BASHO - 2
3
Rét cắt thịt.
Cái buồn nở
hoa
Trên cánh đồng
hoa nở.
5
Tôi tới
thăm Mutsubaya Fubaku ở Ise và ở lại đó cho chân được nghỉ mươi ngày. Tối đến
tôi làm lễ ở Đền Ngoài. Cùng bóng đen che phủ khắp Tôrii và những chiếc đèn
lồng thiêng thắp sáng đó đây, gió lạnh từ trên ngọn thông cao thổi như cắn vào
da thịt, như kim châm tận trái tim tôi.
Cuối tháng,
không trăng.
Cây tùng nghìn
năm tuổi
Trong vòng vây
bão dông.
6
Như mây tan,
Con ngỗng trời
rời đàn
Chỉ một chốc.
9
Chẳng có gì xẩy ra.
Ngày hôm qua
đến rồi đi.
Bát canh cá
mòi.
12
Mưa đông ở đâu?
Tay cầm ô,
Nhà sư về
chùa.
13
Đá héo.
Nước khô.
Mà không cảm
thấy đang mùa đông.
15
Làm lễ ở
Miếu thờ Atsura
Cả cỏ bùa mê
cũng héo...
Vào quán
Mua bánh gạo.
16
Trên đường,
bất chợt gặp mưa đông đầu mùa.
Mưa đông.
Không mũ nón?
Ừ ừ, thế đấy.
17
Cùng tiếng
chày giã bánh gạo
Năm cũ sắp
qua.
Giấc ngủ cô
đơn.
18
Đỏng đảnh,
Con bướm đậu
Lên đám cỏ
không hương, nhạt nhẽo.
19
Chỉ một ít
sót lại từ ngôi nhà tranh của Saigyô nằm bên phải Đền Trong. Chúng tôi đến đấy
bằng cách đi thêm mấy trăm mét dọc theo lối nhỏ của người đốn củi. Sâu phía
dưới là thung lũng, một cảnh tuyệt đẹp. “Nước trong nhỏ từng giọt” dường như
vẫn thế không thay đổi, cả lúc này cũng vậy.
Sương rơi từng
giọt.
Những muốn lấy
sương
Lau sạch bụi
đời phù du này.
20
Mùi hoa mận
Đưa tôi trở
lại
Với cái lạnh.
22
Quả trám rơi.
Chim giật mình
bay lên.
Gió mạnh buổi
sáng.
23
Cả một ngày
trên bãi biển
Biển xạm đen.
Tiếng vịt trời
kêu
Có màu trắng
nhạt.
26
Đức ông
Tangan tổ chức bữa tiệc ngắm hoa anh đào ở nhà ngài. Mọi việc diễn ra đúng như
xưa
Nhiều, rất
nhiều
Những kỷ niệm
xưa lại đến.
Hoa anh đào.
27
Chùa này
Cả vườn
Trồng toàn
chuối.
28
Nấm bắt đầu
khô.
Nhăn nheo
Như vỏ cây
thông.
29
Suốt đêm qua
Cây tre có
lạnh không?
Buổi sáng trời
rét.
30
Dừng chân ở
“Lều Tre Bầu bí” để nghỉ ngơi sau chuyến đi vất vả
Hoa nở suốt
thời gian tôi ở đây.
Từ đầu đến
cuối,
Đúng hai mươi
ngày.
31
Ngôi nhà không
hề biết mùa đông.
Tiếng xay lúa
Như tiếng mưa
đá rơi.
32
Thật mạnh,
Tiếng mưa đá
rơi
Lên chiếc nón
gỗ của tôi.
34
Viết ở nhà
Kiryu
Mùa thu đang
qua.
Trăng mờ
Giữa mưa phùn
lạnh.
35
Đèo Hôsô,
trên đường từ Đỉnh Tafu đến Ryumôn
Cao hơn chim
chiền chiện.
Ngọn đèo
Nằm ngang lưng
trời.
36
Cổng Rồng
Hoa hái từ
Cổng Rồng.
Món quà quí
Cho những
người bạn rượu.
37
Chỉ bướm
Nhởn nhơ bay
Trên cánh đồng
này đầy nắng.
38
Hoa thủy tiên
cánh xanh
Khơi dậy trong
tôi
Bài thơ Haiku.
39
Như thể
Ai đó mù
Đang ngắm
trăng.
40
Đi xa có
việc, tôi qua đêm trên một con thuyền. Rạng ngày, nhô đầu khỏi khoan che mái
rạ, tôi thực sự xúc động khi thấy trăng khuya đang nhạt dần
Đêm buông.
Cả vào đêm hăm
bảy
Cũng có trăng
lưỡi liềm.
41
Trong khu
vườn xưa
Hoa héo gợi
buồn,
Chết,
Làm mùn cho cỏ
mọc.
42
Gửi thầy tế
Genki, cảm ơn vò rượu sakê ông tặng.
Nước quá lạnh.
Đến hải âu
Cũng không ngủ
được.
44
Thu già.
Ông hàng xóm
nhà bên
Đang làm gì?
46
Trăng và
tuyết.
Tôi chỉ sống
với trăng và tuyết.
Từ giờ, đến
hết năm.
47
Đêm trời mát.
Tôi uống say
rồi ngủ.
Hoa nở hồng
trên núi.
48
Trong
chuyến hành hương khắp tỉnh Yamôtô, tôi qua đêm ở nhà một người nông dân. Chủ
nhà hết sức nhã nhặn và mến khách.
Dưới bóng hoa,
Như trong kịch
Nô...
Tôi nghỉ lại
dọc đường.
49
Trăng trôi.
Cành cây còn
giữ
Nước mưa.
50
Mưa trên lều
tranh.
Lại dậy.
Hoa cúc héo
sau mưa.
51
Bị dẫm đạp,
Thế mà
Cây cúc vẫn nở
hoa.
52
Mặt trời mùa
đông.
Đông cứng trên
lưng ngựa
Cái bóng của
tôi.
53
Đèo Hakônê.
Như ai qua đây,
Vào buổi sáng
đầy tuyết này.
55
Tượng Phật cao
sáu mét.
Hơi nóng bốc
lên
Từ bệ đá.
56
Đến chơi
nhà Rôsô
Áo giấy ướt
Nhưng tôi đi
bẻ một cành.
Hoa nở dưới
mưa.
57
Cả bát đĩa
Cũng nhạt màu
giữa hoàng hôn.
Cái mát ban
đêm.
58
Hoa cúc trắng.
Cúi xuống nhìn
thật kỹ.
Không thấy hạt
bụi nào.
59
Tay cầm quạt.
Uống rượu sakê
trong bóng râm.
Hoa anh đào
rụng.
60
Nếu có giọng
to
Tôi sẽ kêu lên
với thần Nô:
Hoa anh đào
đang rụng!
61
Chia tay
một người bạn ở Nara
Sừng con hươu
Bắt đầu đâm
nhánh.
Chúng ta chia
tay.
62
Sen được
cho là chúa của muôn loài hoa. Mẫu đơn nghe nói là hoa cao thượng. Nhưng những
cây mạ mọc từ bùn còn tinh khiết hơn hoa sen. Vào mùa thu lúa trổ bông thơm
ngát, thơm hơn cả mẫu đơn. Vậy lúa là loài kết hợp được cả hai phẩm chất ấy,
thực sự thơm và thực sự tinh khiết.
Trên ruộng lúa,
Dân làng hát
những câu thơ.
Kinh đô.
64
Ở Suma
Có trăng,
Mà như không
có trăng.
Mùa hè ở Suma.
65
Trời đêm rằm tháng Tư còn đầy mù, nhưng trăng của cái đêm ngắn ngủi ấy
đẹp một cách kỳ lạ. Núi sẫm màu với những lá cây non, và rạng sáng, khi chim cu
kêu, ánh nắng bắt đầu dát vàng lên biển. Cả cánh đống ánh lên màu đỏ những
ruộng lúa mì, còn màu trắng của cây anh túc thì có thể nhìn rõ trên từng mái
hiên trong làng chài.
Cái nhìn thấy
đầu tiên
Là khuôn mặt
những người đánh cá.
Hoa anh túc.
66
Theo mặt trăng
mà đi.
Hướng này.
Bác sẽ tới
quán trọ.
67
Quí bà anh đào
già
Nở hoa.
Sự hồi tưởng
tuổi xuân.
68
Ở kinh đô,
Chín mươi chín
nghìn người
Đang ngắm hoa.
69
Cả người nghèo
Cũng được ngắm
hoa.
Cây kẽ dại.
70
Những cánh hoa
Iris màu xanh
Hệt như bóng
mình
In dưới nước.
71
Gió thu
Thổi qua cánh
cửa mở.
Tiếng kêu chối
tai.
72
Ở nhà một
người có con vừa chết.
Héo, uốn cong.
Cả thế giới như
đảo ngược.
Cây tre tuyết
đè nặng
73
Từng đợt sóng
hoa.
Những bông nở
trái mùa
Đã về với
nước?
75
Cao nguyên
Musashi.
Tiếng con nai
Chỉ dài một
tấc.
76
Kyôtô và Êđô
Cân bằng trên
chiếc cân
Giữa mùa xuân
nghìn năm này.
77
Khi tôi vào
quán trà, một người đàn bà tên Bướm xin tôi viết tặng một bài thơ trong đó có
tên bà. Bà mang ra tấm lụa nhỏ và tôi viết lên đó:
Hương hoa lan
Làm thơm
Đôi cánh bướm.
78
Gói chút gió
Phú Sĩ
Vào quạt này
Làm quà cho
bạn ở Êđô.
79
Mèo động đực.
Theo kiểu mèo,
Luôn đi lại trên
lò sưởi.
81
Tuyết làm áo.
Gió lạnh trải
làm giường.
Đứa bé bị bỏ
rơi.
83
Biển xanh
Sóng có mùi
rượu gạo.
Trăng đêm nay.
84
Nhìn quanh.
Nhìn thật kỹ,
chợt thấy
Ở Suma đang
thu.
85
Tuyết buổi
sáng.
Mấy ngọn hành
tây nhú lên
Đánh dấu chỗ
của mình trong vườn.
86
Này nhện,
chuyện gì vậy?
Bằng giọng của
ai nhện khóc?
Gió thu.
87
Đêm, dưới
trăng
Con sâu lặng
lẽ
Khoét lỗ chui
vào hạt dẻ.
89
Suốt chín
mùa xuân và mùa thu, tôi sống kham khổ ở thành phố. Giờ tôi dọn đến sống bên bờ
sông Fukagawa. Một lần có người nói: “Từ xưa, Tràng An là nơi để người ta trở
thành nổi tiếng và giàu có. Vậy thì quả là không dễ đối với lữ khách tay không,
túi rỗng”. Phải chăng vì bản thân rất nghèo nên tôi đã hiểu được tâm tình của
ông?
Thổi mạnh vào
cổng gỗ
Cuốn theo
những lá chè...
