Wednesday, February 25, 2015

THƠ HAIKU - BASHO 2



BASHO - 2
                
3
Rét cắt thịt.
Cái buồn nở hoa
Trên cánh đồng hoa nở.

5
Tôi tới thăm Mutsubaya Fubaku ở Ise và ở lại đó cho chân được nghỉ mươi ngày. Tối đến tôi làm lễ ở Đền Ngoài. Cùng bóng đen che phủ khắp Tôrii và những chiếc đèn lồng thiêng thắp sáng đó đây, gió lạnh từ trên ngọn thông cao thổi như cắn vào da thịt, như kim châm tận trái tim tôi.

Cuối tháng, không trăng.
Cây tùng nghìn năm tuổi
Trong vòng vây bão dông.

6
Như mây tan,
Con ngỗng trời rời đàn
Chỉ một chốc.

9
Chẳng có gì xẩy ra.
Ngày hôm qua đến rồi đi.
Bát canh cá mòi.

12
Mưa đông ở đâu?
Tay cầm ô,
Nhà sư về chùa.

13
Đá héo.
Nước khô.
Mà không cảm thấy đang mùa đông.

15
Làm lễ ở Miếu thờ Atsura

Cả cỏ bùa mê cũng héo...
Vào quán
Mua bánh gạo.

16
Trên đường, bất chợt gặp mưa đông đầu mùa.

Mưa đông.
Không mũ nón?
Ừ ừ, thế đấy.

17
Cùng tiếng chày giã bánh gạo
Năm cũ sắp qua.
Giấc ngủ cô đơn.

18
Đỏng đảnh,
Con bướm đậu
Lên đám cỏ không hương, nhạt nhẽo.

19
Chỉ một ít sót lại từ ngôi nhà tranh của Saigyô nằm bên phải Đền Trong. Chúng tôi đến đấy bằng cách đi thêm mấy trăm mét dọc theo lối nhỏ của người đốn củi. Sâu phía dưới là thung lũng, một cảnh tuyệt đẹp. “Nước trong nhỏ từng giọt” dường như vẫn thế không thay đổi, cả lúc này cũng vậy.

Sương rơi từng giọt.
Những muốn lấy sương
Lau sạch bụi đời phù du này.

20
Mùi hoa mận
Đưa tôi trở lại
Với cái lạnh.

22
Quả trám rơi.
Chim giật mình bay lên.
Gió mạnh buổi sáng.

23
Cả một ngày trên bãi biển

Biển xạm đen.
Tiếng vịt trời kêu
Có màu trắng nhạt.

26
Đức ông Tangan tổ chức bữa tiệc ngắm hoa anh đào ở nhà ngài. Mọi việc diễn ra đúng như xưa

Nhiều, rất nhiều
Những kỷ niệm xưa lại đến.
Hoa anh đào.

27
Chùa này
Cả vườn
Trồng toàn chuối.

28
Nấm bắt đầu khô.
Nhăn nheo
Như vỏ cây thông.

29
Suốt đêm qua
Cây tre có lạnh không?
Buổi sáng trời rét.

30
Dừng chân ở “Lều Tre Bầu bí” để nghỉ ngơi sau chuyến đi vất vả

Hoa nở suốt thời gian tôi ở đây.
Từ đầu đến cuối,
Đúng hai mươi ngày.

31
Ngôi nhà không hề biết mùa đông.
Tiếng xay lúa
Như tiếng mưa đá rơi.

32
Thật mạnh,
Tiếng mưa đá rơi
Lên chiếc nón gỗ của tôi.

34
Viết ở nhà Kiryu

Mùa thu đang qua.
Trăng mờ
Giữa mưa phùn lạnh.

35
Đèo Hôsô, trên đường từ Đỉnh Tafu đến Ryumôn

Cao hơn chim chiền chiện.
Ngọn đèo
Nằm ngang lưng trời.

36
Cổng Rồng

Hoa hái từ Cổng Rồng.
Món quà quí
Cho những người bạn rượu.

37
Chỉ bướm
Nhởn nhơ bay
Trên cánh đồng này đầy nắng.

38
Hoa thủy tiên cánh xanh
Khơi dậy trong tôi
Bài thơ Haiku.

39
Như thể
Ai đó mù
Đang ngắm trăng.

40
Đi xa có việc, tôi qua đêm trên một con thuyền. Rạng ngày, nhô đầu khỏi khoan che mái rạ, tôi thực sự xúc động khi thấy trăng khuya đang nhạt dần

Đêm buông.
Cả vào đêm hăm bảy
Cũng có trăng lưỡi liềm.

41
Trong khu vườn xưa

Hoa héo gợi buồn,
Chết,
Làm mùn cho cỏ mọc.

42
Gửi thầy tế Genki, cảm ơn vò rượu sakê ông tặng.

Nước quá lạnh.
Đến hải âu
Cũng không ngủ được.

44
Thu già.
Ông hàng xóm nhà bên
Đang làm gì?

46
Trăng và tuyết.
Tôi chỉ sống với trăng và tuyết.
Từ giờ, đến hết năm.

47
Đêm trời mát.
Tôi uống say rồi ngủ.
Hoa nở hồng trên núi.

48
Trong chuyến hành hương khắp tỉnh Yamôtô, tôi qua đêm ở nhà một người nông dân. Chủ nhà hết sức nhã nhặn và mến khách.

Dưới bóng hoa,
Như trong kịch Nô...
Tôi nghỉ lại dọc đường.

49
Trăng trôi.
Cành cây còn giữ
Nước mưa.

50
Mưa trên lều tranh.
Lại dậy.
Hoa cúc héo sau mưa.

51
Bị dẫm đạp,
Thế mà
Cây cúc vẫn nở hoa.

52
Mặt trời mùa đông.
Đông cứng trên lưng ngựa
Cái bóng của tôi.

53
Đèo Hakônê.
Như ai qua đây,
Vào buổi sáng đầy tuyết này.

55
Tượng Phật cao sáu mét.
Hơi nóng bốc lên
Từ bệ đá.

56
Đến chơi nhà Rôsô

Áo giấy ướt
Nhưng tôi đi bẻ một cành.
Hoa nở dưới mưa.

57
Cả bát đĩa
Cũng nhạt màu giữa hoàng hôn.
Cái mát ban đêm.

58
Hoa cúc trắng.
Cúi xuống nhìn thật kỹ.
Không thấy hạt bụi nào.

59
Tay cầm quạt.
Uống rượu sakê trong bóng râm.
Hoa anh đào rụng.

60
Nếu có giọng to
Tôi sẽ kêu lên với thần Nô:
Hoa anh đào đang rụng!

61
Chia tay một người bạn ở Nara

Sừng con hươu
Bắt đầu đâm nhánh.
Chúng ta chia tay.

62
Sen được cho là chúa của muôn loài hoa. Mẫu đơn nghe nói là hoa cao thượng. Nhưng những cây mạ mọc từ bùn còn tinh khiết hơn hoa sen. Vào mùa thu lúa trổ bông thơm ngát, thơm hơn cả mẫu đơn. Vậy lúa là loài kết hợp được cả hai phẩm chất ấy, thực sự thơm và thực sự tinh khiết.

Trên ruộng lúa,
Dân làng hát những câu thơ.
Kinh đô.

64
Ở Suma

Có trăng,
Mà như không có trăng.
Mùa hè ở Suma.

65
Trời đêm rằm tháng Tư còn đầy mù, nhưng trăng của cái đêm ngắn ngủi ấy đẹp một cách kỳ lạ. Núi sẫm màu với những lá cây non, và rạng sáng, khi chim cu kêu, ánh nắng bắt đầu dát vàng lên biển. Cả cánh đống ánh lên màu đỏ những ruộng lúa mì, còn màu trắng của cây anh túc thì có thể nhìn rõ trên từng mái hiên trong làng chài.

Cái nhìn thấy đầu tiên
Là khuôn mặt những người đánh cá.
Hoa anh túc.

66
Theo mặt trăng mà đi.
Hướng này.
Bác sẽ tới quán trọ.

67
Quí bà anh đào già
Nở hoa.
Sự hồi tưởng tuổi xuân.

68
Ở kinh đô,
Chín mươi chín nghìn người
Đang ngắm hoa.

69
Cả người nghèo
Cũng được ngắm hoa.
Cây kẽ dại.

70
Những cánh hoa Iris màu xanh
Hệt như bóng mình
In dưới nước.

71
Gió thu
Thổi qua cánh cửa mở.
Tiếng kêu chối tai.

72
Ở nhà một người có con vừa chết.

Héo, uốn cong.
Cả thế giới như đảo ngược.
Cây tre tuyết đè nặng

73
Từng đợt sóng hoa.
Những bông nở trái mùa
Đã về với nước?

75
Cao nguyên Musashi.
Tiếng con nai
Chỉ dài một tấc.

76
Kyôtô và Êđô
Cân bằng trên chiếc cân
Giữa mùa xuân nghìn năm này.

77
Khi tôi vào quán trà, một người đàn bà tên Bướm xin tôi viết tặng một bài thơ trong đó có tên bà. Bà mang ra tấm lụa nhỏ và tôi viết lên đó:

Hương hoa lan
Làm thơm
Đôi cánh bướm.

78
Gói chút gió Phú Sĩ
Vào quạt này
Làm quà cho bạn ở Êđô.

79
Mèo động đực.
Theo kiểu mèo,
Luôn đi lại trên lò sưởi.

81
Tuyết làm áo.
Gió lạnh trải làm giường.
Đứa bé bị bỏ rơi.

83
Biển xanh
Sóng có mùi rượu gạo.
Trăng đêm nay.

84
Nhìn quanh.
Nhìn thật kỹ, chợt thấy
Ở Suma đang thu.

85
Tuyết buổi sáng.
Mấy ngọn hành tây nhú lên
Đánh dấu chỗ của mình trong vườn.

86
Này nhện, chuyện gì vậy?
Bằng giọng của ai nhện khóc?
Gió thu.

87
Đêm, dưới trăng
Con sâu lặng lẽ
Khoét lỗ chui vào hạt dẻ.

89
Suốt chín mùa xuân và mùa thu, tôi sống kham khổ ở thành phố. Giờ tôi dọn đến sống bên bờ sông Fukagawa. Một lần có người nói: “Từ xưa, Tràng An là nơi để người ta trở thành nổi tiếng và giàu có. Vậy thì quả là không dễ đối với lữ khách tay không, túi rỗng”. Phải chăng vì bản thân rất nghèo nên tôi đã hiểu được tâm tình của ông?

