2.500 BÀI THƠ CHỮ HÁN VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
In lần thứ ba
Nhà xuất bản LAO ĐỘNG - 2013
____________________
ĐÔI LỜI CỦA NGƯỜI DỊCH
Tôi là người hậu sinh, Tây học, kiến thức về
vốn cổ và tiếng Hán chưa đầy đủ. Tuy vậy, lòng đam mê thơ Đường luật chữ Hán đã
khiến tôi dịch tập thơ này, gồm hơn 2.500 bài của các tác giả Việt Nam và Trung
Quốc. Đây là lần in thứ ba, có bổ sung 500 bài mới dịch.
Vì yếu tiếng Hán cổ nên tôi phải tham khảo bản
dịch nghĩa của đồng nghiệp. Nhiều khi mấy bản cùng một lúc để bảo đảm hiểu
chính xác nội dung. Tuy nhiên, với tôi, nội dung mới chỉ một phần. Phần quan
trọng là cái hồn, cái tứ và nhạc điệu của bài thơ. Và nhiệm vụ quan trọng nhất
của tôi là phải chuyển được những cái ấy sang tiếng Việt hiện đại và nhuần
nhuyễn. Tôi nghĩ tôi đã làm được điều ấy.
Là người hiện đại dịch cho độc giả hiện đại,
tôi chủ trương không nhất thiết phải dịch các vế đối trong thơ, nhiều trường
hợp cố tình bỏ bớt các điển cố rườm rà. Cũng nhiều trường hợp không dịch mà
viết lại.
Bốn mươi năm dịch thuật, tôi nghĩ có lẽ đây là
tác phẩm quan trọng nhất, và cũng là đóng góp lớn nhất cho văn học nước nhà.
Nhân dịp này, lần nữa cảm ơn các dịch giả tiền
bối, các nhà biên soạn sách mà tôi đã tham khảo.
Hà Nội ngày 3 tháng Mười, 2013
THÁI BÁ TÂN
Phần Một
CÁC TÁC GIẢ VIỆT NAM
__________________
LÝ CÔNG UẨN
Tác giả:
Tức Lý Thái Tổ, vị vua khởi đầu nhà Lý, sinh năm 971, mất 1028, người châu Cổ
Pháp. Không có nhiều tài liệu về xuất thân của ông, chỉ biết mẹ họ Phạm và năm
lên ba ông là con nuôi của nhà sư Lý Khánh Văn, nổi tiếng thông minh, nhân ái
và có chí lớn lập nghiệp. Khi lên ngôi ông đặc biêt hâm mộ đạo Phật, chú trọng
việc đúc tượng, xây chùa. Thời tiền Lê ông làm đến chức Tả thân vệ điện tiền
chỉ huy sứ. Khi Lê Ngọa Triều mất, ông lên làm vua và quyết định dời đô ra
thành Đại La (năm 1009) với bài chiếu dời đô nổi tiếng.
Tức cảnh 1)
Trời làm chăn gối, đất làm nhà.
Mặt trăng bên cửa thức nhìn ta.
Đêm ngủ, mỏi chân không dám duỗi -
Sợ quên đạp đổ cả sơn hà.
1. Sách
Công Dư Tiệp Ký của Vũ Phương Đề kể lúc nhỏ Lý Công Uẩn hay nghịch, một hôm bị
thầy phạt, bắt nằm dưới đất. Đêm khuya muỗi không ngủ được, cậu liền tức cảnh
làm bài thơ này. Một số học giả cho rằng đây là một bài thơ của Trung Quốc, có
trong tập Anh Liệt truyện. Đầu đề do chúng tôi tạm đặt.
Khen thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu
Chi
Cụ mới đến đất Việt.
Nổi tiếng rất giỏi thiền.
Cửa Phật sớm mở rộng.
Lòng người chóng bình yên.
Lăng Già trăng sáng tỏa.
Bát Nhã ngát hương sen.
Mong sớm được gặp cụ
Cùng nhau bàn lẽ huyền.
ĐỖ PHÁP THUẬN
Tác giả:
Sinh năm 915, mất 990, không rõ tên thật và quê quán, là nhà thơ thế hệ thứ 10
dòng thiền Nam Phương, có kiến thức uyên bác, giỏi thơ văn, tích cực tham gia
phò nhà Tiền Lê, được vua Lê Đại Hành phong làm Pháp sư.
Trả lời nhà vua 1) hỏi về
ngôi nước
Ngôi nước như rồng cuốn.
Vua vô vi 2) anh minh.
Đất nước hết loạn lạc,
Nơi nơi hưởng thái bình.
(1) Tức
vua Lê Đại Hành.
(2)
Thuật ngữ trong sách Lão Tử, chỉ một thái độ sống thuận theo tự nhiên, không bị
ràng buộc vào khuôn phép đạo đức, ước lệ.
NGÔ CHÂN LƯU
Tác giả:
Tức Khuông Việt, sinh năm 933, mất 1011, người Cát Lợi, huyện Thường Lạc, nay
là Tĩnh Gia, Thanh Hóa, lúc nhỏ học đạo, lớn lên đi tu. Do nổi tiếng tinh thông
Thiền học nên được Đinh Tiên Hoàng ban cho hiệu là Khuông Việt đại sư.
Lý do có lửa
Trong gỗ luôn có lửa.
Vẫn thế bao đời nay.
Nếu gỗ không có lửa,
Sao cháy được thế này?
LÝ KIỀU ĐỨC
Tức Lý
Nhân Tông (1066 – 1128), con đầu vua Lý Thánh Tông, làm vua 55 nam, từ 1027 đến
1127, được xem là vị vua giỏi nhất triều Lý và có nhân đức.
Khen sư Vạn Hạnh
Vạn Hạnh giỏi ba đạo.
Lời nói hợp sấm thi.
Quê ở làng Cổ Pháp 1).
Một gậy giữ kinh kỳ.
1). Tên
một làng xưa ở Từ Sơn, gần Đình Bảng, Bắc Ninh ngày nay.
LÂM KHU
Tác giả:
Pháp danh là Huệ Sinh, năm sinh không rõ, mất 1063, người làng Đông Phù Liệt,
huyện Long Đàm, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, 19 tuổi đi tu. Ông từng trụ trì
nhiều nơi, được vua Lý Thái Tông yêu mến, phong đến chức Tả nhai đô tăng thống.
Trả lời Lý Thái Tông khi được
hỏi về tâm nguyện
Bài một
Vạn vật không mà có,
Có mà lại như không.
Khi hiểu được điều đó,
Người và Phật tương đồng.
Trả lời Lý Thái Tông khi được
hỏi về tâm nguyện
Bài hai
Lặng lẽ như trăng sáng.
Hư ảo giống con thuyền.
Hiểu được không và có,
Suốt đời sống bình yên.
VẠN HẠNH
Tác giả:
Không rõ năm sinh, mất 1018, họ Nguyễn, không lưu lại tên, Vạn Hạnh là pháp
danh, người làng Cổ Pháp, nay là Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông là thiền sư
lớn có công phát triển đạo Phật ở Việt Nam, xuất gia từ lúc 12 tuổi, từng giúp
Lê Đại Hành và Lý Thái Tổ trong bang giao chính sự.
Dạy bảo học trò
Đời như nháy mắt, có mà không.
Hết xuân rồi lại đến mùa đông.
Đừng quan tâm lắm đời suy, thịnh,
Vì đời bèo bọt, khói trên sông.
LÝ TRƯỜNG
Tác giả:
Nhà sư, pháp danh là Mãn Giác, sinh năm 1052, mất 1096, người đất Lũng Triền,
hương Cách An, nổi tiếng ham học, thông hiểu cả Nho lẫn Phật, nên được vua Lý
Nhân Tông yêu mến và cho vào hầu cận trong cung. Sau ông đi tu, trở thành một
nhân vật nổi tiếng trong thế hệ thứ tám dòng thiền Quang Bích.
Nói với mọi người lúc đang ốm 1)
Xuân đến, trăm hoa nở.
Xuân đi, trăm hoa tàn.
Tuổi già làm tóc bạc.
Đời trôi theo thời gian.
Đừng buồn hoa xuân rụng.
Mai nở ngoài lan can.
1. Đầu
đề này do Lê Quí Đôn thêm.
Cáo ốm, dặn dò các đệ tử
Hết xuân, hoa sẽ rụng.
Xuân sau lại đầy hoa.
Sự đời cứ luân chuyển.
Đầu bạc theo tuổi già.
Đừng nghĩ hết xuân hoa sẽ hết.
Nhìn kia, mai nở trước sân nhà.
LÝ THƯỜNG KIỆT
Tác giả:
Sinh năm 1019, mất 1105, anh hùng dân tộc, tên thật là Ngô Tuấn, Thường Kiệt là
tên tự, sau được ban quốc tính họ Lý, thành Lý Thường Kiệt; quê ở Thăng Long;
có tài thao lược, giỏi văn thơ; có công lớn trong việc xây dựng đất nước, đánh
Tống, bình Chiêm.
Núi sông nước Nam
Vua Nam cai trị nước Nam này.
Sách trời ghi rõ thế xưa nay.
Cớ sao ngoại giặc liều xâm phạm?
Ta quyết không dung lũ chúng mày!
LÝ NGỌC KIỀU
Tác giả:
Sinh năm 1041, mất 1113, người hương Phù Đổng, huyện Tiên Du, là con gái đầu
của Phụng Càn vương, được vua Lý Thánh Tông nuôi dạy trong cung. Cuối đời đi
tu, pháp danh là Ni sư Diệu nhân. Bà và Ỷ Lan phu nhân là hai nữ sĩ nổi tiếng
đời Lý. Ngoài bài thơ này còn lưu được một bài kệ nói về bốn nỗi khổ của kiếp
người.
