọn cho mình vua mới
Là Giê-rô-bô-am.
Vậy là lời Thiên Chúa
Đã ứng nghiệm, thật tình
Ngài không thể tha thứ
Cho ai trái ý mình.
________________
Phần Hai - TRUYỆN TÂN ƯỚC
CHÚA GIÊ-SU RA ĐỜI
1
Hai nghìn năm về trước,
Thiên sứ Gap-ri-en
Được lệnh đem tin báo
Một cô gái dịu hiền,
Rằng cô sẽ là mẹ
Đứa bé sắp ra đời.
Đứa bé ấy vĩ đại
Là con của Chúa Trời.
Ma-ri-a không hiểu.
Nàng là gái đồng trinh,
Sống ở Na-za-ret,
Hiền lành và rất xinh.
“Sao có thể như vậy?”
Thiên sứ đáp: “Chúa Trời
Không gì không làm được
Với vạn vật, với người.”
Ngạc nhiên và lo lắng,
Cuối cùng nàng thở dài:
“Tôi là đầy tớ Chúa,
Vậy xin tùy ý Ngài.”
Nàng có chồng chưa cưới,
Một chàng trai thông minh,
Là Giô-sê, thợ mộc,
Ăn ở rất có tình.
Giê-sê rất thất vọng
Khi thấy nàng mang bầu.
Đó là vết nhục lớn
Cho nhà rể, nhà dâu.
Khi chàng định hủy bỏ
Lễ cầu hôn với nàng,
Thì đêm có thiên sứ
Đến báo mộng với chàng,
Rằng đây là ý Chúa.
Nó là con của Ngài,
Và là Đấng Cứu Thế
Được gửi xuống trần ai.
Vì là Đấng Cứu Thế,
Tên nó là Giê-su,
Là bánh cho người đói,
Ánh sáng cho người mù.
Tỉnh dậy, chàng vội vã
Đón Ma-ri-a về,
Rồi cưới nàng làm vợ,
Bất chấp mọi lời chê.
2
Xê-da Ô-gut-tut,
Vua La Mã bấy giờ,
Bắt tất cả dân chúng
Đăng ký, làm hồ sơ.
Chàng Giô-sê và vợ
Phải đến thành Bet-lem
Để đăng ký dân số,
Đi cả ngày lẫn đêm.
Nhưng nàng đã trở dạ
Khi vừa đi đến nơi.
Mà quán trọ lúc ấy
Quá chật, quá đông người.
Nên họ đành phải ngủ
Trong chuồng ngựa hăng nồng.
Ma-ri-a tối ấy
Đã sinh Chúa Hài Đồng.
Được quấn trong áo mẹ,
Đứa bé ngủ suốt đêm
Trong chiếc máng chứa cỏ
Của thành phố Bêt-lem.
3
Lúc ấy một thiên sứ
Bỗng xuất hiện ngoài đồng,
Báo những người chăn thú
Về Đức Chúa Hài Đồng.
Bay trên cao, dìu dịu
Các thiên thần đồng thanh
Hát những bài thánh thiện
Ca ngợi Chúa lòng lành.
Nghe xong thiên thần hát,
Những người chăn thú đêm
Đến gặp Đấng Cứu Thế
Ở thành phố Bet-lem.
Rồi họ đi khắp ngả,
Báo tin cho mọi người
Rằng ở đất Do Thái
Đức Chúa Con ra đời.
Có ba nhà thông thái
Ở phương Đông lúc này,
Thấy một ngôi sao lớn
Xuất hiện phía trời Tây.
Họ biết người Do Thái
Đã có vua của mình,
Một vị vua vĩ đại,
Nhân từ và thông minh.
Nên cả ba vội vã,
Không quản ngại đường dài,
Mang quà và lễ vật
Đến để chúc mừng Ngài.
Trên đường đi, họ gặp
Vua xứ Giu-đê-a,
Có tên là Hê-rốt,
Một ông vua cáo già.