Gió bão.
90
Nỗi lòng
trong đêm lạnh lẽo ở Fukagawa.
Tiếng mái chèo
chém sóng.
Đêm lạnh thấu
xương
Nhòe nước mắt.
91
Người giàu
ăn thịt, thanh niên khỏe mạnh ăn rau, còn tôi, tôi nghèo...
Buổi sáng đầy
tuyết.
Một mình
Tôi ngồi nhá
cá hồi khô.
92
Xem chân
dung Trang Tử
Này bướm,
Ta muốn hỏi
ngươi
Về thơ Haiku
Trung Quốc.
93
Khi tôi ở
Ôtsu vào mùa hè năm Genrôku thứ bảy,
anh trai
tôi viết thư bảo tôi về nhà dự Lễ Bon.
Cả nhà tóc bạc
Chống gậy
Đi tảo mộ.
94
Mưa mùa hè.
Chân sếu
Ngắn hơn.
95
Tìm bắt đom
đóm
Trong bóng
tối, con dơi
Ngớ ngẩn đớp
phải chiếc gai.
96
Hoa trắng dưới
trăng
Cạnh nhà
ngoài.
Có người cầm
cây đuốc trên tay.
98
Một mình
trong lều cỏ
Cây chuối dưới
mưa.
Suốt đêm tôi
ngồi nghe
Nước nhỏ trên
ống mái.
99
Ngôi đền nghèo
trên núi.
Ấm nước kêu
trong giá lạnh.
Tiếng kêu khô.
100
Mua nước
trước ngôi nhà tranh
Dẫu đỡ khát,
Nước lạnh
Làm buốt răng
chuột.
101
Đề dưới bài
thơ về đom đóm của Kikaku
Người ngồi ăn
sáng
Cùng bình minh
rực hồng
Là tôi.
102
Nghĩ về cụ
Đỗ Phủ
Gió thổi, râu
phất phơ
Than tiếc mùa
thu muộn.
Cụ là người
thế nào?
104
Ngày đầu Năm
Mới
Một mình, chìm
trong suy nghĩ
Về một đêm thu
buồn.
105
Có phải chim
chích
Là hồn
Của cây liễu
đang ngủ?
106
Tôi
hỏi:“Nhà sư đội nón cưỡi ngựa kia là ai, từ đâu đến và cần gì?” “Đó là chân
dung của anh khi đi lang thang trên trái đất này”, họa sĩ đáp. “Được, vậy thì
người lữ khách lang thang ba thế giới kia, hãy coi chừng kẻo ngã ngựa!”
Ngựa phi nước
kiệu.
Tôi thấy mình
trong tranh.
Cánh đồng
hoang mùa hè.
107
Người ta dựng
cho tôi túp lều mới, gọi là Lều Bashô
Lắng nghe mưa
đá rơi.
Như trước,
Tôi thấy mình
là cây sồi già.
108
Tiếng chuông
tan dần xa xa.
Mùi hương hoa
đọng lại.
Chập tối.
109
Vừa cúi xuống
múc,
Răng đã tê vì
lạnh.
Nước suối.
110
Có người cho
gạo.
Mùa thu hoạch
đến rồi ư?
Nhà tranh của
tôi.
111
Việc này
không thích hợp với thể loại ghi chép dọc đường. Nó chỉ phác họa những xúc động
nhỏ trong tâm hồn khi nhìn thấy núi non, cầu cống và những ngôi nhà nông thôn.
Nakagawa phết sơn màu lên cuộn giấy vẽ của ông về chuyến đi, bù đắp cho việc
tôi không thể hiện được chúng bằng lời. Nếu người khác xem tranh ông, chắc chắn
tôi sẽ phải xấu hổ.
Hãy qua đêm
trong quán trọ.
Anh sẽ hiểu
thơ tôi.
Gió thu.
112
Hoa rụng
Chim cũng giật
mình.
Bụi mỏng trên
đàn kôtô.
113
Kẹt giữa những
cây đào,
Cây anh đào
Hào hứng trổ
bông hoa đầu tiên.
114
Chuột trong
hang
Chít chít,
Đáp lại tiếng
những con én non.
115
Mưa xuân.
Rặng liễu bên
sông
Ngã nghiêng
như những chiếc áo tơi.
116
Bướm và chim
Không thôi bay
quẩn quanh
Bên những khóm
hoa.
117
Không có hoa
Cho người nói
“Tôi quá mệt
vì trẻ con!”
118
Cái vồ này
Xưa là cây hoa
trà
Hay cây mận?
119
Tiếng rao
người bán mực
Nghe lẫn
Trong tiếng
chim cu.
120
Chờ mặt
trời mọc ở nhà Taisui
Mưa lác đác.
Không phải lo
Cho ruộng mạ vừa
nẩy mầm.
121
Bài thơ này
có trong tập Sankashu, do thầy tế Saigyô viết khi ông thăm một nhà sư có tên là
Amiđabô sống ở quận Higashiyama, Tôkyô. Tôi mừng thầm, tự hỏi nhà sư này là ai.
Đây, tôi xin tặng bài thơ này cho vị sư cả đời sống trong lều cỏ.
Trăng
Trên lều nhỏ
này,
Hệt như trăng
của Amiđabô.
123
Phương châm
sống: Đừng nói về khuyết điểm
người khác
và đừng khoe mình giỏi.
Mỗi lần mở
miệng nói
Môi sẽ lạnh.
Gió thu.
124
Họ ăn gì,
Những người
trong ngôi nhà này?
Mùa thu dưới
bóng liễu.
125
Tôi đã chạm
đến đáy
Cái túi thận
trọng của mình.
Năm sắp hết.
126
Thơ đề trên
bức tranh vẽ cây tre.
Gió bão mùa
đông...
Náu mình trong
cây tre
Đang đứng kia,
tĩnh lặng.
127
Khi không còn
hoa cúc,
Chẳng còn gì
khác
Ngoài cây cải
củ.
130
Đề trên
chân dung Hôtêi
Không mong
muốn nào nữa.
Trong túi xách
của ông
Đã có trăng và
hoa.
131
Xuân đến.
Ngày đầu năm
Có mười lon
gạo cũ.
132
Gió thổi
Lá thông có
rụng không?
Tiếng nước
lạnh róc rách.
133
Lúc ấy là
năm Jôkyô thứ nhất, vào mùa thu, tháng Tám. Khi từ túp lều tồi tàn của mình bên
sông tôi bước ra, gió thổi vù vù và tôi thấy
Lạnh khác
thường.
Lạnh thấu
xương.
Buốt óc.
135
Ngày nọ,
khi tôi đi qua Trạm Gác, trời đang mưa và các ngọn núi bị mây che khuất
Mưa.
Không nhìn
thấy Phú Sĩ
Vì thế núi đẹp
hơn.
136
Người ta buồn
khi nghe vượn hót.
Còn trẻ khóc
thì sao,
Những đứa trẻ
bị bỏ rơi?
137
Thơ viết
trên yên ngựa
Bông hồng
Bên vệ đường
Bị ngựa tôi ăn
hết.
138
Tôi tới
Sayo-no-Nakayama và chợt giật mình, như thể vừa tỉnh khỏi giấc mơ ám ảnh trong
bài “Rạng sáng ra đi” của Đỗ Mục.
Ngủ gật trên
lưng ngựa.
Mơ mơ, màng
màng, mặt trăng…
Khói từ bếp
đun trà.
139
Giữa rừng hoa.
Buồn.
Không mở nổi
túi thơ.
180
Xa xa,
Mái lợp ngói
đền Kannôn
Lẫn trong đám
mây hoa.
142
Thăm lều cỏ
của vị ẩn sĩ sống thanh nhàn giữa núi
Cây thường
xuân mới trồng.
Bốn, năm gốc
tre
Giữa gió bão.
143
Tôi trở về
nhà vào đầu tháng Chín. Cỏ Lãng Quên cạnh phòng mẹ tôi đã héo chết vì giá lạnh,
giờ không sót lại gì nữa. Mọi cái nay đổi khác. Thái dương các anh chị em tôi
đã bạc với nhiều nếp nhăn quanh mắt. “Chúng ta vẫn còn sống!” - đó là những gì
chúng tôi có thể nói với nhau. Anh trai tôi mở một chiếc hộp quí và nói: “Hãy
tỏ lòng kính trọng mái tóc bạc của Mẹ. Giống Urashima với chiếc hộp đính đá quí
của mình, lông mày em nay đã chuyển thành trắng”. Sau đó, hồi lâu chúng tôi
cùng khóc với nhau.
Cái giá lạnh
mùa thu,
Đưa lên tay sẽ
tan
Trong những
giọt nước mắt nóng.
144
Chúng tôi
tiếp tục hành hương tới tỉnh Yamatô, tới một nơi gọi là Takê-no-Uchi ở quận
Katsugê, quê của Chiri, và dừng lại cho đôi chân được nghỉ mấy ngày.
Gậy đập vải
hình cung
Tiếng nghe như
đàn thụ cầm.
Sâu trong rừng
trúc.
.
145
Khi thăm
chùa Taima ở núi Futagami, chúng tôi thấy một cây thông trong sân chùa, có lẽ
đã nghìn năm tuổi, và “hốc cây của nó đủ rộng để chứa cả con bò”. Dẫu là vật vô
tri vô giác, nhờ sự gắn bó với Phật mà nó thoát được lưỡi rìu của người đời.
Thật may, thật kỳ diệu!
Các nhà sư và
những sáng bình minh -
Bao nhiêu đã
chết, bao nhiêu sống lại...
Cây thông phép
màu của Phật.
146
Bình minh
Nhuộm hồng hoa
anh đào.
Cũng là khi
đêm xuân kết thúc.
147
Từ Yamatô
tôi vượt Yamashirô rồi theo đường Ômi tới Minô. Phía ngoài Imasu và Yamakana có
ngôi mộ của Công nương Tôkiwa. Môritakê ở Isê từng viết, “Gió thu giống Đức ông
Yôshitômô”. Tôi thì tự hỏi mình giống nhau ở chỗ nào. Bây giờ tôi viết:
Nó thật giống
Trái tim
Yôshimôtô...
Gió thu.
148
Đập Fuwa
Gió thu.
Chỉ thấy bụi
cây và các ô ruộng
Bên Đập nước
Fuwa.
149
Trước đây,
khi rời Đồng Bằng Musashi lên đường hành hương, tôi nhìn thấy xương trắng rải rác
bên vệ đường, còn bây giờ:
Cuộc hành
hương đã hết
Tôi chưa chết.
Đêm thu.
150
Đền Hôntô ở
Kuwana
Hoa mẫu đơn mùa
đông.
Chim choi choi
đầm lầy
Giống chim cu
trong tuyết.
151
Trời chưa
rạng, tôi mò mẫm đi ra bãi biển.
Sắp sáng.
