TRẦN QUANG KHẢI
Tác giả:
Tự Chiêu Minh, sinh năm 1241, mất 1294, là con trai thứ ba của vua Trần Thánh
Tông. Dưới triều Thánh Tông, ông làm Tướng quốc Thái úy, tước Đại vương; triều
Nhân Tông được thăng làm Thượng tướng Thái sư, có nhiều đóng góp quan trọng
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc biệt trong hai cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên. Ông học rộng, biết nhiều, không chỉ là nhà quân sự tài
giỏi mà còn là nhà thơ xuất sắc. Tác phẩm có tập Lạc Đạo, nhưng nay chỉ còn lại
11 bài.
Phò giá về kinh đô
Chương Dương, cướp giáo giặc.
Hàm Tử, bắt quân Hồ.
Giang sơn này phải giữ.
Lúc thái bình càng lo.
Tặng sứ bắc Sài Trang Khanh
1) và Lý Chấn Văn
Vâng mệnh thiên triều đến tận đây.
Vua giao đi sứ, chiếu cầm tay.
Quan lớn Bắc triều lưu luyến tiễn.
Dân Nam biết tiếng đã bao ngày.
Nói lời oai phúc thay thiên tử,
Mong tình hai nước nặng từ nay.
Cũng mong các vị lòng nhân đức,
Che chở cho dân của nước này.
1. Tªn lµ Sµi Thung, thưîng thư bé lÔ nhµ Nguyªn.
Tiễn sứ Bắc Sài Trang Khanh
Tiễn người về nước sáng hôm nay.
Xăm xăm ngựa bước, rợp cờ bay.
Người đi kẻ ở, lòng lưu luyến,
Tần ngần chủ khách, rượu cầm tay.
Mới gặp ngày nào vui xướng hoạ,
Mà giờ ly biệt, nước cùng mây.
Không biết bao giờ còn gặp lại,
Để mong nói rõ tấm lòng này.
Thơ đề ở đền Bạch Mã 1)
Bao đời nổi tiếng rất oai linh,
Nghe nói đến thần, ma quỷ kinh.
Bốn bề lửa cháy, đền không cháy.
Sấm chớp, cuồng phong chẳng giật mình.
Chỉ huy ba vạn quân yêu quái,
Trấn áp trăm nghìn ma quỉ binh.
Mạo muội mong thần xua giặc Bắc,
Để dân Nam Việt sống yên bình.
1. §Òn B¹ch Mã, nay vÉn cßn ë phè Hµng Buåm, Hµ
Néi.
Bến đò Lưu Gia
Bến cũ Lưu Gia rợp bóng cây.
Xưa theo thuyền ngự đến nơi này.
Sông thu tháp nhỏ nghiêng soi bóng.
Đền hoang mộ cổ lá rơi đầy.
Thái Bình phủ rộng, trăm nghìn dặm.
Giang sơn nhà Lý chục đời nay.
Trở lại, khách thơ đầu đã bạc.
Hoa mai như tuyết rụng, đang bay.
Cảm hứng ngày xuân
Bài
một
Mưa rơi cây tốt, ướt cành hoa.
Khách thơ đóng cửa ngồi trong nhà.
Một nửa đời xuân đành bỏ phí.
Năm mươi, cũng tự biết mình già.
Mang nặng ân vua, không ở ẩn.
Đêm ngày mong nhớ chốn quê xa.
Dũng khí ngày xưa chưa để mất,
Giờ ngồi uống rượu, xướng thơ ca.
Cảm hứng ngày xuân
Bài
hai
Nhàn nhạt trăng khuya, đêm sắp tàn.
Hơi xuân lành lạnh, gió miên man.
Rặng liễu chao mình, hoa khép nụ.
Khóm trúc xạc xào, ngủ bất an.
Nhờ mưa, cây cỏ đang xanh tốt.
Tuổi làm tóc bạc, kém dung nhan.
Giải sầu tạm uống dăm ba chén.
Vỗ kiếm, một mình tựa lan can.
Thơ đề ở nhà nhỏ đồng quê
Nhà nhỏ đồng quê mới dựng xong.
Quanh năm đào lý tỏa hương nồng.
Áo lá nông phu in bãi biếc.
Lầu cao sáo vẳng, ánh trăng lồng.
Khe suối chia đôi bờ đất đỏ.
Đường làng mềm mại uốn cong cong.
Sống ẩn quả đây là lý tưởng -
Gió mát, trăng thanh, sáo mục đồng.
Vườn Phúc Hưng
Phúc Hưng, vùng đất nước bao quanh.
Ta có khu vườn mấy mẫu xanh.
Đình trúc mượt mà như ngọc bích.
Như châu, mai nở trắng trên cành.
Sau mưa, sai trẻ chăm vườn thuốc.
Nắng lên, mời bạn uống trà thanh.
Yên ổn trời Nam, không có giặc.
Gối cao nằm ngủ giấc ngon lành.
ĐỔ TỬ VI
Qua gò Việt Tĩnh
Đang thu, Việt Tĩnh cỏ lưa thưa.
Cảnh buồn gợi nhớ chuyện ngày xưa.
Ai tìm cây ngải ba năm tuổi,
Chữa giúp cho ta bệnh sống thừa?
BÙI MỘ
Không rõ
năm sinh, năm mất, người xã Hưng Giáo, Thanh Oai, nay thuộc ngoại thành Hà Nội.
Ông đỗ bảng nhãn đời Trần Anh Tông, từng đi sứ sang nhà Nguyên, Trung Quốc.
Qua Bành Trạch
Buổi sáng, mặt trời mọc.
Ngâm thơ, mặc áo lông.
Bành Trạch 1), rượu trong chén.
Đỗ Lăng, thuyền trên sông.
Núi thu, cây đứng lặng.
Sông chiều, mây bập bồng.
Đất khách, tình man mác.
Nước cứ chảy về đông.
1). Tên một huyện thuộc tỉnh Giang Tây, Trung
Quốc ngày nay. Bài này tác giả viết khi đi sứ phương Bắc.
NGUYỄN TRUNG NGẠN
Tự Bang
Trực, hiệu Giới Hiên, (1289 - 1370) người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi thuộc
Hải Dương ngày nay. Năm 12 tuổi ông được vào hoc nhà Thái Học Quốc Tử Giám, 16
tuổi đỗ Hoàng Giáp. Ông làm quan qua nhiều đời vua, từng đi sứ Trung Quốc, thọ
82 tuổi.
Qua đò sông Lô khi đi sứ Bắc
Quốc.
Từ giã kinh thành đi sứ xa.
Đến trạm, dừng chân, bóng xế tà.
Nâng chén biệt ly người tiễn sứ.
Bên ấy sông Lô, hết đất nhà.
Lên chơi thành lầu ở Dương
Châu 1).
Khách vượt tám vạn dặm.
Chiều thu ngắm cây cầu.
Đất khách, gặp cảnh đẹp,
Dẫu bận cũng lên lầu.
1). Dương Châu, một trong chín châu thời cổ ở
Trung Quốc.
Hoài cảm cảnh thu ở Tương
Giang 1)
Sang thu, cây cỏ héo,
Vẫn đi sứ chưa về.
Cốt cách thơ gầy yếu,
Lòng trong như nước khe.
Nhạn bay theo khói sóng,
Thuyền khách như lá tre.
Thác đổ hăm bốn bậc,
Bịt tai không dám nghe.
1). Một địa danh ở Trung Quốc.
TRẦN KHẢN
Không rõ
năm sinh, năm mất, hiệu Vô Muộn Tẩu (Ông già không buồn), người làng Quế Dương,
huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Làm quan đến chức Tham nghị ở Viện Chính sự, thơ có tập
Phục Hiên.
Bài ngâm ở am Lục Tiên 1)
Chẳng tiếc công danh không đạt được.
Không màng phú quí với vinh qui.
Phận sao đành vậy, không ham muốn.
Ngoài bốn điều hưu 2), chẳng thiết gì.
1). Am này ở xã An Lạc, huyện Thiệu Hóa, Thanh
Hóa, thờ tướng Lương Đoàn thời Lý.
2). Theo bài tựa Tứ Hưu Cư Sĩ của Hoàng Sơn
đời Tống. Bốn điều hưu đó là, đủ cơm ăn, đủ áo mặc, đủ việc làm vá sống đủ gìa.
Chẳng được như ý
Thành danh, tóc đã trắng như bông.
