Tuesday, February 24, 2015

THƠ CHỮ HÁN -MẠC THIÊN TÍCH, NGUYỄN CƯ TRINH


MẠC THIÊN TÍCH

Tác giả: Năm sinh không rõ, mất 1780, tự Sĩ Lân. Năm 1736 được cử giữ chức Đô đốc trấn thủ Hà Tiên, một tướng có tài, đóng góp nhiều trong việc khai phá, bảo vệ vùng đất Hà Tiên. Ông tham gia Tao Đàn Chiêu Anh Các với tác phẩm chính là "Hà Tiên thập vịnh" gồm 320 bài tả 10 cảnh đẹp Hà Tiên do Mạc Thiên Tích xướng. Ông còn có "Minh bột di ngư" và nhiều tác phẩm khác.

Cảm hứng tản mạn

Bóng nắng trên cành hoa.
Chim hót, gió hiền hòa.
Ngày xuân dài, lều cỏ,
Vui cái thú ngâm nga.

Thơ làm trong thuyền ở dịch trạm Hoài Trạch

Trăng sáng, trời bao la.
Tuyết lạnh rơi như hoa.
Khách xa trên thuyền nhỏ
Đêm nào cũng nhớ nhà.

Chuông sớm chùa Tiêu

Sao đêm vương vãi sót trên trời.
Lẫn lộn cõi tiên với cõi người.
Thong thả báo tin ngày đã rạng,
Chuông chùa văng vẳng tựa đang rơi.
Lắng nghe, chim hạc giang đôi cánh.
Giật mình, con én liệng, chơi vơi.
Nhà nhà thức dậy, nghe chuông điểm.
Bất chợt tiếng gà rộn khắp nơi.

Trống đêm ở thành bên sông

Đầy trời gió thổi, cuộn mây đen.
Bên sông lạnh lẽo một bóng thuyền.
Một bức thành dài che bốn phía.
Trống canh chốc chốc lại vang rền.
Trống thức cho thành yên giấc ngủ,
Bảo vệ kinh đô, khắp mọi miền.
Tài sức xin đem thờ phụng Chúa,
Biên thùy đất Việt giữ bình yên.

Động đá mây phủ

Cao tới Ngân Hà ngọn núi xanh.
Sáng ngời trong động, ngọc long lanh.
Khói mây không hẹn mà lui tới.
Mặn tình, cây cối vẫn bao quanh.
Dầm dãi gió sương, hình sắc lạ.
Thay nhau năm tháng cứ luân hành.
Kết tụ tinh hoa trời lẫn đất,
Tỏa khắp thôn quê ngọn gió lành.

Cò đậu ở Châu Nham

Ráng chiều điểm xuyết cánh mây trôi.
Cò trắng bay nghiêng phía mé đồi.
Cây đứng trang nghiêm như dàn trận.
Gió lùa, tán lá rẽ làm đôi.
Như làn khói trắng, cò bay chậm,
Lúc lượn khe sâu, lúc bãi bồi.
Ngang dọc bốn phương rồi cũng chỉ
Quay về nương tựa chỗ này thôi.

Trăng sáng Đông Hồ

Khói mờ, mây tạnh, trời xanh quang.
Buổi chiều, vụng nhỏ, cảnh hồng hoang.
Sóng lặng, biển xanh, nhìn hút mắt.
Ánh trăng kỳ ảo, cảnh mơ màng.
Như biển, trời trong, không vết bẩn.
Biển trời hòa một rộng mênh mang.
Cá rồng đang quẫy, khoe vây bạc.
Lung linh trên dưới mảnh trăng vàng.

Sóng yên Nam Phố

Nước trời một dãi, sáng mênh mông.
Biển lặng, gió yên, vệt ráng hồng.
Sau mưa trời sạch như vừa rửa.
Khói chiều vài sợi dính trên không.
Triều dâng, thuyền cá đi ra biển,
Chở nặng trên mui mây bập bồng.
Rồng cá ẩn mình nơi đáy nước,
Êm đềm sóng ngậm ánh trăng trong.

Xóm nhỏ ở Mũi Nai

Gió thổi, nhà tranh tỉnh giấc nồng.
Quạ kêu, nhao nhác lượn trên không.
Cây xanh tỏa bóng che vườn cổ.
Cửa tím treo nghiêng vệt ráng hồng.
Bạn với hươu nai, lòng thanh thản,
Tháng ngày vui thú cạnh non sông.
Có người hỏi ai bên hàng xóm.
Văng vẳng đâu đây sáo mục đồng.

Làng chài Rạch Vược

Vệt nước xanh xanh ngậm nắng tà.
Làng chài Rạch Vược phía xa xa.
Gờn gợn sóng ngang, thuyền ghé bến.
Xếp thành hàng dọc, cò bay qua. 
Một chiếc áo tơi sương thấm lạnh.
Chèo khua mấy tiếng, ánh trăng nhòa.
Những muốn giúp đời mà chẳng thể,
Lòng buồn nhìn biển sóng bao la.

Thú câu nhàn nhã ở Lư Khê
            Bài một

Thuyền câu một lá, trời xanh quang.
Sông như lụa trắng, lưỡi câu vàng.
Dây tơ buông nhẹ, mồi đang đợi.
Cần câu thanh mảnh giữ nằm ngang.
Cầu vồng xanh đỏ treo lơ lững.
Gió lặng sau mưa, sóng dịu dàng.
Sẫm tối, dân chài về, sót lại
Chiếc thuyền đơn độc giữa mênh mang.