Con cá trắng,
màu trắng
Chỉ dài mấy
phân.
152
Gặp một du
khách.
Cả con ngựa
Cũng ngước lên
nhìn tôi.
Buổi sáng
tuyết rơi.
153
Giữa trưa, bên
khóm hoa
Người giã gạo
ngồi nghỉ.
Nhìn mà cảm
động.
154
Chim cúc cu:
Giờ không còn
nữa
Các bậc thầy
thơ Haiku.
155
Chọn cỏ làm
gối.
Cả con chó
cũng ướt vì mưa.
Có tiếng ai
trong đêm.
156
Ra ngoài đi
dạo, ngắm tuyết.
Này bà con đi
chợ,
Tôi bán mũ tôi
đây -
Một chiếc ô
phủ tuyết.
157
Tuyết rơi lên
tuyết.
Trăng tháng
Chạp đêm nay
Tròn không?
158
Cởi dép cỏ
một chố, để gậy trúc chỗ khác, tôi ngủ mấy đêm liền trên đường, khi mùa sương
rơi sắp hết
Sắp hết năm.
Đầu vẫn mũ tre.
Chân dép cỏ.
160
Con quạ bay
vật vờ.
Tổ của nó
Lạc trong cây
mận.
161
Trên đường
tới Nara
Ừ, đã mùa
xuân.
Trên những
ngọn đồi không tên
Khói nhạt.
162
Lễ kéo nước.
Lọc cọc tiếng
guốc nhà sư
Trong đêm giá
lạnh.
163
Trang nghiêm,
bệ vệ,
Cây sồi
Dửng dưng với
hoa.
164
Gặp thầy tế
Ninkô trong đền Saiganji ở Fushimi.
Sương
Từ hoa đào
Fushimi
Rơi lên áo
tôi.
165
Trong lúc
vượt núi, trên đường tới Ôtsu
Ven đường trên
núi
Hoa tím nở.
Thật dễ
thương.
166
Cảnh hồ.
Ở Karasaki,
cây thông
Trông mờ hơn
Những bông hoa
nhỏ.
167
Ăn trưa ở
một lữ quán.
Dưới bóng cây
đỗ quyên
Người đàn bà
Ngồi xé từng
con cá nhỏ.
168
Thơ viết
dọc đường.
Trên ô ruộng
trồng mù tạc
Bầy sẻ
Có vẻ mặt như
người ngắm hoa.
169
Ở Minakuchi
tôi gặp người bạn đã hai mươi năm chưa gặp lại.
Ngăn giữa hai
ta
Lâu nay
Là cây anh đào
này.
170
Một nhà sư
từ Hiru-ga-kôjimi ở tỉnh Izzu, lần hành hương mùa thu năm ngoái có nghe tiếng
tôi và đến Owari để được đi cùng
Vậy thì bây
giờ,
Cùng nhau ta
ăn kiều mạch.
Chiếc gối cỏ.
171
Ông Đaiten,
sư trụ trì chùa Engkuji, vừa viên tịch đầu tháng Giêng năm nay. Vô cùng xúc
động, tôi cảm thấy mình như đang mơ, và vẫn ở trên đường, tôi gửi mấy chữ đến
Kikaku:
Sùng bái cây
mận
Cúi mình trước
cây cải trắng.
Mắt ngấn lệ.
172
Tặng
Tôkôku.
Con bướm
Ngắt một cánh
của mình
Tặng hoa anh
túc trắng.
173
Lần nữa tôi
ở lại Tôyô, và khi lên đường
tới các
tỉnh miền Đông, tôi thấy
Từ sâu trong
nhụy hoa
Bông mẫu đơn,
Con ong miễn
cưỡng bò ra.
175
Cuối tháng
Tư, trở về lều mình, khi tôi đang nghỉ ngơi sau chuyến đi mệt mỏi thì chợt thấy
Vẫn còn mấy
con chấy
Trong chiếc áo
mùa hè.
Nghĩa là phải
bắt chúng.
176
Suốt đêm
bầu trời lúc quang lúc đầy mây, khiến chúng tôi thấp thỏm.
Mây lúc có,
lúc không.
Cũng may vì
không phải
Lúc nào cũng
ngắm trăng.
177
Trời tối
hẳn, có ba người sống ở Reiganjima tới thăm lều tôi. Ngẫu nhiên cả ba cùng có
chung một tên - Shichirôbêi. Nhớ lại bài thơ Lý Bạch uống rượu một mình, tôi
đùa viết:
Cốc rượu đầy
trên tay.
Đêm nay
Tôi uống vì ba
cái tên.
179
Bị bệnh hành
hạ,
Thậm chí không
nuốt nổi bánh gạo.
Hoa đào.
180
Thương tiếc
thầy tế Tanđô.
Rụng xuống đất,
Quay về với
rễ...
Lời vĩnh biệt
của bông hoa.
181
Đông hay Tây
Cái khổ vẫn
thế đời này.
Gió thu.
182
Trăng mùa thu
hoạch.
Suốt đêm
Một mình dạo
quanh ao.
183
Không sở hữu
gì.
Thế giới của
tôi
Nhẹ như dây
bầu.
184
Vườn cổ.
Tất cả hoa héo
chết,
Tỏa cái buồn
khắp vườn.
Rễ cỏ.
185
Một đêm giá
lạnh.
Đêm giá lạnh.
Bình nước vỡ
Không ngủ, tôi
nằm nghe.
186
Với hy vọng
được ngắm tuyết đầu mùa ở lều cỏ của mình, mỗi lần thấy trời có mây, tôi lại
chạy vội về nhà. Chạy nhiều lần. Vào
ngày Tám tháng Chạp, cuối cùng tuyết đã rơi, và đó một niềm vui thực sự.
Tuyết đầu mùa.
Thật sung
sướng
Đang ở nhà
mình.
187
Tuyết đầu mùa.
Chỉ đủ nặng
Làm cong lá
thủy tiên.
188
Đêm tuyết
rơi ở Fukagawa.
Rượu sakê.
Không ngủ
được.
Đêm mưa tuyết.
189
Một người
tên là Sôra dựng căn lều tạm gần đấy và sáng tối nào chúng tôi cũng gặp nhau.
Khi tôi nấu cái gì đó, ông lo nhóm lửa. Khi tôi chuẩn bị pha trà, ông đập băng lấy nước. Bản tính ông thích yên
tĩnh một mình, tôi cũng thế nên tình bạn
chúng tôi còn quí hơn vàng. Một tối nọ ông đến thăm tôi khi tuyết đang rơi. Tôi
nói:
Bác nhóm lửa.
Tôi có cái này
rất hay -
Quả bóng
tuyết!
191
Tôi tới
thăm một người ở chỗ ông ta ở ẩn. Ông già coi nhà nói: “Ông chủ tôi đi viếng
chùa xa”. Nhìn những cây mận ở đấy đang kỳ nở rộ, tôi nói: “Những cây mận này
sẽ thay ông ấy vì chúng rất giống chủ”. Nghe vậy, ông kia đáp: “Thực ra chúng
là của hàng xóm”.
Tôi tới, bác
đi vắng.
Những cây mận
cũng xa
Ngoài khu rừng
này.
192
Nhà trên
núi.
Con cò làm tổ,
Nhìn qua các
cành cây
Nở đầy hoa.
193
Lều cỏ của
tôi.
Hoa trắng như
mây.
Chuông rung
Từ Uênô hay từ
Asakusa?
194
Suốt ngày hót.
Hót suốt ngày
không chán.
Chim sẻ.
195
Giữa đồng,
Hoàn toàn tự
do...
Chim én hót.
196
Chim cu
Vừa bay vừa
kêu,
Vẻ bận rộn
197
Chân dung
tự họa của một người khốn khổ.
Tóc tôi dài.
Mặt tôi nhợt
nhạt.
Mưa mùa hè.
198
Đội cơn mưa
mùa hè,
Tôi đi xem tổ
con chim bói cá
Trôi giữa
sông.
199
Sanpumê,
một học trò của tôi, gửi tặng thầy chiếc áo kimônô mỏng mặc mùa hè.
Hãy nhìn tôi
Trong chiếc áo
mỏng mùa hè này!
Chiếc kimônô
của ve sầu.
200
Ngồi hóng
mát ban đêm.
Tôi ngủ thiếp
vì say.
Trong khi trên
núi đá
Hoa hồng dại
nở.
201
Tôi tới
thăm căn lều cũ kỹ của một người đã lên núi ở ẩn
Bác, người
trồng dưa hấu,
Có phải bác
đấy không
Giữa trời mát
đêm nay?
202
Con cua nhỏ
Theo chân tôi
bò lên.
Nước trong.
203
Ransetsu vẽ
cảnh bình minh trên một bức tranh
rồi yêu cầu
tôi đề thơ lên đó.
Bình minh đẹp.
Cả khi vẽ tồi,
Vẫn gây xúc
động.
204
Cảnh nông
thôn.
Con sếu lò dò
bước
Trên ruộng lúa
gặt chưa xong.
Mùa thu ở
làng.
205
Xay lúa.
Cậu bé nông
dân
Chốc chốc dừng
lại ngắm trăng.
206
Lá cây khoai
sọ
Chờ trăng
Trên cánh đồng
cháy sém.
207
Trước Miếu
thờ
Cây thông này
mọc
Từ thời các
thánh thần.
Một mùa thu
thiêng liêng.
208
Mưa trên
lều tôi
Mới mọc lại…
Sau mưa,
Cúc héo lụi.
209
Bị dập vùi.
Thế mà bụi cúc
Vẫn ra được
nụ.
210
“Lữ khách”
Hãy gọi tôi là
lữ khách.
Cơn mưa đông
đầu tiên.
214
Quán trọ
dọc đường.
Đốt lá thông
Hong khăn ướt.
Lạnh.
215
Trên đường
tới Iragô, dẫu đang say, Etsujin vẫn cưỡi ngựa.
Mong sao nếu
ngã ngựa,
Ngã xuống
tuyết, cát mềm...
Say vì sakê.
217
Tôi tới
thăm Tôkôku, người đang gặp khó khăn khi sống ở Mũi Iragô. Thỉnh thoảng tôi
nghe tiếng chim ó kêu.
Không phải
trong mơ,
Mà trong đời
thực,
Chim ó làm tôi
vui.
218
Theo người
ở đây kể lại, làng này gọi là “Hôbi”, vì ngày xưa một hoàng đế bãi triều đã ca
ngợi và ra lệnh “Hãy bảo vệ vẻ đẹp của nó” (hôbi). Tôi không biết có tài liệu
lịch sử nào ghi điều đó không, nhưng ý tưởng ấy thực sự làm tôi phấn chấn.
Ở đây, làng
Hôbi.
Hãy ca ngợi
những bông hoa nở sớm
Trên cây mận
và cây hoa trà.
219
Miếu thờ
Atsura sau khi được trùng tu.
Được đánh bóng
lại,
Cả gương
thiêng cổ cũng thành sáng.