Sinh lão bệnh tử 1)
Sinh lão và bệnh tử,
Vốn là điều tự nhiên.
Càng muốn thoát cho khỏi,
Càng bị trói chặt thêm.
Ngu muội mới cầu Phật,
Dại dột mới mong Thiền.
Chẳng cần Thiền, cần Phật,
Hãy tĩnh tâm ngồi yên.
1. Theo
quan niệm của nhà Phật, là bốn nỗi khổ trong đời người.
VẠN TRÌ BÁT
Tác giả:
Sinh 1049, mất 1117, không rõ tên thật là gì, người ở đất Lụy Châu nay thuộc
vùng Bắc Ninh. Đi tu từ lúc 20 tuổi. Cuối đời ông trụ trì ở chùa Tổ Phong, núi
Thạch Thất và mở trường dạy học ở đấy.
Có sinh ắt có tử
Có sinh, ắt có tử.
Có tử là có sinh.
Sống chết trời định sẵn,
Sướng khổ đều do mình.
Sự đời luôn thay đổi,
Buồn vui - bóng với hình.
Ai không lo sống chết,
Mới là người thông minh.
DƯƠNG KHÔNG LỘ
Tác giả:
Không rõ năm sinh, chỉ biết mất 1119, người hương Hải Thanh, nay thuộc tỉnh Hà
Nam, tổ tiên vốn làm nghề chài lưới, sau ông bỏ đi tu. Ông chuyên nghiên cứu về
Thiền Tông và Mật Tông, thường cùng Thiền sư Giác Hải du ngoạn những nơi danh
lam thắng cảnh.
Cái nhàn của dân chài
Sông xanh muôn dặm, trời muôn dặm.
Một xóm dâu gai, một xóm mây.
Ông chài ngủ quên, trưa tỉnh dậy,
Tuyết phủ trên ghe một lớp dày.
Nói chí mình
Dựng nhà nơi đất nhiều long mạch.
Thôn dã suốt ngày cứ nghỉ ngơi.
Khi hứng, tự mình lên đỉnh núi,
Kêu lên một tiếng, lạnh đất trời.
LÝ CÀN ĐỨC
Tác giả:
Tức Lý Nhân Tông, sinh năm 1066, mất 1128, là con trưởng của Lý Thánh Tông và Ỷ
Lan Phu nhân, lên ngôi năm 7 tuổi, làm vua 56 năm, được xem là ông vua nhân ái
và có tài.
Khen thiền sư Giác Hải và đạo
nhân Thông Huyền
Giác Hải lòng như biển.
Thông Huyền đạo rất huyền.
Thần thông và biến hóa,
Một Phật, một thần tiên.
HOÀNG VIÊN HỌC
Tác giả:
Sinh năm 1072, mất 1136, người đất Như Nguyệt, có lẽ nay là Bắc Giang, tu ở
chùa Đại An, thuộc huyện Tế Giang xưa, có nhiều học trò theo học.
Nghe tiếng chuông
Lục thức 1) làm ta vướng sự đời.
Cái dốt không cho thấy mặt trời.
Chuông chùa duy nhất làm ta tỉnh,
Xua cái vô minh 2), cả cái lười.
1. Thuật
ngữ đạo Phật, chỉ về sáu cảm giác, là thấy ở mắt, nghe ở tai, ngửi ở mũi, nếm ở
luỡi, cảm giác của thân thể về hiểu biết của ý thức.
2. Thuật
ngữ đạo Phật, chỉ cái tâm mờ tối.
ĐOÀN VĂN KHÂM
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất và thân thế sự nghiệp, chỉ biết làm tới chức Thượng
thư bộ Công dưới triều Lý Nhân Tông (1072-1128).
Tặng thiền sư Quảng Trí
Chống gậy lên cao, rũ bụi trần,
Để ngắm mây trời, ngắm sắc xuân.
Rất muốn mà không theo được Phật,
Vì áo quan trường trót vướng chân.
Viếng thiền sư Quảng Trí
Xa lánh kinh thành, sống thảnh thơi.
Một mình trên núi với hoa tươi.
Những muốn theo hầu mà chưa kịp,
Nay nghe sư cụ đã qua đời.
Mộ vắng không hoa, không chữ khắc.
Sân chùa buồn bã lá vàng rơi.
Đến chùa, âu cũng nguôi thương xót,
Khi thấy non sông gợi nhớ người.
Viếng thiền sư Chân Không
Nổi danh ngoài nội lẫn trong triều.
Người đến tầm sư học đạo nhiều.
Chợt gẫy nhà nhân 1) cây trí tuệ,
Rừng thiền bỗng chốc cột thông xiêu.
Sông núi như in hình chủ cũ.
Mộ bên tháp mới, cỏ tiêu điều.
Cửa chùa vắng vẻ, không ai gõ.
Khách nghe buồn bã tiếng chuông chiều.
1. Cũng
giống như rừng thiền, chỉ giới tăng sư đạo tử. Vì Phật từ bi nhân ái nên tác
giả dùng hình tượng nhà nhân.
LÊ THƯỚC
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, người châu Phong, cả nhà ông đều làm quan to dưới
triều nhà Lý. Ông theo học sư Giới Không rồi cắt tóc đi tu ở núi Từ Sơn trong
sáu năm và trở thành người đứng đầu thế hệ thứ mười sáu dòng thiền Nam Phương.
Nhiều lần được mời ra làm quan nhưng ông đều từ chối.
Thưa với thái úy Tô Hiến
Thành
và thái bảo Ngô Hoàng Nghĩa
Ấp ủ từ lâu thoát cõi đời,
Nghe lời huyền diệu, đã theo lời.
Lánh xa ham muốn, xua tà ác,
Niệm Phật, tụng kinh, sống cõi trời.
Lặng lẽ, hồn nhiên
(Lược dịch)
Lo tu thân, tích đức.
Sống lặng lẽ, hồn nhiên.
Hư vô như cái bóng,
Không để lại vết đen.
Nói, chỉ lời tốt đẹp.
Làm, chuyên làm việc thiền.
KIỀU BẢN TĨNH
Tác giả:
Sinh năm 1100, mất 1176, người hương Phú Điền, quận Vĩnh Khang, từng theo học
với nhà sư Mãn Giác ở chùa Giáo Nguyện, tinh thông cả Nho lẫn Phật. Năm 1141
ông tu ở Chí Linh, sau đến chùa Càn An trong thành Thăng Long. Cùng với Bảo
Giám và Không Lộ, ông làm thành thế hệ thứ chín dòng Thiền Quang.
Soi gương
Chỉ là cái bóng, tấm thân này,
Như bóng trong gương cầm trên tay.
Là bóng nghĩa là không có thực.
Thân để lộ mình mà chẳng hay.
KIỀU TRI HUYỀN
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết sống cùng thời và là bạn của Từ Đạo Hạnh.
Bản thân ông cũng là một thiền sư.
Trả lời Từ Đạo Hạnh khi được
hỏi về chân tâm
Cái thiền, cái đẹp, cả lời ca,
Đều từ tay mắt Phật mà ra.
Cả vũ trụ này đâu cũng Phật.
Sao lầm, cứ tưởng Phật đâu xa?
TỪ LỘ
Tác giả:
Tức Từ Đạo Hạnh, không rõ nơi sinh, năm sinh, mất 1117. Ông là nhà sư thế hệ
thứ 12 dòng thiền Nam Phương, tu ở chùa Thiên Phúc trên núi Phật Tích, châu
Quốc Oai, nay là huyện Quốc Oai, Hà Tây.
Có và không
Có, từ hạt bụi nhỏ.
Không, cái gì cũng không.
Như hình trăng dưới nước,
Có, mà thực tình không.
Lời nhắn nhủ học trò trước
khi chết
Thu về không báo nhạn cùng bay.
Cớ sao quyến luyến cõi đời này?
Môn đệ đừng buồn ta sắp mất:
Thầy xưa chết để hóa thầy nay.
KIỀU PHÙ
Tác giả:
Tức Bảo Giám, không rõ năm sinh, mất 1173, người huyện Trung Thụy, đời Lý Anh
Tông, làm quan đến chức Hậu xá nhân, năm 30 tuổi từ quan, đến tu ở chùa Bảo
Phúc, nay thuộc tỉnh Hòa Bình, sau ông trụ trì chùa này.
Cảm hoài
Bài
một
Mấy ai thành Phật nhờ đi tu,
Khi trí thông minh bị hãm tù.
Phải thấy huyền vi trong ngọc sáng,
Như thấy vầng dương giữa khói mù.
Cảm hoài
Bài
hai
Trí tuệ như trăng, sáng giữa trời,
Bao trùm thiên hạ, chiếu muôn nơi.
Muốn tìm được nó, đừng phân biệt
Cả rừng phong hoặc lá phong rơi.
ÂU ĐẠO HỤÊ
Tác giả:
Không rõ năm sinh, mất 1173, người Chân Hộ, đất Như Nguyệt, là nhà sư có tiếng
đời Lý. Năm 15 tuổi theo học thiền sư Ngô Pháp Hoa ở chùa Phổ Ninh, sau đến trụ
trì tại chùa Quang Minh, núi Thiên Phúc, huyện Tiên Du, trở thành người đứng
đầu thế hệ thứ 9 dòng thiền Quan Bích, có lúc có hơn mười nghìn học trò.
Sắc thân và diệu thể 1)
Đất, nước, lửa, gió, thức
Vốn dĩ đều là không.
Khác mây tan và hợp,
Lòng Phật sáng vô song.