Tiếc nuối tuổi xuân khi học xong.
Bởi lẽ đời này nhiều trái khoáy,
Cố gắng làm gì cho phí công!
ĐỒNG KIÊN CƯƠNG
Tác giả:
Tức Pháp Loa, sinh năm 1284, mất 1330, người châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, nay
là huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông đi tu từ nhỏ, rất uyên thâm về giáo lý
đạo Thiền, sau trở thành vị tổ thứ hai của dòng thiền Trúc Lâm, được vua Trần
Nhân Tông đổi tên là Pháp Loa.
Vào cõi tục, tiếc non xanh
Soi nước sông thu rặng núi gầy.
Đỉnh núi chọc trời, vương vấn mây.
Ngước mắt tầng cao trông chóng mặt,
Như mọi con đường đổ tới đây.
Thị tịch 1)
Bốn chục năm trời như giấc mơ.
Rũ sạch bụi trần mọi dây tơ.
Ta sống an nhàn. đừng gạn hỏi.
Bên kia trăng gió rộng vô bờ.
1. ThÕ giíi bªn kia.
LÝ ĐẠO TÁI
Tác giả:
Tức Huyền Quang, sinh năm 1251, mất 1334, thiền sư và là nhà thơ nổi tiếng thời
Trần, người châu Nam Sách, Hà Nam, năm 20 tuổi đỗ thi hương và sau đó đỗ đầu
thi hội, được bổ dụng vào Viện Nội hàn, nhưng ông nhất mực xin từ quan đi tu,
sau trở thành vị tổ thứ ba của dòng thiền Trúc Lâm, rất được Trần Nhân Tông yêu
mến.
Tức cảnh ngày xuân 1)
Người đẹp ngồi thêu dải gấm dày.
Dưới cành hoa đỏ, cánh chim bay.
Thương biết bao nhiêu xuân ý ấy,
Khi nàng tư lự chợt ngừng tay.
1. Cã ý kiÕn cho bµi
nµy lµ cña mét t¸c gi¶ Trung Quèc.
Trong thuyền
Một lá thuyền con, một khách chèo,
Ra khỏi mé rừng, gió đuổi theo.
Hoàng hôn, nước lớn, con chim trắng,
Hòa lẫn sông trong với nắng chiều.
Nhà đá
Nửa gian nhà đá lẫn trong mây.
Áo ấm mùa đông cũng đủ dày.
Sách kinh trên án, sư trên chiếu.
Mặt trời đã quá mấy tầm cây.
Họa bài thơ đề trên vách chùa
Bảo Khánh
Cỏ vàng, khói nhạt, sóng lăn tăn.
Quán bắc, lầu nam nắng tắt dần.
Tiếc thơ không hứng, xuân không chủ,
Mấy bụi hoa buồn trước gió xuân.
Ngủ trưa
Sau mưa khe núi sạch, ban ngày
Ngủ một giấc dài dưới bóng cây.
Tỉnh dậy nhìn đời đầy bụi bặm,
Mà tưởng như mình đang lúc say.
Trước bếp lò, tức cảnh
Hương tắt từ lâu, củi đã tàn.
Tay cầm ống thổi, quạt hoa nan.
Trẻ con hỏi chữ, vu vơ đáp.
Ai chê ta biếng, quá an nhàn?
Ngủ ngày
Tự mình cày cấy ruộng ông cha.
Cây cao bóng rợp mát quanh nhà.
Con chim ngoài cửa thôi không hót.
Đánh một giấc dài bên khóm hoa.
Nhà trong núi
Xao xuyến hương thu chạm bức rèm.
Nhà gối rừng cây tựa gối mềm.
Lòng ta yên tĩnh như sông núi.
Sao dế ngoài vườn khóc suốt đêm?
Chơi thuyền
Gặp gió, thuyền con lướt giữa dòng.
Sông xanh, núi biếc, trời mênh mông.
Tiếng sáo làng chài sau bãi sậy.
Vô ý, trăng chiều rơi đáy sông.
Đề núi non bộ của thí chủ 1)
ở Động Hiên
Cũng núi nhấp nhô, cũng cỏ cây.
Trăng lồng khói lạnh, cánh hoa bay.
Bây giờ tục lụy thôi vương vấn,
Giấc ngủ an nhàn trong gió mây.
1. Ý nãi nh÷ng vÞ chñ nh©n hay bè thÝ cho
nhµ chïa.
Gửi những người trẻ tuổi
đang tấp tểnh muốn làm quan
Giàu sang khó bắt giống như mây.
Thời gian như nước, ngày qua ngày.
Sao không về ẩn nơi rừng núi,
Rừng thông là chiếu, gối là mây?
Đề chùa Đạm Thủy
Bên chùa cây cỏ tốt, xanh tươi.
Chiều xế, trời quang, vắng bóng người.
Nhân tiện đi ngang vào Đạm Thủy,
Giúp chùa chuông mõ, nhặt hoa rơi.
Thu sớm
Đêm thu, hơi mát lọt qua mành.
Lá cây khẽ chạm mái nhà tranh.
Quên mất trong nhà hương đã lụi.
Ngoài vườn trăng kẹt tán cây xanh.
Hoa cúc
Bài
một
Quên cả chính mình, quên nhớ thương,
Ngồi lặng đìu hiu, lạnh mép giường.
Không lịch, trong rừng nhìn cúc nở,
Giật mình mới biết đã Trùng Dương. 1)
1. TÕt Trïng Dư¬ng, tøc ngµy 9 th¸ng 9 ¢m lÞch.
Hoa cúc
Bài
hai
Người ở trên lầu, hoa dưới sân.
Thắp hương, phiền muộn tự tan dần.
Hoa người tương hợp, so hoa khác,
Hoa cúc trội hơn gấp bội phần.
Hoa cúc
Bài
ba
Tưởng Hủ tiên sinh 1) thông vạn mẫu.
Tây Hồ xử sĩ 2) lắm mai vàng.
Nghĩa khí bất đồng thường khó gặp.
Vườn đầy cúc nở lúc xuân sang.
1. Người đời Hán, sớm cáo quan về ở ẩn giữa
rừng thông.
2. Tức Hán Thế Trung đời Tống, vì căm ghét Tần
Cối mà bỏ về sống ở vùng Tây Hồ.
Hoa cúc
Bài
bốn
Hàng năm thu đến, lúc sương rơi,
Gió mát trăng trong, ngẫm sự đời.
Cúc vàng đẹp thế, sao không thích?
Muôn nhà rực rỡ cúc vàng tươi.
Nhân có việc, viết thơ đề ở
chùa Cửu Lan
Thẹn mình đức mỏng mà nên nghiệp,
Luống để Hàn Sơn, Thập Đắc 1) buồn.
Chi bằng theo bạn lui về ẩn,
Sống giữa muôn trùng núi với non.
1. Tên hai vị cao tăng đời Đường, vì muốn
không ai biết đến nên giữ chức nấu bếp, sau việc bị lộ, bỏ chùa lên núi.
Thơ đề am núi Yên Tử
Am thiền cao chót vót.
Cửa mở trên tầng mây.
Động Rồng, mặt trời chiếu.
Khe Hổ, sương còn dày.
Vụng về, không mưu chước,
Yếu, chiếc gậy cầm tay.
Rừng trúc nhiều chim đậu,
Quá nửa bạn sư thầy.
MẠC KÝ
Tác giả:
Quê Đông Triều, Quảng Ninh, không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết xuất thân là
võ tướng nhưng rất thích ngâm vịnh thơ văn. Khoảng năm 1333 - 1334 được cử đi
tiễn sứ Trung Quốc là Hoàng Thường. Đây là bài thơ duy nhất của ông còn lưu
được.
Thơ ngâm tiễn sứ
Bờ sông mai nở, nước trong veo.
Thuyền đi chênh chếch, gió mưa theo.
Tiễn khách - ba người lên phía bắc.
Quay lại bờ nam một mái chèo.
TRƯƠNG HÁN SIÊU
Tác giả:
Không rõ năm sinh, mất 1354, tự là Thăng Phủ, hiệu Độn Tẩu, người huyện Yên
Ninh, lộ Trường Yên, nay là Yên Khánh, Hà Nam; là môn khách của Trần Quốc Tuấn;
năm 1308 được vua Trần Anh Tông cho làm chức Hàn lâm học sĩ, sau đó ông giữ
nhiều chức vụ quan trọng; tính tình trung thực, học vấn sâu rộng, có tư tưởng
tôn Nho bài Phật.