Hoa tuyết.
220
Vậy thì nào,
Ta đi xem
tuyết rơi
Cho đến khi
ngã quị.
221
Giọt sương
đóng băng.
Tôi nhặt lên -
Giọt nước suối
tinh khiết.
222
Nghỉ dọc
đường.
Xem quét nhà
cuối năm
Giữa đời này
bụi bặm.
223
Ở làng
Hinaga, tôi thuê con ngựa đã nhắc đến trong bài “Từ Kuwana tới đây, không có gì
để ăn...”, rồi tôi cưỡi nó leo lên Núi Chiếc Gậy Chống. Giữa chừng tuột yên,
tôi bị ngã khỏi lưng ngựa.
Ngã ngựa.
Giá mình leo
bộ
Lên Núi Chiếc
Gậy Chống.
224
Những muốn
mượn áo
Của con bù
nhìn để ngủ.
Nửa đêm, giá
lạnh.
225
Ở Yamađa,
tỉnh Isê
Từ cây gì
Tôi không biết
tên,
Mùi hương thật
dễ chịu.
226
Các cô gái
đồng trinh trong miếu thờ.
Cây mận cô đơn
nở hoa.
Thật dễ
thương.
227
Gặp
Setsuđô, con trai Ajirô Minbu.
Từ cây mận già
Mọc lên cây
non tuyệt đẹp.
Hoa mận.
228
Gửi thầy tế
Ryu Shôsha.
Trước hết xin
hỏi:
Loài sậy có lá
non này
Tên là gì?
229
Gặp nhau
trong lều cỏ.
Khoai sọ trồng
xong.
Lá nho xanh
Phủ đầy trên
cổng.
230
Viết ở chùa
Bôđai.
Về cái buồn
của núi này
Những người
đào củ từ
Kể rất nhiều
chuyện.
232
Buổi gặp
mặt đầu tiên của nhóm các nhà thơ đối vịnh ở Đền Yakushi
Cây anh đào
đầu tiên nở hoa.
Ngay lúc này, hôm nay.
Một ngày đẹp
trời.
234
Tay cầm quạt,
Uống rượu sakê
trong bóng râm.
Hoa anh đào
rụng
235
Hết cánh này
đến cánh khác
Hoa hồng dại
rụng.
Tiếng thác đổ.
236
Để ngắm hoa
anh đào,
Chẳng sao
Nếu phải đi
hai mươi dặm một ngày.
237
Con suối
trong bám đầy rêu.
Những giọt mưa
xuân
Chảy theo thân
cây.
Bờ suối trong
đầy rêu.
240
Núi Kôya
Tôi thèm
Một tiếng kêu
chim cuốc,
Cho bố mẹ tôi.
241
Wakanôura
Mùa xuân ra
đi.
Cuối cùng tôi
đuổi kịp nó
Ở đây,
Wakanôura.
242
Ngày thay
quần áo
Cởi hết một
lớp,
Khoác lên
vai...
Ngày thay quần
áo.
243
Phật Đản.
Vào ngày này
Con nai vàng
ra đời.
244
Tướng quân
Ganjin, người được thờ ở đền Shôđaijin, phải chiến đấu với bảy mươi kẻ thù khi
ông tìm cách trở về Nhật Bản từ Trung Quốc. Nghe kể lại, ông bị mù vì gió biển
mặn thổi vào mắt. Giờ đây tôi cúi lạy trước hình ảnh thiêng liêng của con người
này:
Với chiếc lá
non,
Để tôi lau
Nước mắt cho
ông.
245
Đi đường mệt.
Vừa may tìm
được chỗ trọ.
Hoa đậu tía.
246
Đền Suma.
Lắng nghe
tiếng sáo chưa thổi
Sâu trong bóng
hoa.
247
Qua đêm ở
Akashi
Nằm trong bẫy,
Con bạch tuộc
mơ màng...
Trăng mùa hè.
249
Ý định về
chuyến đi sắp tới theo Đường Kisô xuất hiện khi tôi đang ở Ôtsu. Ở đó, tôi đã
đến Sêta để xem đom đóm.
Như ánh trăng,
Đom đóm
Lập lòe trên
ruộng lúa.
250
Rơi từ ngọn cỏ
Rồi bay đi...
Con đom đóm.
251
Ở Ôtsu
Mùa hè
Trôi trên hồ.
Lướt đầu ngọn sóng.
252
Chớp lóe.
Tiếng con diệc
Giữa bóng đêm.
253
Trả lời thư
mời một người tên là Rakugô, tôi ngồi hóng mát dưới bóng những cây thông trên
núi Inaba, và cũng để nghỉ ngơi chút ít sau chuyến đi vất vả.
Góc nhỏ trên
núi.
Tôi sẽ nuôi cơ
thể mình
Bằng cánh đồng
dưa này.
254
Tôi muốn ví
chúng
Với đứa trẻ
non nớt...
Những bông hoa
trên đồng.
255
Núi Inaba
Chuông chùa
Dường như đang
rung...
Ve kêu.
256
Một người
tên là Kisaburô sống ẩn dật ở chân núi Inaba mời tôi đến cùng thưởng thức trời
đêm mát mẻ
Lâu đài đổ
nát.
Nước trong lấy
từ giếng cũ
Là cái đầu
tiên tôi tìm.
257
Đi xem
những người đánh cá dùng chim cốc bắt cá trên sông Nagara ở Minô.
Thật thích
Nhưng rồi chợt
thấy - thật buồn...
Thuyền đánh cá
có chim cốc.
258
Màu của gió.
Khu vườn mùa
thu
Cây trồng lộn
xộn.
260
Những ruộng
lúa cạnh Đền Kho Báu của thần Dharma.
Lúa chín.
Từ phía ruộng
lúa chín sớm
Chim dẽ giun
kêu.
261
Chúc mừng
nhà mới
Một ngôi nhà
tuyệt đẹp.
Phía sau
Chim sẻ vui
nhặt kê.
262
Ngắm cảnh
Narumi
Đầu thu.
Cả biển, cả
ruộng lúa
Đều xanh.
263
Ngày đầu
thu
Đi đường mỏi
mệt
Bao nhiêu ngày
giống ngày này?
Gió thu.
264
Ao sen.
Hoa sen còn
nguyên, chưa hái -
Chờ lễ Linh
Hồn.
265
Năm Jôkyô
thứ năm, ngày 20 tháng Bảy, tôi được tiếp ở lều Lá Tre
Có kê, có cỏ
rồi,
Không muốn gì
thêm.
Lều tranh.
266
Con bướm
trên bông cúc
Mùa thu sâu.
Con bướm uống
sương
Trên bông cúc.
268
Tiễn Yasui
lên đường
Tiễn bác.
Lưng bác xa
dần.
Gió thu cô
đơn.
270
Đời có bao
loài cây.
Mỗi loài,
Một sắc hoa
rực rỡ.
271
Bạn bè tiễn
tôi ở ngoại ô thành phố.
Chúng tôi
cùng uống với nhau mấy chén rượu
Chứng kiến
tiệc rượu này,
Bình minh
Đỏ rực cả bầu
rời.
272
Run, ngả
nghiêng
Càng giống
những giọt sương...
Hoa trinh nữ.
273
Như chiếc cầu
treo,
Dây thường
xuân
Cố bám vào
tường để sống.
274
Núi Ôbasutê
Khuôn mặt núi
đá -
Một bà già
đang khóc
Chỉ có trăng
làm bạn.
276
Đền Zenkôji
Trăng sáng.
Bốn cổng, bốn
phần.
Chỉ một mình
tôi.
278
Ông già chủ ao sen này thích hoa cúc. Hôm qua dự lễ ở Núi Lu, hôm
nay chúng tôi uống nốt phần rượu còn lại, cả hai thi nhau trổ tài thơ phú, lại
còn hỏi ai khỏe hơn ai.
Năm sau vào ngày này?
Ngày mười sáu
âm lịch?
Hay chỉ sáng
nay nhớ hoa cúc?
279
Ngả bệnh ở
Kisô.
Chưa khỏe hẳn.
Trăng cuối mùa
thu hoạch.
280
Những lá
thường xuân này
Hơi nhuốm màu
quá khứ.
Tán lá mùa thu.
281
Thu sắp hết.
Tôi cuộn tròn
người
Trong chăn.
282
Sống ẩn mùa
đông.
Lần nữa
Tựa lưng vào
cột.
283
Tôi được
nghe nhiều điều tốt về nhà sư Đôen ở Lều Đaitsu. Kính trọng ông, tôi hứa sẽ đến
thăm, thế mà điều ấy chưa kịp xẩy ra, ông đã từ giã cuộc đời này, như bông
tuyết tan giữa buổi chiều tà mùa đông. Hình như hôm nay là ngày giỗ đầu của
ông.
Cố hình dung
Ông là người
thế nào.
Chiếc gậy gỗ
héo của ông.
284
Thương tiếc
vợ Rika
Nằm xuống
Kéo trùm chăn.
Một đêm lạnh
và buồn.
285
Tại buổi lễ
cầu siêu một người quen
Chúng làm tắt
Cả lò sưởi đầy
than...
Tiếng thút
thít và nước mắt.
286
Jusô người
tỉnh Owari còn được gọi là Etsujjin, theo tên vùng đất nơi ông sinh. Bây giờ
ông ẩn mình ở thành phố, chỉ lo kiếm đủ thức ăn và dầu sưởi. Ông làm việc hai
ngày, chơi hai ngày, nếu làm ba sẽ chơi ba. Ông thích uống rượu và hát bài
“Những câu chuyện về Heikê” khi say. Một người bạn đích thực.
Liệu năm nay
Tuyết chúng ta
nhìn năm ngoái
Sẽ lại rơi?
287
Vào một đêm
tuyết rơi, tôi đùa viết bai thơ về chiếc mũ dai, dùng hai từ “mua
gạo” làm chủ đề
Ra ngoài mua
gạo
Bao rỗng đội
đầu che tuyết.
Chiếc mũ dai
của tôi.
288
Ngày đầu năm.
Mặt trời trên
ruộng lúa
Gợi ta buồn.
289
Thật cám dỗ.
Cả mùa xuân
năm nay
Bầu trời cũng
gọi đi xa.
290
Sáng lại chiều
Như thể ai chờ
tôi ở Matsushima.
Mối tình buồn
của tôi.
291
Năm Genrôku
thứ hai, tháng Hai, khi nghỉ lại ở Tôzan.
Từng đợt hơi
nóng
Bốc lên từ hai
vai.
Chiếc áo giấy
của tôi.
292
Đi lễ ở
Futamigaura.
Nhìn hoa sóng
thủy triều,
Biết vịnh này
Xuân đã đến.
293
Chiền chiện
hót.
Chim cuốc kêu,
Hòa nhịp.
294
Thơ đề trên
tranh vẽ người đang uống rượu.
Không trăng,
không hoa.
