Tuesday, February 24, 2015

CỔ THI TÁC DỊCH - NGÔ THÌ NHẬM



 Tác giả: Sinh năm 1746 trong một gia đình đại quý tộc ở Thăng Long, mất 1803; từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Trịnh - Nguyễn, về sau theo và trở thành người trợ lực chính của vua Quang Trung. Tác phẩm: hơn 600 bài thơ và 15 tác phẩm khác.

Bốn bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài một

Chức Nữ, Ngưu Lang không nhỏ lệ,
Chỉ màng nước mỏng nhẹ như không.
Ra trời cũng hiểu buồn ly biệt,
Không bắt phòng khuê vợ nhớ chồng.

Bốn bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài hai

Sau mưa, màu núi lại càng xanh.
Líu ríu chim kêu, rộn lá cành.
Nhìn chim bay nhảy sao mà nhẹ,
Thẹn lòng còn nặng những hư danh.

Bốn bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài bốn

Non xanh nước biếc, lại non xanh.
Thăm thẳm trời thu, ngọn gió lành.
Người ở Giang Nam, lòng đất Bắc,
Thả hồn theo gió với chim oanh.

Lên thuyền

Cảnh đời thay đổi cứ trôi qua.
Nhìn Yên, nhớ Việt 1)những xót xa.
Trường Giang mây phủ, buồn man mác.
Một mái chèo xua nỗi nhớ nhà.

(1) Yªn - Yªn Kinh, chØ Trung Quèc, ViÖt - ViÖt Nam

Cuối xuân

Hoa nở bên hang, nhụy trắng ngần.
Gió chiều, ai dạo khúc Nam Huân.
Xuân hết, nhiều loài hoa vẫn đẹp,
Vẫn thầm ấp ủ những mầm xuân.

Nước mùa thu

Sau mưa, trời nước sáng long lanh.
Cảnh này thật khó vẽ nên tranh.
Vất vả bao năm buồn trắng tóc,
Mấy lần thả bộ ngắm non xanh?

Hoa cúc mùa thu

So với muôn loài, cúc khác xa,
Trang điểm mùa thu giữa nắng tà.
Ngày này năm ngoái bên hoa cúc
Uống rượu một mình, nhắm cánh hoa.

Đêm thu

Đêm thu rét ngọt, gió se se.
Sương buông, trăng sáng chếch bên hè.
Lạnh lẽo tiếng chuông phòng quán trọ.
Người buồn, bận nghĩ, chắc không nghe.

Tiếng đập vải mùa thu

Tiếng chày đập vải lách qua sương,
Vang vọng kinh đô, khắp phố phường.
Chắc chẳng đến tai người lính thú,
Chỉ làm khách sứ 1)  nhớ quê hương.

(1) Ng« Th× NhËm ®i sø phư¬ng B¾c, ®ang n»m ë qu¸n kh¸ch dµnh cho sø thÇn ë B¾c Kinh.

Trăng thu

Bên song, uống rượu, ngắm hoàng hôn.
Lung linh dưới nước mặt trăng tròn.
Định lên cầu đá Lư Câu dạo,
Lầu bên sáo vọng, khiến bồn chồn.

Phòng khuê mùa thu

Lạnh lẽo phòng thu, tình khó quên.
Tự tô phấn nhạt, tự làm duyên.
Bao năm mong ngóng chồng chinh chiến,
Đêm đêm lặng lẽ bói hoa đèn.

Cuối thu, vào chùa tham thiền 1)

Tính đốt, xa nhà đã mấy niên.
Nay đến chùa làng ngồi tĩnh yên.
Cánh vàng hoa cúc vừa bung nở.
Lá bối 2) lần xem, thấy vi thiền.
Nam Kha 3) giấc mộng đời bươn chải.
Trúc Lâu 4) mơ ước cũ còn nguyên.
Chùa thiêng tĩnh lặng, lòng thanh thản.
Sau chùa, ao nhỏ thoảng mùi sen.

1). Vào chù ngồi tĩnh tại để tham cứu chân lý. Nhà chùa gọi là “tham thiền nhập định”
2). Lá cây bối-đa-đa ở Ấn Độ, dùng để viết kinh Phật.
3). Điển tích nổi tiếng trong văn học cổ Trung Quốc, nói về sự chóng vánh, bèo bọt của cuộc đời.
4). Ý nói nhân duyên với Phật.

Bày tỏ nỗi lòng

Như chim thảng thốt vút lên không.
Như cá ngu ngơ lội giữa dòng.
Ngày đếm thuyền câu trên bến cảng.
Đêm cùng con trẻ ngắm trăng trong.
Tàu chuối mưa rơi, buồn đất khách.
Gió động cành dương, tỉnh giấc nồng.
Mừng có giỏ cua ngon nhắm rượu.
Áo cộc trên người như lão nông.