Hắn nói: “Nếu có gặp,
Xin các ông cho hay.
Bản thân tôi cũng muốn
Chúc mừng ông vua này.”
Cả ba nhà thông thái
Đi, không quản đường xa.
Cuối cùng họ tìm thấy
Mẹ con Ma-ri-a.
Họ cúi lạy đứa bé,
Dâng tặng rất nhiều quà
Rồi trở về nước họ,
Quên vua Giu-đê-a.
Là vì có thiên sứ
Báo cho họ: Thật lòng
Hê-rốt đang lo sợ,
Muốn giết Chúa Hài Đồng.
Hắn lo sợ đứa bé,
Được mọi người kính yêu,
Sẽ thành vua thay hắn,
Mà không biết một điều:
Giê-su, Đấng Cứu Thế,
Không phải Giu-đê-a,
Là vua của Nước Chúa,
Của mọi người, mọi nhà.
Hắn liền sai binh lính
Đến thành phố Bết-lem
Bắt và giết những trẻ
Được sinh vào ban đêm.
Hơn thế, những em bé,
Mới sinh đến lên hai,
Đều phải giết, giết hết,
Quyết không chừa một ai.
Nhưng Chúa Trời trước đó
Đã kịp sai thiên thần
Báo Giô-sê đưa vợ
Nhanh chóng chạy thoát thân.
Họ trốn sang Ai Cập,
Cam chịu sống tha phương,
Chờ khi Hê-rốt chết,
Mới trở về quê hương.
CHÚA GIÊ-SU Ở LẠI TRONG ĐỀN THÁNH
Hàng năm bố mẹ Chúa
Đi mừng lễ Vượt Qua.
Năm lên mười hai tuổi,
Ngài đi theo mẹ cha.
Ngày lễ được tổ chức
Ở Giê-ru-sa-lem,
Trong linh thiêng đền thánh,
Suốt cả ngày lẫn đêm.
Xong lễ, bố mẹ Chúa
Lên đường trở về nhà,
Nghĩ con mình về trước
Cùng mấy ông bà già.
Thế mà về không thấy.
Làm thế nào bây giờ?
Họ quay lại, bắt gặp
Ngài ở trong điện thờ.
Đường xa, lại vất vả,
Đi về mất ba ngày.
Suốt trong thời gian ấy,
Chúa vẫn ngồi ở đây.
Chúa ngồi, lắng nghe giảng,
Những lời giảng rất hay.
Thỉnh thoảng Ngài thắc mắc,
Hay tranh luận với thầy.
Ai được nghe Ngài nói
Đều lấy làm ngạc nhiên.
Dẫu không biết là Chúa,
Nhưng họ đoán người hiền.
“Ôi, sao con làm thế?
Bố mẹ sợ hết hồn.”
Ngài đáp: “Sao phải sợ?
Sao bố mẹ tìm con?
Hay bố mẹ không biết
Bổn phận con, đó là
Phải luôn luôn có mặt
Trong nhà Đức Chúa Cha?”
Bố mẹ Ngài không hiểu
Ý nghĩa những lời này.
Vì theo ý Thiên Chúa,
Ngài được sinh ở đây.
Rồi Ngài cùng bố mẹ
Lên đường trở về nhà,
Là thành Na-da-ret,
Cách đấy cũng khá xa.
Chúa Giê-su khôn lớn,
Càng mẫn tiệp, thông minh,
Lại càng yêu dân chúng
Và Chúa Cha của mình.
THÁNH GIÔ-AN
Bà Ê-li-da-bet,
Vợ Da-ca-ri-a
Không có con, hiếm muộn,
Dù hai người đã già.
Thời hai người đang sống
Thời của vua gian tà,
Tức là vua Hê-rốt,
Miền đất Giu-đê-a.
Lần nọ, ông may mắn
Rút trúng thăm, thành người
Được vào dâng hương khói
Trong đền thờ Chúa Trời.