Thổi mạnh vào cổng gỗ
Cuốn theo những lá chè...
Gió bão.

90
Nỗi lòng trong đêm lạnh lẽo ở Fukagawa.

Tiếng mái chèo chém sóng.
Đêm lạnh thấu xương
Nhòe nước mắt.

91
Người giàu ăn thịt, thanh niên khỏe mạnh ăn rau, còn tôi, tôi nghèo...

Buổi sáng đầy tuyết.
Một mình
Tôi ngồi nhá cá hồi khô.

92
Xem chân dung Trang Tử

Này bướm,
Ta muốn hỏi ngươi
Về thơ Haiku Trung Quốc.

93
Khi tôi ở Ôtsu vào mùa hè năm Genrôku thứ bảy,
anh trai tôi viết thư bảo tôi về nhà dự Lễ Bon.

Cả nhà tóc bạc
Chống gậy
Đi tảo mộ.

94
Mưa mùa hè.
Chân sếu
Ngắn hơn.

95
Tìm bắt đom đóm
Trong bóng tối, con dơi
Ngớ ngẩn đớp phải chiếc gai.

96
Hoa trắng dưới trăng
Cạnh nhà ngoài.
Có người cầm cây đuốc trên tay.

98
Một mình trong lều cỏ

Cây chuối dưới mưa.
Suốt đêm tôi ngồi nghe
Nước nhỏ trên ống mái.

99
Ngôi đền nghèo trên núi.
Ấm nước kêu trong giá lạnh.
Tiếng kêu khô.

100
Mua nước trước ngôi nhà tranh

Dẫu đỡ khát,
Nước lạnh
Làm buốt răng chuột.

101
Đề dưới bài thơ về đom đóm của Kikaku

Người ngồi ăn sáng
Cùng bình minh rực hồng
Là tôi.

102
Nghĩ về cụ Đỗ Phủ

Gió thổi, râu phất phơ
Than tiếc mùa thu muộn.
Cụ là người thế nào?

104
Ngày đầu Năm Mới
Một mình, chìm trong suy nghĩ
Về một đêm thu buồn.

105
Có phải chim chích
Là hồn
Của cây liễu đang ngủ?

106
Tôi hỏi:“Nhà sư đội nón cưỡi ngựa kia là ai, từ đâu đến và cần gì?” “Đó là chân dung của anh khi đi lang thang trên trái đất này”, họa sĩ đáp. “Được, vậy thì người lữ khách lang thang ba thế giới kia, hãy coi chừng kẻo ngã ngựa!”

Ngựa phi nước kiệu.
Tôi thấy mình trong tranh.
Cánh đồng hoang mùa hè.

107
Người ta dựng cho tôi túp lều mới, gọi là Lều Bashô

Lắng nghe mưa đá rơi.
Như trước,
Tôi thấy mình là cây sồi già.

108
Tiếng chuông tan dần xa xa.
Mùi hương hoa đọng lại.
Chập tối.

109
Vừa cúi xuống múc,
Răng đã tê vì lạnh.
Nước suối.

110
Có người cho gạo.
Mùa thu hoạch đến rồi ư?
Nhà tranh của tôi.

111
Việc này không thích hợp với thể loại ghi chép dọc đường. Nó chỉ phác họa những xúc động nhỏ trong tâm hồn khi nhìn thấy núi non, cầu cống và những ngôi nhà nông thôn. Nakagawa phết sơn màu lên cuộn giấy vẽ của ông về chuyến đi, bù đắp cho việc tôi không thể hiện được chúng bằng lời. Nếu người khác xem tranh ông, chắc chắn tôi sẽ phải xấu hổ.

Hãy qua đêm trong quán trọ.
Anh sẽ hiểu thơ tôi.
Gió thu.

112
Hoa rụng
Chim cũng giật mình.
Bụi mỏng trên đàn kôtô.

113
Kẹt giữa những cây đào,
Cây anh đào
Hào hứng trổ bông hoa đầu tiên.

114
Chuột trong hang
Chít chít,
Đáp lại tiếng những con én non.

115
Mưa xuân.
Rặng liễu bên sông
Ngã nghiêng như những chiếc áo tơi.

116
Bướm và chim
Không thôi bay quẩn quanh
Bên những khóm hoa.

117
Không có hoa
Cho người nói
“Tôi quá mệt vì trẻ con!”

118
Cái vồ này
Xưa là cây hoa trà
Hay cây mận?

119
Tiếng rao người bán mực
Nghe lẫn
Trong tiếng chim cu.

120
Chờ mặt trời mọc ở nhà Taisui

Mưa lác đác.
Không phải lo
Cho ruộng mạ vừa nẩy mầm.

121
Bài thơ này có trong tập Sankashu, do thầy tế Saigyô viết khi ông thăm một nhà sư có tên là Amiđabô sống ở quận Higashiyama, Tôkyô. Tôi mừng thầm, tự hỏi nhà sư này là ai. Đây, tôi xin tặng bài thơ này cho vị sư cả đời sống trong lều cỏ.

Trăng
Trên lều nhỏ này,
Hệt như trăng của Amiđabô.

123
Phương châm sống: Đừng nói về khuyết điểm
người khác và đừng khoe mình giỏi.

Mỗi lần mở miệng nói
Môi sẽ lạnh.
Gió thu.

124
Họ ăn gì,
Những người trong ngôi nhà này?
Mùa thu dưới bóng liễu.

125
Tôi đã chạm đến đáy
Cái túi thận trọng của mình.
Năm sắp hết.

126
Thơ đề trên bức tranh vẽ cây tre.

Gió bão mùa đông...
Náu mình trong cây tre
Đang đứng kia, tĩnh lặng.

127
Khi không còn hoa cúc,
Chẳng còn gì khác
Ngoài cây cải củ.

130
Đề trên chân dung Hôtêi

Không mong muốn nào nữa.
Trong túi xách của ông
Đã có trăng và hoa.

131
Xuân đến.
Ngày đầu năm
Có mười lon gạo cũ.

132
Gió thổi
Lá thông có rụng không?
Tiếng nước lạnh róc rách.

133
Lúc ấy là năm Jôkyô thứ nhất, vào mùa thu, tháng Tám. Khi từ túp lều tồi tàn của mình bên sông tôi bước ra, gió thổi vù vù và tôi thấy

Lạnh khác thường.
Lạnh thấu xương.
Buốt óc.

135
Ngày nọ, khi tôi đi qua Trạm Gác, trời đang mưa và các ngọn núi bị mây che khuất

Mưa.
Không nhìn thấy Phú Sĩ
Vì thế núi đẹp hơn.

136
Người ta buồn khi nghe vượn hót.
Còn trẻ khóc thì sao,
Những đứa trẻ bị bỏ rơi?

137
Thơ viết trên yên ngựa

Bông hồng
Bên vệ đường
Bị ngựa tôi ăn hết.

138
Tôi tới Sayo-no-Nakayama và chợt giật mình, như thể vừa tỉnh khỏi giấc mơ ám ảnh trong bài “Rạng sáng ra đi” của Đỗ Mục.

Ngủ gật trên lưng ngựa.
Mơ mơ, màng màng, mặt trăng…
Khói từ bếp đun trà.

139
Giữa rừng hoa.
Buồn.
Không mở nổi túi thơ.

180
Xa xa,
Mái lợp ngói đền Kannôn
Lẫn trong đám mây hoa.

142
Thăm lều cỏ của vị ẩn sĩ sống thanh nhàn giữa núi

Cây thường xuân mới trồng.
Bốn, năm gốc tre
Giữa gió bão.

143
Tôi trở về nhà vào đầu tháng Chín. Cỏ Lãng Quên cạnh phòng mẹ tôi đã héo chết vì giá lạnh, giờ không sót lại gì nữa. Mọi cái nay đổi khác. Thái dương các anh chị em tôi đã bạc với nhiều nếp nhăn quanh mắt. “Chúng ta vẫn còn sống!” - đó là những gì chúng tôi có thể nói với nhau. Anh trai tôi mở một chiếc hộp quí và nói: “Hãy tỏ lòng kính trọng mái tóc bạc của Mẹ. Giống Urashima với chiếc hộp đính đá quí của mình, lông mày em nay đã chuyển thành trắng”. Sau đó, hồi lâu chúng tôi cùng khóc với nhau.

Cái giá lạnh mùa thu,
Đưa lên tay sẽ tan
Trong những giọt nước mắt nóng.

144
Chúng tôi tiếp tục hành hương tới tỉnh Yamatô, tới một nơi gọi là Takê-no-Uchi ở quận Katsugê, quê của Chiri, và dừng lại cho đôi chân được nghỉ mấy ngày.

Gậy đập vải hình cung
Tiếng nghe như đàn thụ cầm.
Sâu trong rừng trúc.
.
145
Khi thăm chùa Taima ở núi Futagami, chúng tôi thấy một cây thông trong sân chùa, có lẽ đã nghìn năm tuổi, và “hốc cây của nó đủ rộng để chứa cả con bò”. Dẫu là vật vô tri vô giác, nhờ sự gắn bó với Phật mà nó thoát được lưỡi rìu của người đời. Thật may, thật kỳ diệu!

Các nhà sư và những sáng bình minh -
Bao nhiêu đã chết, bao nhiêu sống lại...
Cây thông phép màu của Phật.

146
Bình minh
Nhuộm hồng hoa anh đào.
Cũng là khi đêm xuân kết thúc.

147
Từ Yamatô tôi vượt Yamashirô rồi theo đường Ômi tới Minô. Phía ngoài Imasu và Yamakana có ngôi mộ của Công nương Tôkiwa. Môritakê ở Isê từng viết, “Gió thu giống Đức ông Yôshitômô”. Tôi thì tự hỏi mình giống nhau ở chỗ nào. Bây giờ tôi viết:

Nó thật giống
Trái tim Yôshimôtô...
Gió thu.

148
Đập Fuwa

Gió thu.
Chỉ thấy bụi cây và các ô ruộng
Bên Đập nước Fuwa.

149
Trước đây, khi rời Đồng Bằng Musashi lên đường hành hương, tôi nhìn thấy xương trắng rải rác bên vệ đường, còn bây giờ:

Cuộc hành hương đã hết
Tôi chưa chết.
Đêm thu.

150
Đền Hôntô ở Kuwana

Hoa mẫu đơn mùa đông.
Chim choi choi đầm lầy
Giống chim cu trong tuyết.