Thăm thư đường Vân Động

Vân Động xa xa, nhẹ cánh thuyền.
Gió mát lòng người, thuyền lướt lên.
Xóm nhỏ ven sông, cây đưa đón.
Bến bồi chim nhạn lượn hai bên.
Sáu bảy ông say qua cầu gỗ.
Dăm ba trẻ nhỏ thổi sáo, kèn.
Thư đường liễu phủ, về Chu, Khổng 1),
Các vị túc nho luận trước đèn.

1). Chu Công và Khổng Tử.

Đi dạo dưới nắng quanh ngôi chùa bên sông

Mùa thu cúc nở, trời xanh trong.
Đi dạo quanh chùa bên mép sông.
Nắng nhạt ban mai, đường sạch sẽ.
Gác thượng, lầu chuông dọi bóng hồng.
Phiêu bat mấy năm, giờ thanh thản
Với vị cao tăng giải nỗi lòng.
Mải chuốt vần thơ, quên đóng cửa.
Vái chào cung kính, biệt sư ông.

Qua hai làng Mỗ, hoài cổ

Tiểu dẫn của tác giả: Vũ Đế nhà Hán đặt tên quận này là Từ Liêm, đến đời Ngô, Tấn đổi thành Ô Diên, ở địa phận hai xã Tây Mỗ và Thiên Mỗ ngày nay 1). Triệu Việt vương Quang Phục giữ thành này, chống nhau với Dương Sán, tướng của Trần Bá Tiên, sau chiếm được thành, xưng vương được 30 năm. Lý Nam Đế chiếm cứ thượng lưu sông Thao, sai con là Nhã Lang lấy con gái Quang Phục là Ngốc Nương làm vợ, lấy vùng thượng hạ Cát làm ranh giới. Sau đó Lý Nam Đế chiếm cả đất của Triệu Quang Phục, giữ thành Ô Diên được 40 năm. Triệu Quang Phục chạy vào cửa biển Nghệ An, đâm đầu xuống nước tự tử. Ngốc Nương oán Nhã Lang, thắt cổ chết trong thành. Nhã Lang thương xót Ngốc Nương, chết theo vợ, chôn ở cánh đồng làng Thiên Mỗ, nay chỗ có bia đá, đó là di trủng, đời trước có đền thờ Nhã Lang, nay không còn, dân làng tương truyền gọi là bia mộ Phục Vương; lại còn ngoa truyền rằng ban đêm nghe có tiếng đàn. Bia đã mòn hết chữ, nay không còn tra khảo được.2)

Thành cũ Ô Diên nay chẳng thấy.
Bia phủ rêu xanh, cỏ lấp đường.
Nghẹn ngào khe nước, hồn Quang Phục.
Mưa gió dập vùi mộ Ngốc Nương.
Thế cuộc đổi thay theo cảnh vật.
Lang quê cấy, dệt vẫn bình thường.
Lão nông, không biết trò hưng phế,
Nói vẫn thường nghe đàn Phục vương.

1). Tức là vùng Đại Mỗ, Hà Nội ngày nay.
2). Theo bản dịch nghĩa  trong Tuyển tập Thơ Văn Ngô Thì Nhậm, quyển 1, NXB Khoa Hoc Xã Hội, Hà Nội, 1978.

Thăm miếu Chu Văn Trinh 1), cảm hoài

Miếu cổ, gò cao, đầm nước đầy.
Quang cảnh hữu tình, chẳng đổi thay.
Nhà dân thanh đạm, vườn, ao cá.
Thế cuộc thăng trầm, chim bướm bay.
Dũng cảm “mang gươm” 2), đầy khí tiết.
Nhẹ nhàng “treo mũ”, tấm lòng ngay.
Cửa tía, rêu xanh, ngôi miếu cổ,
Liễu phủ hai bên, mát cả ngày.

1). Tức Chu Văn An, lúc chết được phong tên thụy là Văn Trinh.
2). Chỉ việc Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy nịnh thần.
3). Chỉ việc ông can vua không nghe, xin treo mũ từ quan về quê ở ẩn.

Họa thơ với dật sĩ Phạm Thì Thấu

Khách đến rượu không, tiền cũng không.
Lấy nước gì đây làm say lòng?
Nhà cửa trống trơn nên sáng sủa.
Thanh đạm tâm hồn như suối trong.
Khách say đâu cứ cần mâm cỗ.
Gặp suông, tri kỷ cũng tương đồng.
Càng nghèo, thật lạ, thơ càng hứng.
Dũa ý, gọt thơ, dòng lại dòng.