Chỉ một người
uống rượu.
Một mình
295
Giao nhà ở
ẩn bằng cỏ cho gia đình có mấy cô con gái.
Cửa lều cỏ
Cũng di chuyển
theo mùa.
Nhà búp bê.
296
Xuân qua.
Chim kêu.
Mắt cá ngấn
lệ.
297
Murô-nô-Yashima.
Hơi nóng căng
thành sợi
Quyện với
nhau.
Khói.
298
Mặt trời sắp
lặn.
Những sợi chỉ
sóng nóng
Nhòe dần.
299
Ngôi làng
không chuông.
Ừ, nhưng mùa
xuân có hội.
Thì sao?
300
Đêm xuân,
một mình ở ngôi nhà nông thôn.
Không nghe
Cả tiếng
chuông hoàng hôn.
Đêm xuân.
301
Thật thiêng
liêng.
Lá xanh, lá
non
Dưới nắng.
302
Bên thác nước
Tạm thời sống
ẩn.
Đầu kỳ nghỉ
hè.
303
Tìm Suitô ở
Yôzê, tỉnh Nasu.
Mùa hè, gặp
người gánh cỏ.
Nhờ chỉ đường
Qua cánh đồng
này.
304
Về cảnh đẹp
tại nơi sư phụ Shua đang sống.
Cả núi
Cũng chuyển
vào vườn.
Phòng khách
mùa hè.
306
Tôi biết
bài thơ này về thầy tế Butchô, nhưng nhìn lều cỏ của ông làm tôi xúc động hơn
khi nghe về nó. Trong sự xúc động ấy, tôi thấy trái tim mình được thanh lọc.
Cả chim gõ
kiến
Không nỡ làm
hỏng lều này.
Khu rừng mùa
hè.
308
Mùa hè, trên
núi
Cầu kinh trước
đôi guốc gỗ.
Lại lên đường.
309
Thơ đề trên
tranh vẽ con sếu và cây chuối.
Sếu kêu.
Chắc chắn
tiếng kêu này
Làm rách lá
chuối.
340
Người quản
gia ngôi nhà lớn gửi tôi đi bằng ngựa. Dọc đường, người coi ngựa nói: “Xin ông
viết cho một bài thơ trên giấy, được không?” “Một yêu cầu tinh tế,” tôi nghĩ.
Đi hết cánh
đồng,
Tới chỗ kia
cho ngựa rẽ!
Chim cu.
341
Với tư cách
là hai nhà sư, chúng tôi hành hương tới vùng Cực Bắc. Chúng tôi thăm Shinôhara
ở Nasu, định đi thăm “Hòn Đá Giết Người”
ở Sesshô, nhưng trời mưa mãi không dứt
nên phải nghỉ lại ở đấy.
Mưa từ trên
cao xuống.
Trong nhà trọ
ở Takaku.
Chim cu.
343
“Cây liễu
bên dòng suối trong xanh như pha lê” mọc ở vệ đường gần một ruộng lúa ở làng
Ashinô. Mấy lần, ông Kôhô, một viên chức ở quận, bảo tôi: “Tôi rất muốn chỉ ông
xem cây liễu đó”, và tôi lúc nào cũng muốn biết nó ở đâu. Bây giờ thì cuối cùng
tôi đang đứng dưới bóng của nó.
Mạ
Cấy hết.
Tôi rời khỏi
cây liễu.
344
Từ Đông hay từ
Tây?
Cao trên những
cây mạ mới mọc,
Gió thổi vi
vu.
345
Qua Trạm
Gác Shirakawa.
Cội nguồn tất
cả nghệ thuật
Là bài hát cấy
lúa
Tít trên miền
Bắc.
346
Chữ hạt
dẻ trong tiếng Trung Quốc gồm hai chữ là mộc và tây, do vậy
cây dẻ được cho là có liên quan đến Miền Đất Thanh Khiết của Phật Amiđà. Người
ta nói trong suốt cuộc đời Bodhistva của mình, Gôyô đã dùng gỗ cây này làm gậy
chống và cột đỡ lều của mình.
Mọi người
Chớ xem thường
hoa này.
Hoa dẻ trên
mái hiên.
347
Cách thị
tấn Sukagawa năm dặm về phía Đông là thác nước Ishikawa mà từ lâu tôi mơ ước
được chiêm ngưỡng. Vào thời gian này trong năm mực nước dâng cao vì trời mưa,
và người ta bảo tôi không thể vượt qua được.
Mưa hè.
Đủ nước để làm
ngập
Cả thác nước.
348
Cấy lúa bằng tay,
Theo cách xưa.
Ngẫu nhiên thế nào được ấy.
349
Kyôhaku đưa
cho tôi bài Haiku này như món quà tặng lúc chia tay. Và tôi đã viết:
Từ ngày anh
đào nở hoa
Tôi muốn ngắm
cây thông này.
Mọc hai thân
sau ba tháng.
351
Đảo, rất nhiều
đảo.
Chi chít hàng
nghìn đảo
Giữa biển mùa
hè.
352
Ở
Takađachi, tỉnh Ôshu.
Cỏ mùa hè
Là những gì
sót lại
Từ giấc mở các
chiến binh.
353
Dưa mùa đông.
Tất cả dưa mùa
đông
Mang khuôn mặt
mới.
354
Từ Suối
nước nóng Narugô, chúng tôi định lên đường đi tới tỉnh Đêwa qua Trạm Gác
Shitômae. Ít du khách chọn đi đường này, do vậy những người lính gác tỏ ý nghi
ngờ, mãi lúc sau mới cho chúng tôi đi. Khi leo qua một đỉnh núi, mặt trời đã xế
bóng, chúng tôi thấy một ngôi nhà của lính gác biên giới và xin ngủ qua đêm ở
đấy rồi đi tiếp. Nhưng mưa lớn và gió liên tục ba ngày, khiến chúng tôi bị kẹt
lại ở chỗ núi non chẳng mấy vui vẻ này.
Chấy, rận.
Con ngựa đái
Sát bên gối
tôi.
355
Tĩnh lặng.
Tiếng ve kêu
Thấm vào kẽ
đá.
356
Thu vào lòng
mình
Tất cả mưa
hè...
Sông Môgami
chảy xiết.
358
Ở nhà
Sêishin
Sờ gió,
Đoán biết đâu
là hướng Nam.
Sông Môgami.
359
Đầy vẻ biết ơn,
Thung Lũng Nam
Thấm đầy hương
tuyết.
360
Trời mát.
Trăng lưỡi
liềm mờ dần
Trên núi Lông
Chim Đen.
361
Ở Yuđônô.
Không được nói
vì sao
Tay áo tôi đẫm
lệ.
364
Xô mặt trời
nóng
Xuống biển…
Sông Môgami.
365
Trên đường.
Nghỉ dưới gốc anh đào,
Như thể mình đang diễn kịch Nô.
366
Mưa đêm vừa
tạnh, một người trong vùng
đưa tôi đến
Vịnh Kisagata bằng thuyền.
Đêm trời
quang.
Hóng mát dưới
bóng hoa anh đào.
Cánh hoa trôi
trên sóng.
367
Bãi Nông.
Con sếu ướt
chân.
Hơi mát từ
biển.
369
Nhìn ra đảo
Sađô từ thị trấn có tên Izumôzaki ở Êchigô.
Biển động.
Sông Ngân Hà
Kéo dài qua
Sađô.
370
Ở nhà thầy
thuốc Hôsôkawa Shunan.
Hoa nào
Trong vườn
thuốc nhà bác
Sẽ là gối cho
tôi đêm nay?
371
Làm mềm cá
tráp
Bằng những
cành liễu lạnh.
Vợ người đánh
cá.
372
Gái điếm,
Cây ba lá và
trăng
Cùng ngủ chung
một nhà.
373
Đỏ, đỏ rực
Mặt trới chói
chang.
Thế mà có gió
thu.
374
Được mời
tới thăm một lều cỏ.
Mùa thu, trời mát.
Nào, cùng nhau
Ta gọt dưa.
375
Một người
tên là Isshô nổi tiếng hâm mộ kiểu thơ Haiku, nhưng anh ta chết mùa đông năm
ngoái. Ông anh trai tổ chức một cuộc đối vịnh loại thơ này để tưởng nhớ người
em.
Tiếng tôi khóc
Làm lay chuyển
cả mộ.
Gió thu.
376
Ở nơi có
tên là Cây Thông Nhỏ.
Một cái tên
đáng yêu.
Cây Thông Nhỏ,
nơi gió
Thổi phất phơ
những bụi cây ba lá.
377
Bông nở trắng
trên đồng,
Như hoa
Dưới trăng mùa
thu hoạch.
378
Rời suối nước
nóng.
Đêm nay da tôi
Sẽ mát.
379
Thăm đền
Kannôn ở Nata.
Trắng hơn đá
trắng
Trên núi Đá
Trắng.
Gió thu.
380
Dọn vườn
Trước lúc lên
đường.
Liễu rụng lá
trong chùa.
381
Mấy chữ nguệch
ngoạc trên quạt.
Quạt bị xé.
Kỷ niệm lúc
lên đường.
382
Tôi đi qua
cầu Asamutsu. Dân sở tại gọi là Asamuzu, tuy nhiên trong phần “Cầu” của
cuốn Sách Về Chiếc Gối của Sêi Shônagôn thì nó vẫn là Asamutsu.
Asamutsu.
Bình minh
Lên đường đi
ngắm trăng.
383
Tamaê.
Hãy ngắm trăng,
Chừng nào sậy
ở Vịnh Ngọc
Chưa bị cắt.
385
Biển Kêi
Xem hết tám
cảnh đẹp
Ở các tỉnh
khác nhau,
Giờ xem trăng
Kêi.
386
Năm 1689,
khi ngắm trăng ở Vịnh Tsuruga, tôi đến Đền Kêi và được nghe kể về những việc
làm của các sư trụ trì ở Yugyô.
Trăng tinh
khiết.
Trăng trên
những hạt cát
Rơi từ dép
người hành hương.
387
Đêm rằm,
chủ quán trọ đoán sẽ có mưa.
Trăng mùa thu
hoạch.
Khó lường
Thời tiết miền
Bắc.
388
Cũng đêm ấy
chủ quán kể chúng tôi nghe một câu chuyện thế này. Sâu dưới biển có chiếc
chuông. Một lần quan tỉnh trưởng sai thợ lặn xuống vớt lên. Họ tìm thấy nó,
nhưng vì nó nằm ngược nên không cách nào đưa lên được.
Trăng ở đâu?
Chuông chùa
Chìm đáy biển.
390
Mùa thu hoạch,
trăng sáng.
Sương mù dưới
chân núi.
Khói trên đồng
lúa.
391
Cô đơn.
Còn hơn cả
Suma.
Mùa thu trên
bãi biển này.
392
Giữa những con
sóng.