1. C¸i th©n cã s¾c tướng vµ c¸i thÓ cã vi diÖu.
KHUYẾT DANH
Ngẫm sự đời
Gió lùa, trăng lạnh, nước mênh mông,
Áo ấm đêm khuya vẫn buốt lòng.
Thời gian thấm thoắt trôi, già lão,
Mà việc không thành, ai biết không?
HỨA ĐẠI XÃ
Tác giả:
Sinh năm 1119, mất 1180, quê ở Thăng
Long, lúc nhỏ theo học thiền sư Đạo Huệ, được vua Lý Anh Tông rất tin dùng.
Ngựa đá 1)
Ngựa đá răng thật dữ,
Lại hý suốt đêm ngày.
Đường lắm người qua lại,
Người cưỡi vẫn ngồi ngay.
1. Chỉ ngựa đá Thanh Gióng. Có lẽ đây là bài
thơ đầu tiên viết về tượng Thánh Gióng, nay không còn nữa.
TÔ MINH TRÍ
Tác giả:
Không rõ năm sinh, mất năm 1196, người đất Phù Cầm, là nhà sư thuộc thế hệ thứ
mười dòng thiền Quan Bích, trụ trì ở chùa Phúc Thành, sau theo học thượng sĩ
Đạo Huệ. Do tinh thông Viên Giác, Nhân Vương và Pháp Hoa nên được Đạo Huệ cho
đổi giáp hiệu thành Minh Trí.
Đừng uổng công tìm kiếm
Gió trên trời, trăng dưới nước,
Không có bóng, không có hình.
Sắc thân ta cũng giống vậy,
Đừng tìm kiếm, uổng sức mình.
NGUYỄN QUẢNG NGHIÊM
Tác giả:
Sinh năm 1121, mất 1190, người đất Đan Phượng, là nhà sư thuộc thế hệ thứ 11
dòng thiền Quan Bích, trụ trì các chùa Phúc Thánh và Tịnh Quả.
Đừng theo bước Như Lai
Chỉ người thoát tục, sống vô vi,
Mới bàn sống chết, chuyện từ bi.
Thời trẻ không nên theo đức Phật,
Làm trai phải có chí nam nhi.
PHẠM THƯỜNG CHIẾU
Tác giả:
Năm sinh không rõ, mất năm 1203, người hương Phù Ninh, đời Lý Cao Tông làm tới
chức lệnh đô tào ở cung Quảng Từ, sau bỏ quan đi tu, theo học thiền sư Quảng
Nghiêm ở chùa Tịnh Quả, rồi trụ trì chùa Lục Tổ, lập thành thế hệ thứ mười hai
dòng thiền Quan Bích.
Tâm
Thân tồn tại giữa đời.
Tâm là tim Đức Phật,
Luôn chiếu sáng khắp nơi,
Nhưng tìm thì khó nhất.
Đạo
Đạo vốn không màu sắc,
Nhưng hiện diện khắp nơi.
Không đâu không có đạo,
Cả ba nghìn cõi trời.
CHU HẢI NGUNG
Tác giả:
Pháp danh là Tịnh Giới, năm sinh không rõ, mất năm 1207, người Giang Mão, xuất
thân nghèo khổ. Lúc nhỏ học Nho, năm hai mươi sáu tuổi đi tu ở chùa Quốc Thanh.
Theo truyền thuyết ông là người giỏi cầu mưa gọi nắng, từng nhiều lần giúp nhà
Lý cứu hạn rất hiệu nghiệm nên được triều đình trọng vọng và vua Lý Cao Tông
nhiều lần mời vào cung bàn về đạo Phật.
Ít tri âm
Bài
một
Ngày nay bàn đạo ít tri âm,
Bởi đạo bây giờ đã mất tâm.
Cũng giống Bá Nha không đàn nữa,
Vì người nghe nhạc điếc và câm.
Ít tri âm
Bài
hai
Trăng sáng, mùa thu, lòng chợt hứng,
Thi nhân cao giọng, cứ ca ngâm.
Làng Thiền lắm kẻ ngô nghê thật -
Sao dùng ngôn ngữ để truyền tâm?
NGUYỄN Y SƠN
Tác giả:
Sinh năm 1121, mất 1213, người hương Cẩm, châu Nghệ An, là học trò của sư Viên
Thông ở Kinh Đô. Ông tu ở chùa Đại Từ, lập thành thế hệ thứ mười chín dòng
thiền Nam Phương.
Giác ngộ
Khi Như Lai giác ngộ,
Mọi vật đều như nhau.
Mọi cái cong thành thẳng.
Mắt trẻ thơ nhiệm màu.
Biến hóa và chuyển vận
Chân thân 1) thành hiện tượng.
Hiện tượng là chân thân.
Như trăng làm quế đỏ,
Quế là trăng một phần.
1. Chân thân là thân thể thực. Theo quan niệm
của nhà Phật, đó là cái thân trường cửu, bất sinh bất diệt, tức là bản thể. Còn
thân thể người ta và vạn vật chỉ là giả thân, tức là hiện tượng.
LÊ THUẦN
Tác giả:
Pháp danh là Hiện Quang, năm sinh không rõ, mất năm 1221, người thành Thăng
Long, đi tu ở chùa Yên Tử, châu Đông Triều, năm mười một tuổi đã là đồ đệ của
thiền sư Thường Chiếu. Lớn lên, ông theo học các thiền sư Trí Thông và Pháp
Giới, về sau nổi tiếng trong thế hệ thứ mười bốn dòng thiền Quan Bích. Vua Lý
Huệ Tông từng cho người đưa lễ vật mời nhiều lần nhưng ông tìm cách từ chối.
Trả lời một tăng đồ
Đời người sống được mấy?
Hãy bắt chước Hứa Do 1),
Sống vô vi, phóng khoáng,
Tự tại và tự do.
1. Một ẩn sĩ đời vua Nghiêu Vua đem thiên hạ
nhường cho nhưng ông không nhận.
TRẦN CẢNH
Tác giả:
Tức Trần Thái Tông, sinh năm 1218, mất 1277, con thứ của Trần Thừa; là ông vua
đầu tiên của nhà Trần, có công trong việc ổn định và đưa xã hội Việt Nam bước
dần vào giai đoạn thịnh vượng; trực tiếp lãnh đạo và chiến thắng quân Nguyên
lần thứ nhất. Ông đặt nền móng cho chế độ thi cử và mở mang việc học ở Việt
Nam.
Kệ dâng hương
Chiên đàn 1) vun xới nơi vườn Tuệ, 2)
Hương thơm trầm thủy chốn rừng Thiền.
Dao từ bi vót hình cây nhọn,
Đốt lò hương nhỏ, kính dâng lên.
1. Tªn mét lo¹i gç
th¬m.
2. Vuên trÝ thøc.
Kệ dâng hoa
Đất Tâm rộng mở, cõi nhân gian,
Muôn màu hoa nở, nước bình an.
Xin dâng lên Phật hoa trăm đóa,
Gió ác nghìn thu chẳng héo tàn.
Chí tâm khuyến thỉnh
Kính lạy mười phương, tam thế Phật 1)
Cầu xin Bồ Tát, bậc ân hiền,
Mở lòng từ bi như trời biển,
Đưa mọi chúng sinh sang cõi thiền.
1. Mười phương Đại Giác, tức Đức Phật. Tam thế
Hùng sư, cũng là Phật tổ với tam thế là quá khứ, hiện tại và tương lai.
Chí tâm tùy hỉ 1)
Ta nay theo Phật, lòng hoan hỉ,
Thành kính cầu kinh chữa lỗi lầm.
Mong sớm được lên thang thập địa 2)
Một lòng tu luyện, giữ chân tâm.
1. Tùy hỉ, thuật ngữ đạo Phật, chỉ việc thấy
người làm việc thiện thì theo đó mà làm. Cũng có nghĩa đi vãn cảnh chùa, tùy
khả năng mình mà làm việc thiện.
1. Thuật ngữ đạo Phật, là nơi có thể sinh ra
công đức, và vì có mười bậc nên gọi thập địa.
Chí tâm hồi hướng
Chúng con tâm nguyện theo chư Phật,
Rập đầu cầu khẩn đức cao xanh,
Mong được nay mai thành chính giác 1)
Nhờ ơn mưa móc Phật lòng lành.
1. Thuật ngữ nhà Phật, có nghĩa là giác ngộ,
hiểu biết tất cả.
Văn răn ham sắc
Da phấn, tóc thơm với má đào,
Khi nhìn, ai cũng thấy nao nao.
Thực chất chỉ toàn xương với thịt,
Giết người đau đớn chẳng cần dao.
Văn răn nói càn
Khoa môi, múa mép, giả ân cần,
Cúi đầu xu nịnh để xin ăn.
Mang tiếng tiểu nhân, đời giễu cợt,
Cuối cùng cũng chuốc vạ vào thân.
Văn răn kẻ uống rượu
Chẳng qua bã gạo ủ lên men,
Mà biến người ngay thành kẻ hèn.
Nhà tan nước mất đều do rượu,
Phá cả tôn nghiêm chốn cửa thiền.
Gửi nhà sư Đức Sơn ở am Thanh
Phong
Gió thổi, trăng khuya rụng trước thềm.
Cảnh vật, lòng người đều tĩnh êm.
Bao nhiêu cái thú không ai biết,
Cứ để sư nằm, vui suốt đêm.
Đường tới kinh đô 1)
Dọc đường cột ngựa giữa rừng cây.
Đường tới kinh đô qua lối này.
Đêm vắng, người thưa, trăng chiếu lạnh,
Hắt những hình tròn sáng, lung lay.
1. Trích "Phổ tuyết tứ sơn". Đầu đề
do chúng tôi thêm
Kệ khuyên răn lúc hoàng hôn
Hoàng hôn, mặt trời lặn
Sau dãy núi xa xa.