151
Trời chưa rạng, tôi mò mẫm đi ra bãi biển.

Sắp sáng.
Con cá trắng, màu trắng
Chỉ dài mấy phân.

152
Gặp một du khách.

Cả con ngựa
Cũng ngước lên nhìn tôi.
Buổi sáng tuyết rơi.

153
Giữa trưa, bên khóm hoa
Người giã gạo ngồi nghỉ.
Nhìn mà cảm động.

154
Chim cúc cu:
Giờ không còn nữa
Các bậc thầy thơ Haiku.

155
Chọn cỏ làm gối.
Cả con chó cũng ướt vì mưa.
Có tiếng ai trong đêm.

156
Ra ngoài đi dạo, ngắm tuyết.

Này bà con đi chợ,
Tôi bán mũ tôi đây -
Một chiếc ô phủ tuyết.

157
Tuyết rơi lên tuyết.
Trăng tháng Chạp đêm nay
Tròn không?

158
Cởi dép cỏ một chố, để gậy trúc chỗ khác, tôi ngủ mấy đêm liền trên đường, khi mùa sương rơi sắp hết

Sắp hết năm.
Đầu vẫn mũ tre.
Chân dép cỏ.

160
Con quạ bay vật vờ.
Tổ của nó
Lạc trong cây mận.

161
Trên đường tới Nara

Ừ, đã mùa xuân.
Trên những ngọn đồi không tên
Khói nhạt.

162
Lễ kéo nước.
Lọc cọc tiếng guốc nhà sư
Trong đêm giá lạnh.

163
Trang nghiêm, bệ vệ,
Cây sồi
Dửng dưng với hoa.

164
Gặp thầy tế Ninkô trong đền Saiganji ở Fushimi.

Sương
Từ hoa đào Fushimi
Rơi lên áo tôi.

165
Trong lúc vượt núi, trên đường tới Ôtsu

Ven đường trên núi
Hoa tím nở.
Thật dễ thương.

166
Cảnh hồ.

Ở Karasaki, cây thông
Trông mờ hơn
Những bông hoa nhỏ.

167
Ăn trưa ở một lữ quán.

Dưới bóng cây đỗ quyên
Người đàn bà
Ngồi xé từng con cá nhỏ.

168
Thơ viết dọc đường.

Trên ô ruộng trồng mù tạc
Bầy sẻ
Có vẻ mặt như người ngắm hoa.

169
Ở Minakuchi tôi gặp người bạn đã hai mươi năm chưa gặp lại.

Ngăn giữa hai ta
Lâu nay
Là cây anh đào này.

170
Một nhà sư từ Hiru-ga-kôjimi ở tỉnh Izzu, lần hành hương mùa thu năm ngoái có nghe tiếng tôi và đến Owari để được đi cùng

Vậy thì bây giờ,
Cùng nhau ta ăn kiều mạch.
Chiếc gối cỏ.

171
Ông Đaiten, sư trụ trì chùa Engkuji, vừa viên tịch đầu tháng Giêng năm nay. Vô cùng xúc động, tôi cảm thấy mình như đang mơ, và vẫn ở trên đường, tôi gửi mấy chữ đến Kikaku:

Sùng bái cây mận
Cúi mình trước cây cải trắng.
Mắt ngấn lệ.

172
Tặng Tôkôku.

Con bướm
Ngắt một cánh của mình
Tặng hoa anh túc trắng.

173
Lần nữa tôi ở lại Tôyô, và khi lên đường
tới các tỉnh miền Đông, tôi thấy

Từ sâu trong nhụy hoa
Bông mẫu đơn,
Con ong miễn cưỡng bò ra.

175
Cuối tháng Tư, trở về lều mình, khi tôi đang nghỉ ngơi sau chuyến đi mệt mỏi thì chợt thấy

Vẫn còn mấy con chấy
Trong chiếc áo mùa hè.
Nghĩa là phải bắt chúng.

176
Suốt đêm bầu trời lúc quang lúc đầy mây, khiến chúng tôi thấp thỏm.

Mây lúc có, lúc không.
Cũng may vì không phải
Lúc nào cũng ngắm trăng.

177
Trời tối hẳn, có ba người sống ở Reiganjima tới thăm lều tôi. Ngẫu nhiên cả ba cùng có chung một tên - Shichirôbêi. Nhớ lại bài thơ Lý Bạch uống rượu một mình, tôi đùa viết:

Cốc rượu đầy trên tay.
Đêm nay
Tôi uống vì ba cái tên.

179
Bị bệnh hành hạ,
Thậm chí không nuốt nổi bánh gạo.
Hoa đào.

180
Thương tiếc thầy tế Tanđô.

Rụng xuống đất,
Quay về với rễ...
Lời vĩnh biệt của bông hoa.

181
Đông hay Tây
Cái khổ vẫn thế đời này.
Gió thu.

182
Trăng mùa thu hoạch.
Suốt đêm
Một mình dạo quanh ao.

183
Không sở hữu gì.
Thế giới của tôi
Nhẹ như dây bầu.

184
Vườn cổ.

Tất cả hoa héo chết,
Tỏa cái buồn khắp vườn.
Rễ cỏ.

185
Một đêm giá lạnh.

Đêm giá lạnh.
Bình nước vỡ
Không ngủ, tôi nằm nghe.

186
Với hy vọng được ngắm tuyết đầu mùa ở lều cỏ của mình, mỗi lần thấy trời có mây, tôi lại chạy vội về nhà.  Chạy nhiều lần. Vào ngày Tám tháng Chạp, cuối cùng tuyết đã rơi, và đó một niềm vui thực sự.

Tuyết đầu mùa.
Thật sung sướng
Đang ở nhà mình.

187
Tuyết đầu mùa.
Chỉ đủ nặng
Làm cong lá thủy tiên.

188
Đêm tuyết rơi ở Fukagawa.

Rượu sakê.
Không ngủ được.
Đêm mưa tuyết.

189
Một người tên là Sôra dựng căn lều tạm gần đấy và sáng tối nào chúng tôi cũng gặp nhau. Khi tôi nấu cái gì đó, ông lo nhóm lửa. Khi tôi chuẩn bị pha trà, ông  đập băng lấy nước. Bản tính ông thích yên tĩnh  một mình, tôi cũng thế nên tình bạn chúng tôi còn quí hơn vàng. Một tối nọ ông đến thăm tôi khi tuyết đang rơi. Tôi nói:

Bác nhóm lửa.
Tôi có cái này rất hay -
Quả bóng tuyết!

191
Tôi tới thăm một người ở chỗ ông ta ở ẩn. Ông già coi nhà nói: “Ông chủ tôi đi viếng chùa xa”. Nhìn những cây mận ở đấy đang kỳ nở rộ, tôi nói: “Những cây mận này sẽ thay ông ấy vì chúng rất giống chủ”. Nghe vậy, ông kia đáp: “Thực ra chúng là của hàng xóm”.

Tôi tới, bác đi vắng.
Những cây mận cũng xa
Ngoài khu rừng này.

192
Nhà trên núi.

Con cò làm tổ,
Nhìn qua các cành cây
Nở đầy hoa.

193
Lều cỏ của tôi.

Hoa trắng như mây.
Chuông rung
Từ Uênô hay từ Asakusa?

194
Suốt ngày hót.
Hót suốt ngày không chán.
Chim sẻ.

195
Giữa đồng,
Hoàn toàn tự do...
Chim én hót.

196
Chim cu
Vừa bay vừa kêu,
Vẻ bận rộn

197
Chân dung tự họa của một người khốn khổ.

Tóc tôi dài.
Mặt tôi nhợt nhạt.
Mưa mùa hè.

198
Đội cơn mưa mùa hè,
Tôi đi xem tổ con chim bói cá
Trôi giữa sông.

199
Sanpumê, một học trò của tôi, gửi tặng thầy chiếc áo kimônô mỏng mặc mùa hè.

Hãy nhìn tôi
Trong chiếc áo mỏng mùa hè này!
Chiếc kimônô của ve sầu.

200
Ngồi hóng mát ban đêm.

Tôi ngủ thiếp vì say.
Trong khi trên núi đá
Hoa hồng dại nở.

201
Tôi tới thăm căn lều cũ kỹ của một người đã lên núi ở ẩn

Bác, người trồng dưa hấu,
Có phải bác đấy không
Giữa trời mát đêm nay?

202
Con cua nhỏ
Theo chân tôi bò lên.
Nước trong.

203
Ransetsu vẽ cảnh bình minh trên một bức tranh
rồi yêu cầu tôi đề thơ lên đó.

Bình minh đẹp.
Cả khi vẽ tồi,
Vẫn gây xúc động.

204
Cảnh nông thôn.

Con sếu lò dò bước
Trên ruộng lúa gặt chưa xong.
Mùa thu ở làng.

205
Xay lúa.
Cậu bé nông dân
Chốc chốc dừng lại ngắm trăng.

206
Lá cây khoai sọ
Chờ trăng
Trên cánh đồng cháy sém.

207
Trước Miếu thờ

Cây thông này mọc
Từ thời các thánh thần.
Một mùa thu thiêng liêng.

208
Mưa trên lều tôi

Mới mọc lại…
Sau mưa,
Cúc héo lụi.

209
Bị dập vùi.
Thế mà bụi cúc
Vẫn ra được nụ.

210
“Lữ khách”
Hãy gọi tôi là lữ khách.
Cơn mưa đông đầu tiên.

214
Quán trọ dọc đường.

Đốt lá thông
Hong khăn ướt.
Lạnh.

215
Trên đường tới Iragô, dẫu đang say, Etsujin vẫn cưỡi ngựa.

Mong sao nếu ngã ngựa,
Ngã xuống tuyết, cát mềm...
Say vì sakê.

217
Tôi tới thăm Tôkôku, người đang gặp khó khăn khi sống ở Mũi Iragô. Thỉnh thoảng tôi nghe tiếng chim ó kêu.

Không phải trong mơ,
Mà trong đời thực,
Chim ó làm tôi vui.

218
Theo người ở đây kể lại, làng này gọi là “Hôbi”, vì ngày xưa một hoàng đế bãi triều đã ca ngợi và ra lệnh “Hãy bảo vệ vẻ đẹp của nó” (hôbi). Tôi không biết có tài liệu lịch sử nào ghi điều đó không, nhưng ý tưởng ấy thực sự làm tôi phấn chấn.

Ở đây, làng Hôbi.
Hãy ca ngợi những bông hoa nở sớm
Trên cây mận và cây hoa trà.