Mẩu hoa cây ba
lá
Quay cuồng
trong vỏ sò tí hon.
393
Bãi Biển
Màu Sắc.
Hoa cây ba lá.
Hãy để cánh
rơi xuống cốc rượu -
Chiếc vỏ sò tí
hon.
394
Thu đang sâu.
Chưa thấy bướm
bay.
Con giun đất.
395
Khi mở cửa,
tôi thấy ở phía Tây có ngọn núi gọi là Ibuki. Trên núi không có hoa, không có
tuyết. Đơn giản chỉ là một ngọn núi.
Tự bản thân
mình đã đẹp,
Không cần
trăng...
Núi Ibuki.
396
Ngẫu hứng
viết tại biệt thự ông Jôsui.
Sống ẩn yên
tĩnh nơi này,
Tôi sẽ hái
trái cây
Và nhặt hạt
cỏ.
397
Nở vội vàng,
Tháng Chín
đang đến gần.
Hoa cúc.
398
Một người tên
là Sôguy, sống ở Sêki, tới Ôgaki thăm
tôi. Những bông hoa Sôgi được nhắc đến trong bài “Hoa đậu tía trắng trên sườn
núi” bây giờ vẫn thơm như khi chúng được ông viết trong thơ.
Hạt đậu tía.
Tôi sẽ đưa
chúng vào thơ
Khi không còn
hoa.
399
Thăm biệt thự
của Bôkuin.
Chổ ở ẩn.
Mặt trăng, hoa
cúc.
Và một ô ruộng
lúa.
400
Viết cho
một bức tranh.
Đôi dép của
Saigyô.
Hãy treo chúng
Cùng những
giọt sương từ cây thông.
401
Như con sò
chui ra khỏi vỏ,
Tôi lên đường
đi Futami.
Chia tay mùa
thu.
402
Tôi ở lại
nhà của Akêchi, tỉnh Isê. Vợ ông, người luôn chiều chồng trong mọi chuyện, cũng
an ủi nhiều cho trái tim mệt mỏi của du khách này. Khi chồng rơi vào cảnh túng
quẩn, bà đã cắt tóc bán lấy tiền cho chồng tổ chức buổi gặp mặt renga.
Lúc này tôi đang nhớ lại đức tính hy sinh cao cả ấy của bà.
Trăng, cô đơn.
Tôi muốn kể
Về người vợ
của Akêchi.
403
Đền Trong
đã được chuyển đi nơi khác. Tôi đi lễ ở Đền Ngoài trong ngày Lễ Tái Sinh ở chùa
này.
Mọi người xô
đẩy nhau,
Tìm sự thiêng
liêng.
Lễ Tái Sinh.
404
Ở nơi gọi
là Nakamura, tỉnh Isê.
Gió thu.
Giờ nghĩa địa
ở Isê
Càng buồn hơn.
405
Futami.
Nghiên mực của
Saigyô?
Tôi cầm lên
tay ...
Sương trong
mẩu đá lõm.
407
Hết ngày lại
ngày,
Tự mình đổi
thay...
Bông hồng
408
Cơn mưa đông
đầu mùa...
Có vẻ con khỉ
Muốn có chiếc
áo tơi.
409
Hái nấm.
Dễ bị ướt
Trong cơn mưa
chiều lạnh.
410
Vườn mùa đông.
Ánh trăng như
những sợi chỉ.
Tiếng côn
trùng râm ran.
411
Ngọn núi
Được vẽ trên
cuộn giấy bồi.
Sống ẩn mùa
đông.
412
Chơi cùng
trẻ trên đồi
Tuyết đầu mùa.
Nào lấy lông
thỏ
Ta làm râu!
413
Ngày mồng
Một tháng Bảy, năm Genrôku thứ hai,
họa vần thơ
tại nhà Ryôbôn.
Nào các cháu,
Ta chạy loanh
quanh
Dưới mưa đá!
414
Tới thăm
Nam Kinh, tôi mong muốn cuối cùng Điện Thờ Phật sẽ được xây xong.
Tuyết đầu mùa.
Cho Đức Phật Toàn
Năng
Bao giờ mới
dựng cột?
415
Bài hát
trên đường.
Rời lâu đài
trên núi Iđê
Ngồi trên
chiếc kiệu thuê.
Những cơn mưa
đông đầu mùa.
416
Cả họ cũng đi
Quanh mộ
Choshô?
Vừa đi vừa gõ
vào bát?
417
Nhiều người
đến thăm lều cỏ của tôi ở Zêzê.
Nếu trời mưa
đá,
Tôi sẽ nấu,
thết anh
Món cá cơm bắt
bằng lưới liễu gai.
419
Đón Năm Mới
gần kinh đô.
Ai kia quấn
quanh người
Chiếc chiếu
cói?
Hoa mùa xuân.
421
Con chim chích
Để rơi mũ của
mình…
Bông hoa anh
trà.
422
Ở làng, sau
khi gieo hết giống ba loại rau trong vườn anh tôi.
Mưa xuân.
Hạt giống cây
quả trứng
Bắt đầu nảy
mầm.
424
Những củ khoai
tây giống.
Đúng lúc anh
đào nở hoa
Người bán rau
đi bán hàng.
425
Viết ở nhà
Kôbôku.
Lối đi giữa
hàng thông.
Hai bên hoa
nở.
Nhà nằm sâu
phía trong.
426
Ngắm hoa.
Dưới bóng cây
Ăn canh và cá
ướp.
Hoa anh đào.
427
Thật đúng lúc.
Bột đậu viên
trộn gạo.
Vừa ăn vừa
nhìn hoa.
430
Nghe nói
ngày xưa làng Hanagaki ở Iga được xem là đất của hoàng đế với mục đích bảo vệ
những cây anh đào hai lần nở của Nara.
Có phải dân
làng
Đều hậu duệ
Của những
người gác hoa xưa?
432
Ngắm cảnh
hồ, buồn tiếc mùa xuân đã trôi qua.
Mùa xuân ra đi
Cùng những
người ở Ômi.
Tôi buồn tiếc.
433
Một ni-cô cô
đơn
Sống tách biệt
trong lều tranh.
Hoa đỗ quyên
trắng.
434
Ở lại Sêta,
tôi đi lễ Đền Ishiyama vào lúc rạng sáng
và nhìn thấy phòng Genji ở đấy.
Rạng sáng.
Trong mùi hoa
oải hương
Chim cu kêu.
435
Anh là bướm.
Còn tôi
Là Trang Tử
đang mơ.
438
Ngắm đom
đóm ở Sêta.
Xem đom đóm
bay.
Người chèo
thuyền say,
Thuyền đung
đưa.
439
Đang ở kinh đô,
Mà vẫn nhớ
kinh đô.
Chim cu.
440
“Đêm hè mát
ở bờ sông, Lối đi Thứ Tư”, họ nói với nhau như vậy. Đầu tháng Sáu, từ khi trăng
mọc đến lúc trăng lặn, tận quá Rằm, mọi người xếp hàng dọc bờ sông uống rượu
sakê và ăn uống suốt đêm. Phụ nữ diện những bộ đồ đẹp nhất, cánh đàn ông mặc
những chiếc áo dài hợp mốt. Còn người già thì ngồi bên nhau. Cả đám thợ học
việc nghề gò thùng và thợ rèn cũng thoải mái hát to hồn nhiên. Thế đấy, cuộc
sống nơi kinh thành là thế đấy!
Gió thổi nhẹ
từ sông.
Đêm hè mát.
Mặc áo màu
vàng nhạt.
441
Một ẩn sĩ
có tên Tôkô từ Naniwa tới xin gặp tôi, vốn chỉ một sư phụ bất tài.
Ích gì bắt
chước tôi?
Để thành hai
nửa giống nhau
Của quả dưa bổ
đôi?
442
Lều cỏ của
tôi.
Chỉ duy nhất
một điều hay -
Muỗi nhỏ hơn
nơi khác.
443
Sự phù du
của cuộc đời.
Chóng chết.
Dẫu chưa có
dấu hiệu nào sẽ chết.
Con ve kêu.
444
Ở Tanabata.
Đừng nhìn trộm.
Thậm chí cả khi
nhìn qua lá dâu.
Ánh sao.
445
Trong ngôi
nhà tranh gần mộ Kisô Yôshinaka,
lòng tôi cứ
nghĩ về nghĩa trang.
Ngày lễ Linh
Hồn.
Cả hôm nay
Lò thiêu xác
cũng có khói.
446
Con chuồn
chuồn
Mãi không đậu
được
Lên đầu ngọn
cỏ.
448
Unchiku,
một nhà sư ở Tôkyô, có vẽ bức tranh, chắc chân dung tự họa. Trong bức tranh là
một nhà sư khác đang ngoảnh mặt. Ông nhờ tôi viết lời chú, và tôi viết: “Ông đã
quá sáu mươi, còn tôi gần năm mươi. Cùng nhau trong giấc mơ, bản thân chúng ta
là những dạng khác nhau của giấc mơ. Còn đây, tôi xin bổ sung thêm lời của
người đã chết”:
Ngoảnh sang
hướng này,
Cả tôi cũng cô
đơn.
Đêm thu.
449
Nhổ tóc bạc
Dưới bóng cây
liễu.
Con dế.
450
Trăng mùa thu
hoạch.
Trẻ con xếp
hàng
Dọc theo bờ
hiên nhà chùa.
451
Ngắm trăng
ở một ngôi đền cổ.
Ngắm trăng.
Trong cả phòng
Không một
khuôn mặt đẹp.
452
Tại buổi
tiệc họa thơ đầu tiên ở nhà Mađisha.
Trăng sắp mọc.
Trong phòng
Trong phòng
Ai cũng đặt
tay lên đầu gối.
453
Một nhà sư
đức hạnh có lần từng nói: “Thiền hời hợt bề ngoài là cội rễ của những sai lầm
đưa ta xuống mộ”. Tôi đánh giá cao những lời này của ông.
Chớp,
Mà không sáng.
Lời nói hay.
454
Ở Katađa.
Con ngỗng ốm
Rơi trong đêm
giá lạnh...
Ngủ dọc đường.
455
Túp lều người
đánh cá.
Con dế
Lẫn với mớ tôm
nhỏ.
456
Đền Shôzui
ở Katađa.
Nhấm nhi trà
buổi sáng,
Mặt nhà sư
thanh thản.
Hoa cúc.
411
Tôi dừng
lại mấy ngày ở Awazu, nơi có một người rất thích trà đạo. Ông hái hoa cúc ở bãi
biển gần đấy rồi mời tôi đến uống trà.
Cả con bướm
Cũng đến nhâm
nhi bát dấm.
Món rau hoa
cúc.
457
Trên đường về nhà.
Những cơn mưa
đông đầu mùa.
Đủ để làm đen
xạm
Gốc rạ mới
cắt.
459
Con dế
Lơ đãng kêu.
Lò than.
460
Nhớ những
ngày xưa.