Thời gian trôi, khó giữ.
Người trẻ rồi cũng già.
Ai cưỡng được cái chết
Không cho đến tìm ta?
Vậy hãy lo tâm niệm,
Để xa lánh ma tà.
Kệ khuyên răn lúc giờ Dần 1)
Vầng đông bắt đầu rạng,
Mặt đất đang sáng dần.
Muôn màu khoe sặc sỡ,
Khiến xúc động lòng trần.
Hãy ngẩng đầu đang cúi,
Chớ tham chiều xác thân.
Chăm chỉ sáu khóa niệm 1)
May được hợp cơ chân.
1. Tức từ 3 đến 5 giờ sáng.
2. Tụng kinh lễ Phật qui định sáu thì trong
một ngày đêm.
Kệ về lẽ vô thường 1)
Bài
một
Sáng dậy, mặt trời mọc phía đông.
Lát sau đã thấy đứng trên không.
Mà người như thể đang mê ngủ,
Không hay vạn vật vẫn xoay vòng.
Hoa nở rồi tàn, hoa lại nở.
Sự đời suy thịnh, có mà không.
Sao chẳng tĩnh tâm ngồi suy nghĩ,
Tự mình gây khổ, cứ long đong?
1. Thuật ngữ đạo Phật, cho rằng vạn vật trong
thế giới luôn vận động theo chu trình sinh ra, lớn lên và huỷ diệt.
Kệ về lẽ vô thường
Bài
hai
Nắng tắt, hết ngày lại đến đêm.
Đã tối, đường đời càng tối thêm.
Nhà mình đèn có mà không thắp,
Lại nhờ ánh sáng của nhà bên.
Sau núi mặt trời chưa kịp lặn.
Bên hồ trăng sáng đã nhô lên.
Sống chết luân hoàn, đời đã vậy,
Sao không niệm Phật, sớm quy thiền?
Kệ về lẽ vô thường
Bài
ba
Trống canh giục khách tỉnh giấc nồng.
Chuông Phật nhắc người luyện đức công,
Mà người vẫn ngủ, quay về Bắc,
Mặc kệ mặt trời mọc phía Đông.
Dằng dặc đêm dài rồi cũng hết.
Đêm đời tăm tối, dốt thì không.
Nếu không nhanh chóng lo hành đạo,
Ngày nào mới gặp được Hoàng Công? 1)
(1) Tøc Hoµng DiÖn
C«ng, «ng mÆt vµng, nguyªn ®Ó chØ L•o Tö, như¬ng ë ®©y ý nãi ®øc PhËt tæ.
Kệ vô thường lúc bảy giờ 1)
Mặt trời hồng gác núi.
Đừng luyến tiếc nắng tà.
Mặt trời mọc rồi lặn.
Ta trẻ rồi ta già.
Tấm thân chìm lại nổi,
Khôn dại có sao mà.
Ai tránh khỏi hạn lớn? 2)
Đừng tìm cách lánh xa.
Hãy tu hành chính đạo,
Không lạc vào rừng tà.
1. Bài này khi dịch có lược bỏ hai câu.
2. Tức cái chết.
Kệ về tám nỗi khổ 1)
Lúc sinh yếu ớt, nhiều lo lắng.
Già bảy tám mươi, khổ điếc, lòa.
Không may có bệnh, thân đau đớn.
Chết xuống ba đường 2), dễ ác tà.
Khổ vì oán ghét mà chung sống.
Khổ cả khi yêu mà cách xa.
Cầu xin không được, càng thêm khổ.
Ngũ uẩn tranh dành, nghĩ xót xa.
1. Tám nỗi khổ theo đạo Phật là: Sinh khổ (nỗi
khổ vì sinh ra), lão khổ (già cả ốm yểu, mắt mờ tai điếc), bệnh khổ (do đau
yếu, bệnh tật), tử khổ (sắp chết phải đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần), tăng
hiềm hội khổ (thù ghét nhau mà vẫn phải gần gũi, chung sống), ái biệt ly khổ
(yêu thương mà phải xa cách, lo lắng), cầu bất đắc khổ (mong muốn, ước ao mà
chẳng được toại nguyện) và cuối cùng là xí thịnh khổ, hay còn gọi là ngũ uẩn
(con người được hợp thành từ ngũ uẩn là sắc, thụ, tưởng, hành, thức, một trong
năm thứ ấy hoặc cả năm mà “bốc cháy” lên thì sẽ gây khổ. Hay nói cách khác, xí
thịnh khổ là ham muốn mãnh liệt nhưng không đạt được.
2. Ba đường là tam đồ, tức hỏa đồ (đường địa
ngục thiêu đốt), huyết đồ (đường súc sinh, luôn cắn xé nhau), và đao đồ (đường
quỉ đói, luôn bị đao kiếm đe dọa).
Kệ về lẽ vô thường
Sáo trời 1) không còn thổi.
Trống đã điểm cánh ba.
Tử qui kêu da diết,
Còn mộng bướm bay ra. 2)
Phải trông trăng để dậy,
Đừng quyến luyến cùng hoa.
Giấc ngủ thừa, đừng tiếc
Nơi nghìn dặm xa nhà.
Không biết thân hư ảo,
Để năm tháng trôi qua.
1. Những âm thanh tự nhiên như tiếng gió thổi
vào hang, tiếng reo của cây lá…
2. Điển tích theo sách Trang Tử: Trang Chu năm
mơ thấy mình hóa thành bướm, hay bướm hóa thành Trang Chu, ngụ về sự hư ảo
của cuộc đời.
Tiễn sứ bắc Trương Hiển Khanh
Thẹn không ngọc tặng lúc chia tay.
Bùi ngùi sông núi giữa chiều mây.
Trước ngựa, gió thu ve vuốt kiếm.
Thư phòng trăng dọi, trướng lung lay.
Người Nam khó giữ chim phương Bắc.
Đất lành lưu luyến cánh chim bay.
Chưa biết bao giờ mong gặp lại,
Nhân khi tiễn biệt, tặng thơ này.
Kiếp người 1)
Kiếp người - bọt sóng biển mênh mông.
Sống chết tại thiên, chớ bận lòng.
Nắng đẹp bình minh, chiều xạm tối.
Mùa xuân lá mọc, héo mùa đông.
Lã Vọng, Phan Lang đều chết cả.
Thiên nhiên vạn vật cứ xoay vòng.
Kiếp đời đã vậy, đừng than vãn.
Về tây nắng ngả, nước về đông.
1. Đây là bài kệ trích trong "Phật tuyết
tứ Sơn " Đầu đề do chúng tôi tạm đặt.
Về bệnh tật 1)
Âm dương, công tội cứ xoay vần.
Bể đời vì thế lắm gian truân.
Nhưng đã có thân thì có bệnh.
Bằng không có bệnh, ắt không thân.
Thuốc quý trường sinh không thể có.
Chẳng gì níu giữ tuổi thanh xuân.
Cái chính - tu
thân, xa quỷ dữ,
Hàng ngày tâm niệm, hướng thiên chân. 2)
1. Một bài kệ khác trích trong "Phổ tuyết
tứ sơn"
2. Vốn chữ của Đạo Lão. Theo quan niệm nhà
Phật, tất cả chúng sinh đều có đủ tính toàn thiện, toàn mỹ, có điều cần phải
luôn trau dồi và hư¬ớng tới.
Đêm mưa bão 1)
Bỗng trời nổi gió, bụi tung bay.
Ông chài say tít, mặc thuyền xoay.
Một dãy núi đồi vang tiếng sấm.
Chân trời bốn phía mịt mù mây.
Sầm sập mưa rơi như thác đổ.
Thi nhau ánh chớp xé đêm dày.
Bất chợt bão tan, trời lại tạnh.
Trăng sáng ngoài thềm - canh mấy đây?
1. Trích "Phổ tuyết tứ sơn".
TRẦN TUNG
Tác giả:
Tức Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm 1230, mất 1291, con trai Trần Liễu, anh ruột
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, trực tiếp cầm quân chống giặc Nguyên. Ông tu
Phật mà không hề xuất gia, từng theo học thiền sư Tiêu Dao. Ông rất ham mê văn
thơ, các sáng tác được tập hợp trong bộ "Thượng Sĩ Ngữ lục”.
Cái tâm
Cái tâm không tướng, chẳng hình hài.
Thấy nó mắt thường dễ mấy ai?
Muốn biết cái tâm cho thật rõ,
Từ chiều cứ ngủ đến canh hai.
Thơ đề ở chùa
Vừa đến cổng chùa, vội phóng tay
Đơn sơ nguệch ngoạc mấy câu này.
Kể đã khá lâu không cầm bút,
Ba giới Như Lai 1) cũng chẳng hay.
1. Ba giới của Như Lai, là dục giới, sắc giới, và vô sắc giới.
Nhắn nhủ mọi người
Thế gian ưa dối, không ưa thật.
Nhưng thật dối gì, đều bụi đất.
Muốn sang tới được bờ bên kia, 1)
Hãy hỏi trẻ con chơi trước mặt.
1. Bê bªn kia (bØ
ng¹n), thuËt ng÷ cña ®¹o PhËt, chØ c¸i ®Ých cña ng¬ưêi tu hµnh.
Gợi bảo những người tu Tây
Phương 1)
Phật ở trong lòng mỗi chúng ta.
Bốn phương thân pháp 2) chỉ bao la.
Trong veo bể Phật, đêm thu lắng.
Trời khuya đơn độc mảnh trăng tà.
1. Tức nước Thiên Trúc; tu Tây Phương nghĩa là tu Phật.
2. Thuật ngữ của đạo Phật, chỉ sắc thân của
chúng sinh.