219
Miếu thờ Atsura sau khi được trùng tu.

Được đánh bóng lại,
Cả gương thiêng cổ cũng thành sáng.
Hoa tuyết.

220
Vậy thì nào,
Ta đi xem tuyết rơi
Cho đến khi ngã quị.

221
Giọt sương đóng băng.
Tôi nhặt lên -
Giọt nước suối tinh khiết.

222
Nghỉ dọc đường.
Xem quét nhà cuối năm
Giữa đời này bụi bặm.

223
Ở làng Hinaga, tôi thuê con ngựa đã nhắc đến trong bài “Từ Kuwana tới đây, không có gì để ăn...”, rồi tôi cưỡi nó leo lên Núi Chiếc Gậy Chống. Giữa chừng tuột yên, tôi bị ngã khỏi lưng ngựa.

Ngã ngựa.
Giá mình leo bộ
Lên Núi Chiếc Gậy Chống.

224
Những muốn mượn áo
Của con bù nhìn để ngủ.
Nửa đêm, giá lạnh.

225
Ở Yamađa, tỉnh Isê

Từ cây gì
Tôi không biết tên,
Mùi hương thật dễ chịu.

226
Các cô gái đồng trinh trong miếu thờ.
Cây mận cô đơn nở hoa.
Thật dễ thương.

227
Gặp Setsuđô, con trai Ajirô Minbu.

Từ cây mận già
Mọc lên cây non tuyệt đẹp.
Hoa mận.

228
Gửi thầy tế Ryu Shôsha.

Trước hết xin hỏi:
Loài sậy có lá non này
Tên là gì?

229
Gặp nhau trong lều cỏ.

Khoai sọ trồng xong.
Lá nho xanh
Phủ đầy trên cổng.

230
Viết ở chùa Bôđai.

Về cái buồn của núi này
Những người đào củ từ
Kể rất nhiều chuyện.

232
Buổi gặp mặt đầu tiên của nhóm các nhà thơ đối vịnh ở Đền Yakushi

Cây anh đào đầu tiên nở hoa.
Ngay lúc này, hôm nay.
Một ngày đẹp trời.

234
Tay cầm quạt,
Uống rượu sakê trong bóng râm.
Hoa anh đào rụng

235
Hết cánh này đến cánh khác
Hoa hồng dại rụng.
Tiếng thác đổ.

236
Để ngắm hoa anh đào,
Chẳng sao
Nếu phải đi hai mươi dặm một ngày.

237
Con suối trong bám đầy rêu.

Những giọt mưa xuân
Chảy theo thân cây.
Bờ suối trong đầy rêu.

240
Núi Kôya

Tôi thèm
Một tiếng kêu chim cuốc,
Cho bố mẹ tôi.

241
Wakanôura

Mùa xuân ra đi.
Cuối cùng tôi đuổi kịp nó
Ở đây, Wakanôura.

242
Ngày thay quần áo

Cởi hết một lớp,
Khoác lên vai...
Ngày thay quần áo.

243
Phật Đản.
Vào ngày này
Con nai vàng ra đời.

244
Tướng quân Ganjin, người được thờ ở đền Shôđaijin, phải chiến đấu với bảy mươi kẻ thù khi ông tìm cách trở về Nhật Bản từ Trung Quốc. Nghe kể lại, ông bị mù vì gió biển mặn thổi vào mắt. Giờ đây tôi cúi lạy trước hình ảnh thiêng liêng của con người này:

Với chiếc lá non,
Để tôi lau
Nước mắt cho ông.

245
Đi đường mệt.
Vừa may tìm được chỗ trọ.
Hoa đậu tía.

246
Đền Suma.
Lắng nghe tiếng sáo chưa thổi
Sâu trong bóng hoa.

247
Qua đêm ở Akashi

Nằm trong bẫy,
Con bạch tuộc mơ màng...
Trăng mùa hè.

249
Ý định về chuyến đi sắp tới theo Đường Kisô xuất hiện khi tôi đang ở Ôtsu. Ở đó, tôi đã đến Sêta để xem đom đóm.

Như ánh trăng,
Đom đóm
Lập lòe trên ruộng lúa.

250
Rơi từ ngọn cỏ
Rồi bay đi...
Con đom đóm.

251
Ở Ôtsu

Mùa hè
Trôi trên hồ.
Lướt đầu ngọn sóng.

252
Chớp lóe.
Tiếng con diệc
Giữa bóng đêm.

253
Trả lời thư mời một người tên là Rakugô, tôi ngồi hóng mát dưới bóng những cây thông trên núi Inaba, và cũng để nghỉ ngơi chút ít sau chuyến đi vất vả.

Góc nhỏ trên núi.
Tôi sẽ nuôi cơ thể mình
Bằng cánh đồng dưa này.

254
Tôi muốn ví chúng
Với đứa trẻ non nớt...
Những bông hoa trên đồng.

255
Núi Inaba

Chuông chùa
Dường như đang rung...
Ve kêu.

256
Một người tên là Kisaburô sống ẩn dật ở chân núi Inaba mời tôi đến cùng thưởng thức trời đêm mát mẻ

Lâu đài đổ nát.
Nước trong lấy từ giếng cũ
Là cái đầu tiên tôi tìm.

257
Đi xem những người đánh cá dùng chim cốc bắt cá trên sông Nagara ở Minô.

Thật thích
Nhưng rồi chợt thấy - thật buồn...
Thuyền đánh cá có chim cốc.

258
Màu của gió.
Khu vườn mùa thu
Cây trồng lộn xộn.

260
Những ruộng lúa cạnh Đền Kho Báu của thần Dharma.

Lúa chín.
Từ phía ruộng lúa chín sớm
Chim dẽ giun kêu.

261
Chúc mừng nhà mới

Một ngôi nhà tuyệt đẹp.
Phía sau
Chim sẻ vui nhặt kê.

262
Ngắm cảnh Narumi

Đầu thu.
Cả biển, cả ruộng lúa
Đều xanh.

263
Ngày đầu thu

Đi đường mỏi mệt
Bao nhiêu ngày giống ngày này?
Gió thu.

264
Ao sen.
Hoa sen còn nguyên, chưa hái -
Chờ lễ Linh Hồn.

265
Năm Jôkyô thứ năm, ngày 20 tháng Bảy, tôi được tiếp ở lều Lá Tre

Có kê, có cỏ rồi,
Không muốn gì thêm.
Lều tranh.

266
Con bướm trên bông cúc

Mùa thu sâu.
Con bướm uống sương
Trên bông cúc.

268
Tiễn Yasui lên đường

Tiễn bác.
Lưng bác xa dần.
Gió thu cô đơn.

270
Đời có bao loài cây.
Mỗi loài,
Một sắc hoa rực rỡ.

271
Bạn bè tiễn tôi ở ngoại ô thành phố.
Chúng tôi cùng uống với nhau mấy chén rượu

Chứng kiến tiệc rượu này,
Bình minh
Đỏ rực cả bầu rời.

272
Run, ngả nghiêng
Càng giống những giọt sương...
Hoa trinh nữ.

273
Như chiếc cầu treo,
Dây thường xuân
Cố bám vào tường để sống.

274
Núi Ôbasutê

Khuôn mặt núi đá -
Một bà già đang khóc
Chỉ có trăng làm bạn.

276
Đền Zenkôji

Trăng sáng.
Bốn cổng, bốn phần.
Chỉ một mình tôi.

278
Ông già chủ ao sen này thích hoa cúc. Hôm qua dự lễ ở Núi Lu, hôm nay chúng tôi uống nốt phần rượu còn lại, cả hai thi nhau trổ tài thơ phú, lại còn hỏi ai khỏe hơn ai.

Năm sau vào ngày này?
Ngày mười sáu âm lịch?
Hay chỉ sáng nay nhớ hoa cúc?

279
Ngả bệnh ở Kisô.
Chưa khỏe hẳn.
Trăng cuối mùa thu hoạch.

280
Những lá thường xuân này
Hơi nhuốm màu quá khứ.
Tán lá mùa thu.

281
Thu sắp hết.
Tôi cuộn tròn người
Trong chăn.

282
Sống ẩn mùa đông.
Lần nữa
Tựa lưng vào cột.

283
Tôi được nghe nhiều điều tốt về nhà sư Đôen ở Lều Đaitsu. Kính trọng ông, tôi hứa sẽ đến thăm, thế mà điều ấy chưa kịp xẩy ra, ông đã từ giã cuộc đời này, như bông tuyết tan giữa buổi chiều tà mùa đông. Hình như hôm nay là ngày giỗ đầu của ông.

Cố hình dung
Ông là người thế nào.
Chiếc gậy gỗ héo của ông.

284
Thương tiếc vợ Rika

Nằm xuống
Kéo trùm chăn.
Một đêm lạnh và buồn.

285
Tại buổi lễ cầu siêu một người quen

Chúng làm tắt
Cả lò sưởi đầy than...
Tiếng thút thít và nước mắt.

286
Jusô người tỉnh Owari còn được gọi là Etsujjin, theo tên vùng đất nơi ông sinh. Bây giờ ông ẩn mình ở thành phố, chỉ lo kiếm đủ thức ăn và dầu sưởi. Ông làm việc hai ngày, chơi hai ngày, nếu làm ba sẽ chơi ba. Ông thích uống rượu và hát bài “Những câu chuyện về Heikê” khi say. Một người bạn đích thực.

Liệu năm nay
Tuyết chúng ta nhìn năm ngoái
Sẽ lại rơi?

287
Vào một đêm tuyết rơi, tôi đùa viết bai thơ về chiếc mũ dai, dùng hai từ “mua gạo” làm chủ đề

Ra ngoài mua gạo
Bao rỗng đội đầu che tuyết.
Chiếc mũ dai của tôi.

288
Ngày đầu năm.
Mặt trời trên ruộng lúa
Gợi ta buồn.

289
Thật cám dỗ.
Cả mùa xuân năm nay
Bầu trời cũng gọi đi xa.

290
Sáng lại chiều
Như thể ai chờ tôi ở Matsushima.
Mối tình buồn của tôi.

291
Năm Genrôku thứ hai, tháng Hai, khi nghỉ lại ở Tôzan.

Từng đợt hơi nóng
Bốc lên từ hai vai.
Chiếc áo giấy của tôi.

292
Đi lễ ở Futamigaura.

Nhìn hoa sóng thủy triều,
Biết vịnh này
Xuân đã đến.