Buổi chiều, trên lầu Ngũ Vân, nhìn ra xa

Lòng người tươi sáng giống thiên nhiên.
Xế chiều, hoa đổ bóng hàng hiên.
Cung vương đứng lặng trong mây núi.
Chùa Phật như trôi giữa khói thiền.
Nhao nhác chim bay quanh lũy cũ.
Khe rừng liễu rủ, đứng hai bên.
Tây Bắc thành đô, nhìn chợt thấy
Khí tốt núi Nùng đang bốc lên.

Đình trên núi

Sừng sững trên cao một mái đình.
Giữa trời sáng sớm nắng lung linh.
Muôn vẻ cỏ hoa như dệt gấm.
Bốn mùa gió thổi, thật đa tình.
Mây núi vờn bay ngay sát cửa.
Trước thềm hoa hé nụ xinh xinh.
Du khách tới đây, nhìn ngây ngất.
Phong cảnh nên thơ lại hữu tình.

Đi đường núi

Đường núi quanh co, thêm gió lạnh.
Nơi nào phong cảnh cũng nên thơ.
Hoa rừng lặng lẽ khoe muôn sắc.
Chim hót trên cây, thật bất ngờ.
Mưa sáng, suối đầy, thêm róc rách.
Chiều mây che núi, núi xanh mờ.
Dân chúng ven đường luôn hiếu khách,
Háo hức chạy ra xem lọng, cờ.

Nhàn rỗi, làm thơ bày tỏ lòng mình

Quán trọ ngồi không, cửa khép hờ,
Giũa, gò tiêu khiển mấy bài thơ.
Tin tức quê nhà thư đã viết.
Đường đời, bói cỏ, đoán thời cơ.
Cửa hầu sâu thẳm, không ai đến.
Lạnh lẽo nhà quan, khách hững hờ.
Tóc nhiều sợ bạc như mai trắng.
Về quê những muốn, liệu bao giờ?

Họa thơ quan thái sử Thử Đình Hầu

Suy di tính lại mãi bên đèn.
Nghèo đói, nhà nho chí phải bền.
Cuộc sống vui buồn luôn lẫn lộn.
Muốn giàu, danh lợi phải bon chen.
Biết đủ, biết vừa là tốt nhất.
Dẫu chuyện thế nào, tâm phải yên.
Tôi bác quen nhau, tình gắn bó.
Biển loạn, cùng chung một chiếc thuyền.

Tức cảnh
Bài hai

Mờ mờ doi cát, xóm ven sông.
Đá xếp chênh vênh, nước một dòng.
Gác lầu thành dãy trầm ngâm đứng.
Cây cỏ đua nhau mọc kín đồng.
Chim hót mùa xuân thay tiếng nhạc.
Ráng đỏ hoàng hôn làm nến hồng.
Hướng tới nhà tiên nơi mây trắng,
Đời tục ra sao chẳng bận lòng.

Tức cảnh
Bài ba

Thế giới bao la có chỗ này,
Một màu trăng trắng lẫn màu mây.
Dãy núi nhấp nhô xen rừng rậm.
Lòa xòa bến nước mấy hàng cây.
Bên xóm hoa đào, thuyền kéo lưới,
Gió vờn rặng liễu, cánh chim bay.
Mong rũ bụi trần, không nuối tiếc,
Chút đời còn lại sống nơi đây.

Ngắm cảnh trời nước buổi chiều

Bát ngát sen xanh, sóng bập bồng.
Trùng điệp núi rừng ngút mắt trông.
Vệt nắng ngang đồi đang lụi tắt.
Nước trời hòa một, sắc xanh trong.
Văng vẳng sáo chài đâu đó thổi.
Khói mờ trăng nhú xóm ven sông.
Ngắm cảnh trời chiều, thơ chợt hứng.
Mờ ảo đằng tây nửa ráng hồng.

Chiều tối chơi thuyền trên sông Nhuệ

Cuộc dạo lần này thật khác xa.
Trời thu, nước lặng, cảnh chiều tà.
Sao thưa mấy chấm, thuyền đơn độc.
Dòng sông như lụa, trải bao la.
Trên cây cổ thụ còn vương nắng,
Ánh lửa bên sông đã lập lòa.
Lâu đài "Bất Dạ" 1) tìm không thấy.
"Linh đài" 2) đức độ sáng trong ta.