Vịnh hoa cúc
Bài
một
Mưa tạnh, vào vườn lo đánh gốc.
Gặp sương - che chắn, việc lu bù.
Ai bảo được nhàn khi ở ẩn?
Bốn mùa, bận rộn nhất mùa thu.
Vịnh hoa cúc
Bài
hai
Suốt cả mùa thu mưa, lắm mây.
Cúc trắng khắp nơi vẫn nở đầy.
May được trời cho hoa chịu rét,
Để vui với lão yếu già này.
Vịnh hoa cúc
Bài
ba
Hôm nay lần nữa tiết trùng dương.
Vườn cũ cúc vàng đã ngậm sương?
Thú cũ rượu đàn giờ chợt nhớ,
Gãi tai, muốn viết phú “hồi hương” 1).
1. Nguyên bản: Quy lai. Đào Tiềm đời Tấn khi
bỏ quan về nhà có làm bài “Quy khứ lai từ” nói về tình cảm của người ở ẩn đối
với ruộng vườn, quê hương và nỗi nhọc nhằn của kẻ làm quan. Ở đây Trương Hán
Siêu cũng có tâm trạng muốn từ quan.
Vịnh hoa cúc
Bài
bốn
Năm ngoái ngày này đón khách xa,
Hoa nhiều, rượu ít, thẹn cho ta.
Quả thật ở đời nhiều trái khoáy:
Hôm nay có rượu lại không hoa.
Thơ làm ở Hóa Châu
Ngoái lại Trường An năm sắc mây.
Kiếp sống bơ vơ khổ lắm thay.
Muốn về ở ẩn mà chưa được,
Đành vịnh cái buồn với cỏ cây.
Thơ khắc trên núi Dục Thúy
Người đi không trở lại.
Núi vẫn xanh một màu.
Nền trời in vách đá,
Nước sông soi bóng lầu.
Cáo biệt đời trôi nổi,
Sống sai đến bạc đầu.
Đến Ngũ Hồ sóng nước,
Tìm tảng đá ngồi câu.
NGUYỄN SƯỞNG
Tác giả:
Không rõ quê quán, năm sinh và năm mất, hiệu là Thích Liêu, sống cùng thời với
Trần Quang Triều (1286-1325). Qua thơ, biết ông từng làm quan dưới triều Trần.
Còn lưu lại được 16 bài.
Trên sông
Cây đứng nghiêng nghiêng chỗ uốn cong.
Hoa mọc ven bờ, ngược dưới sông.
Buổi sáng thuyền đi, mưa lất phất.
Chiều ngắm chim bay giữa ráng hồng.
Sông Bạch Đằng
Mồ chôn quân giặc, cỏ xanh tươi.
Nước thủy triều dâng, núi ngút trời.
Ai biết Trùng Hưng 1) xưa chiến thắng,
Nửa do địa thế, nửa do người?
1. Biệt hiệu vua Trần Nhân Tông (1285 – 1293).
Đây là giai đoạn lịch sử oanh liệt hai lần chiến thắng quân Nguyên Mông.
Tiễn ông Đỗ Ẩn Cơ trở về Chí
Linh
Giao du như bạn cũ,
Cùng đạo, cùng khoa trường.
Không hỏi trời hậu vận,
Tao nhã khác thói thường.
Gặp nhau xong, về núi,
Thuyền đầy trăng và sương.
Ông đi rồi, vắng bạn,
Chắc lòng nhiều vấn vương.
Ở làng
Hết xuân, đến mùa hạ.
Nằm khểnh nghe chim ca.
Bên cửa, gió hây hẩy.
Ngoài hiên, trăng in hoa.
Đánh cờ, vui là chính,
Uống rượu cốt ngà ngà.
Thoát khỏi chốn mơ mộng,
Nhờ hàng xóm nuôi gà.
Chùa Vạn Phúc ở Tiên Du 1)
Nghìn vàng mới dựng được chùa này.
Rì rầm như sóng, gió trên cây.
Mây che chùa cổ, nam và bắc.
Tháp tựa vòm trời, xưa lẫn nay.
Sư đi lấy nước nơi khe lạnh,
Quay về, như thể bước trên mây.
Muốn hỏi chuyện xưa “rìu mục cán” 2),
Chỉ thấy đá xanh rêu mọc dày.
1. Tức chùa Phật Tích hiện nay ở Bắc Ninh.
2. Gần chùa Phật Tích có núi Lạn Kha, tương
truyền ngày xưa có chàng đốn củi lên nùi, thấy hai ông già chơi cờ, tò mò đứng
xem. Khi họ chơi xong một ván, chàng quay lại nhìn thì thấy cán rìu của mình đã
mục nát thành mùn.
Đi trên thuyền, chợt hứng,
làm bài thơ này
Sông rộng, sóng yên, nắng xế tà.
Bác chài đang hát khúc dân ca.
Lơ lửng cầu vồng, mưa đã tạnh.
Thuyền vẽ hình chim với cỏ hoa.
Hồ hải mười năm, bè bạn ít.
Công danh hai chữ, quá phiền hà.
Thuyền con muốn cưỡi, theo Trương Hãn 1),
Phiền nỗi còn lo chút việc nhà.
1. Trương Hãn người quận Ngô, đời Tấn, làm
quan ở đất Lạc. Ông là người có tài, tính tình phóng khoáng. Một hôm gió thu
thổi, chợt nhớ vị rau tần, cá vược ở quê, bèn xin từ quan về nhà. Ở đây tác giả
cũng có tâm tư như vậy nhưng vì việc riêng chưa về được.
TRẦN MẠNH
Tác giả:
tức vua Trần Minh Tông, sinh năm 1300, mất 1357, con thứ tư của vua Trần Anh
Tông, cháu ngoại Trần Bình Trọng. Trong 15 năm làm vua (1314-1329) và những năm
làm thượng hoàng sau đó, ông có nhiều chính sách củng cố thêm cơ nghiệp nhà
Trần, giữ vững đất nước, thúc đẩy nông nghiệp, đề cao Nho học. Bản thân ông
không xuất gia đi tu như nhiều vua trước. Hiện còn lưu được 25 bài thơ của ông.
Tặng Trần Bang Cẩn
bức chân dung kèm theo bài
thơ này
Đàng hoàng, tướng mạo rất oai phong.
Cốt cách như tùng giữa gió đông.
Mọi nét phong lưu đều vẽ được,
Trừ riêng cái đẹp của tấm lòng.
Chùa Cam Lộ
Màu xanh cây lá trải bao la.
Bên núi vầng dương rọi tới nhà.
Chim kêu da diết, càng hiu quạnh.
Một ngõ thôn buồn lác đác hoa.
Thơ đề ở chùa Đông Sơn
Núi biếc giống mây, mây giống núi.
Mây núi, sư già sống thảnh thơi.
Từ thuở Viên công về với Phật,
Không còn phật tử nữa trên đời.
Mưa đêm
Đèn mờ hiu hắt đợi ban mai.
Mưa trên tàu chuối tiễn đêm dài.
Biết mình ba chục năm lầm lỗi.
Buồn nghe mưa gió thổi bên ngoài.
Viếng quốc sư Huệ Nhẫn 1) ở
chùa Quán Viên
Buộc tạm chiếc thuyền dưới gốc cây.
Nhớ cuộc chơi xưa ở bến này.
Nay sư mang giép về Tây Trúc 2).
Yên Hưng, con nước vẫn vơi đầy 3).
1. Chưa rõ là ai.
2. Tức đã đi tới cõi Phật. Đạt Ma, còn gọi là
Bồ đề Đạt Ma, vị tổ thứ 28 của Phật giáo Ấn Độ và là tổ thứ nhất phái Thiền
Tông Trung Quốc. Ông mất năm 528, chôn ở núi Hùng Nhĩ. Khi Tống Vân phụng mệnh
vua Ngụy đi Tây Vực trở về, thấy Đạt Ma xách một chiếc dép đi theo hướng tây.
Vân hỏi đi đâu thì đáp đi Tây Trúc. Vân lấy làm lạ, bèn tâu với vua. Vua sai mở
quan tài ra xem thì quả nhiên trong đó chỉ còn lại một chiếc dép.
3. Địa danh nơi có chùa Quán Viên, nay thuộc
tỉnh Quảng Ninh.