Thú câu nhàn nhã ở Lư Khê
            Bài hai

Trần truồng, trăng tắm dưới lòng khe.
Chuông chùa văng vẳng phía bờ tre.
Dưới trăng, nước lạnh như gương phẳng.
Một lưỡi câu buông, sóng bốn bề.
Muốn phó việc đời cho nước cuốn,
Chạnh lòng thương hộ cái le le.
Vô cảm, sương rơi vào chén rượu.
Thuyền nặng ánh trăng, chẳng muốn về.

Thú câu nhàn ở Lư Khê
            Bài ba

Mây vàng, trời thẳm, nước xanh trong.
Núi đá bên khe đứng chập chồng.
Lún phún mưa rơi, tà áo mỏng.
Khói nhạt, thuyền con đứng giữa dòng.
Cá đã cắn câu, tay kéo nặng.
Nhẹ cánh buồm nâu, nước bập bồng.
Câu cá để chơi mà chốc chốc,
Vẫn nhìn xuống giỏ - được nhiều không?


NGUYỄN CƯ TRINH

Tác giả: Sinh năm 1716, mất 1767, tự Lã Nghi, hiệu Đạm Am, người xã An Hòa, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế ngày nay. Năm 1740 thi đỗ Hương Cống, làm tri phủ Triệu Phong, rồi Tuần phủ Quảng Ngãi. Năm 1765 được thăng Lại bộ kiêm Tào vận sứ. Ông giỏi văn chương, sở trường về thơ, nổi tiếng chính trực và có tài. Tác phẩm có "Đạm Am thi tập", "Quảng Ngãi thập nhị cảnh", "Hà Tiên thập vịnh" v.v. Các bài dịch dưới đây họa những bài tả cảnh của Mạc  Thiên Tích trong nhóm Tao Đàn Chiêu Anh Các.

Chuông sớm chùa Tiêu

Sương mù ẩm ướt, gió lung lay.
Chuông chùa vọng tới, lách qua cây.
Tiếng chuông làm rụng chùm sao lạnh,
Sáng dần rừng núi, trắng dần mây.
Người người tỉnh mộng, trong chùa Phật,
Sư ngừng tâm niệm, sách rời tay.
Tội nghiệp cho sư luôn phải thức,
Đợi đánh chuông lên, báo rạng ngày.

Trống đêm ở thành bên sông

Bên sông sừng sững bức tường thành.
Dưới ánh trăng tà, rộn trống canh.
Như mưa khi tạnh, khi dồn dập,
Tiếng trống lúc ngừng, lúc gõ nhanh,
Làm cá đầm xa không ngủ được,
Làm chim rừng cạnh thức trên cành.
Ai biết nhờ nơi này đánh trống,
Kinh đô mới được ngủ yên lành?

Cò đậu ở Châu Nham

Núi xanh như biển, trời không mây.
Ai đưa cò trắng đến nơi này?
Buổi sáng lò dò đi bắt cá.
Chiều đậu cành thông đợi hết ngày,
Ngắm nhìn bình thản triều lên xuống,
Không so loài khác béo hay gầy.
Nực cười những kẻ giàu sang rởm,
Khinh cò thanh bạch sống nơi đây.

Trăng sáng Đông Hồ

Một bơi dưới nước, một trên cao,
Ai đúc hai trăng, tự lúc nào?
Nước nói ấy trời quen bắt chước,
Trời rằng nước chụp lại trong ao.
Trăng sáng, thuồng luồng chui xuống đáy.
Tưởng ngày, chim vỗ cánh xôn xao.
Chợt nhớ Đào Chu 1) xưa hết loạn,
Ra hồ uống rượu, ngắm trăng sao.

(1) Tức Phạm Lãi thời Xuân Thu Chiến Quốc, sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn đánh được Ngô, từ quan ra sống ẩn ở Ngũ Hồ, ngày nào cũng ngồi ngắm trăng, uống rượu.

Làng chài bên Rạch Vược

Làng chài yên ả đón trăng lên.
Thấp thoáng xa xa mấy chấm đèn.
Già chẳng quan tâm Tần hay Hán.
Trẻ toàn giao tiếp với khách quen.
Một lưới mà thâu toàn vũ trụ.
Đôi chèo vùng vẫy cõi vô biên.
Nghe nói thuồng luồng nay đã lớn,
Giúp làng đánh cá sống bình yên.

Xóm nhỏ ở Mũi Nai

Người thưa, gò vắng, sống yên lành.
Nhà nghèo chẳng sợ mất lều tranh.
Chè đặc, trái cây mời giữ khách.
Chốc nữa vợ về nấu cháo canh.
Đủ ấm, đủ no, khinh phú quý.
Ơn trời lúa tốt với cây xanh.
Được nhàn, lại chẳng lo tô thuế,
Để đời thanh thản cứ trôi nhanh.

Uống rượu đêm

Ngại ngồi thơ phú suốt đêm thâu,
Giữ bạn lại nhà uống với nhau.
Ngày ngắn kéo dài bằng thắp nến.
Chén rượu làm vơi bớt nỗi sầu.
Thời loạn, giấu mình trong ánh nguyệt,
Quên lời đơm đặt lẫn buồn đau.
Cũng chẳng lên rừng, cam ở ẩn.
Cuộc đời bèo bọt, đáng gì đâu.

No comments:

Post a Comment