(1) BÊt D¹ - kh«ng cã ®ªm, tøc lµ ban ®ªm còng s¸ng như¬ ban gµy. Tư¬ng truyÒn ®Êt §«ng Lai nưíc TÒ ban ®ªm còng cã mÆt trêi mäc. Lai Tö x©y thµnh ë ®ã, gäi lµ l©u ®µi BÊt D¹.
(2) S¸ch Trang Tö gäi tr¸i tim lµ Linh ®µi, tøc ®µi thiªng liªng.

Thăm chùa Vân Môn 1)

Xuân đến thăm chùa ở mé sông.
Ngôi chùa đổ nát phủ rêu phong.
Mưa hắt, Phật ngồi nhìn lặng lẽ.
Không khói, không hoa, sư cũng không.
Đây vốn là nơi xưa đệ tử
Chân tu, xua ác, thảnh thơi lòng. 
Nay đêm kẻ xấu thường lui tới.
Mắt Phật tinh tường, có thấy không? 2)

(1) Chïa ë huyÖn Vò Thư¬, Th¸i B×nh.
(2) Theo chó thÝch nguyªn b¶n, chïa nµy bá hoang, l©u nay lµ n¬i tô tËp cña bän trém cưíp.

Miếu cổ

Miếu thờ hoang phế đã lâu nay.
Mái sập, bia mờ vứt đó đây,
Lạnh ngắt, lò hương đầy mạng nhện.
Tường đổ, rêu phong mấy lớp dày.
Đêm trước mưa rơi lên núi lạnh.
Nắng chiều giờ sót lại trên cây.
Muốn hỏi mà không người để hỏi,
Chỉ thấy trên trời mây trắng bay.

Tiếng nước

Vốn thường im lặng, nước trên sông
Sao réo ầm ầm tựa bão dông?
Lúc bị cản đường, sông mới giận,
Còn không, lặng lẽ cứ xuôi dòng.
Điềm tĩnh, bao dung, không hám lợi,
Không chịu cúi đầu trước bất công.
Như tấm gương soi cho kẻ sĩ,
Ngời ngời ánh bạc nước xanh trong.

Chùa cổ

Năm tháng dãi dầu, chùa vẹo xiêu.
Thanh u suối nước, cảnh tiêu điều.
Lạnh lẽo bếp chay, vườn cỏ dại.
Lên thềm mưa hắt, gió heo heo.
Chim thước lượn quanh, tìm chỗ trú.
Thắp hương lặng lẽ vị sư nghèo.
Chùa xưa héo lụi cùng năm tháng,
Hết nắng ban mai lại nắng chiều.

Con ngựa vô tích sự

Gặm cỏ no căng suốt cả ngày.
Tối về chuồng ngủ, sướng thân mày.
Nhàn nhã chỉ nhờ vô tích sự.
Quả đời kỳ cục thế xưa nay.
Nếu là ngựa tốt, phi thiên lý,
Chắc chắn đời mày sẽ đổi thay.
Chẳng trách người tài hay gặp nạn.
Những kẻ ngu đần thường gặp may.

Ngẫu hứng về mảnh ao nhỏ trước nhà

Một mảnh ao tù, nước lại vơi.
Mấy con cá nhỏ tự do bơi.
Gió thổi mà ao không gợn sóng.
Bốn bề cây chắn, cỏ xanh tươi.
Ai người biết tỉnh, lo công việc?
Ta cũng chưa say bỏ sự đời.
Giá giống ao này, đâu cũng lặng,
Ta sẽ lên thuyền đi khắp nơi.

Bài ngâm đêm trăng

Bóng cây bên cửa ánh trăng lồng.
Tiếng kèn đổi gác vọng tầng không.
Nghìn dặm xa quê không ngủ được.
Khúc ngâm bất chợ xốn xang lòng.
Tham sân 1) kiếp trước chưa trừ hết,
Kiếp này danh lợi lắm long đong.
Mong chóng đến ngày thôi loạn lạc,
Để lại quay về với núi sông.

(1) Danh từ Phật, chỉ sự tham lam, giận dữ.

Thương vợ

Tiếc xưa không nối nghiệp nhà nông.
Cày cấy bên nhau, vợ với chồng.
Nay hám công danh, chồng vất vả.
Dắt con chạy nạn, vợ long đong.
Chức Nữ sông Ngân đành cách biệt.
Hằng Nga tháng Tám ngậm ngùi mong.
Cái đạo phu thê luôn giữ trọn.
Thúc Cơ 1) gương sáng, chẳng thay lòng.

(1) Con gái vua nước L và là v vua nước K. Vua nước K b vua T c hiếp phi chết. Thúc Cơ t nước L v nư¬c K để phng s tổ tiên chng đến trn đời. Trong kinh Xuân Thu, Khng T chép li chuyn này và rt ca ngi nàng.