Đọc Kinh Dịch
Đọc nhiều, ba bận rách bìa da 1).
Thâu tóm đất trời rộng bao la.
Sách này giúp hiểu điều sinh diệt,
Ngẫm nhìn cây cỏ chết, ra hoa.
Nhìn đất, nhìn trời lòng chẳng thẹn,
Chọn khi ở ẩn, giúp sơn hà.
Một nén trầm nhang, hương nghi ngút.
Đôi tiếng chim kêu trước cổng nhà.
1. Theo sách cổ, Khổng Tử đọc Kinh Dịch rất
nhiều lần, phải ba lần thay bìa da bọc sách.
Tặng hai sứ phương Bắc là
Tát Chỉ Ngõa và Văn Tử Phương
Niên hiệu mới Chí Trị 1)
Vừa có tin đến đây.
Chống gậy nghe lời thánh,
Bày tỏ tấm lòng ngay.
Ánh sáng soi khe tối.
Hơi ấm sưởi cỏ cây.
Nay mai gặp thánh thượng,
Xin đừng quên xứ này.
1. Niên hiệu của vua Nguyên Anh Tông.
Biên giới nước Việt.
Châu Tứ Minh đại Hán
Sát biên giới nước ta,
Tiếng nói không khác mấy,
Cũng chẳng phải cách xa.
Chỉ dãy núi ngăn trở,
Nhưng chung một tiếng gà.
Hoa, Di đâu có khác 1),
Cùng chung sống hài hòa.
1. Phong kiến Trung Quốc tự cho mình là nước
văn minh duy nhất, còn các dân tộc khác đều là man di mọi rợ. Qua bài này, Trần
Minh Tông đã bác bỏ điều đó.
Ngồi nhàn ngày xuân
Liễu đã xanh tươi, bóng phủ dày.
Rèm cuốn mà nhà nắng chẳng hay.
Tơ liễu hững hờ chao trước gió.
Bầy chim lặng lẽ đậu trên cây.
Lời lạy Tam Hoàng 1): Luôn giản dị.
Đạo huyền Ngũ Đế 2) diệu huyền thay.
Nghìn vàng cõi tục xin đem đổi
Nhàn nhã, vô tư, dẫu nửa ngày.
1. Tức Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng,
các nhân vật thần thoại Trung Quốc.
2. Ngũ Đế gồm Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế,
Đường Nghiêu và Ngu Thuấn, năm ông vua truyền thuyết Trung Quốc thời cổ.
Tháng Mười Một qua hồ
Vịnh Sơn 1), rạng sáng đậu
thuyền.
Trăng đang lặn ngoài thuyền.
Trời lạnh, ngủ không yên.
Tảng sáng, bóng núi nhạt.
Hơi khói đục bốc lên.
Việc cũ, giờ nghĩ lại,
Thấm thoắt ba chục niên 2).
Như chợt tỉnh, im lặng
Ngồi nhìn bếp mới nhen.
1. Chưa rõ ở đâu, có thể là một cửa sông của
Lục Đầu Giang vì bài thơ này làm trên đường đi Chí Linh.
2. Hai câu này có lẽ nói tác giả hối tiếc việc
giết oan bố vợ là Trần Quốc Chẩn ba mươi năm về trước.
Tiễn hai sứ Bắc là Tát Chỉ
Ngõa và Triệu Tử Kỳ 1)
Xông pha ngựa trạm giữa sương dày.
Sao sáng sứ thần chiếu tận đây.
Muôn phương như một, lòng thiên tử.
Trượng phu ứng đối 2), chuyện xưa nay.
Mưa móc nhà Chu qua tiếng lụa 3).
Món quà đất Việt - áng thơ hay.
Đôi ngả bắc nam, mai tạm biệt,
Hai sứ cùng tôi cạn chén này.
1. Tên hai sứ thần nhà Nguyên được cử sang
nước ta vào năm 1331, báo tin vua Văn Tùng lên ngôi.
2. Quyền được tùy nghi ứng phó khi đi sứ.
3. Theo Kinh Lễ, tiếng nói nhà vua nghe như
tiếng lụa. Ở đây chỉ chiếu chỉ vua Trung Quốc gửi sang Việt Nam.
Sông Bạch Đằng
Núi như gươm giáo vút lên không.
Sóng biển triều dâng, nhuộm nắng hồng.
Mưa xuân mới tạnh, hoa đua nở.
Gió chiều xao động những cành thông.
Việt Hồ một phút phân thua thắng.
Đất nước hai lần lập chiến công.
Trời xế, Bạch Đằng màu đỏ rực,
Tưởng máu kẻ thù xưa trên sông.
TRẦN HIỆU KHẢ
Tác giả:
Không rõ quê quán, năm sinh và năm mất, chỉ biết làm quan dưới triều Trần Minh
Tông (1314-1329), chức không to nhưng được gần vua, nổi tiếng lắm mưu mẹo và
thích bông đùa, chỉ lưu lại được bài thơ bốn câu này.
Tức sự
Uyên Minh 1) thích say, ta không say.
Đồ Nam 2) ngủ nhiều, ta không vậy,
Chỉ đánh một giấc đến tối ngày.
Mọi việc đều quên khi tỉnh dậy.
(1) Tøc §µo TiÒm
(365-427), næi tiÕng kh¶ng kh¸i, yªu hoa cóc, thÝch uèng rưîu.
(2) Tøc TrÇn §oµn ®êi
Tèng, t¬ư¬ng truyÒn «ng cã thÓ
nhÞn ¨n mµ ngñ nhiÒu ngµy liÒn.
PHẠM NGỘ
Tác giả:
Năm sinh, năm mất không rõ, hiệu Liêu Khê, người huyện Giáp Sơn, phủ Tân Hưng,
nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Ông tính tình ngay thẳng, làm quan nổi tiếng thanh liêm.
Hiện còn lưu lại được tám bài thơ.
Cảnh đêm trên sông
Trăng thu lạnh lẽo, khói như sương.
Chim kêu ai oán suốt đêm trường.
Sông như dải lụa, long lanh sáng.
Tiếng sáo làng chài nghe vấn vương.
Trên đường Chí Linh
Đường núi, mưa vừa tạnh.
Lên dốc lại xuống đồng.
Mây xanh vương vạt áo.
Chạm mũ, hoa vài bông.
Gặp sư, ngồi nói chuyện.
Ngắm núi, lòng chợt thông.
Mải nhìn, không để ý
Trăng đã mọc phía đông.
Yết nhà thờ Vạn Tải 1)
Giữa trưa gà gáy, cửa không cài.
Hoa rụng đỏ vườn, chẳng thấy ai.
Hoang vắng làng xưa, cây rậm rạp.
Sợi khói cơm chiều thật mảnh mai.
Bèo bọt giàu sang, không đáng nói.
Công danh muôn kiếp chẳng mờ phai.
Bâng khuâng cảnh cũ, đau lòng khách.
Cỏ mọc đền hoang, lệ ngắn dài.
1. Tức đền thờ Lý Đạo Tái.
Đêm đậu thuyền ở bến Đại Than 1)
Phiêu dạt mười năm một lá thuyền.
Mưa gió phai màu chiếc áo đen.
Sương lạnh, chùa quê chuông khẽ điểm.
Thu về, chim én lượn làng bên.
Đất trời vô hạn, còn phiêu bạt.
Kim cổ vô cùng, đạo vẫn yên.
Đời đang thịnh trị, chưa về ẩn,
Dẫu đêm giấc mộng vấn vương thiền.
Tức cảnh đêm thu
Nhà dột, đêm tàn, buồn, đếm sao.
Dế kêu rầu rĩ phía bờ rào.
Mái đầu tóc bạc bên đèn lạnh.
Một mình đọc sách, khói hương cao.
Gió thổi tiếng thu, cây uốn nhẹ.
Hơi lạnh theo trăng cứ chảy vào.
Đất khách, lòng buồn, không thiết việc.
Lá úa ngô đồng rụng xuống ao.
Cảm tác lúc chơi thuyền ở
động Phù Thạch,
là nơi trước đây tổ tiên từng
tu hành
Bài
một
Hôm nay trở lại chơi Phù Thạch.
Vẫn thế non sông, người bạc đầu.
Năm tháng trôi qua, không trở lại.
Khói sông nghìn dặm gợi thêm sầu.