Trời giá lạnh.
Trên gốc cây
bị đốn
Vẫn mọc bông
hoa tím nhạt.
461
Gió đông.
Ai đó
Mặt sưng vì
đau răng.
462
Trên đường
hành hương.
Tuyết đầu mùa.
Màu trắng trên
chiếc túi
Sau lưng thầy
tế lang thang.
463
Đi trên
Đường Shinanô.
Tuyết rơi.
Sậy để làm
miếu thờ
Chưa cắt.
464
Chim choi choi
bay lên.
Đêm về khuya
Gió bão phía
núi Hiêi.
465
Trên đường.
Dọn nhà cuối
năm.
Gió bão
Thổi qua những
cây tùng.
466
Các nhà thơ
gặp nhau tiễn năm cũ.
Nửa ngày
Làm bạn với
thần linh.
Tiễn năm cũ.
467
Trong thời
gian ở kinh thành, đêm nào tôi cũng nghe tiếng gõ bát buồn buồn của người hành
hương đang khất thực.
Cá hồi khô.
Người hành
hương Kuya tiều tụy.
Độ sâu của mùa
đông.
468
Nghỉ một lát.
Tiếng thái hạt
đậu nành.
Tiếng gõ bát.
469
Rơi từ trên
cao
Xuống đá của
Núi Đá.
Mưa đá.
471
Trả lời một
yêu cầu của Jôkô Ajiyarri: Đẹp, thật đẹp! Chiếc mũ tre thật đẹp! Chiếc áo tơi
thật đẹp! Ai đã ban cho ta điều ấy? Ai đã vẽ bức tranh đẹp thế này, với tầm
nhìn hàng nghìn năm đang hiện ra ngay ở đây trước mặt chúng ta? Bây giờ, trong
tinh thần ấy, niềm vui chợt dâng lên trong tôi. Chiếc áo thật đẹp, chiếc mũ
thật đẹp...
Thật đẹp
Cả vào ngày
không tuyết.
Chiếc áo tơi
và mũ tre.
472
Cuối đông.
Không ai thấy
chim bói cá
Lặn sâu dưới
nước.
473
Viết ở nhà
mới của Ôtôkni.
Mua nhà
Rồi cho tôi
thuê.
Tiễn năm cũ.
475
Viết ở nhà
của Ôtôkuni.
Điểm dừng chân
Marikô.
Hoa mận, cây
xanh.
Cộng thêm cháo
khoai.
476
Đầu xuân ở
núi Iga.
Làng miền núi.
Vũ công Năm
Mới đến muộn.
Hoa mận.
477
Cùng nhau chờ
trăng mọc.
Chú tiểu có
nét mặt khổ hạnh
Tay cầm cành
mận.
478
Khốn khổ
Vì được chiều
và vì bột mạch?
Con mèo cái.
479
Năm này qua
năm khác
Làm phân bón
cho anh đào...
Hoa rụng.
481
Trong chốc lát
Treo lửng lơ
trên hoa...
Trăng đêm nay.
482
Già, lung lay,
Răng tôi cắn
phải cát,
Khi nhai rong
khô.
483
Thơ đề trên
tranh.
Những bông
hồng trên núi.
Các bếp đun
trà ở Uji
Tỏa mùi thơm.
484
Đêm đen.
Mất tổ,
Chim choi choi
kêu.
485
Những mắt đốt
sần sùi…
Số phận con
người
Giống cây tre.
486
Rừng trúc ở
Arashiyama
Rất dày.
Từng sợi gió
lách qua.
487
Gió trong rừng
thông.
Lách giữa
những tán lá
Khi trời cuối
thu.
488
Chim cu.
Ánh trăng
Chiếu qua rừng
trúc.
489
Ngập trong nỗi
buồn.
Hãy để ta cô
đơn,
Chim cu trong
núi.
490
Khẽ vỗ tay.
Ánh sáng hoàng
hôn vọng lại.
Trăng mùa hè.
491
Tuổi thơ tôi
Cũng thế...
Măng non.
492
Lá kiều mạch
Úa lụi vì nước
mắt.
Chim én khóc.
493
Từng ngày
Kiều mạch đỏ
rồi chín.
Chim én hót.
494
Bất tài.
Chỉ muốn ngủ.
Chim chích cãi
nhau.
495
Tiếc vì mai
phải rời Biệt thự “Cánh hồng vàng héo rụng”, tôi đi ngắm một lượt từ đầu đến
cuối tất cả các phòng.
Mưa hè.
Giấy dán thơ
rơi,
Để lại vết
trên tường.
496
Gói bánh
bao...
Một tay bà già
Sửa mái tóc
đang xõa.
497
Tháng Sáu.
Cái nóng hừng
hực
Từ người đang
sốt.
498
Đầu thu
Đầu thu.
Gấp màn muỗi
Làm cái trải
giường.
499
Mùa hoa dưa
Đang kỳ nở rộ.
Cây hải đường.
500
Gió thu lạnh.
Nhưng thật
xanh
Những chồi non
trên cây dẻ.
501
Trong chuồng
bò tối
Muỗi kêu vo
ve...
Dai dẳng cái
nóng mùa hè.
502
Tính chuyện
dựng căn nhà mới, Kuku
nhờ tôi
viết thơ về một bức tranh của Kenkô.
Sắc thu nhiều
màu.
Thậm chí
Không có cả
nồi cháo cám.
503
Cô đơn.
Con dế
Đu dưa trên
chiếc đinh.
505
Trăng mùa
thu hoạch.
Những muốn gõ
cổng
Đền Mii.
Trăng đêm nay.
506
Viết ở
Katađa, đêm mười sáu.
Mở chốt cửa
Để ánh trăng
lọt vào.
Ngôi đền đang
trôi.
507
Trăng trong
mây…
Vừa hăng hái
mọc lên,
Giờ do dự.
508
Trăng mười
sáu.
Trời tối chỉ
đủ
Nấu nồi tôm.
509
Be... be...
Con nai trong
đêm
Kêu thật buồn.
510
Mùa thu đang
qua.
Quả dẻ non
Mở rộng những
cánh tay.
511
Tôju lên
núi thăm tôi khi đang ở ẩn.
Tôi thết món
kiều mạch.
Giờ chúng đang
nở hoa.
Đường mòn trên
núi.
512
Rơm mới…
Chở về nhà
Cùng cơn mưa
đông đầu mùa.
513
Chim cút kêu.
Mắt đại bàng
Sẫm lại.
514
Lều cỏ.
Chập tối
Có người cho
tôi rượu cúc.
515
Chín lần tỉnh
giấc.
Vẫn trăng ấy.
Vẫn chưa sáng.
516
Nấm.
Một lá cây gì
đấy
Dính vào nó.
517
Dưới nồi mì
sợi
Lửa to dần.
Cái lạnh ban
đêm.
519
Sẩy gạo.
Niềm vui của
bà già.
Hoa cúc.
520
Năm Genrôku
thứ tư, tháng Mười, ở chỗ ông Riyu ở đền Menshô. Đã một trăm năm trôi qua kể từ
ngày đền này chuyển từ làng Hirata đến đây. Như được ghi trong sổ công đức,
“Trúc và cây xanh mọc dày, còn đất và đá thì bám đầy rêu phong cổ kính”. Quả là
nơi đáng kính và khiến cảm động bởi sự lâu đời của nó.
Hơi hướng cổ
xưa cả trăm năm.
Trong vườn này
Lá rụng
521
Thật tuyệt.
Chúng có làm
lóa mắt mình không?
Những chiếc lá
đỏ đang rụng.
522
Khen khu
vườn này.
Mưa đông đầu
mùa.
Được bố trí
tao nhã,
Khu vườn đang
sống lại.
526
Cây tỏi tây rễ
sâu
Lá bạc trắng.
Trời lạnh thế
đấy.
524
Tự vui ở
nhà Sensên.
Thỉnh thoảng,
buồn
Nhìn núi
Ibuki.
Ở ẩn mùa đông.
525
Thơ ngẫu
hứng viết trong biệt thự ông Kôsetsu.
Có thêm màu
mới nào không
Trên ngọn gió
khô héo?
Bông hoa nở
trái mùa.
526
Hoa thủy tiên.
Tờ giấy trắng.
Phản chiếu
nhau.
527
Màu của nó
Trắng hơn quả đào...
Hoa thủy tiên.
528
Viết ở nhà
Suganuma.
Chốn kinh
thành.
Lại thêm cái
rét này nữa.
Chỗ trú mùa
đông.
529
Viết ở nhà
Kôgêtsu.
Chờ tuyết rơi.
Khuôn mặt
những người nghiện rượu.
Vụt lóe chớp.
530
Gió đông thổi
Giữa những cây
tùng.
Đá trở nên
sắc.
531
Tôi đi lễ ở
đền Hôrai, tỉnh Mikawa. Trên đường trở về, bệnh cũ tái phát, và tôi ngủ qua đêm
ở một quán trọ sát chân núi.
Cầu Phật xin
chiếc giường ấm.
Giờ có
giường..
Ngủ dọc đường.
532
Giữa những
cơn mưa đông đầu mùa rơi đơn điệu, tôi tìm được chỗ nghỉ, hong khô quần áo bên
bếp lò và vuốt nước khỏi mặt. Chủ quán tiếp tôi ân cần, hồi lâu an ủi tôi về
nỗi vất vả của chuyến đi. Tối đến, tôi ngồi xuống trước đèn, lấy bút mực và bắt
đầu viết. Thấy thế, chủ quán thiết tha xin một bài thơ để kỷ niệm lần gặp gỡ
này.
Vào quán
Người ta hỏi
tên.
Những cơn mưa
đông đầu mùa.
533
Không nơi ở
cố định trên đời này, sáu bảy năm gần đây tôi luôn ngủ trên đường, lại thường
xuyên đau ốm. Không thể quên bạn bè và đệ tử của nhiều năm, cuối cùng tôi trở
lại Cao Nguyên Misashi. Hết ngày này đến ngày khác họ đến thăm căn lều cỏ tồi
tàn của tôi, và tôi đã viết bài thơ này đáp lại:
May còn sống.
Tuyết
Trên bông hoa
bìm bìm đang héo.
534
Thần thánh ra
đi.
Mọi cái tàn
hoang
Giữa những
chiếc lá chết.
535
Lá cây dong
Phơi mặt
Chịu cái lạnh
buổi sáng.
536
Ngỗng trời kêu
Trên ruộng lúa
ở Tôba.
Mưa gắt.
537
Tiếng dế kêu
Thấm sâu
Tận hang lợn
rừng.
539
Sát mép hiên
Con chim chích
Ỉa lên nồi
bánh gạo.
540
Quà tặng
lúc chia tay cho người lên đường đi về hướng Đông.
Tìm tôi ư?
Người cầm hoa
Và chiếc bát
khất thực.
541
Mèo động đực.
Khi xong,
Ánh trăng mờ
từ phòng ngủ.