293
Chiền chiện hót.
Chim cuốc kêu,
Hòa nhịp.

294
Thơ đề trên tranh vẽ người đang uống rượu.

Không trăng, không hoa.
Chỉ một người uống rượu.
Một mình

295
Giao nhà ở ẩn bằng cỏ cho gia đình có mấy cô con gái.

Cửa lều cỏ
Cũng di chuyển theo mùa.
Nhà búp bê.

296

Xuân qua.
Chim kêu.
Mắt cá ngấn lệ.

297
Murô-nô-Yashima.

Hơi nóng căng thành sợi
Quyện với nhau.
Khói.

298
Mặt trời sắp lặn.
Những sợi chỉ sóng nóng
Nhòe dần.

299
Ngôi làng không chuông.
Ừ, nhưng mùa xuân có hội.
Thì sao?

300
Đêm xuân, một mình ở ngôi nhà nông thôn.

Không nghe
Cả tiếng chuông hoàng hôn.
Đêm xuân.

301
Thật thiêng liêng.
Lá xanh, lá non
Dưới nắng.

302
Bên thác nước
Tạm thời sống ẩn.
Đầu kỳ nghỉ hè.

303
Tìm Suitô ở Yôzê, tỉnh Nasu.

Mùa hè, gặp người gánh cỏ.
Nhờ chỉ đường
Qua cánh đồng này.

304
Về cảnh đẹp tại nơi sư phụ Shua đang sống.

Cả núi
Cũng chuyển vào vườn.
Phòng khách mùa hè.

306
Tôi biết bài thơ này về thầy tế Butchô, nhưng nhìn lều cỏ của ông làm tôi xúc động hơn khi nghe về nó. Trong sự xúc động ấy, tôi thấy trái tim mình được thanh lọc.

Cả chim gõ kiến
Không nỡ làm hỏng lều này.
Khu rừng mùa hè.

308
Mùa hè, trên núi
Cầu kinh trước đôi guốc gỗ.
Lại lên đường.

309
Thơ đề trên tranh vẽ con sếu và cây chuối.

Sếu kêu.
Chắc chắn tiếng kêu này
Làm rách lá chuối.

340
Người quản gia ngôi nhà lớn gửi tôi đi bằng ngựa. Dọc đường, người coi ngựa nói: “Xin ông viết cho một bài thơ trên giấy, được không?” “Một yêu cầu tinh tế,”  tôi nghĩ.

Đi hết cánh đồng,
Tới chỗ kia cho ngựa rẽ!
Chim cu.

341
Với tư cách là hai nhà sư, chúng tôi hành hương tới vùng Cực Bắc. Chúng tôi thăm Shinôhara ở Nasu, định đi thăm “Hòn  Đá Giết Người” ở  Sesshô, nhưng trời mưa mãi không dứt nên phải nghỉ lại ở đấy.

Mưa từ trên cao xuống.
Trong nhà trọ ở Takaku.
Chim cu.

343
“Cây liễu bên dòng suối trong xanh như pha lê” mọc ở vệ đường gần một ruộng lúa ở làng Ashinô. Mấy lần, ông Kôhô, một viên chức ở quận, bảo tôi: “Tôi rất muốn chỉ ông xem cây liễu đó”, và tôi lúc nào cũng muốn biết nó ở đâu. Bây giờ thì cuối cùng tôi đang đứng dưới bóng của nó.

Mạ
Cấy hết.
Tôi rời khỏi cây liễu.

344
Từ Đông hay từ Tây?
Cao trên những cây mạ mới mọc,
Gió thổi vi vu.

345
Qua Trạm Gác Shirakawa.

Cội nguồn tất cả nghệ thuật
Là bài hát cấy lúa
Tít trên miền Bắc.

346
Chữ hạt dẻ trong tiếng Trung Quốc gồm hai chữ là mộctây, do vậy cây dẻ được cho là có liên quan đến Miền Đất Thanh Khiết của Phật Amiđà. Người ta nói trong suốt cuộc đời Bodhistva của mình, Gôyô đã dùng gỗ cây này làm gậy chống và cột đỡ lều của mình.

Mọi người
Chớ xem thường hoa này.
Hoa dẻ trên mái hiên.

347
Cách thị tấn Sukagawa năm dặm về phía Đông là thác nước Ishikawa mà từ lâu tôi mơ ước được chiêm ngưỡng. Vào thời gian này trong năm mực nước dâng cao vì trời mưa, và người ta bảo tôi không thể vượt qua được.

Mưa hè.
Đủ nước để làm ngập
Cả thác nước.

348          
Cấy lúa bằng tay,
Theo cách xưa.
Ngẫu nhiên thế nào được ấy.

349
Kyôhaku đưa cho tôi bài Haiku này như món quà tặng lúc chia tay. Và tôi đã viết:

Từ ngày anh đào nở hoa
Tôi muốn ngắm cây thông này.
Mọc hai thân sau ba tháng.

351
Đảo, rất nhiều đảo.
Chi chít hàng nghìn đảo
Giữa biển mùa hè.

352
Ở Takađachi, tỉnh Ôshu.

Cỏ mùa hè
Là những gì sót lại
Từ giấc mở các chiến binh.

353
Dưa mùa đông.
Tất cả dưa mùa đông
Mang khuôn mặt mới.

354
Từ Suối nước nóng Narugô, chúng tôi định lên đường đi tới tỉnh Đêwa qua Trạm Gác Shitômae. Ít du khách chọn đi đường này, do vậy những người lính gác tỏ ý nghi ngờ, mãi lúc sau mới cho chúng tôi đi. Khi leo qua một đỉnh núi, mặt trời đã xế bóng, chúng tôi thấy một ngôi nhà của lính gác biên giới và xin ngủ qua đêm ở đấy rồi đi tiếp. Nhưng mưa lớn và gió liên tục ba ngày, khiến chúng tôi bị kẹt lại ở chỗ núi non chẳng mấy vui vẻ này.

Chấy, rận.
Con ngựa đái
Sát bên gối tôi.

355
Tĩnh lặng.
Tiếng ve kêu
Thấm vào kẽ đá.

356
Thu vào lòng mình
Tất cả mưa hè...
Sông Môgami chảy xiết.

358
Ở nhà Sêishin

Sờ gió,
Đoán biết đâu là hướng Nam.
Sông Môgami.

359
Đầy vẻ biết ơn,
Thung Lũng Nam
Thấm đầy hương tuyết.

360
Trời mát.
Trăng lưỡi liềm mờ dần
Trên núi Lông Chim Đen.

361
Ở Yuđônô.
Không được nói vì sao
Tay áo tôi đẫm lệ.

364
Xô mặt trời nóng
Xuống biển…
Sông Môgami.

365
Trên đường.
Nghỉ dưới gốc anh đào,
Như thể mình đang diễn kịch Nô.

366
Mưa đêm vừa tạnh, một người trong vùng
đưa tôi đến Vịnh Kisagata bằng thuyền.

Đêm trời quang.
Hóng mát dưới bóng hoa anh đào.
Cánh hoa trôi trên sóng.

367
Bãi Nông.
Con sếu ướt chân.
Hơi mát từ biển.

369
Nhìn ra đảo Sađô từ thị trấn có tên Izumôzaki ở Êchigô.

Biển động.
Sông Ngân Hà
Kéo dài qua Sađô.

370
Ở nhà thầy thuốc Hôsôkawa Shunan.

Hoa nào
Trong vườn thuốc nhà bác
Sẽ là gối cho tôi đêm nay?

371
Làm mềm cá tráp
Bằng những cành liễu lạnh.
Vợ người đánh cá.

372
Gái điếm,
Cây ba lá và trăng
Cùng ngủ chung một nhà.

373
Đỏ, đỏ rực
Mặt trới chói chang.
Thế mà có gió thu.

374
Được mời tới thăm một lều cỏ.

Mùa thu, trời mát.
Nào, cùng nhau
Ta gọt dưa.

375
Một người tên là Isshô nổi tiếng hâm mộ kiểu thơ Haiku, nhưng anh ta chết mùa đông năm ngoái. Ông anh trai tổ chức một cuộc đối vịnh loại thơ này để tưởng nhớ người em.

Tiếng tôi khóc
Làm lay chuyển cả mộ.
Gió thu.

376
Ở nơi có tên là Cây Thông Nhỏ.

Một cái tên đáng yêu.
Cây Thông Nhỏ, nơi gió
Thổi phất phơ những bụi cây ba lá.

377
Bông nở trắng trên đồng,
Như hoa
Dưới trăng mùa thu hoạch.

378
Rời suối nước nóng.
Đêm nay da tôi
Sẽ mát.

379
Thăm đền Kannôn ở Nata.

Trắng hơn đá trắng
Trên núi Đá Trắng.
Gió thu.

380
Dọn vườn
Trước lúc lên đường.
Liễu rụng lá trong chùa.

381
Mấy chữ nguệch ngoạc trên quạt.
Quạt bị xé.
Kỷ niệm lúc lên đường.

382
Tôi đi qua cầu Asamutsu. Dân sở tại gọi là Asamuzu, tuy nhiên trong phần “Cầu” của cuốn Sách Về Chiếc Gối của Sêi Shônagôn thì nó vẫn là Asamutsu.

Asamutsu.
Bình minh
Lên đường đi ngắm trăng.

383
Tamaê.

Hãy ngắm trăng,
Chừng nào sậy ở Vịnh Ngọc
Chưa bị cắt.

385
Biển Kêi

Xem hết tám cảnh đẹp
Ở các tỉnh khác nhau,
Giờ xem trăng Kêi.

386
Năm 1689, khi ngắm trăng ở Vịnh Tsuruga, tôi đến Đền Kêi và được nghe kể về những việc làm của các sư trụ trì ở Yugyô.

Trăng tinh khiết.
Trăng trên những hạt cát
Rơi từ dép người hành hương.

387
Đêm rằm, chủ quán trọ đoán sẽ có mưa.

Trăng mùa thu hoạch.
Khó lường
Thời tiết miền Bắc.

388
Cũng đêm ấy chủ quán kể chúng tôi nghe một câu chuyện thế này. Sâu dưới biển có chiếc chuông. Một lần quan tỉnh trưởng sai thợ lặn xuống vớt lên. Họ tìm thấy nó, nhưng vì nó nằm ngược nên không cách nào đưa lên được.

Trăng ở đâu?
Chuông chùa
Chìm đáy biển.

390
Mùa thu hoạch, trăng sáng.
Sương mù dưới chân núi.
Khói trên đồng lúa.

391
Cô đơn.
Còn hơn cả Suma.
Mùa thu trên bãi biển này.

392
Giữa những con sóng.
Mẩu hoa cây ba lá
Quay cuồng trong vỏ sò tí hon.

393
Bãi Biển Màu Sắc.

Hoa cây ba lá.
Hãy để cánh rơi xuống cốc rượu -
Chiếc vỏ sò tí hon.