Cảm tác lúc chơi thuyền ở
động Phù Thạch,
là nơi trước đây tổ tiên từng
tu hành
Bài
hai
Ngẫu nhiên gặp gỡ, cảnh và người.
Bèo dạt mây trôi cái cõi đời.
Thân thế mịt mùng, ngồi ngắm cảnh.
Cô đơn thuyền khách, cánh chim trời.
PHẠM MẠI
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, anh ruột Phạm Ngộ, quê Giáp Sơn, phủ Tân Hưng, nay
thuộc tỉnh Hưng Yên. Tính ông vốn thẳng thắn nên trong đời làm quan nhiều phen
bị giáng chức. Ông từng đi sứ nhà Minh với Nguyễn Trung Ngoạn. Hiện còn lưu lại
được 5 bài thơ.
Nhân lúc rỗi, dùng thơ sáu
chữ đề vào
bức tranh nhỏ trên tấm trướng
thủy mạc
Cây đỏ bên dòng suối chảy.
Núi xanh treo mặt trời hồng.
Muốn lên thuyền, về ở ẩn,
Mà chẳng biết nên hay không.
Bày tỏ ý nghĩ trước lúc chết
Từ ngày hóa kiếp xuống trần gian,
Hơn sáu mươi năm, hoa đã tàn.
Mai mốt chầu trời, lầu Bạch Ngọc 1).
Một mình vẫn lại tựa lan can.
1. Theo Đường Thư thì Lý Hạ một hôm giữa ban
ngày mơ thấy có người mặc áo hồng mang đến chiếc thẻ có dòng chữ: “Thượng đế
thành Ngọc Lâu, triệu quân tác ký”, nghĩa là Thượng đế đã xây xong lầu Bạch
Ngọc, mời ông lên làm cho bài ký. Đọc xong, Lý Hạ chết.
Ngẫu hứng trên đường đi sứ
phương bắc
Quán này trước từng ở.
Giờ dừng lại nghỉ ngơi.
Buổi sáng, mây sát cửa.
Mùa thu, lá rừng rơi.
Nhạn lạc bầy, tin vắng.
Vượn hú, nẫu lòng người.
Hỏi làm gì số phận,
Đi ở đã có trời.
NGUYỄN TỬ THÀNH
Tác giả:
Không rõ quê quán, năm sinh, năm mất và sự nghiệp. Chỉ biết ông người đời Trần,
hiệu Tùng Hiên. Hiện còn lưu được 11 bài thơ của ông.
Ngày thu ngẫu hứng
Muôn thôn lá úa, rụng rơi đầy.
Một mình, gió lạnh thổi tóc bay.
Năm tháng trôi qua không giữ được.
Đúng sai tự biết ở lòng này.
Nhà ở nơi thanh vắng
Loang lổ thềm rêu vệt nước nhòa.
Ngoài vườn xanh tốt bụi đình toa.
Ngủ dậy, ngày dài, lười, rỗi việc,
Buồn nhìn tơ nhện vướng cành hoa.
Vườn xưa
Gió tây thổi tóc dính vào hoa.
Chức quan nho nhỏ phải xa nhà.
Day dứt muốn về... Thu lại đẹp,
Nụ non sương trắng ướt đêm qua.
Chiều xuân, dạo bên suối
Suối vắng, rừng hoang, đã hết đông.
Hoa nở xung quanh những chấm hồng.
Vui chân đi mãi, quên trời tối.
Đầu suối trăng tròn trên tán thông.
Tiếc xuân
Oanh thưa tiếng hót, bướm ngừng bay.
Thần hoa có ý bỏ nơi này.
Hoa chẳng còn xen vào giấc ngủ.
Theo mưa, xuân hết chín mươi ngày.
Chim cuốc
Chim cuốc vốn xưa hồn Thục Đế,
Được gọi chim tiên, quí khác thường.
Thăm viếng chỉ vì xuân núi đẹp,
Thiết gì lầu gác bậc quân vương.
1. Theo sách Thành Đô ký, vua nước Thục là Đỗ
Vũ, sau khi chết đã hóa thành chim, gọi là chim đỗ quyên, dân gian gọi là chim
cuốc.
Chiều xuân, dạo chơi vùng ngoại
ô
Hoàng hôn, dừng ngựa nghỉ bên đình.
Nước suối trong veo rửa chén quỳnh.
Núi ruộng liền nhau, xanh một dải.
Nhà nhà trang điểm nụ hồng xinh.
Hứng thơ bất chợt dâng lai láng,
Trăng chiều soi bóng nước lung linh.
Một đêm ngủ tạm trong chùa vắng.
Bên đèn ngồi kể chuyện bình sinh.
Trong thuyền, ngắm cảnh chiều
hôm
Bốn bề trời nước sạch, xanh trong.
Nhìn về phương Bắc, buồn mênh mông.
Mây bay, gió thổi hình thay đổi.
Trăng sáng hơn nhiều sau cơn giông.
Đã phân biệt rõ dòng Kinh, Vị. 1)
Hiểu hết tinh hà 2) cao trên không.
Nhặt màu xanh đỏ đưa lên bút.
Trên mui tựa cửa, ngổn ngang lòng.
1. Tªn hai con s«ng.
S«ng Kinh nưíc trong, s«ng VÞ nưíc ®ôc. (Th¬ T« Thøc).
2. Tinh lµ c¸c v× sao.
Hµ lµ s«ng Ng©n Hµ.
Đầu xuân
Cuối năm mai rụng, tuyết đang rơi.
Nghĩ đến thời gian, lạnh khắp người.
Liễu rũ nhà ai soi bóng nước.
Buồng sách phòng văn chỉ muốn lười.
Ong đi lấy mật quanh hoa lá.
Bướm trộm hương vàng bay lả lơi.
Trong vườn đi dạo, xuân đang đến.
Hoa nở muôn màu, khoe sắc tươi.
NGUYỄN ỨC
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất và quê quán ở đâu, chỉ biết dưới triều Trần Minh
Tông ông từng làm quan ở Viện Hàn lâm. Hiện còn lưu lại được 20 bài thơ.
Hoa đồ mi 1)
Vài ba bông nhỏ nở trên giàn,
Trong lúc vườn xuân đã héo tàn.
Suốt đời chẳng thấy hoa mai nở,
Một mình lẽo đẽo với thời gian.
1. Thưêng gäi lµ hoa trµ mi, në cuèi xu©n,
®Çu h¹.
Đậu thuyền bên đình Ứng Phong
2) ngẫu hứng đề thơ
Buộc thuyền bên bến, cạnh đình làng.
Cung lầu triều trước thành gò hoang.
Mùa xuân không biết trò hưng phế,
Vẫn tươi, làm rối nắng hoe vàng.
1. Ở phñ NghÜa Hưng, nay thuéc tØnh Nam §Þnh.
Bụi hoa lan trước nhà
Từng được Khuất Nguyên 1) luôn ngợi ca.
Trồng lan chín khoảnh trước sân nhà,
Trời có ý thương nơi vắng vẻ,
Để lại mùi thơm với bạn già.
1. Nhµ th¬ vÜ ®¹i cña
Trung Quèc, t¸c gi¶ Së tõ.
Tiễn người đi phương Bắc
Ngoái nhìn thành cổ phía xa xa.
Dừng ngựa tiễn người, rượu rót ra.
Kẻ ở người đi, rơi nước mắt.
Bẻ liễu 1) bên sông giữa nắng tà.
1. Ngµy xưa khi chia tay cã tôc bÎ liÔu trao
cho nhau.
Đề tranh "Cố bộ hạc
đồ" 1)
Đống đá bên đường, mấy bụi lau.
Con hạc dùng dằng mãi lúc lâu.
Nguy hiểm lưới giăng ngay trước mặt,
Lại ngoái đề phòng ở phía sau.
1. Cè bé h¹c ®å: Bøc
tranh vÏ con h¹c võa ®i võa ngo¸i l¹i
Đi thăm bạn không gặp
Hẹn mãi mà không gặp,
Tôi đi dọc, bác ngang.
Ở đời, vì việc lớn,
Gặp nhau không dễ dàng.
Đêm thu, cùng bạn cũ Chu Hà
kể chuyện đã qua
Ngồi bên khóm cúc mới ra hoa,
Cùng ngửi chi lan chung một nhà.
Tình bạn gửi sâu vào chén rượu.
Bên đèn ngồi kể chuyện ngày qua.
Tóc bạc trên đầu, đời sắp hết,
Con đường danh lợi chửa tìm ra.