542
Đi dạo
Vừa đi vừa
đếm.
Hết nhà này
đến nhà khác.
Đếm cả liễu và
mận.
543
“Giàu trăng
và hoa”: trước lều tôi có cây mận và cây anh đào. Cho đệ tử có Kikaku và
Ransetsu.
Trên hai tay
tôi
Là hoa anh đào
và hoa mận.
Chưa kể bánh
gạo.
544
Giỗ đầu ông
Fubôku: buổi họa thơ
Tiếng chim cu
Đang kêu.
Chiếc hộp cũ
đựng nghiên mực.
545
Tháng Sáu.
Đã có món cá
tráp,
Còn thêm món
cá voi muối dấm.
546
Họa thơ
theo đề tài “Những bông hoa dại trên đồng”.
Chúng làm tôi
quên
Cái nóng hoa
cẩm chướng mùa hè.
Những bông hoa
dại trên đồng.
547
Trăng lưỡi
liềm.
Mặt đất chìm
trong sương mù.
Hoa kiều mạch.
548
Về những
cây chuối bị đem trồng nơi khác.
Lá chuối
Vươn sát cột
nhà.
Trăng trên
lều.
549
Trăng mùa thu
hoạch.
Sóng lớn thủy
triều
Lên tận cổng
nhà tôi.
550
Dự tiệc ở
Fukagawa.
Rau xanh, rất
ngon
Giờ thêm món
nữa -
Ớt đỏ.
551
Gần cửa
sông Fukagawa, trăng soi vào chiếc thuyền
ở nơi gọi
là “Năm Cây Thông”.
Trước ngược dòng.
Nay xuôi dòng.
Luôn có trăng
làm bạn.
552
Cùng Tôkêi
ngắm cảnh đẹp Ônagizawa.
Hành hương
cùng mùa thu.
Những muốn
Đến tận sông
Kômatsu.
553
Thu sắp qua.
Vẫn còn cái
chưa mất…
Những quả quít
xanh.
554
Thơ viết
trong buổi vịnh thơ ở nhà Kyôriku, ngày Ba tháng Mười, năm Genrôku thứ năm.
Cả hôm nay
Nào tất cả
chúng ta cùng già.
Cơn mưa đầu
tiên của mùa đông.
555
Cá tráp muối.
Lạnh.
Kho chứa cá.
557
Than củi chất
đống.
Bóng khách
In lên tường.
558
Ngày 21
tháng Chín, ở nhà Shiôê Shayô.
Đêm thu
Bị đánh vỡ.
Buổi trò
chuyện thân tình.
559
Lòng tôi
Thư thản lạ
lùng.
Tháng Chạp.
560
Mồng một
Tết.
Hết năm này
đến năm khác,
Con khỉ
Mang chiếc mặt
nạ khỉ.
561
Chầm chậm,
Mùa xuân tự lộ
mình.
Trăng và hoa
mận.
562
Thơ viết
trên tranh chân dung Sư phụ Tôm.
Con cá trắng
Mở to đôi mắt
đen
Trong chiếc
lưới pháp luật.
564
Thơ từ biệt
nhà sư Sêngin.
Con sếu
Mắc chiếc áo
lông đen.
Hoa như mây.
565
Chim cu.
Tiếng kêu
Vang dài theo
dòng sông.
566
Hơn cả nghệ
thuật
Của gió và
trăng...
Hoa mẫu đơn.
569
Cành cây ba lá
đung đưa,
Không làm rụng
Những giọt
sương trắng.
570
Cây nấm đầu
tiên.
Thu mới chỉ
mấy ngày,
Sương đã rơi.
571
Mùa thu,
năm Genrôku thứ sáu: Chán tiếp khách,
tôi đóng
cổng nhà mình.
Bình minh rực
hồng.
Suốt ngày
Cổng nhà tôi
im ỉm.
573
Thương tiếc
cái chết của Matsukura Rantan.
Gió thu.
Thật buồn.
Chiếc gậy gỗ
dâu của tôi bị gãy.
574
Ngày Ba
tháng Chín, thăm mộ Matsukura Rantan.
Đêm thứ bảy,
trên mộ bác
Trăng mồng ba
chiếu sáng.
Bác biết
không?
575
Để tang
Tôjun.
Trăng lặn.
Những gì còn lại
Là bốn góc
chiếc bàn của ông.
576
Hoa cúc nở
Trong sân
người thợ đá,
Giữa các phiến
đá.
578
Năm Genrôku
thứ sáu, ngày mồng chín tháng đầu tiên mùa đông, thăm vườn cúc của Sôđô. Hội
hoa cúc được tổ chức hôm nay, ngày Chín tháng Mười, vì tháng Chín cúc chưa đâm
nụ. Như một bài thơ Trung Quốc đã viết: “Hội hoa cúc chỉ có lúc nào hoa cúc
nở”, nên là chuyện bình thường khi nhiều hội thế này bị hoãn. Do vậy dẫu đang
mùa đông, chúng tôi vẫn khích lệ nhau viết thơ về hoa cúc mùa thu.
Hương hoa cúc.
Chiếc đế giày
mòn vẹt
Chỏng chơ
trong vườn.
579
Hoa cúc mùa
đông.
Bụi cám từ lò
xay bên cạnh
Phủ lên chúng.
580
Hoa cúc mùa
đông.
Ngồi hâm rượu
gạo
Bên cửa sổ.
582
Họa thơ
theo đề tài “Thu hoạch cải củ”.
Chú bé
Ngồi trên yên
ngựa.
Mùa thu hoạch
cải củ.
583
Chiếc cầu
lớn qua sông Fukagawa mới xây được một nửa.
Tuyết đầu mùa
Rơi lên chiếc
cầu
Đang xây.
584
Ăn toàn rau
củ, tôi nói chuyện suốt ngày với các võ sĩ đạo samurai.
Các võ sĩ đạo
gặp nhau.
Câu chuyện của
họ
Hăng, gắt như
cải củ.
585
Ngày hai
mươi tháng Mười, thơ viết ngẫu hứng ở Fakagawa.
Thật thương
Những con
ngỗng
Của người bán
ngỗng.
586
Hội Êbisu.
Người bán dấm
Diện bộ đồ
diện nhất.
588
Còn sống,
Tất cả dính
thành một cục…
Ốc biển.
589
Ở nhà
Kêishi, vịnh thơ theo đề tài “Đi theo cậu bé dưới trăng”
Trăng trong.
Tôi đi theo
cậu bé.
Con cáo làm
giật mình.
590
Giữa hoa mận
ngát hương thơm
Mặt trời bỗng
hiện.
Đường mòn trên
núi.
591
Suy nghĩ
dọc đường
Mùa thu này
Sao mình cảm
thấy lạnh?
Con chim bay
vào mây.
592
Khi mận nở hoa
thơm.
Nghe hai tiếng
“trước đây”
Đã thấy buồn.
548
Ngày Phật lên
Niết Bàn.
Úp hai tay
nhăn nheo vào nhau.
Gió xào xạc
ngoài vườn hồng.
593
Mưa xuân
Từ mái nhà dột
Nhỏ từng giọt
xuống tổ kiến.
594
Cây liễu xanh
Úp mặt xuống
bùn.
Nước thủy
triều nông.
595
Mưa xuân.
Côn trùng bay
nhiều
Dọc bờ cỏ ven
đường.
596
Thơ gửi
Tôrin, mừng nhà mới
(cũng là
thơ đề trên bức tranh do tôi vẽ).
Giọt sương này
không lạnh.
Giọt mật
Trong hoa mẫu
đơn.
597
Bị cây chè che
khuất,
Người hái chè
nghe không
Tiếng chim cu?
599
Năm Genrôku
thứ bảy, tháng Năm, tôi lên đường đi Êđô,
gửi lại mấy
chữ này cho những người đi tiễn.
Những mầm non
lúa mạch
Chụm lại với
nhau cho vững.
Cúi chào từ
biệt.
600
Núi Phú Sĩ
Thật đặc biệt
Khi ngắm vào
tháng Năm.
601
Con chim
chích…
Trong rừng
trúc
Hót về tuổi
già của mình.
602
Mưa hè.
Con tằm bị
bệnh
Giữa cánh đồng
dâu.
603
Vào tỉnh
Suruga.
Trên đường
Suruga.
Cả hoa cam
Cũng có mùi lá
chè.
604
Ở Naôya,
Ôwari.
Trên cánh đồng
cuộc đời
Cày thửa ruộng
nhỏ
Hết tiến lại
lui.
605
Chở củi xong
Con ngựa quay
về.
Những thùng
rượu mừng cấy lúa.
606
Viết ở nhà
Yamêi.
Nhìn bức tranh
Đã thấy mát.
Những cây trúc
ở Saga.
607
Tháng Sáu.
Mây tụ
Trên đỉnh núi
Bão Giông.
608
Đẫm sương sớm
Bẩn và lạnh...
Quả dưa dính
bùn.
609
Viết ở nhà
Kyôkusui
Đêm hè.
Rạng sáng.
Ngổn ngang
thức ăn thừa trẻ con.
610
Khi ở nhà
Kyôkusui, chúng tôi chọn chủ đề “Cuộc sống nông thôn”.
Quạt lúa xong,
Chủ nhà làm
cơm ngon đãi khách.
Đêm trời mát.
611
Năm Genrôku
thứ bảy, ngày 21 tháng Sáu,
viết tại
nhà Bôkusetsu ở Ôtsu.
Mùa thu đến
gần.
Những trái tim
xích lại gần nhau.
Căn phòng bốn
chiếc chiếu rưỡi.
612
Ở nhà Hônma
Shumê, treo trên tường phía sau sân khấu kịch Nô là bức tranh vẽ bộ xương người
đang thổi sáo và đánh trống. Phải chăng cuộc sống con người cũng chẳng khác mấy
việc làm của bộ xương kia trên bức tranh? Trang Tử từng dùng chiếc sọ dừa làm
gối và ông đã không phân biệt được đâu là mơ, đâu là thật. Vâng, điều này khiến
ta nghĩ đến bản chất cuộc sống của mình.
Tia chớp
Xuyên qua mặt.
Hoa miscanthus.
613
Thật mát.
Ngủ trưa,
Lưng tựa
tường.
614
Lối mòn nhỏ.
Cỏ gai nở hoa
Dính đầy
sương.
615
Viết ở nhà
Yađô.
Tanabata...
Mùa thu thực
sự đã đến
Khi đêm buông.
616
Khi nghe
tin sư cô Jutêi qua đời.
Đừng nghĩ
Mình chẳng là
gì.
Ngày lễ Linh
Hồn.
617
Anh có thể đi.
Thiếu anh tôi cũng đủ cô đơn
Chiều thu này.
618
Viết trong
khi bị bệnh.
Dọc đường ốm.
Trong mơ tôi
lang thang
Giữa những
cánh đồng khô héo.
No comments:
Post a Comment