394
Thu đang sâu.
Chưa thấy bướm bay.
Con giun đất.

395
Khi mở cửa, tôi thấy ở phía Tây có ngọn núi gọi là Ibuki. Trên núi không có hoa, không có tuyết. Đơn giản chỉ là một ngọn núi.

Tự bản thân mình đã đẹp,
Không cần trăng...
Núi Ibuki.

396
Ngẫu hứng viết tại biệt thự ông Jôsui.

Sống ẩn yên tĩnh nơi này,
Tôi sẽ hái trái cây
Và nhặt hạt cỏ.

397
Nở vội vàng,
Tháng Chín đang đến gần.
Hoa cúc.

398
Một người tên là Sôguy, sống ở Sêki, tới  Ôgaki thăm tôi. Những bông hoa Sôgi được nhắc đến trong bài “Hoa đậu tía trắng trên sườn núi” bây giờ vẫn thơm như khi chúng được ông viết trong thơ.

Hạt đậu tía.
Tôi sẽ đưa chúng vào thơ
Khi không còn hoa.

399
Thăm biệt thự của Bôkuin.

Chổ ở ẩn.
Mặt trăng, hoa cúc.
Và một ô ruộng lúa.

400
Viết cho một bức tranh.

Đôi dép của Saigyô.
Hãy treo chúng
Cùng những giọt sương từ cây thông.

401
Như con sò chui ra khỏi vỏ,
Tôi lên đường đi Futami.
Chia tay mùa thu.

402
Tôi ở lại nhà của Akêchi, tỉnh Isê. Vợ ông, người luôn chiều chồng trong mọi chuyện, cũng an ủi nhiều cho trái tim mệt mỏi của du khách này. Khi chồng rơi vào cảnh túng quẩn, bà đã cắt tóc bán lấy tiền cho chồng tổ chức buổi gặp mặt renga. Lúc này tôi đang nhớ lại đức tính hy sinh cao cả ấy của bà.

Trăng, cô đơn.
Tôi muốn kể
Về người vợ của Akêchi.

403
Đền Trong đã được chuyển đi nơi khác. Tôi đi lễ ở Đền Ngoài trong ngày Lễ Tái Sinh ở chùa này.

Mọi người xô đẩy nhau,
Tìm sự thiêng liêng.
Lễ Tái Sinh.

404
Ở nơi gọi là Nakamura, tỉnh Isê.

Gió thu.
Giờ nghĩa địa ở Isê
Càng buồn hơn.

405
Futami.

Nghiên mực của Saigyô?
Tôi cầm lên tay ...
Sương trong mẩu đá lõm.

407
Hết ngày lại ngày,
Tự mình đổi thay...
Bông hồng

408
Cơn mưa đông đầu mùa...
Có vẻ con khỉ
Muốn có chiếc áo tơi.

409
Hái nấm.
Dễ bị ướt
Trong cơn mưa chiều lạnh.

410
Vườn mùa đông.
Ánh trăng như những sợi chỉ.
Tiếng côn trùng râm ran.

411
Ngọn núi
Được vẽ trên cuộn giấy bồi.
Sống ẩn mùa đông.

412
Chơi cùng trẻ trên đồi

Tuyết đầu mùa.
Nào lấy lông thỏ
Ta làm râu!

413
Ngày mồng Một tháng Bảy, năm Genrôku thứ hai,
họa vần thơ tại nhà Ryôbôn.

Nào các cháu,
Ta chạy loanh quanh
Dưới mưa đá!

414
Tới thăm Nam Kinh, tôi mong muốn cuối cùng Điện Thờ Phật sẽ được xây xong.

Tuyết đầu mùa.
Cho Đức Phật Toàn Năng
Bao giờ mới dựng cột?

415
Bài hát trên đường.

Rời lâu đài trên núi Iđê
Ngồi trên chiếc kiệu thuê.
Những cơn mưa đông đầu mùa.

416
Cả họ cũng đi
Quanh mộ Choshô?
Vừa đi vừa gõ vào bát?

417
Nhiều người đến thăm lều cỏ của tôi ở Zêzê.

Nếu trời mưa đá,
Tôi sẽ nấu, thết anh
Món cá cơm bắt bằng lưới liễu gai.

419
Đón Năm Mới gần kinh đô.

Ai kia quấn quanh người
Chiếc chiếu cói?
Hoa mùa xuân.

421
Con chim chích
Để rơi mũ của mình…
Bông hoa anh trà.

422
Ở làng, sau khi gieo hết giống ba loại rau trong vườn anh tôi.

Mưa xuân.
Hạt giống cây quả trứng
Bắt đầu nảy mầm.

424
Những củ khoai tây giống.
Đúng lúc anh đào nở hoa
Người bán rau đi bán hàng.

425
Viết ở nhà Kôbôku.

Lối đi giữa hàng thông.
Hai bên hoa nở.
Nhà nằm sâu phía trong.

426
Ngắm hoa.

Dưới bóng cây
Ăn canh và cá ướp.
Hoa anh đào.

427
Thật đúng lúc.
Bột đậu viên trộn gạo.
Vừa ăn vừa nhìn hoa.

430
Nghe nói ngày xưa làng Hanagaki ở Iga được xem là đất của hoàng đế với mục đích bảo vệ những cây anh đào hai lần nở của Nara.

Có phải dân làng
Đều hậu duệ
Của những người gác hoa xưa?

432
Ngắm cảnh hồ, buồn tiếc mùa xuân đã trôi qua.

Mùa xuân ra đi
Cùng những người ở Ômi.
Tôi buồn tiếc.

433
Một ni-cô cô đơn
Sống tách biệt trong lều tranh.
Hoa đỗ quyên trắng.

434
Ở lại Sêta, tôi đi lễ Đền Ishiyama vào lúc rạng sáng
 và nhìn thấy phòng Genji ở đấy.

Rạng sáng.
Trong mùi hoa oải hương
Chim cu kêu.

435
Anh là bướm.
Còn tôi
Là Trang Tử đang mơ.

438
Ngắm đom đóm ở Sêta.

Xem đom đóm bay.
Người chèo thuyền say,
Thuyền đung đưa.

439
Đang ở kinh đô,
Mà vẫn nhớ kinh đô.
Chim cu.

440
“Đêm hè mát ở bờ sông, Lối đi Thứ Tư”, họ nói với nhau như vậy. Đầu tháng Sáu, từ khi trăng mọc đến lúc trăng lặn, tận quá Rằm, mọi người xếp hàng dọc bờ sông uống rượu sakê và ăn uống suốt đêm. Phụ nữ diện những bộ đồ đẹp nhất, cánh đàn ông mặc những chiếc áo dài hợp mốt. Còn người già thì ngồi bên nhau. Cả đám thợ học việc nghề gò thùng và thợ rèn cũng thoải mái hát to hồn nhiên. Thế đấy, cuộc sống nơi kinh thành là thế đấy!

Gió thổi nhẹ từ sông.
Đêm hè mát.
Mặc áo màu vàng nhạt.

441
Một ẩn sĩ có tên Tôkô từ Naniwa tới xin gặp tôi, vốn chỉ một sư phụ bất tài.

Ích gì bắt chước tôi?
Để thành hai nửa giống nhau
Của quả dưa bổ đôi?

442
Lều cỏ của tôi.
Chỉ duy nhất một điều hay -
Muỗi nhỏ hơn nơi khác.

443
Sự phù du của cuộc đời.

Chóng chết.
Dẫu chưa có dấu hiệu nào sẽ chết.
Con ve kêu.

444
Ở Tanabata.

Đừng nhìn trộm.
Thậm chí cả khi nhìn qua lá dâu.
Ánh sao.

445
Trong ngôi nhà tranh gần mộ Kisô Yôshinaka,
lòng tôi cứ nghĩ về nghĩa trang.

Ngày lễ Linh Hồn.
Cả hôm nay
Lò thiêu xác cũng có khói.

446
Con chuồn chuồn
Mãi không đậu được
Lên đầu ngọn cỏ.

448
Unchiku, một nhà sư ở Tôkyô, có vẽ bức tranh, chắc chân dung tự họa. Trong bức tranh là một nhà sư khác đang ngoảnh mặt. Ông nhờ tôi viết lời chú, và tôi viết: “Ông đã quá sáu mươi, còn tôi gần năm mươi. Cùng nhau trong giấc mơ, bản thân chúng ta là những dạng khác nhau của giấc mơ. Còn đây, tôi xin bổ sung thêm lời của người đã chết”:

Ngoảnh sang hướng này,
Cả tôi cũng cô đơn.
Đêm thu.

449
Nhổ tóc bạc
Dưới bóng cây liễu.
Con dế.

450
Trăng mùa thu hoạch.
Trẻ con xếp hàng
Dọc theo bờ hiên nhà chùa.

451
Ngắm trăng ở một ngôi đền cổ.

Ngắm trăng.
Trong cả phòng
Không một khuôn mặt đẹp.

452
Tại buổi tiệc họa thơ đầu tiên ở nhà Mađisha.

Trăng sắp mọc.
Trong phòng
Ai cũng đặt tay lên đầu gối.

453
Một nhà sư đức hạnh có lần từng nói: “Thiền hời hợt bề ngoài là cội rễ của những sai lầm đưa ta xuống mộ”. Tôi đánh giá cao những lời này của ông.

Chớp,
Mà không sáng.
Lời nói hay.

454
Ở Katađa.

Con ngỗng ốm
Rơi trong đêm giá lạnh...
Ngủ dọc đường.

455
Túp lều người đánh cá.
Con dế
Lẫn với mớ tôm nhỏ.

456
Đền Shôzui ở Katađa.

Nhấm nhi trà buổi sáng,
Mặt nhà sư thanh thản.
Hoa cúc.

411
Tôi dừng lại mấy ngày ở Awazu, nơi có một người rất thích trà đạo. Ông hái hoa cúc ở bãi biển gần đấy rồi mời tôi đến uống trà.

Cả con bướm
Cũng đến nhâm nhi bát dấm.
Món rau hoa cúc.

457
Trên đường về nhà.      

Những cơn mưa đông đầu mùa.
Đủ để làm đen xạm
Gốc rạ mới cắt.