Mừng được gặp nhau, không phải mộng.
Mưa rơi làm rụng lá ngô già.
Thơ làm khi thuyền qua Tiên
Du, Bắc Giang 1)
Thuyền đi, gió thổi cánh buồm nâu.
Lòng thẹn núi xanh, mình bạc đầu.
Nắng chiều nửa tháp, chùa đơn độc.
Trăng sáng đầy sông, bốn nhịp cầu.
Lúa chín ngoài đồng vàng tít tắp,
Phong đỏ bạt ngàn sau mưa ngâu.
Những muốn trở về mà nước ngược.
Bao giờ thuyền tới đất Thần Châu? 2)
1. Tªn huyÖn Tiªn Du,
B¾c Ninh, ®êi TrÇn.
2. ChØ kinh ®« Th¨ng
Long
Ngày xuân ở nông thôn
Lối tre râm mát, cỏ xen hoa.
Cửa ngoài đóng chặt, khói xa xa.
Con ong hút mật, râu đầy phấn.
Chim én lượn bay giữa luống cà.
Sai bọn gia nhân chăm vườn thuốc.
Nhắc con cày kỹ ruộng ông cha.
Người xung quanh bảo làm quan sướng,
Mà chẳng biết ơn vợ ở nhà.
Nơi quán khách họa thơ bạn
Phận nghèo, nhà lá, sống long đong.
Làm thơ chẳng nói đến hoa hồng.
Bao lần chim én bay rời tổ.
Đêm trăng bầy quạ cứ quay vòng.
Ăn trám, bạn nghèo cùng biết vị.
Nắm cát trong tay chỉ nhọc lòng.
Cảnh tình nói thế, còn nghi hoặc,
Thì hãy nhìn kìa, nước dưới sông.
Hoa mai rụng
Vương Mẫu, Dao Trì 1)... chuyện đã lâu.
Vườn nhỏ Hương Sơn 2) đủ sắc màu.
Công chúa Hàm Chương mai điểm trán. 3)
Kim Cốc 4) giai nhân bỗng nhảy lầu.
Có mai, trăng sáng xui nên mộng,
Lúc nở, bên song những gợi sầu.
Tự nở, vô tình mai tự rụng,
Luống để thi nhân bạc trắng đầu.
(1) Một cảnh tiên, tương truyền nơi Tây Vương
mẫu ở.
(2) Nhà thơ Bạch Cư Dị đời Đường có một vườn
hoa gọi là Hương sơn. Trong bài này cũng có thể là tên một ngọn núi, ngôi chùa
hay một địa danh nào đó ở nước ta.
(3) Theo Sơ học ký, một hôm công chúa Thọ Dương
con vua Tống nằm ngủ dưới hiên cung Hàm Chương, hoa mai rụng xuống đầy trán,
người đương thời nói công chúa trang sức bằng hoa mai.
(4) Thạch Sùng đời Tấn có vườn hoa tên là Kim
Cốc ở tỉnh Hà Nam. Nơi đây có Thanh Lương đài, nơi ở của người vợ lẽ xinh đẹp
tên là Lục Châu. Nàng đã nhảy lầu tự tử để giữ tiết nghĩa với chồng.
Cảm tác khi biên tập cuốn
"Cúc Đường di cảo" 1)
Lăng mộ im lìm dưới tán thông,
Đôi tiếng chim kêu tiễn bóng hồng.
Hoa biểu
2) mịt mù, chưa thấy hạc,
Sóng Đĩnh Hồ dâng, vắng bóng rồng.
Lận đận bao năm nơi đất khách,
Đêm nằm mơ mộng giữa tầng không.
Nhìn rặng núi xa, thầm nhỏ lệ,
Lòng gợn bao nhiêu chuyện não lòng.
(1) Theo Văn tịch chỉ thì Cúc Đường di cảo là
do Trần Quang Triều, Nguyễn Ức biên soạn.
(2) Theo Phong thiền thư, xưa Hoàng Đế từng
đúc vạc dưới chân núi Kinh Sơn. Khi vạc thành, Hoàng Đế cưỡi rồng lên tiên. Người
đời sau đặt tên chỗ đúc vạc là Đĩnh Hồ và thường dùng hai từ này để ngụ ý một
vị vua chúa nào đó chết và cưỡi rồng đi về cõi tiên.
Tiễn thị thần Mạc Dĩnh Phu 1)
đi sứ nhà Nguyên
Vĩnh biệt vua xong, giữa nắng tà,
Ly Câu hát hết, lại Hoàng Hoa 2).
Ngoái đầu từ biệt mây cung cấm.
Đôi lời tâm sự kẻ đi xa.
Được vua tin cậy, mừng cho bác.
Lận đận đời tôi, nghĩ xót xa.
Giang Nam cảnh đẹp, khi cao hứng,
Viết thơ, bác nhớ gửi về nhà.
1. Chưa rõ là ai. Có thể là Mạc Đỉnh Chi. Ông
đi sứ Trung Quốc năm 1308.
2. Ly Câu, tên một bài hát người xưa thường
hát để từ biệt nhau. Hàng Hoa, chính xác là Hoàng hoàng Giả hoa, một bài thơ
trong Kinh Thi. Người ta cho rằng đó là bài hát của vua để tiễn sứ đi xa.
BÙI TÔNG QUÂN
Tác giả:
Hiệu Thủy Tiên, không rõ năm sinh, năm mất, quê quán, chỉ biết làm quan đến
chức ngự sử đời Trần. Còn lưu được bốn bài thơ trong Toàn Việt Thi Lục của Lê
Quí Đôn.
Ngắm cảnh thu xóm núi ven
sông
Xốc áo đứng nhìn bên mé sông,
Cảnh thu như vẽ, trời xanh trong.
Chim nhạn từng đàn bay ríu rít.
Buồm con đôi cánh, gió căng phồng.
Ngoài lũy nhà tranh vương khói nhẹ,
Đầu khe chùa Phật, lá xanh hồng.
Cảnh trời hứa hẹn mùa tươi tốt,
Não ruột lòng người, ai biết không?
MẠC ĐỈNH CHI
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tên chữ là Tiết Phụ,
ngươời làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông la tổ phụ bảy đời
của vua Mạc Thái tổ Đăng Dung. Theo sach xưa, Mạc Đỉnh Chi người xấu nhưng rất
thông minh. Ông thi đậu Trạng nguyên năm 1304, sau làm quan thượng thu, từng đi
sứ Trung Quốc, để lại nhiều giai thoại.
Mừng trời tạnh
Non sông thật tươi đẹp.
Trời lại ấm, khô hanh.
Khói lồng mặt trời mọc.
Sóng gợn, nước trong xanh.
Thuyền lướt, chạm hoa lá.
Trên bờ, liễu buông mành.
Khách xa lòng ấm lại,
Mừng năm mới tốt lành.
Cảnh chiều
Mây núi xanh nhàn nhạt.
Nước sông xuân nhuộm màu.
Quạ kêu giữa chiều xế.
Nhạn tiễn mây về đâu?
Bên khe bác tiều hát.
Trong vịnh, lửa thuyền câu.
Khách xa buồn, lạnh lẽo,
Mượn chén rượu giải sầu.
Đi sớm
Vừa tỉnh giấc mơ bướm,
Sông Thương Lang đầy mây.
Ai hát điệu chài lưới,
Thuyền xuyên lớp sương dày.
Tam Sở nhiều núi thẳm,
Cửu Giang nước dâng đầy.
Liêm Khê nơi nào nhỉ?
Muốn đến thăm nơi này.
Qua Bành Trạch, thăm nơi ở cũ
của Đào Tiềm 1)
Bản tính ưa phóng khoáng.
Ghét xu nịnh, mưu cầu.
Từ quan, cởi dây ấn.
Không vì ăn, cúi đầu.
Một giậu cúc lạnh lẽo.
Dăm cây liễu gợi sầu.
Danh tiếng ông thanh khiết
Lưu lại muôn đời sau.
1. Nhà thơ đời Tấn (365 – 427), nổi tiếng khí
khái, liêm khiết. Chuyện kể một hôm nha lại bảo ông ăn mặc chỉnh tề đón một
chức sắc địa phương, ông than: “Ta há vì năm đấu gạo mà phải uốn lưng trước lũ
tiểu nhân đó sao?” Rồi ông treo ấn từ quan bỏ về làng, suốt ngày uống rượu và
ngắm hoa cúc.