Nuôi dưỡng chân tính
Ốm yếu thân này cũng chẳng sao.
Chẳng so địa vị thấp hay cao.
Nuôi dưỡng tinh thần là núi biếc,
Là cây, là biển sóng tuôn trào.
Thoát khỏi bụi trần
Ham muốn từng làm khổ cái thân,
Nay Phật giúp ta thoát bụi trần.
Vươn tới bên kia, lòng nhẹ nhõm,
Gột rửa một lần, thoát một lần.
Thoát tục
Một cái vươn vai, thoát khỏi lồng.
Bất ngờ mọi sự hóa hư không.
Ba giới bao la, lòng sáng tỏ.
Trăng lặn đằng tây, mọc đằng đông.
Thăm bệnh đại sư Phúc Đường
Gió thổi, nước sông thành sóng lớn.
Củi khô gặp lửa cháy bùng lên.
Mới hay tứ đại 1) là hư ảo.
Kiếm Các 2) núi cao cứ phải men.
1. Tứ đại theo đạo Phật là đất, nước, lửa và
gió, bốn yếu tố tạo nên mọi vật.
2. Tên một ngọn núi hiểm trở phía bắc huyện
Kiếm Các, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Tác giả mượn hình ảnh này để nói về con
đường gian khổ đi tới cửa Phật.
Thăm đại sư Tăng Điền
Cũng thế lều tranh với gác lầu.
Để sống, chỗ nào chẳng giống nhau.
Người đời thấy núi cao và đẹp,
Mấy người nghe tiếng vượn khe sâu?
Chợt hứng làm thơ
Thanh thản ngồi yên chính giữa nhà,
Nhìn Côn Luân khói gợn xa xa.
Lúc mệt, thảnh thơi, tâm tự tắt,
Không thiền, không Phật, chỉ mình ta.
Cây tùng dưới khe
Cao thẳng, cây tùng mọc dưới khe,
Ở nơi vắng vẻ, núi bao che.
Chưa làm rường cột, không gì lạ,
Cỏ dại, dây leo mọc bốn bề.
Vui thú giang hồ
Con thuyền nho nhỏ lướt trên sông.
Ghếch lái, buông chèo chỗ uốn cong.
Chợt nghe tiếng nhạn kêu đâu đó.
Gió thu như đã thổi qua lòng.
Thời tiết yên định
Đừng hỏi tử sinh, kẻo phí lời.
Thời tiết "nhân duyên" vốn tại trời.
Mây núi nào không bay cạnh núi,
Sóng nào chẳng vỗ chốn xa khơi.
Hoa nở tháng Ba, luôn vẫn vậy.
Gà gáy canh năm đánh thức người.
Cái đạo, cái tâm ai thấu hiểu,
Mới biết phù du sống ở đời.
Cuộc đời hư ảo
Hư ảo cuộc đời, như gió sương.
Giấc mộng Nam Kha 1), ấy lẽ thường.
Sen đã đâm bông, hè mới đến.
Chớm xuân, mai nở đẹp bên đường.
Sông chảy về đông, không chảy ngược.
Trăng lặn về tây, chỉ một phương.
Hãy xem đàn én lầu Vương Tạ 2),
Giờ sang bay lượn xóm dân thường.
1. Sách Nam Kha kể chuyện Thuần Vu Phần ngủ
trưa dưới gốc cây hòe, mơ thấy mình đến nước nọ làm thái thú quận Nam Kha hai
mươi năm, được vua gả công chúa cho và sinh năm con trai, hai con gái, cực kỳ
vinh hiển. Khi tỉnh dậy vẫn thấy mình nằm dưới gốc cây hòe.
2. Vương, Tạ là hai gia đình quí tộc lớn đời
Tấn, phong lưu, phú quí không ai sánh kịp, sau con cháu rơi vào cảnh nghèo khổ.
Đây là điển cố khá phổ biến trong thơ Đường, ngụ chỉ sự bèo bọt của cuộc đời.
Họa thơ huyện lệnh
Chẳng kém Tứ Minh 1) về cái ngông,
Không cầu trời phật thưởng, khen công.
Giác ngộ nhiều khi chưa mà đã.
Sự đời lắm lúc có mà không.
Tiểu nhân tìm thuốc mong bất tử,
Người giỏi ung dung chẳng bận lòng.
Đi câu mà chẳng mang câu, lưới,
Thậm chí chẳng thèm ngó xuống sông.
1. Tøc Tø Minh cuång
kh¸ch, biÖt hiÖu cña H¹ Tri Ch¬ư¬ng, tõng lµm ThÞ lang bé LÔ ®êi §¬ưêng HuyÒn T«ng, tÝnh thÝch phãng kho¸ng nªn tù ®Æt cho m×nh biÖt
hiÖu ngang tµng trªn.
Họa thơ Hưng Trí Thượng Vị
hầu 1)
Gió Thiền không trước cũng không sau.
Bản thể hồn nhiên, sáng một màu.
Chín năm Thiếu Thất 2) im không nói.
Hoàng Mai 3) lập kế, truyền cho nhau.
Tâm cơ không chút vương suy nghĩ.
Miệng không cần nói, đỡ đau đầu.
Nhạn đang kêu đấy, ngang trời lạnh -
Kính cẩn xin thưa với Vị Hầu.
1. Con trai thứ hai của Trần Quốc Tuấn, từng
tham gia chống quân Nguyên lần thứ hai và ba. Sau ông về ở ẩn.
2. Tên một ngọn núi ở phía tây núi Trung Nhạc
thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ở đây có chùa Thiếu Lâm, nơi Đạt Ma chín năm
liền quay mặt vào tường rồi truyền pháp cho Tuệ Khả.
3. Tên một ngọn núi phía tây bắc huyện Hoàng
Mai, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Sư Hoàng Nhẫn, vị tổ thứ năm của Thiền tông tu ở
đấy. Ông có hai học trò xuất sắc là Thần Tú và Tuệ Năng. Một hôm vào lúc nửa
đêm, ông truyền y bát cho Tuệ Năng và giục trốn đi nơi khác.
Cái thú giang hồ
Vui thú giang hồ, cảnh núi sông,
Từ lâu ấp ủ mãi trong lòng.
Bạc vàng, danh vọng không vương vấn.
Tháng ngày nhàn nhã, sống thong dong.
Buổi chiều thổi sáo, chờ trăng mọc.
Sáng cắm thuyền câu chính giữa dòng.
Tạ Tam 1) thật tiếc không còn nữa,
Còn lại chiếc thuyền ghếch bãi nông.
1. Chưa râ lµ ai.
Trình thiền sư Tiêu Dao ở
Phúc Đường
Lâu nay xa phong thái, kiều ngụ ở thôn
hoang. Sâm thương thân cách phương trời, loạn phương ý hằng chung bóng. Khúc
hát "vô sinh", thảnh thơi cất tiếng. Công ơn pháp nhũ, gọi chút đền
bù. Tạm viết đôi lời, dưới tòa trình tiến.
Ở nơi thôn dã sống qua ngày,
Nhưng ơn Tứ Trọng 1) vẫn sâu dày.
Nhờ được gặp luôn, đầu đỡ tối.
Lòng dù đã nguội, vẫn lòng ngay.
Mùa xuân ngồi ngắm hoa đào nở.
Thu về, nhàn nhã ngắm mây bay.
Hôm nọ đến thăm, ngài chỉ giáo,
Bây giờ xin gảy đàn không dây. 2)
1. Tøc thiÒn sư Tiªn Dao, thÇy cña TuÖ Tung Thưîng sÜ.
2. §µn kh«ng d©y, như
s¸o kh«ng lç, ý nãi kh«ng cÇn diÔn ®¹t ra lêi theo c¸ch th«ng thưêng.
Cảnh vật Phúc Đường
Phúc Đường, phong cảnh thật thanh tao.
Gió Thiền vi vút thổi trên cao.
Bên bờ, dâu mục, chồi măng mọc.
Trước cửa, hàng thông lá xạc xào.
Người giỏi náu mình chờ dịp tốt.
Thú lành trong núi vẫn nhiều sao.
Mặt trời Đức Phật rồi sẽ mọc.
Từ sân tới ngõ rợp hoa đào.
Khuyên đời vào đạo
Xuân hết đến hè, năm tháng qua.
Rất nhanh, người trẻ hóa thành già.
Sầu muộn luôn theo cùng tuổi tác.
Sang giàu rút cục chỉ phù hoa.
Bể "khổ" là đời, thường vẫn vậy.
Sông "yêu" mang lại lắm phiền hà. 1)
Cứ mãi buông mình theo dục vọng,
Có ngày tai họa đến tìm ta.
1. S«ng yªu (¸i hµ),
tøc con s«ng cña ¸i dôc. PhËt gi¸o coi t×nh c¶m yªu thư¬ng, ham muèn cña con ngưêi lµ hai m¾t xÝch trong 12 nh©n
duyªn, chØ g©y khæ cho ngưêi.
Chợt tỉnh
Giữa "không" và "có" chẳng
bao xa.
Xưa nay sống chết - một thôi mà.
Hoa nở năm nay - hoa năm ngoái.
Trăng sáng bây giờ - trăng tối qua.
Thấm thoắt "ba sinh" 1) như gió
thoảng.
Tuần hoàn "chín cõi" 2) kiếp phù
hoa.
Vậy sống thế nào là tốt nhất?
Ma ha bát nhã, tát bà ha! 3)
1. Ba kiÕp lu©n håi
theo ®¹o PhËt.
2. ChÝn c¶nh giíi còng
cßn gäi lµ chÝn cöa ®Þa.