459
Con dế
Lơ đãng kêu.
Lò than.

460
Nhớ những ngày xưa.

Trời giá lạnh.
Trên gốc cây bị đốn
Vẫn mọc bông hoa tím nhạt.

461
Gió đông.
Ai đó
Mặt sưng vì đau răng.

462
Trên đường hành hương.

Tuyết đầu mùa.
Màu trắng trên chiếc túi
Sau lưng thầy tế lang thang.

463
Đi trên Đường Shinanô.

Tuyết rơi.
Sậy để làm miếu thờ
Chưa cắt.

464
Chim choi choi bay lên.
Đêm về khuya
Gió bão phía núi Hiêi.

465
Trên đường.

Dọn nhà cuối năm.
Gió bão
Thổi qua những cây tùng.

466
Các nhà thơ gặp nhau tiễn năm cũ.

Nửa ngày
Làm bạn với thần linh.
Tiễn năm cũ.

467
Trong thời gian ở kinh thành, đêm nào tôi cũng nghe tiếng gõ bát buồn buồn của người hành hương đang khất thực.

Cá hồi khô.
Người hành hương Kuya tiều tụy.
Độ sâu của mùa đông.

468
Nghỉ một lát.
Tiếng thái hạt đậu nành.
Tiếng gõ bát.

469
Rơi từ trên cao
Xuống đá của Núi Đá.
Mưa đá.

471
Trả lời một yêu cầu của Jôkô Ajiyarri: Đẹp, thật đẹp! Chiếc mũ tre thật đẹp! Chiếc áo tơi thật đẹp! Ai đã ban cho ta điều ấy? Ai đã vẽ bức tranh đẹp thế này, với tầm nhìn hàng nghìn năm đang hiện ra ngay ở đây trước mặt chúng ta? Bây giờ, trong tinh thần ấy, niềm vui chợt dâng lên trong tôi. Chiếc áo thật đẹp, chiếc mũ thật đẹp...

Thật đẹp
Cả vào ngày không tuyết.
Chiếc áo tơi và mũ tre.

472
Cuối đông.
Không ai thấy chim bói cá
Lặn sâu dưới nước.

473
Viết ở nhà mới của Ôtôkni.

Mua nhà
Rồi cho tôi thuê.
Tiễn năm cũ.

475
Viết ở nhà của Ôtôkuni.

Điểm dừng chân Marikô.
Hoa mận, cây xanh.
Cộng thêm cháo khoai.

476
Đầu xuân ở núi Iga.

Làng miền núi.
Vũ công Năm Mới đến muộn.
Hoa mận.

477
Cùng nhau chờ trăng mọc.
Chú tiểu có nét mặt khổ hạnh
Tay cầm cành mận.

478
Khốn khổ
Vì được chiều và vì bột mạch?
Con mèo cái.

479
Năm này qua năm khác
Làm phân bón cho anh đào...
Hoa rụng.

481
Trong chốc lát
Treo lửng lơ trên hoa...
Trăng đêm nay.

482
Già, lung lay,
Răng tôi cắn phải cát,
Khi nhai rong khô.

483
Thơ đề trên tranh.

Những bông hồng trên núi.
Các bếp đun trà ở Uji
Tỏa mùi thơm.

484
Đêm đen.
Mất tổ,
Chim choi choi kêu.

485
Những mắt đốt sần sùi…
Số phận con người
Giống cây tre.

486
Rừng trúc ở Arashiyama
Rất dày.
Từng sợi gió lách qua.

487
Gió trong rừng thông.
Lách giữa những tán lá
Khi trời cuối thu.

488
Chim cu.
Ánh trăng
Chiếu qua rừng trúc.

489
Ngập trong nỗi buồn.
Hãy để ta cô đơn,
Chim cu trong núi.

490
Khẽ vỗ tay.
Ánh sáng hoàng hôn vọng lại.
Trăng mùa hè.

491
Tuổi thơ tôi
Cũng thế...
Măng non.

492
Lá kiều mạch
Úa lụi vì nước mắt.
Chim én khóc.

493
Từng ngày
Kiều mạch đỏ rồi chín.
Chim én hót.

494
Bất tài.
Chỉ muốn ngủ.
Chim chích cãi nhau.

495
Tiếc vì mai phải rời Biệt thự “Cánh hồng vàng héo rụng”, tôi đi ngắm một lượt từ đầu đến cuối tất cả các phòng.

Mưa hè.
Giấy dán thơ rơi,
Để lại vết trên tường.

496
Gói bánh bao...
Một tay bà già
Sửa mái tóc đang xõa.

497
Tháng Sáu.
Cái nóng hừng hực
Từ người đang sốt.

498
Đầu thu

Đầu thu.
Gấp màn muỗi
Làm cái trải giường.

499
Mùa hoa dưa
Đang kỳ nở rộ.
Cây hải đường.

500
Gió thu lạnh.
Nhưng thật xanh
Những chồi non trên cây dẻ.

501
Trong chuồng bò tối
Muỗi kêu vo ve...
Dai dẳng cái nóng mùa hè.

502
Tính chuyện dựng căn nhà mới, Kuku
nhờ tôi viết thơ về một bức tranh của Kenkô.

Sắc thu nhiều màu.
Thậm chí
Không có cả nồi cháo cám.

503
Cô đơn.
Con dế
Đu dưa trên chiếc đinh.

505
Trăng mùa thu hoạch.

Những muốn gõ cổng
Đền Mii.
Trăng đêm nay.

506
Viết ở Katađa, đêm mười sáu.

Mở chốt cửa
Để ánh trăng lọt vào.
Ngôi đền đang trôi.

507
Trăng trong mây…
Vừa hăng hái mọc lên,
Giờ do dự.

508
Trăng mười sáu.
Trời tối chỉ đủ
Nấu nồi tôm.

509
Be... be...
Con nai trong đêm
Kêu thật buồn.

510
Mùa thu đang qua.
Quả dẻ non
Mở rộng những cánh tay.

511
Tôju lên núi thăm tôi khi đang ở ẩn.

Tôi thết món kiều mạch.
Giờ chúng đang nở hoa.
Đường mòn trên núi.

512
Rơm mới…
Chở về nhà
Cùng cơn mưa đông đầu mùa.

513
Chim cút kêu.
Mắt đại bàng
Sẫm lại.

514
Lều cỏ.
Chập tối
Có người cho tôi rượu cúc.

515
Chín lần tỉnh giấc.
Vẫn trăng ấy.
Vẫn chưa sáng.

516
Nấm.
Một lá cây gì đấy
Dính vào nó.

517
Dưới nồi mì sợi
Lửa to dần.
Cái lạnh ban đêm.

519
Sẩy gạo.
Niềm vui của bà già.
Hoa cúc.

520
Năm Genrôku thứ tư, tháng Mười, ở chỗ ông Riyu ở đền Menshô. Đã một trăm năm trôi qua kể từ ngày đền này chuyển từ làng Hirata đến đây. Như được ghi trong sổ công đức, “Trúc và cây xanh mọc dày, còn đất và đá thì bám đầy rêu phong cổ kính”. Quả là nơi đáng kính và khiến cảm động bởi sự lâu đời của nó.

Hơi hướng cổ xưa cả trăm năm.
Trong vườn này
Lá rụng

521
Thật tuyệt.
Chúng có làm lóa mắt mình không?
Những chiếc lá đỏ đang rụng.

522
Khen khu vườn này.

Mưa đông đầu mùa.
Được bố trí tao nhã,
Khu vườn đang sống lại.

526
Cây tỏi tây rễ sâu
Lá bạc trắng.
Trời lạnh thế đấy.

524
Tự vui ở nhà Sensên.

Thỉnh thoảng, buồn
Nhìn núi Ibuki.
Ở ẩn mùa đông.

525
Thơ ngẫu hứng viết trong biệt thự ông Kôsetsu.

Có thêm màu mới nào không
Trên ngọn gió khô héo?
Bông hoa nở trái mùa.

526
Hoa thủy tiên.
Tờ giấy trắng.
Phản chiếu nhau.

527
Màu của nó
Trắng hơn quả đào...
Hoa thủy tiên.

528
Viết ở nhà Suganuma.

Chốn kinh thành.
Lại thêm cái rét này nữa.
Chỗ trú mùa đông.

529
Viết ở nhà Kôgêtsu.

Chờ tuyết rơi.
Khuôn mặt những người nghiện rượu.
Vụt lóe chớp.

530
Gió đông thổi
Giữa những cây tùng.
Đá trở nên sắc.

531
Tôi đi lễ ở đền Hôrai, tỉnh Mikawa. Trên đường trở về, bệnh cũ tái phát, và tôi ngủ qua đêm ở một quán trọ sát chân núi.

Cầu Phật xin chiếc giường ấm.
Giờ có giường..
Ngủ dọc đường.

532
Giữa những cơn mưa đông đầu mùa rơi đơn điệu, tôi tìm được chỗ nghỉ, hong khô quần áo bên bếp lò và vuốt nước khỏi mặt. Chủ quán tiếp tôi ân cần, hồi lâu an ủi tôi về nỗi vất vả của chuyến đi. Tối đến, tôi ngồi xuống trước đèn, lấy bút mực và bắt đầu viết. Thấy thế, chủ quán thiết tha xin một bài thơ để kỷ niệm lần gặp gỡ này.

Vào quán
Người ta hỏi tên.
Những cơn mưa đông đầu mùa.

533
Không nơi ở cố định trên đời này, sáu bảy năm gần đây tôi luôn ngủ trên đường, lại thường xuyên đau ốm. Không thể quên bạn bè và đệ tử của nhiều năm, cuối cùng tôi trở lại Cao Nguyên Misashi. Hết ngày này đến ngày khác họ đến thăm căn lều cỏ tồi tàn của tôi, và tôi đã viết bài thơ này đáp lại:

May còn sống.
Tuyết
Trên bông hoa bìm bìm đang héo.

534
Thần thánh ra đi.
Mọi cái tàn hoang
Giữa những chiếc lá chết.

535
Lá cây dong
Phơi mặt
Chịu cái lạnh buổi sáng.

536
Ngỗng trời kêu
Trên ruộng lúa ở Tôba.
Mưa gắt.

537
Tiếng dế kêu
Thấm sâu
Tận hang lợn rừng.

539
Sát mép hiên
Con chim chích
Ỉa lên nồi bánh gạo.

540
Quà tặng lúc chia tay cho người lên đường đi về hướng Đông.

Tìm tôi ư?
Người cầm hoa
Và chiếc bát khất thực.