Mưa dầm ở đảo Huyền Trân

Công chúa Huyền Trân lệ ngắn dài.
Ngoài thành mưa nhỏ ướt cành mai.
Chồng Man xấu số 1) làm nhơ ngọc.
Nước nhà bạc nghĩa, xót lòng ai.
Lễ cưới hai châu 2) vì một nghĩa.
Gãy gánh một đời, khổ gấp hai.
Oán giận triều lên, dâng bốn phía,
Nước mắt như mưa rả rích hoài .

(1) Chỉ Chế Mân, người thuộc bộ tộc man di theo quan điểm phong kiến thời trước. Chế Mân lấy Huyền Trân được một năm thì chết, nên gọi là xấu số.
(2) Tức châu Ô và châu Lý đất Chiêm, được Chế Mân dâng cho nhà Trần làm sinh lễ.

Hoa dâm bụt trong cung vua

Những cánh hoa tươi trước cửa rồng,
Đỏ rực một màu với gió đông.
Không hương nên chẳng ai ghen tỵ,
Không điệu, không kiêu, dẫu má hồng.
Tướng sắc khác thường, hoa của Phật.
Xuân, loài khác rụng, chỉ mình không.
Đỏ rực không vì khoe sắc đẹp,
Mà chỉ dâng vua một tấm lòng.

Đi thuyền trên cửa biển Nhật Lệ

Chập chiều, thuyền tới cửa Ô Long,
Ngân Hà một dải vắt trên không.
Từ xa chim nhạn bay về ngủ.
Văng vẳng sáo chài ngoài bãi sông.
Sách đầy một tráp, sao chi chít.
Buồm lớn căng dây, gió thổi phồng.
Hai bên đê lớn, thuyền đi tiếp.
Tử Vi sao sáng một khối hồng 1).

(1) Chßm sao ë phư¬ng B¾c, n»m phÝa ®«ng sao B¾c §Èu. C¸c nhµ thiªn v¨n ngµy xưa coi chßm sao nµy øng víi ng«i vua chóa ë h¹ giíi.

Lên núi Mẫu Tử 1)

Người ngựa lên đường lúc rạng đông.
Vượt mấy tầng cao, lớp lớp chồng.
Hai núi liền nhau, hòn Mẫu Tử.
Bên dòng suối nhỏ nước xanh trong.
Mắt ngước nhìn quanh toàn thấy núi.
Đầu ngẩng tóc xòa trước gió đông.
Núi này được tạo bao giờ nhỉ?
Muốn nhờ Khóa Phủ 1) hỏi Ngu Công 2).

1). Núi này ở Lạng Sơn.
2). Tên một vị thần.
3). Tên một nhân vật trong thần thoại Trung Quốc quyết tâm dời núi mở đường.

Buổi sớm, từ núi Thanh Sơn 1)
      ngắm cảnh xung quanh

Đi sứ, tạm dừng núi Nhị Thanh.
Sáng giục người xe sớm khởi hành.
Thấp thoáng trong sương hình cây cỏ.
Líu lo chim hót rộn trên cành.
Xóm xa giấc ngủ chưa tan hẳn.
Đồn bên trống giục báo năm canh.
Bất chợt mặt trời nhô, đỏ rực,
Xua hết mây mù, lộ núi xanh.

(1) ChØ nói NhÞ Thanh ë L¹ng S¬n. Ng« Th× NhËm viÕt bµi nµy vµ nh÷ng bµi sau trong thêi gian ®i sø Trung Quèc.

Ghi lại cảnh đẹp ở Nhạc Dương

Tiểu dẫn của tác giả:
Tôi từng nghe các vị tiền bối đi sứ về kể lại cái vui thuận gió khi qua hồ Động Đình. Lần đi sứ này, cuối xuân đến đất Sở, được chiếu chỉ của Đại Hoàng Đế giục vào chầu, nên phải vội vàng đi gấp. Lúc đến sông Tương thì gió đông đang mạnh, đi đường thủy không tiện, phải đi đường bộ. Đến đầu mùa thu trở về, khi tới Hán Khẩu, định ngược dòng đi lên nhưng nước lũ lớn, chảy mạnh như mũi tên, nên không thể đi được, lại phải từ Vũ Xương đi đường bộ về đất Việt 1). Thế mới biết cái vui thuận gió chơi hồ là khó khăn nhường nào.