3. Ma ha b¸t nhã, phiên âm tiếng Phạn: mahµ prajn©, nghÜa lµ
trÝ tuÖ réng lín. T¸t bµ ha (swaha), thuêng ®Ó dïng sau c©u niÖm chó.
Lui về ở ẩn
Ở đời, phúc họa đến song song.
Nơi này thanh tịch sống thong dong.
Sáng ngắm chim bay trên sóng biển.
Chiều xem mây khói phủ ngoài đồng.
Thẹn đời điên loạn, thân nhơ bẩn.
Mừng nước chưa suy, sạch tấm lòng.
Đêm đêm mơ thấy Quan Âm Phật.
Sóng thu vừa cạn lại vừa trong.
TRẦN HOẢNG
Tác giả:
Tức Trần Thánh Tông, sinh năm 1240, mất 1290, con trưởng Trần Thái Tông. Trong
21 năm ở ngôi, Thánh Tông đã biết sử dụng nhân tài, chăm lo việc nước. Cùng với
con là Trần Nhân Tông, ông trực tiếp tham gia lãnh đạo nhân dân đánh quân
Nguyên Mông lần thứ hai và ba. Ông yêu thích văn thơ, viết nhiều, nhưng nay chỉ
lưu lại được rất ít.
Chơi phủ An Bang 1)
Sáng chơi cùng mây núi.
Tối eo biển đầy sao,
Đang nghỉ, chợt cao hứng,
Đầu bút, chữ tuôn trào.
1. Tªn mét lé thêi
TrÇn, nay lµ tØnh Qu¶ng Ninh.
Đề động Huyền Thiên 1)
Hương khói đền Ngọc Đế.
Huyền Thiên chìm trong mây.
Tiếng cầu kinh khe khẽ.
Hoa rụng vì chim bay.
2. §éng trªn nói thuéc
xã KiÕt §Æc, huyÖn ChÝ
Linh, nay thuéc H¶i Dương.
Họa thơ thượng sĩ Tuệ Trung 1)
Sáng suốt hay không vốn ở ta.
Dụi mắt nhìn lâu thấy ác tà.
Nhưng thấy mà coi như chẳng thấy,
Thì điều ác ấy tự lui xa.
1. §©y lµ bµi häa l¹i
mét bµi tông cña TuÖ Trung Thưîng sÜ trong lÔ ch¹y cÇu siªu cho Hoµng hËu.
Tặng Trần Quang Khải
Suốt một đời tận tụy,
Trọn cả danh lẫn công.
Với hai triều trung hiếu,
Quả không ai bằng ông.
Ngày xuân trong vườn ngự, nhớ
người xưa
Vắng người, lối nhỏ phủ rêu xanh.
Cửa cung hờ khép, liễu buông mành.
Trong vườn rực rỡ hoa muôn sắc.
Cho ai hoa đẹp thế trên cành?
Cảnh mùa hè
Vệt rừng mưa tạnh, biếc xa xa.
Ngày rụng bóng dài lên gác hoa.
Dìu dịu hương sen thơm sát cửa.
Đôi tiếng ve kêu rộn bóng tà.
Tự nói về mình
Bài
hai
Nhàn rỗi, vô công sáng lại chiều,
Gẩy đàn không điệu, lắng thông reo.
Bất chợt trong lòng ngân tiếng nhạc.
Chỉ gió trên cành nghe, họa theo.
Tự nói về mình
Bài
bốn
Lòng ta không cạn cũng không đầy.
Phật không, người không, gió hây hây.
Cảnh thu sâu thẳm, trời sâu thẳm.
Mây vờn quanh núi, núi vờn mây.
Cảm xúc khi đọc Phật sự Đại
minh lục 1)
Tu bốn mươi năm một tấm lòng.
Vượt ngàn ải ngục, tựa như không.
Động như tiếng gió vang trong núi.
Tĩnh giống vầng trăng sáng giữa đồng.
Đường đời bốn ngả tha hồ bước.
Ngũ huyền 2) đạo lý đã tinh thông.
Đừng hỏi thế nào là sinh, diệt.
Hãy nhìn trời nước rất xanh trong.
1. Bµi nµy viÕt khi
TrÇn Th¸nh T«ng ®i tu.
2. N¨m ®iÒu vi diÖu
trong gi¸o lý ®¹o PhËt.
Viếng Trần Trọng Trưng
Giang Nam người giỏi chết, đau lòng,
Thương xót hôm nay lệ mấy dòng.
Không cần phân biệt sai hay đúng,
Thiên tào giở sổ xóa tên ông.
Sáng chiều mây trắng che nhà cũ.
Trên mồ bia đá mãi ghi công.
Tài chí đành buông theo nước chảy.
Nước cũng bất bình, cuộn dưới sông.
Chơi hành cung Thiên Trường
Thật thanh, thật nhã cảnh nơi này.
Như chốn thần tiên mây trắng bay.
Như đàn réo rắt - trăm chim hót.
Như nghìn đầy tớ - cả rừng cây.
Hồ thu in bóng trời thu lạnh.
Người nhàn, trăng sáng cũng nhàn lây.
Cuộc đi này hẳn vui hơn trước.
Biển lặng, trời trong rộng tháng ngày.
Ngự chơi hành cung Thiên
Trường
Cảnh vật thanh u ở chốn này.
Mười hai cõi tiên, một là đây.
Trăm tiếng chim ca, trăm điệu nhạc.
Nghìn binh lính gác, ấy nghìn cây.
Trăng nhàn chiếu cảnh người nhàn nhã.
Trời thu soi bóng nước thu gầy.
Bốn bể bình yên, mưa gió lặng.
Cuộc chơi năm ngoái kém năm nay.
TRẦN QUỐC TOẠI
Tác giả:
Sinh năm 1251, mất 1277, hiệu Sầm Lâu, được phong tước Uy Văn vương, cháu họ và
là con rể vua Trần Thái Tông. Vốn có chí ham học nên từ nhỏ ông đã học được một
vốn kiến thức sâu rộng. Ông là nhà thơ có tài với tác phẩm Sầm Lâu tập, nhưng
rất tiếc không lưu lại được, ngoài một vài đoạn ngắn.
Vô đề
Chốn Ngũ Hồ tơi nón
Hơn áo lụa gác lầu.
Dâu gai nơi đồng nội
Hơn được phong tước hầu.
Thơ
Của cải đều thành đất.
Có cái gì là không?
Chỉ thơ, sau khi chết,
Là quí hơn vàng ròng.
TRẦN KHÂM
Tác giả:
Tức Trần Nhân Tông, sinh năm 1258, mất 1308, con cả vua Trần Thánh Tông, làm
vua từ 1279 đến 1293, là một trong những ông vua yêu nước và anh hùng của dân
tộc, có công lớn trong việc đánh bại quân Nguyên Mông, xây dựng đất nước. Ông
là một nhà văn hóa, nhà thơ lớn thế kỷ 13, và là người sáng lập dòng Thiền Trúc
Lâm ở Việt Nam.
Kệ về đạo 1)
Sống giữa đời trần, lo học đạo.
Cứ ăn khi đói, mệt đi nằm.
Trong nhà sẵn của, tìm đâu nữa?
Đừng hỏi về thiền khi vô tâm!
1. Đầu đề do chúng tôi đặt, trích từ bài phú
“Ở cõi trần vui đạo”
Xuân sớm
Sáng dậy vén rèm cửa.
Xuân đã đứng cạnh nhà.
Đôi bướm nhỏ cánh trắng
Chấp chới bay tìm hoa.
Đề chùa làng Hương, Cổ Châu 1)
Không biết trước số trời,
Nhưng tình trong mắt người.
Cung ma nếu quản chặt,
Cõi Phật xuân muôn đời.
1. Th¸ng 10 n¨m MËu
Th©n (1308) TrÇn Nh©n T«ng ®uîc tin c«ng chóa Thiªn Thôy èm nÆng bÌn tõ Yªn Tö
vÒ th¨m. Khi trë l¹i, gi÷a ®u\êng «ng nghØ ch©n trong mét ng«i chïa ë lµng Hu¬ng,
Cæ Ch©u, s¸ng h«m sau, trưíc khi lªn ®uêng, «ng ®Ò bµi kÖ nµy lªn v¸ch chïa.
Trên hồ Động Thiên
Động Thiên cảnh tiêu điều:
Hoa héo, cỏ cây xiêu.
May trời thương, thỉnh thoảng
Ban cho tiếng chuông chiều.
Tiễn sứ bắc Lý Trọng Tân và
Tiêu Phương Nhai
Tiễn đưa quyến luyến cạnh Linh Trì.
Gió xuân không giữ được người đi.
Không biết sao lành hai sứ bắc
Thêm được mấy ngày chiếu Nam di?
Ngày xuân, tặng bánh sứ bắc
là Trương Hiển Khanh
Múa Giả Chi 1) xong, thử bánh này,
Huống hồ hàn thực đúng hôm nay.
Phong tục An Nam, mời khách quí
Bánh rau 2) như ngọc, một mâm đầy.
1. Tên một điệu múa ngày trước.
2. Ở đây có thể là bánh khúc.
Cảnh xuân
Chim kêu trong khóm liễu sau nhà.
Bóng chiều rụng nhẹ xuống thềm hoa.
Khách quý đến chơi không hỏi chuyện,
Chỉ cùng chủ đứng, ngắm mây xa.
Đêm mười một tháng Hai
Rượu quý rửa hồn, hương ngất ngây.
Giường rồng, chiếu trúc, giấc xuân say.
Bên song hoa nở, trời như nước.
Ngoài hiên trăng sáng tựa ban ngày.
Xuân muộn
Ngày xưa chưa hiểu "có" và
"không" 1)
Xuân sang cứ phải vấn vương lòng.