541
Mèo động đực.
Khi xong,
Ánh trăng mờ từ phòng ngủ.

542
Đi dạo

Vừa đi vừa đếm.
Hết nhà này đến nhà khác.
Đếm cả liễu và mận.

543
“Giàu trăng và hoa”: trước lều tôi có cây mận và cây anh đào. Cho đệ tử có Kikaku và Ransetsu.

Trên hai tay tôi
Là hoa anh đào và hoa mận.
Chưa kể bánh gạo.

544
Giỗ đầu ông Fubôku: buổi họa thơ

Tiếng chim cu
Đang kêu.
Chiếc hộp cũ đựng nghiên mực.

545
Tháng Sáu.
Đã có món cá tráp,
Còn thêm món cá voi muối dấm.

546
Họa thơ theo đề tài “Những bông hoa dại trên đồng”.

Chúng làm tôi quên
Cái nóng hoa cẩm chướng mùa hè.
Những bông hoa dại trên đồng.

547
Trăng lưỡi liềm.
Mặt đất chìm trong sương mù.
Hoa kiều mạch.

548
Về những cây chuối bị đem trồng nơi khác.

Lá chuối
Vươn sát cột nhà.
Trăng trên lều.

549
Trăng mùa thu hoạch.
Sóng lớn thủy triều
Lên tận cổng nhà tôi.

550
Dự tiệc ở Fukagawa.

Rau xanh, rất ngon
Giờ thêm món nữa -
Ớt đỏ.

551
Gần cửa sông Fukagawa, trăng soi vào chiếc thuyền
ở nơi gọi là “Năm Cây Thông”.

Trước ngược dòng.
Nay xuôi dòng.
Luôn có trăng làm bạn.

552
Cùng Tôkêi ngắm cảnh đẹp Ônagizawa.

Hành hương cùng mùa thu.
Những muốn
Đến tận sông Kômatsu.

553
Thu sắp qua.
Vẫn còn cái chưa mất…
Những quả quít xanh.

554
Thơ viết trong buổi vịnh thơ ở nhà Kyôriku, ngày Ba tháng Mười, năm Genrôku thứ năm.

Cả hôm nay
Nào tất cả chúng ta cùng già.
Cơn mưa đầu tiên của mùa đông.

555
Cá tráp muối.
Lạnh.
Kho chứa cá.

557
Than củi chất đống.
Bóng khách
In lên tường.

558
Ngày 21 tháng Chín, ở nhà Shiôê Shayô.

Đêm thu
Bị đánh vỡ.
Buổi trò chuyện thân tình.

559
Lòng tôi
Thư thản lạ lùng.
Tháng Chạp.

560
Mồng một Tết.

Hết năm này đến năm khác,
Con khỉ
Mang chiếc mặt nạ khỉ.

561
Chầm chậm,
Mùa xuân tự lộ mình.
Trăng và hoa mận.

562
Thơ viết trên tranh chân dung Sư phụ Tôm.

Con cá trắng
Mở to đôi mắt đen
Trong chiếc lưới pháp luật.

564
Thơ từ biệt nhà sư Sêngin.

Con sếu
Mắc chiếc áo lông đen.
Hoa như mây.

565
Chim cu.
Tiếng kêu
Vang dài theo dòng sông.

566
Hơn cả nghệ thuật
Của gió và trăng...
Hoa mẫu đơn.

569
Cành cây ba lá đung đưa,
Không làm rụng
Những giọt sương trắng.

570
Cây nấm đầu tiên.
Thu mới chỉ mấy ngày,
Sương đã rơi.

571
Mùa thu, năm Genrôku thứ sáu: Chán tiếp khách,
tôi đóng cổng nhà mình.

Bình minh rực hồng.
Suốt ngày
Cổng nhà tôi im ỉm.

573
Thương tiếc cái chết của Matsukura Rantan.

Gió thu.
Thật buồn.
Chiếc gậy gỗ dâu của tôi bị gãy.

574
Ngày Ba tháng Chín, thăm mộ Matsukura Rantan.

Đêm thứ bảy, trên mộ bác
Trăng mồng ba chiếu sáng.
Bác biết không?

575
Để tang Tôjun.

Trăng lặn.
Những gì còn lại
Là bốn góc chiếc bàn của ông.

576
Hoa cúc nở
Trong sân người thợ đá,
Giữa các phiến đá.

578
Năm Genrôku thứ sáu, ngày mồng chín tháng đầu tiên mùa đông, thăm vườn cúc của Sôđô. Hội hoa cúc được tổ chức hôm nay, ngày Chín tháng Mười, vì tháng Chín cúc chưa đâm nụ. Như một bài thơ Trung Quốc đã viết: “Hội hoa cúc chỉ có lúc nào hoa cúc nở”, nên là chuyện bình thường khi nhiều hội thế này bị hoãn. Do vậy dẫu đang mùa đông, chúng tôi vẫn khích lệ nhau viết thơ về hoa cúc mùa thu.

Hương hoa cúc.
Chiếc đế giày mòn vẹt
Chỏng chơ trong vườn.

579
Hoa cúc mùa đông.
Bụi cám từ lò xay bên cạnh
Phủ lên chúng.

580
Hoa cúc mùa đông.
Ngồi hâm rượu gạo
Bên cửa sổ.

582
Họa thơ theo đề tài “Thu hoạch cải củ”.

Chú bé
Ngồi trên yên ngựa.
Mùa thu hoạch cải củ.

583
Chiếc cầu lớn qua sông Fukagawa mới xây được một nửa.

Tuyết đầu mùa
Rơi lên chiếc cầu
Đang xây.

584
Ăn toàn rau củ, tôi nói chuyện suốt ngày với các võ sĩ đạo samurai.

Các võ sĩ đạo gặp nhau.
Câu chuyện của họ
Hăng, gắt như cải củ.

585
Ngày hai mươi tháng Mười, thơ viết ngẫu hứng ở Fakagawa.

Thật thương
Những con ngỗng
Của người bán ngỗng.

586
Hội Êbisu.
Người bán dấm
Diện bộ đồ diện nhất.

588
Còn sống,
Tất cả dính thành một cục…
Ốc biển.

589
Ở nhà Kêishi, vịnh thơ theo đề tài “Đi theo cậu bé dưới trăng”

Trăng trong.
Tôi đi theo cậu bé.
Con cáo làm giật mình.

590
Giữa hoa mận ngát hương thơm
Mặt trời bỗng hiện.
Đường mòn trên núi.

591
Suy nghĩ dọc đường

Mùa thu này
Sao mình cảm thấy lạnh?
Con chim bay vào mây.

592
Khi mận nở hoa thơm.
Nghe hai tiếng “trước đây”
Đã thấy buồn.

548
Ngày Phật lên Niết Bàn.
Úp hai tay nhăn nheo vào nhau.
Gió xào xạc ngoài vườn hồng.

593
Mưa xuân
Từ mái nhà dột
Nhỏ từng giọt xuống tổ kiến.

594
Cây liễu xanh
Úp mặt xuống bùn.
Nước thủy triều nông.

595
Mưa xuân.
Côn trùng bay nhiều
Dọc bờ cỏ ven đường.

596
Thơ gửi Tôrin, mừng nhà mới
(cũng là thơ đề trên bức tranh do tôi vẽ).

Giọt sương này không lạnh.
Giọt mật
Trong hoa mẫu đơn.

597
Bị cây chè che khuất,
Người hái chè nghe không
Tiếng chim cu?

599
Năm Genrôku thứ bảy, tháng Năm, tôi lên đường đi Êđô,
gửi lại mấy chữ này cho những người đi tiễn.

Những mầm non lúa mạch
Chụm lại với nhau cho vững.
Cúi chào từ biệt.

600
Núi Phú Sĩ
Thật đặc biệt
Khi ngắm vào tháng Năm.

601
Con chim chích…
Trong rừng trúc
Hót về tuổi già của mình.

602
Mưa hè.
Con tằm bị bệnh
Giữa cánh đồng dâu.

603
Vào tỉnh Suruga.

Trên đường Suruga.
Cả hoa cam
Cũng có mùi lá chè.

604
Ở Naôya, Ôwari.

Trên cánh đồng cuộc đời
Cày thửa ruộng nhỏ
Hết tiến lại lui.

605
Chở củi xong
Con ngựa quay về.
Những thùng rượu mừng cấy lúa.

606
Viết ở nhà Yamêi.

Nhìn bức tranh
Đã thấy mát.
Những cây trúc ở Saga.

607
Tháng Sáu.
Mây tụ
Trên đỉnh núi Bão Giông.

608
Đẫm sương sớm
Bẩn và lạnh...
Quả dưa dính bùn.

609
Viết ở nhà Kyôkusui

Đêm hè.
Rạng sáng.
Ngổn ngang thức ăn thừa trẻ con.

610
Khi ở nhà Kyôkusui, chúng tôi chọn chủ đề “Cuộc sống nông thôn”.

Quạt lúa xong,
Chủ nhà làm cơm ngon đãi khách.
Đêm trời mát.

611
Năm Genrôku thứ bảy, ngày 21 tháng Sáu,
viết tại nhà Bôkusetsu ở Ôtsu.

Mùa thu đến gần.
Những trái tim xích lại gần nhau.
Căn phòng bốn chiếc chiếu rưỡi.

612
Ở nhà Hônma Shumê, treo trên tường phía sau sân khấu kịch Nô là bức tranh vẽ bộ xương người đang thổi sáo và đánh trống. Phải chăng cuộc sống con người cũng chẳng khác mấy việc làm của bộ xương kia trên bức tranh? Trang Tử từng dùng chiếc sọ dừa làm gối và ông đã không phân biệt được đâu là mơ, đâu là thật. Vâng, điều này khiến ta nghĩ đến bản chất cuộc sống của mình.

Tia chớp
Xuyên qua mặt.
Hoa miscanthus.

613
Thật mát.
Ngủ trưa,
Lưng tựa tường.

614
Lối mòn nhỏ.
Cỏ gai nở hoa
Dính đầy sương.

615
Viết ở nhà Yađô.

Tanabata...
Mùa thu thực sự đã đến
Khi đêm buông.

616
Khi nghe tin sư cô Jutêi qua đời.

Đừng nghĩ
Mình chẳng là gì.
Ngày lễ Linh Hồn.

617
Anh có thể đi.
Thiếu anh tôi cũng đủ cô đơn
Chiều thu này.

618
Viết trong khi bị bệnh.

Dọc đường ốm.
Trong mơ tôi lang thang
Giữa những cánh đồng khô héo.

No comments:

Post a Comment