Lầu Nhạc Dương 2) ở về phía đông hồ và  phía tây thành Nhạc Châu. Lúc đến Nhạc Châu, tôi cùng các bạn đồng sự lên lầu, buông mắt nhìn xem phong cảnh, thì thấy hồ quang nước lặng, muôn khoảnh một màu, nhìn hết tầm mắt không thấy bờ đâu cả. Xa trông núi Quân Sơn vút lên từ trong sóng, thật là một non thúy La Phù lồng vào nơi nền gấm.  Tôi ngắm nhìn hồi lâu, muốn tìm thuyền ra chơi núi, nhưng mặt trời đã lặn về tây nên chỉ có thể đứng ở lầu mà vời trông. Tôi đem nguyên ủy của hồ hỏi người lại mục ở đó thì người ấy nói: “Phía tây hồ giáp với Vân Nam, Quí Châu, gặp gió thuận thì ba ngày từ bờ đông có thể đến bờ phía tây. Phía tay bắc thông với Tứ Xuyên, phía đông bắc chảy vào Hán Dương, phía tây nam  là các bãi ở Trường Sa, nước sông Tiêu, Tương chảy qua đổ vào hồ vậy.

Ôi! Hồ này trở nên rộng lớn như vậy, chẳng phải là do sức nước của nhiều dòng sông tạo thành sao? Nhiều dòng nước tụ lại thành hồ, đó chẳng phải là cái khéo của tạo hóa sao? Cái khéo của tạo hóa, vẽ chẳng hết ý, viết chẳng hết lời, người biết góp nhặt lại mà điểm xuyết ra, há chẳng phải là cách nhìn của người thông đạt đó sao?

Ta, lòng trần chưa sạch, thói tục còn mang, tạo hóa tạo ra lắm chốn lạ kỳ mà tiếc mắt ta nhìn còn chưa được bao quát. Đến như khói mây cảnh vật, ánh nước sắc núi, chim chóc bay lượn, cá rồng ẩn hiện, lâu đài liên tiếp, tàu thuyền đi về, di tích thần tiên, cảnh đời hiện tại, thì ta nói ra không khỏi vụng về, chỉ riêng lòng ta lĩnh hội được mà thôi. Lúc ấy, Hy Sử công xướng lên trước, ta gặp cảnh sinh tình, chẳng quản theo đòi bèn nối thành bốn vận: 3)

Hồ lạnh chiều thu, nước trắng phau.
Cảm xúc lâng lâng, đứng tựa lầu.
Núi xanh vời vợi, trăng chưa mọc.
Chân trời một vệt ráng vàng au.
Rồng nằm Động Phủ trong mây trắng.
Chim đến Hành Sơn khoe sắc màu.
Tạo hóa kỳ tài làm sông núi,
Chỗ lồi, chỗ lõm thật đều nhau.

1). Chỉ Quế Lâm, Quảng Tây.
2). Nằm ở phía tây huyện thành Nhạc Dương, nhìn xuống hồ Động Đình.
3). Bản dịch của Tuyển tập Thơ Văn Ngô Thì Nhậm, quyển môt, NXB Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1978.

Ngắm cảnh chiều trên sông Lệ Giang

Hoàng hôn, thật khó nói nên lời
Vẻ đẹp thiên nhiên của đất trời.
Dòng sông hai nửa, xanh và đỏ.
Núi màu đậm nhạt, khác từng nơi.
Chim bay về tổ, rung cây lá.
Cá nhảy, vây vàng chỗ thác rơi.
Lại thêm ý vị: đôi ba tiếng
Chuông chùa thong thả, tựa đang rơi.

Lại qua chùa Thiền Lâm

Chính sự, việc đời luôn đổi thay.
Vẫn nguyên mọi cái ở chùa này.
Cây mục là gương cho kẻ ác.
Vực đá răn đe kẻ hại thầy.
Tượng Phật vàng son luôn tỏa sáng.
Việc đời phải trái tựa mây bay.
Nay qua chốn cũ, buồn trông lại.
Rót chén rượu thiền đuổi gió tây 1).

(1) Vư¬ng §ào ®êi TÊn khi gÆp giã t©y næi lªn th× lÊy qu¹t che mµ nãi: "C¸i giã nµy cña NguyÔn Quy lµm d¬ bÈn con ngưêi. Quy lµ cËu cña vua Thµnh §Õ nhµ TÊn, bÞ chª cưêi tham lam, kh«ng ®¹i nghÜa.

Ghi điều trông thấy ở Nam Ninh

Nam Ninh, còn gọi Tiểu Nam Kinh.
Nhà nhà sung túc, gái thì xinh.
Bên đường, cửa sổ rèm che nắng.
Lầu soi bến nước, đuốc lung linh.
Nước ngã ba sông trong thấy đáy.
Bảy núi cờ treo, thật hữu tình.
Đời thịnh, quan nhàn, không có việc,
Hết ngắm chim công, lại luận bình.