Nay giữa sân chùa, trên nệm cỏ,
Dửng dưng ngắm rụng cánh hoa hồng.
1. Y nãi chưa hiÓu ®ưîc ý nghÜa vµ gi¸o lý ®¹o PhËt.
Ngắm cảnh chiều ở Thiên
Trường
Xóm nhỏ chìm trong khói ráng hồng.
Cảnh chiều nửa có, nửa như không.
Trẻ giục trâu về, vui thổi sáo.
Cò trắng từng đôi đậu xuống đồng.
Trăng
Đèn soi song cửa, sách đầy giường.
Đêm lạnh, bên ngoài sân ướt sương.
Tiếng chày đập vải làm thức giấc.
Trăng vướng cành hoa, mù vấn vương.
Chiều thu ở Vũ Lâm 1)
Bóng cầu in ngược, chạm đầy hoa.
Mép nước lung linh vệt nắng tà.
Lá đỏ, núi xanh, dòng suối lạnh.
Lững lờ mây ướt, tiếng chuông xa.
1. Tªn mét hang ®éng ë
xã Vò L©m, nay thuéc
huyÖn Yªn Kh¸nh, Hµ Nam.
Cảnh chiều ở Châu Lạng 1)
Chùa cổ mờ mờ trong khói mây.
Chuông điểm, dây thuyền buộc gốc cây.
Núi lặng, nước trong, nghiêng cánh nhạn.
Lá đỏ, mây buồn lưu luyến bay.
1. §êi nhµ TrÇn, ch©u
L¹ng gåm c¸c huyÖn Yªn ThÕ, Yªn Ninh, Cæ Lòng vµ B¶o Léc, tøc lµ mét phÇn cña
tØnh B¾c Ninh ngµy nay.
Thơ đề ở nhà thủy tạ Phổ Minh 1)
Nhà trên mặt nước, thoảng mùi hương.
Chùa đóng, cây đa đứng vệ đường.
Hồ nước mới dâng, không lạnh lắm.
Theo tiếng ve sầu, thu vấn vương.
1. Cßn tån t¹i, hiÖn
nay ë lµng Tøc MÆc, huyÖn Mü Léc, tỉnh Hµ Nam.
Mạn hứng khi ở trên núi
Bài
một
Ai trói mà cần người giải thoát?
Không phàm, nên chẳng viện thần tiên.
Ngựa mỏi, chân chồn, nay có tuổi,
Thanh đạm trong am, mảnh chiếu thiền.
Mạn hứng khi ở trên núi
Bài
hai
Đúng sai rốt cuộc như hoa rụng.
Hết mưa, hết muốn lợi và danh.
Sau tiếng chim kêu, xuân lại úa.
Hoa tàn, mây tạnh, núi xanh xanh.
Thanh nhàn
Sống nơi yên tĩnh, thảnh thơi lòng.
Xạc xào gió thổi giữa cành thông.
Chiếu trải dưới cây, kinh một quyển.
Thanh nhàn hai chữ có hơn không?
Ngày xuân thăm Chiêu Lăng 1)
Thị vệ nghiêm, nghìn cửa.
Quan bảy phẩm, áo rồng.
Người lính già đầu bạc
Mải kể chuyện Nguyên Phong.
1. Làng vua Trần Thái Tông.
Lên núi Bảo Đài 1)
Đất vắng, đài thêm cổ.
Trời đẹp, mới chớm xuân.
Ngõ nửa râm, nửa nắng,
Mây nửa xa, nửa gần.
Việc trôi như nước cuốn,
Lòng nhủ lòng bao lần.
Tựa hiên, nâng sáo ngọc.
Trăng bàng bạc ngoài sân.
1. Núi Bảo Đài còn có tên khác là Long Đọi,
nay thuộc Ninh Bình. Cũng có tài liệu nói núi này ở Đông Triều.
Hoa mai nở sớm
Mấy hôm ngại rét, cứ nằm lười.
Không biết xuân về, đủ sắc tươi.
Mai nở đầy cành, trời ấm lại.
Bóng nước lung linh, gió lả lơi.
Bài ca Thúy Vũ 1) vang thôn núi.
Họa Long 2) sáo thổi, lạnh mây trời.
Một cành hoa lạc vào giấc mộng.
Chỉ tiếc không sao lấy tặng người.
1. Tên một điệu từ cổ ở Trung Quốc.
2. Có lẽ là một loại sáo hay tù và có hình
rồng.
Phủ Thiên Trường
Quạnh hiu lá đỏ, núi xanh, vàng.
Sau mưa đường sạch, trời mây quang.
Các sư về viện, trai đường vắng.
Nửa đêm, trăng đã xế trên làng.
Ba chục cung tiên, giường xếp dọc.
Tám nghìn ngọn tháp, nước âm vang.
Phổ Minh chùa cổ không thay đổi.
Trong mơ bất chợt nhớ tiên hoàng.
Chùa Thần Quang 1) trên núi
Đại Lâm
U nhã Thần Quang, vắng suốt ngày
Giữa vùng rừng núi phủ đầy mây.
Ba nghìn thế giới thu vào mắt.
Mười hai tòa tháp tựa trên tay.
Cây thông trăm tuổi, sư đầu bạc.
Bèo bọt thói đời cứ đổi thay.
Ngoài việc thắp hương và cúng Phật,
Hết thảy mọi điều sư chẳng hay.
1. Chùa Thần Quang được xây dưới triều vua Lý
Nhân Tông, nay còn di tích chùa ở huyện Quế Võ, Hà Bắc.
NGUYỄN SĨ CỐ
Tác giả:
Không rõ năm sinh, mất năm 1312, không rõ cả quê quán, chỉ biết trước khi ra
làm quan từng mở trường dạy học, đào tạo được nhiều học trò giỏi như Phạm Ngộ
và Phạm Mại. Nhờ nổi tiếng uyên bác, năm 1274 ông được vua Trần Nhân Tông mời
về kinh dạy học cho hoàng tử sau này là Trần Anh Tông.
Phò giá nhà vua chinh phạt
miền tây, bái yết đền thờ Tản
Viên
Núi thiêng cao vút tận trời mây.
Khấu đầu, nghe tiếng đã lâu nay.
Mỵ Nương anh linh thì ra phép
Phù hộ thư sinh trong chuyến này.
Phò giá nhà vua chinh phạt
miền tây,
bái yết đền Hiển Uy vương ở
sông Bạch Hạc 1)
Giáp mũ uy nghiêm, đứng trước thần.
Việc binh cầu khấn giúp ba quân.
Trò này yếu đuối, không tham vọng,
Mong ngài che chở, được an thân.
1. Hiển Uy vương là thần sông Bạch Hạc, chỗ
gặp nhau của ba con sông Thao, Đà và Lô, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú.
PHẠM NGŨ LÃO
Tác giả:
Sinh năm 1255, mất 1320, người làng Phú Ứng, Đường Hào, Hải Dương, là vị tướng
được Trần Hưng Đạo yêu quí và gả con gái cho, có công lớn trong cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên Mông, làm đến chức quan nội hầu.
Tỏ nỗi lòng
Bao năm múa giáo với non sông.
Dũng mãnh ba quân tựa hổ rồng.
Nợ nước làm trai chưa trả được,
Nghĩ tới Khổng Minh, thẹn với lòng.
Viếng thượng tướng quốc công
Hưng Đạo đại vương
Tiếng chuông Trường Lạc 1) tiễn đưa ông.
Hiu hiu gió thổi, thật đau lòng.
Gương sáng muôn đời nay đã vỡ.
Tường thành vạn dặm, có thành không.
Buồn thấy mây che đường sạn đạo 2).
Lệ trào, mưa phủ kín trên sông.
Đọc văn, xúc động lời cô đúc.
Ngâm thơ, lai láng nước xuôi dòng.
1. Tên một cung đời Hán. Tác giả dùng để chỉ
một cung nhà Trần thời bấy giờ.
2. Đường sạn đạo là lối đi trên cao, thông từ
nơi này sang nơi khác ở những vùng núi non hiểm trở. Điển cố này này dùng để
nhắc đến công lao của Hàn Tín khi giúp Hán Cao Tổ. Tác giả ví Trần Hưng Đạo với
Hàn Tín.
TRẦN THUYÊN
Tác giả:
Tức vua Trần Anh Tông, sinh năm 1276, mất 1320, là con trưởng vua Trần Nhân
Tông, có công trong việc bảo vệ đất nước khỏi giặc Nguyên Mông, là người có bản
lĩnh, cá tính và đức độ. Ông chủ trương
mở mang học hành, phát triển dân trí,
sáng suốt trong việc dùng người.
120. Chùa Đông Sơn 1)
Gió thu xào xạc, ve im tiếng.
Trăng soi suối lạnh, núi xanh rờn.
Ngũ Đài núi đẹp, đừng mơ nữa -
Đời này mấy chỗ sánh Đông Sơn?
1. Chùa xây từ đời Lý trên núi Chương, huyện Ý
Yên.
Cảnh mùa đông
Chấm đỏ, nét xanh, mờ lại thẫm.
Bút vẽ thiên nhiên thật tuyệt trần.
Lầu tía chơ vơ trên vách núi.
Băm sáu động trời thoảng gió xuân.
Am Vân Tiêu 1)
Núi xanh sừng sững, chạm trời mây.
Cung khuyết Kim Tiên 2) không bụi dây.
Trên đỉnh có người theo đạo Phật,
Bạn cùng trăng sáng, gió và cây.
Gió thổi quanh năm không ngớt nghỉ.
Như gương, trăng sáng cả ban ngày.
Gió kia, trăng ấy, con người ấy,
Thành ba cái đẹp nhất đời này.