CHU VĂN AN
Tác giả:
Không rõ năm sinh, mất 1370, hiệu là Tiểu Ấn, tên chữ là Linh Triệt, người
huyện Thanh Đàm, nay là Thanh Trì, Hà Nội. Sau khi thi đậu thái sinh học, ông
không làm quan, mà chỉ ở nhà dạy học, học trò rất đông, trong đó có Phạm Sư
Mạnh và Lê Bá Quát. Đến năm Khai Thái đời Trần Minh Tông, ông mới nhậm chức
Quốc Tử Giám tư nghiệp. Hiện nay chỉ lưu lại được 12 bài thơ.
Tạp hứng ở Linh Sơn 1)
Núi rừng như cảnh vẽ bình phong:
Bờ khe lơ lửng mặt trời hồng.
Lối đi cỏ mọc, người thưa thớt.
Thỉnh thoảng chim kêu trong tán thông.
1. Tøc nói Chi Linh,
huyÖn ChÝ Linh, Hải Dương ngµy nay.
Tạm nghỉ ở núi thôn Nam
Như áng mây chiều, lòng thảnh thơi.
Gió mát xua tan hết sự đời.
Cõi trần, cõi Phật xa vời vợi.
Ngoài thềm chim hót, cánh hoa rơi.
Kính họa thơ vua
Hạc múa ngoài sân, mây sát thềm.
Cầm hoa như chén, uống sương đêm.
Gió xuân thổi nhẹ rung đàn đá.
Dạo dưới hoa đào, lòng tĩnh êm.
Sông Thanh Lương 1)
Hoàng hôn, vệt nắng vắt qua đồi.
Thuyền chài trên bến đứng từng đôi.
Ngắm mãi Thanh Lương không biết chán,
Triều dâng, ráng lạnh, áng mây trôi.
1. Ở n¬i huyÖn HiÖp S¬n tiÕp gi¸p víi
huyÖn ChÝ Linh, nay thuéc tØnh Hải Dương.
Đêm trăng, đi dạo trên con
đường
có thông mọc ở núi Tiên Du 1)
Con đường rợp bóng cây.
Xóm vắng, khói mờ bay.
Chiều buông, ai thổi sáo.
Trời thấp và nhiều mây.
Dưới khe lạnh cá nhảy.
Chim ngủ trong sương dày.
Người thổi sênh đâu vắng,
Để núi lạnh thế này?
1. Tøc nói PhËt TÝch,
nay thuéc huyÖn Tiªn s¬n, B¾c Ninh.
Ao Miết Trì 1)
Hoàng hôn, bóng nguyệt giỡn bóng tà.
Dưới ao sen nở, lá xen hoa.
Chỉ thấy cá bơi, rồng không thấy.
Trời chiều vắng bóng hạc bay qua.
Rêu non đẫm nước che lấp cửa.
Thoang thoảng đường đi mùi quế già.
Lòng này chưa nguội như tro lạnh,
Nhắc đến Tiên hoàng, giọt lệ sa.
1. NghÜa ®en lµ ao Ba
Ba, ë nói C«n S¬n, huyÖn ChÝ Linh, tØnh H¶i Dư¬ng, nay kh«ng cßn n÷a.
Thơ làm ở Giang Đình
Một mình buồn đứng, ngắm thuyền câu.
Nước dâng, sáo thổi gợi thêm sầu.
Xế bóng hoàng hôn, thi hứng cạn.
Hiu hắt trời thu biếc một mầu.
Sự nghiệp công danh thành cõi mộng.
Giang hồ du ngoạn đỡ buồn đau.
Đi ở tự mình, không trói buộc,
Khác nào ngang dọc cánh chim âu.
Sáng xuân
Thảnh thơi, nhà nhỏ giữa rừng cây.
Màu xanh của lá át màu mây.
Liếp mỏng nghiêng nghiêng che rét nhẹ.
Cánh hoa sương ướt, trời như say.
Lòng như mặt giếng, luôn thanh thản.
Bên rừng lưu luyến cánh mây bay.
Khói thông sắp hết, trà đang nguội.
Một tiếng chim kêu, tỉnh mộng ngày.
Đầu hè
Nhà tranh, núi vắng, giấc mơ màng.
Gió thổi hàng cây, nắng nhạt vàng.
Chim én rủ nhau tìm tổ cũ.
Ve sầu đầu hạ hát âm vang.
Sen nở dưới khe không gợn bẩn.
Trúc mọc xanh tươi phía cuối làng.
Cành ngô phượng đậu, lâu thành biếng.
Tập sách trên bàn, gió lật trang.
Trông về Thái Lăng 1)
Xế chiều, rừng bách ngát màu xanh.
Hòn đá to nghiêng cỏ bám quanh.
Gió thổi, núi buồn thêm ảm đạm.
Trên trời mây rách dạt trôi nhanh.
Hoa rụng bờ khe, mưa lất phất.
Ngoài đồng im bặt tiếng chim oanh.
Bát ngát cỏ xuân, xanh đến lạ.
Dùng dằng định bước, bước không đành.
1. L¨ng vua TrÇn Anh
T«ng.
PHẠM SƯ MẠNH
Tác giả:
Ngày sinh, ngày mất không rõ, tự Nghĩa Phu, hiệu Úy Trai, người tỉnh Hải Dương
ngày nay. Ông là học trò của Chu Văn An, đỗ thái học sinh vào đời Trần Minh Tông (1314 - 1329), từng
giữ nhiều chức quan trọng, nổi tiếng về văn học và đạo đức. Cùng bạn thân là Lê
Quát, ông đề nghị một số cải cách cuối đời Trần, nhưng không được nghe theo.
Tác phẩm: Hiệp Thạch tập (đến nay còn thất lạc), 30 bài thơ trong “Toàn Việt
thi lục” và một bài văn bia.
Trên thuyền, tức sự làm thơ
Ba vua thay đổi vẫn làm quan.
Những mong lên núi sống an nhàn.
Đốt hương ngồi ngắm trăng sông Nhị.
Quê nhà chợt nhớ, nghĩ lan man.
Đi ngang qua mộ An Phủ Nguyễn
Sĩ Cố 1)
Hàng nghìn mẫu trúc rộng bao la.
Trước mồ An Phủ ngẫm xót xa.
Trong núi, nhà xưa ngồi uống rượu,
Nay ngựa dừng chân giữa bóng tà.
1. Chưa râ lµ ai.
Đề chùa Cam Lộ 1)
Tia nắng bình minh gõ cửa thiền.
Bóng chùa dưới nước hiện dần lên.
Thơ cũ Mục Lăng nay đọc lại. 2)
Gió vờn sương trắng lẫn tóc đen.
1. Chưa râ ë ®©u.
2. Bµi th¬ nãi vÒ viÖc
TrÇn Minh T«ng ®ưîc ch«n ë Môc L¨ng.
Qua động Hoàng Long
Phố Nha, núi Thạch 1) đứng bên sông.
Buồm căng, thuyền đến động Hoàng Long.
Núi núi kề nhau như chuỗi ngọc.
Bầu trời như nước, rất xanh trong.
1. Chưa rõ động Hoàng Long, núi Thạch và phố
Nha ở đâu, có lẽ là những địa danh gần quê tác giả.
Lầu trên hồ ở chùa Đông Sơn 1)
Chùa cổ hồ xưa cỏ mọc dày.
Trúc thông kín núi, gió mưa bay.
Người già trong xóm giờ còn kể:
Thái sư 2) nam tiến ghé nơi này.
1. Chưa râ ë ®©u.
2. Tøc TrÇn NhËt DuËt,
lóc ®¬ưa qu©n ®i ®¸nh Chiªm
Thµnh.
Qua Tiêu Tương 1)
Tiêu Tương, Thanh Thảo ở kề nhau.
Thu về, phong rụng, lá vàng au.
Hai bà phi mất 2), cung không mở.
Chiều xế, chim kêu những gợi sầu.
1. Tiêu Tương, nơi hợp lưu hai con sông Tiêu
và Tương, phía bắc huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam. Thanh Thảo, một hồ nước gần
đó. Có lẽ Phạm Sư Mạnh làm bài này khi đi sứ Trung Quốc.
2. Tương truyền Nga Hoàng và Nữ Anh là con gái
vua Nghiêu và là vợ vua Thuấn. Khi vua Thuấn mất, hai bà phi khóc thương ở bờ
sông Tiêu cho đến chết.