Nơi Vinh Khải Kỳ mót lúa

Chỉ một mình ông biết
Ba cái vui làm người.
Sống nghèo không lo nghĩ.
Chết già lòng thảnh thơi.
Bên Đông Sơn mót lúa
Vui, hát vang đất trời.
Chuyện xưa người vẫn nhớ.
Tiếng thơm lưu muôn đời.

Nhàn rỗi, làm thơ về cảnh đẹp Hành Dương

Từng nghe thu đẹp ở Hành Dương,
Khi đến, mưa xuân thấm ướt đường.
Hùng vĩ, chỉ cần xem cảnh vật.
Phồn hoa, nhộn nhịp chuyện công thương.
Sở, Việt, núi xanh soi suối biếc.
Hai dòng uốn lượn, nước Tiêu, Tương.
Thiết nghĩ, thu về, thêm cánh nhạn,
Đâu chỉ Bồng Lai mới thiên đường!

Buổi sớm, lên thuyền đi từ Tuyền Châu

Trên sóng Trường Giang mấy cánh chim
Chợt vụt bay đi, nháo nhác tìm.
Nước đập vào bờ, sông chảy mạnh.
Bên thuyền sóng vỗ chẳng hề im.
Cuộc đời luân chuyển không vô cớ.
Chẳng dễ lừa đời, dối trái tim.
Sách dăm ba quyển, lòng ta nhẹ,
Như chiếc thuyền không, chẳng sợ chìm. 1)

(1) Trang Tö cã c©u: DÜ trung tÝn nhi tÕ n¹n, nhưîc thõa chu dÜ thiÖp xuyªn", nghÜa lµ "lÊy ®¹o trung tÝn mµ vưît qua dßng s«ng".

Nhàn rỗi, vịnh cảnh sông Lệ 1)

Đê dài, núi đá vút lên cao.
Ven làng khóm trúc phủ bờ ao.
Hàng cây rợp nắng, chim ca hót.
Bến xưa cá quẫy sóng rì rào.
Dưới sông đò lưới nhiều dân Ngạn, 2)
Trên bờ bán củi lắm người Dao.
Sông Lệ nước dâng, thuyền lướt nhẹ,
Như giữa Ngân Hà, dưới ánh sao.

(1) Cßn gäi lµ LÖ Giang hoÆc T¶ Giang, mét con s«ng ë tØnh Qu¶ng T©y, Trung Quèc.
(2) ë Qu¶ng T©y, ngưêi Miªu vµ ng¬ưêi Dao ë lÉn lén. Ngưêi Trung Quèc gäi ng¬ưêi Miªu lµ ngưêi Ng¹n.

Thơ đề ở am Vạn Niên, theo vần bài
“Nhất thủy” của Vũ Công Bộ

Thảnh thơi trong bận rộn.
Cõi Phât có mà không.
Vườn thiền động mà tĩnh.
Buồn mà vẫn vui lòng.
Hưởng ân sâu Tứ Đại 1).
Tam Thừa 2) rèn khổ công.
Chưa gặp mặt trò chuyện,
Nhưng đã đọc thơ ông.

1). Chữ nhà Phật, tức địa, thủy, hỏa, phong, cả bốn nguyên tố hòa hợp thì con người mới tồn tại.
2). Khái niệm nhà Phât, gồm thượng thừa, trung thừa và hạ thừa.

Mùa thu, đi thuyền trên sông Ly Giang 1)

Đón ta, sông núi đứng kề nhau.
Cả núi cả sông xanh một màu.
Tháng Tám trời thu vương khói nhẹ.
Đèn khuya, sương ướt đẫm hàng dâu.
Ngái ngủ, thuyền bè nằm dưới bến.
Tỳ bà tiễn khách vọng trên lầu.
Đêm được thả thuyền sông Xích Bích, 2)
Trong lòng ấp ủ đã từ lâu.

(1) Dßng s«ng xuÊt ph¸t tõ Toµn Ch©u, ch¶y ®Õn Ng« Ch©u (®Òu ë tØnh Qu¶ng T©y) th× hîp víi s«ng TÇm Giang.
(2) ChØ cuéc ch¬i thuyÒn ban ®ªm cña T« §«ng Pha ®êi Tèng ë s«ng XÝch BÝch.

Thơ đề đình Tỳ Bà 1)

Bên đình liễu rủ, nước xanh trong,
Nửa mái lầu xanh, giữa ráng hồng.
Trăng còn đẫm lệ quan Tư mã, 2)
Tiếng đàn ngày trước vẳng trên sông.
Cảnh đẹp nơi này lưu sử sách,
Thuyền nhỏ cô đơn, sóng bập bồng.
Tôi ở phương xa, chung cảm xúc,
Bùi ngùi mỗi bận đọc thơ ông.