1. Am ở núi Tam Đảo.
2. Có hai nghĩa, là thần tiên hoặc Phật.
Tiễn hai sứ bắc là An Lỗ Uy
và Lý Cảnh Sơn
Sao sáng hai ông rọi xứ này.
Gạt đôi hàng lệ, thấy rồng bay.
Không dám trách xuân thường đến muộn,
Xa xôi cách trở, lựa tâu bày.
Ngũ Lĩnh núi cao, người chưa vượt.
Tam Tương sông rộng, nhạn về ngay.
Nước được yên bình nhờ sứ giúp.
Dân chúng mừng vui, rạng mặt mày.
Chinh phạt Chiêm Thành về,
đậu thuyền ở cửa biển Phúc
Thành
Thuyền rồng dây gấm buộc cây đa.
Mui thuyền ướt đẫm hạt châu sa.
Trăng treo xóm núi, thông xanh biếc.
Gió thổi làng nông, đỏ ráng tà.
Cờ xí tưng bừng che kín biển.
Năm canh kèn trống mãi vang xa.
Đêm ngủ đầu thuyền, lòng ấm lại.
Binh khí không vào giấc mộng hoa.
NGUYỄN CHẾ NGHĨA
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, người huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu. Ông xuất thân
trong một gia đình quyền quí, từ nhỏ đã có sức khỏe lạ thường, giỏi cưỡi ngựa
và sử dụng đao dài, tinh thông thiên văn, binh pháp và thích ngâm vịnh, làm
thơ. Ông có công lớn trong việc chống quân Nguyên, được vua Trần Anh Tông yêu
quí và gả con gái là công chúa Ngọc Hoa cho, sau được thăng chức Thái Úy.
Bày tỏ nỗi lòng
Trượng phu hào khí tỏa muôn nơi.
Cái chí phải cao hơn mọi người.
Bắt chước Phùng Hoan 1), lo cứu nước.
Tổ Địch 2) phò vua, gương sáng ngời.
Cơ mưu âm ỉ như sông nước.
Công lao cao vút tựa mây trời.
Tiết nghĩa, đức danh mong để lại,
Cháu con truyền tụng đến muôn đời.
1. Mưu sĩ người nước Tề, giúp Mạnh Thường Quân
nhiều trong việc bảo vệ đất nước.
2. Bề tôi trung thành của nước Tấn, giúp nhà
Tấn trừ ngoại xâm và yên định đất nước.
BÙI TÔNG HOAN
Tác giả:
Năm sinh, năm mất không rõ, hiệu Thủy Yên. Ông làm quan dưới thời Trần Anh Tông
(1293 – 1314), chỉ lưu lại được bốn bài thơ.
Ngắm cảnh thu ở xóm ven sông
Một mình khoác áo đứng bên sông.
Bốn bề thu biếc trải mênh mông.
Nhạn bay qua bến, từng đôi một.
Buồm nâu mấy chấm, trời xanh trong.
Rặng trúc nhà dân vương khói nhạt.
Chùa Phật đầu khe, tán lá hồng.
Chiều xế, nhìn mây, vui, tự nhủ:
Năm nay mùa được, lúa xanh đồng 1).
1. Người xưa có tục xem mây đoán mùa màng được
hay mất.
Sau mưa, tức cảnh làm thơ đề
chỗ ở mới
Nắng hửng, hết mưa, lại đẹp trời,
Sáng nhàn, ra ngõ, thẩn thơ chơi.
Lối đi cỏ mọc như mày rậm.
Vũng nước long lanh giống mắt người.
Đống đá sau hè rêu bám bẩn.
Ngoài vườn lép nhép lá vàng rơi.
Sân nhà bừa bộn, lười chưa dọn,
Xin ông hàng xóm chớ nên cười.
TRẦN THÌ KIẾN
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, người huyện Đông Triều ngày nay, là môn khách của
Trần Quốc Tuấn, từng giữ nhiều chức quan trọng dưới triều Trần Nhân Tông, nổi
tiếng thanh liêm, chính trực.
Đề tặng thiền sư Phổ Minh ở
chùa An Lãng
Đại ẩn là người không ở núi.
Đích thực chân tu, tu tại nhà.
Nay gặp đạo Thiền như tỉnh mộng.
Trách gì Hàn Dũ 1) chuyện ngày qua.
1. Nhµ th¬ ®êi §ưêng, bÞ biÕm truÊt ®i lµm thø sö Trµo
Ch©u, v× can ng¨n việc rưíc xư¬ng PhËt.
TRẦN QUANG TRIỀU
Tác giả:
Sinh năm 1286, mất 1325, còn có tên là Nguyên Đạo và Nguyên Thụ, hiệu là Cúc
Đường Chủ Nhân và Vô Sơn Ông, người phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Hà Nam, là
cháu nội Trần Quốc Tuấn, được trọng dụng, từng cầm quân đánh giặc, giữ nhiều
chức quan trọng, cuối cùng về ở ẩn tại am Bích Động gần chùa Quỳnh Lâm, nay ở
huyện Đông Triều, Quảng Ninh. Thơ ông tao nhã, giản dị và khúc triết.
Ông già câu cá
Triều dâng, sóng biếc, gió hây hây.
Mái chèo khua lạnh thấm vào mây.
Bao năm coi nhẹ mồi vàng bạc,
Giờ mong nằng nặng mồi câu này.
Trường An hoài cổ
Sông núi vẫn còn, nước đổi thay.
Nắng xế trên gò, thông vướng mây.
Các đế vương xưa nay dưới cỏ.
Mưa chiều hiu hắt, bướm ong bay.
Thơ đề trên quạt vẽ phong
cảnh
do Liêu Nguyên Long tặng 1)
Bút nào vẽ hết nước Nam ta?
Tân An 2) ao cũ, cỏ la đà
Bao năm vẫn mọc cùng trăng gió.
Từ bờ trúc vọng tiếng đa đa.
1. Cã lÏ lµ b¹n cña Trư¬ng Quang TriÒu.
2. Tªn ®Þa danh, nay
thuéc huyÖn §«ng TriÒu, Qu¶ng Ninh.
Chùa hoang ở xóm Mai
Chùa các triều đại trước
Hoang phế, nhìn não lòng.
Trong mưa, bia gỗ mục.
Dưới nắng, trơ tượng đồng.
Sư từ lâu đã chết,
Đài hoa giờ trống không.
Ứng thân 1) không cố định,
Với đời cùng hưng vong.
1. Thuật ngữ nhà Phật, chỉ sự hóa thân, là một
trong ba thân của Phật. Tùy theo cơ duyên của chúng sinh mà Phật hiện thân để
giáo độ cho họ.
Viết trên đường Hoàng Châu
Đường núi trơn, khúc khuỷu.
Khí độc, hơi sương nhòa.
Cánh buồm trong mưa nhỏ.
Ngôi chùa dưới nắng tà.
Đỏ rực chùm quít chín.
Xanh biếc bụi dâu da.
Lên xe rồi, thương nhớ,
Nghĩ, lại muốn về nhà.
Thơ đề ở chùa Gia Lâm
Không còn mơ danh vọng,
Dạo bước đến cửa thiền.
Xuân muộn, dáng hoa mảnh,
Cây cao, ve ngân rền.
Mưa tạnh, trời xanh biếc.
Ao nhỏ, trăng bình yên.
Khách về, sư chẳng nói.
Chùa thoảng mùi hoa sen.
Tức cảnh khi quay thuyền về
Chán sự đời giả dối.
Lòng cứ vấn vương lòng.
Chim kêu trong bụi rậm.
Buồm chở nắng trên sông.
Hơi thu gầy dáng núi.
Triều lên, nước xanh trong.
Ông già say chưa tỉnh.
Lá đỏ trôi giữa dòng.
Tức cảnh xóm ven sông
Thôn Tây đối diện với thôn Đông.
Tiếng gà, tiếng chó vọng vang sông.
Én biển chao chao, nô dỡn nắng.
Hoa nở hai bên, chạy ngược dòng.
Gặp mưa lúa chín, vàng tít tắp.
Dâu tốt thu sang, xanh ngút đồng.
Nhà thơ ngắm cảnh, quên không biết
Thuyền đi đã được chục hôm ròng.
Qua An Long 1)
Chiều người, nước lặng, gió hây hây.
Tiễn bóng nắng tàn, khách uống say.
Xơ xác hoa lau, bờ ngập nước.
Trời xanh, cánh nhạn khuất trong mây.
Khói chài bến cũ, chuông rung khẽ.
Chèo khua, nước té tựa mưa bay.
Vời vợi kinh đô, nhìn Bắc Đẩu,
Khách đỗ thuyền đêm ở bến này.
1. Tên một con sông ở Tuyên Quang.
Đề nhà thờ Phúc Thành 1)
Mây bay man mác, tháng năm qua.
Bên cạnh nhà thờ, cây bách già.
Mưa đêm ngấn đọng như hàng lệ.
Đầm soi hờ hững mảnh trăng tà.
Cỏ rẽ dưới đài thành lối nhỏ.
Trên cây, hạc nhớ khúc cầm ca.
Đêm đến, trước đèn thiêm thiếp mộng,
Trời cao, biển rộng trải bao la.
1. Chưa rõ ở đâu.
Uống rượu một mình trong
thuyền
Thu về, núi lạnh khiến buồn lây.
Thư nhà không đến được nơi đây.
Tình người thưa nhặt như mưa gõ.
Thói đời lên xuống nước vơi đầy.
Cúc tùng bạn cũ nay xa cách.
Tuổi già đèn sách thế mà hay.
Trong lòng ngang ngổn bao day dứt,
Uống rượu một mình, thử giải khuây.
No comments:
Post a Comment