Bỗng có một thiên sứ
Hiện lên, nói với ông:
“Bà Ê-li-da-bét
Sẽ sinh con đầu lòng.
Đó là một đứa bé
Được Thiên Chúa nhập thần,
Làm điều lành, việc tốt
Giúp cảnh tỉnh con dân.
Sau lớn lên, chính nó
Đưa nhiều người It-ra-en
Quay trở lại với Chúa,
Xa lánh việc thấp hèn.
Sau khi sinh, hãy nhớ
Đặt tên là Giô-an.
Vì đó là ý Chúa,
Món quà được Chúa ban.”
Về sau đứa bé lớn,
Chuyên giảng đạo khắp nơi,
Thành Giô-an Tẩy Giả,
Lôi cuốn rất nhiều người.
Lần nọ ông đến giảng
Ở đất Giu-đê-a,
Thắt lưng da dê mịn.
Áo bằng lông lạc đà.
Ông chỉ ăn châu chấu
Mật ong và rau tươi,
Không bao giờ uống rượu
Trong suốt cả cuộc đời.
Từ khắp vùng đất ấy
Người kéo đến rất đông,
Cả những vùng lân cận,
Chờ được nghe lời ông.
Nhiều người đến thú tội,
Và được ông Giô-an
Làm phép rửa cho họ
Bằng nước sông Giô-đan.
“Tôi chỉ làm phép rửa
Cho anh em hôm nay.
Tôi không đáng xách dép
Cho Đấng đến sau này.
Vì chính Ngài là Chúa,
Sẽ tẩy rửa anh em
Bằng lửa và nước thánh
Ở Giê-ru-sa-lem.”
Đám đông nghe, liền hỏi:
“Chúng tôi phải làm gì?”
Ông đáp: “Bằng nhiều việc.
Chỉ việc thiện, còn tùy.
Thí dụ, có hai áo,
Mà thấy người khác không,
Thì hãy cho một áo,
Để ai cũng ấm lòng.
Cả thức ăn cũng vậy.
Không đợi mình ăn no,
Nếu có người đang đói,
Hãy chia đôi mà cho.
Có mấy người thu thuế
Hỏi họ nên thế nào?
“Mức bao nhiêu thu vậy.
Không thu gian, thu cao.”
Rồi ông bảo đám lính:
“Phải cư xử có tình.
Không tống tiền, ăn cướp.
Sống bằng lương của mình.”
Mọi người rất kính phục
Tưởng ông là người trời.
Ông Giô-an thấy thế
Chỉ khiêm tốn trả lời:
“Tôi chỉ làm phép rửa
Cho anh em hôm nay.
Tôi không đáng xách dép
Cho Đấng đến sau này.
Vì chính Ngài là Chúa,
Sẽ tẩy rửa anh em
Bằng lửa và nước thánh
Ở Giê-ru-sa-lem.”
CHÚA GIÊ-SU CHỊU PHÉP RỬA
Chúa Giê-su lần nọ
Đến gặp ông Giô-an
Nhờ ông làm phép rửa
Dưới dòng sông Giô-đan.
Ông Giô-an liền nói:
“Không, thưa Chúa, chính tôi
Cần được Ngài làm lễ.
Thiên Chúa định thế rồi.”
“Bây giờ cứ thế đã. -
Chúa Giê-su bảo ông. -
Tạm thời ta làm vậy
Để giữ trọn đức công.”
Không thể nào thoái thác,
Cuối cùng ông Giô-an
Đã làm phép cho Chúa
Bằng nước sông Giô-đan.
Lễ xong, lên khỏi nước,
Ngài thấy từ trên trời
Thần khí của Thiên Chúa
Bay xuống, ngự đầy người.
Văng vẳng tiếng Thiên Chúa
Từ trên cao sáng lòa:
“Ta hài lòng về nó.
Đây là con của ta!”
Chúa Giê-su liền đáp:
“Thưa Cha, con nghe đây.”
“Con là con Thiên Chúa.
Cha sinh con hôm nay!”
No comments:
Post a Comment