(1) Đình ở ngoài thành Cửu Giang, tỉnh Giang Tây, nơi Bạch Cư Dị, thi hào đời Đường, tiễn khách đêm trăng, gặp người chơi đàn tỳ bà và viết bài Tỳ Bà Hành nổi tiếng.
(2) Tức Bạch Cư Dị, lúc ấy làm quan Tư mã ở Giang Châu, Giang Tây.

Đêm ấy, lại sang đò cửa sông Xích Bích

Doi cát bên sông, bãi sậy gầy.
Chèo đò, bài hát thật mê say.
Chiến trận Tôn Tào 1) xưa chẳng thấy,
Chỉ thấy dòng sông nước vẫn đầy.
Dưới bến, cánh buồm no gió thổi.
Trên bờ, đèn lạnh, sáng lung lay.
Ai chơi thuyền nhỏ sau Tô Thức? 1)
Chiếc đò mờ ảo giữa mù mây.

 (1) Tức Tô Đông Pha, thi hào đời Tống.

Chiều thu, dọc đường
       Thang Âm 1), ngắm cảnh đồng nội

Sắc thu xen lối cũ.
Khách đi vội trên đường.
Gió heo may se lạnh.
Núi nhuộm ánh tà dương.
Đồng cỏ xanh tít tắp.
Liễu rủ bóng bờ mương.
Nhìn con cò bay lượn,
Chạnh lòng nhớ quê hương.

(1) Tªn mét huyÖn thuéc tØnh Hµ Nam, Trung Quèc, quª hư¬ng cña Nh¹c Phi ®êi Tèng.

Đêm thu ở quán trọ

Dừng chân quán trọ, khóm mai xanh.
Tiếng thu đã đến báo trên cành.
Ngoài cửa sông trôi như giải lụa.
Trăng nhô phía biển, chiếu qua mành.
Đèn chong trên án, lòng thương nhớ.
Trước lầu tiếng trống giục sang canh.
Xa xa ai hát bài ly biệt.
Khói trắng trên sông, mộng chẳng thành.

Đêm trung thu, ở quán khách

Từ biển vầng trăng mới nhú lên,
Lạnh lùng chiếu sáng mép hàng hiên.
Lo nghĩ việc quan, thu vợi nửa.
Nỗi buồn nhớ nước vẫn còn nguyên.
Tóc bạc, suốt đêm ngồi tựa cửa.
Uống say mong vợi bớt ưu phiền.
Một năm đi sứ dài vất vả,
Thành Xuân, ải Lạng, tới Đài Yên 1).

(1) ChÆng ®ưêng ®i sø tõ thµnh Phó Xu©n qua ¶i L¹ng S¬n ®Õn Yªn §µi, kinh ®« nhµ Thanh, tøc B¾c Kinh ngµy nay.

Như thử lương dạ hà 1)

Tựa trời, ngồi uống rượu,
Ngắm dòng sông Ngân Hà.
Ngoài sân trăng như sữa.
Nhà bên rộn tiếng ca.
Mùa thu đâu cũng đẹp.
Chỉ tiếc mình đã già.
Ngồi bên ngọn đèn lạnh,
Lại bâng khuâng nhớ nhà.

(1) Bµi "HËu XÝch BÝch phó" cña T« §«ng Pha cã c©u "NguyÖt b¹ch phong thanh, như thö lư¬ng d¹ hµ", nghÜa lµ "Tr¨ng trong giã m¸t, ®ªm tèt nµy biÕt lµm g× ®©y". Chó thÝch cña t¸c gi¶: ngµy 13, vµo triÒu lÔ v¹n thä, cïng c¸c v¨n thÇn nãi chuyÖn, ng©m th¬, mäi ngưêi lÊy c©u "Như thö lư¬ng d¹ hµ" lµm ®Çu ®Ò ®Ó xưíng ho¹.

Ngày giỗ cha tháng Tám

Hiu hiu gió biển lạnh.
Ngồi trong thuyền nhìn ra.
Song Cương, 1) mây che núi.
Như chim, luôn xa nhà.
Thoắt, lại thêm một giỗ.
Theo triều dâng, lệ nhòa.
Làm trai mà vô dụng,
Thà làm phận đàn bà.

(1) Tªn mét ngän nói ë Giang T©y, Trung Quèc, n¬i t¸ng mé cha mÑ ¢u Dư¬ng Tù, mét v¨n hµo ®êi Tèng. §©y dïng ®Ó chØ n¬i t¸ng mé cha mÑ cña Ng« Th× NhËm.

No comments:

Post a Comment