Thơ đề ở tháp Báo Thiên 1)
Đông tây trấn giữ, vững kinh thành.
Tháp cao sừng sững, chọc trời xanh.
Vững chãi non sông nhờ cột đỡ.
Mãi mãi không mòn đỉnh tháp canh.
Gió thổi, chuông kêu như ứng đáp.
Như đèn, sao sáng suốt năm canh.
Tháp làm bút vẽ, sông làm mực,
Những muốn làm thơ vịnh thắng danh.
1. Tháp Báo Thiên ở phường Báo Thiên, huyện
Thọ Xương thành Thăng Long, nay là phố Nhà Thờ ở Hà Nội. Vua Lý Thánh Tông cho
xây tháp này năm 1057, sau bị Vương Thông phá để lấy đồng làm binh khí..
Lên núi Dục Thúy,1) đề thơ
Được cùng vua theo hầu,
Thuyền đậu bến Nha Đầu.
Lên cao - đâu cũng biển,
Nước và trời như nhau.
Chùa chùa nơi Bồng Đảo. 2)
Buồm buồm chốn Doanh Châu 3).
Tuổi mới sáu mươi sáu.
Lòng hướng Phật từ lâu.
1. Nói Non Nưíc ë Ninh B×nh.
2. Tư¬ng truyÒn nh÷ng n¬i thÇn tiªn ë
ngoµi biÓn Bét H¶i.
3. Đảo Tam Thần, gồm các địa danh Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Chu ở biển Bột Hải, được coi là chốn thần tiên.
Đi chơi núi Phật Tích, ngẫu
nhiên đề thơ
Leo lên đỉnh núi, khách làng văn
Ngắm cảnh, quên bao nỗi nhọc nhằn.
Gió thổi rừng thông thành sóng lạnh.
Mây vờn quanh núi tựa vành khăn.
Chín khúc nhạc Thiều 1) vang khắp núi.
Đỉnh non mây trắng tự Tam Thần 2)
Thôi, chuyện họ Từ 3) đừng nói nữa.
Ngâm thơ, thổi sáo, bước tần ngần.
1. Tức nhạc của vua Thuấn. Vì nhạc có chín
khúc nên gọi là "chín khúc nhạc thiều".
2. Đảo Tam Thần, gồm các địa danh Bồng Lai,
Phương Trượng và Doanh Châu ở biển Bột Hải, được coi là chốn thần tiên.
3. Ý nói chuyện Từ Thức lên tiên.
Miếu Hạng Vũ1) ở Ô Giang
Cả đời bàn mãi chuyện hưng vong.
Rượu thơm một chén viếng Trùng Đồng. 2)
Giết kẻ đầu hàng 3), còn bội ước. 4)
Mưu đồ nghiệp bá thoắt thành không.
Trăng khóc anh hùng, soi đất Hạ. 5)
Mây buồn việc nước, phủ Giang Đông. 6)
Bao kẻ hơn người tài nhổ núi, 7)
Mà xác thành tro dưới cỏ đồng.
1. Tức Hạng Tịch, người đất Nhị Thế đời Tần.
2. Nghĩa đen là mắt có hai con ngươi. Theo sử
ký Tư Mã Thiên, Hạng Vũ là người tướng mạo dị thường, mắt có hai con ngươi.
3. Chỉ việc con Tần Thủy Hoàng là Tần Tử Anh
đã đầu hàng rồi mà Hạng Vũ vẫn giết.
4. Khi Lưu Bang và Hạng Vũ cất quân đánh Tần,
vua Sở có giao hẹn là hễ ai tiến vào cửa ải nhà Tần trước, người ấy sẽ làm vua.
Kết quả Lưu Bang đến trước nhưng lại bị Hạng Vũ đem quân đánh để giành ngôi.
5. Thuộc huyện Linh Bích, tỉnh An Huy, Trung
Quốc, là nơi Hạng Vũ bị Lưu Bang vây hãm.
6. Chỉ đất Sở cũ, thuộc hạ lưu sông Trường
Giang.
7. Lấy ý từ câu hát tuyệt mệnh của Hạng Vũ khi
bị vây ở Cai Hạ.
Đi kinh lý trong quận
Đậu thuyền bến đá ngược dòng sông.
Đón sứ thần lên, người rất đông.
Lô Thủy, Thao Giang dân tụ họp.
Văn Lang, 1) Thục Quốc 2) sử ghi công.
Nay nước nhà yên, dân một mối,
Dẫu đang lắm chuyện chửa xuôi dòng.
Ta vâng mệnh vua đi kinh lý,
Dẹp loạn, trừ gian vì việc công.
(1) Tên nước ta vào thời Hùng Vương.
(2) Tức Thục An Dương vương.
Đi tuần ở châu Chân Đăng 1)
Đất trời tạo dựng Tam Giang 2) lộ.
Chưa thấy ở đâu đẹp thế này.
Cổ lũy bao quanh trăm tộc thượng.
Chân Đăng to lớn phía miền tây.
Đá như tường chắn, ao làm lũy.
Nhà chòi ngất ngưởng tít trên cây.
Muốn lên Côn Luân thăm Huyền Phố, 3)
Cưỡi mây, đạp gió tựa chim bay.
1. Châu Chân Đăng, gồm lộ Quí Hòa và có lẽ cả
lộ Tuyên Hóa đời Trần.
2. Tức trấn Tam Giang nằm giữa sông Hồng, sông Đà và sông Lô.
3. Có hai cách hiểu. Một: Côn Luân, tên một
dãy núi lớn ở Trung Quốc, tương truyền ở đây có đỉnh Huyền Phố là nơi ở của
thần tiên. Hai: Tức Loa Thành ở xã Cổ Loa, Đông Anh, kinh đô của An Dương
vương. Người nhà Đường gọi nơi này là Côn Luân.
Lên núi Thiên Kỳ,1) đề thơ
lưu niệm
Sông núi Đông Triều tựa cõi tiên.
Còn chưa ở ẩn, bởi vua hiền.
Nay về thăm lại đồng xanh lúa.
Núi rồng mây phủ khó leo lên.
Lối trúc đường hoa toàn đá đẹp.
Nhà bên dòng nước, gió ngoài hiên.
Đây nơi tiên đế xưa du thưởng,
Xuân đến thường buồn, chẳng ngẫu nhiên.
1. Tên núi ở Đông Triều.
Thơ đề ở động Bảo Phúc, huyện
Hiệp Sơn
Được buổi đi chơi, rỗi việc công.
Động nằm sát biển, nước xanh trong.
Tử Phủ, Thanh Đô, 1) kia, trên nước.
Núi ẩn trong mây xốp bập bồng.
Thu đến, Bạch Đằng thêm sinh khí.
Kỳ quan vũ trụ hiện đằng đông.
Ướm hỏi Cát Tiên 2) xem có thể
Cho ta một nửa núi này không?
1. Nơi ở của Thiên Đế.
2. Tức Cát Hồng, một đạo sĩ nổi tiếng đời Tần.
Thơ đề núi Hoa Nham, Đông
Triều
Như đóa hoa sen vút chọc trời,
Trấn giữ nghìn năm sát biển khơi.
Mây như cung điện, tài điêu khắc,
Chùa tựa bình phong, hoa thắm tươi.
Bắc phương - Vạn Kiếp như dương kích.
Xuân Thủy nam phương mộc sáng ngời.
Chống gậy chiều chiều lên ngắm cảnh.
Tinh hoa sông núi thấm vào người.
Họa thơ "Đề trạm Nhị
Hà" của sứ thần nhà Minh
Bài
một
Ao Chấn Tân soi, thấy mặt gầy.
Tay áo phất phơ trước gió bay.
Chiều xế, núi in hình xuống nước.
Ba sông cuồn cuộn đổ về đây.
Vạn dặm ruổi rong, đầu bạc trắng,
Làm quan, nhẩm tính, đã lâu ngày.
Lòng vẫn nhớ quê, hồn chợt hứng,
Khi đọc thơ ngài thấy tứ hay.
Họa thơ "Đề trạm Nhị
Hà" của sứ thần nhà Minh
Bài
hai
Nước bạc từng ô, sáng giữa đồng.
Chiều thu, chống gậy bước thong dong.
Dập dờn trăng nổi sông Ngân Hán, 1)
Sông Nhị 2) hoàng hôn thoáng bóng rồng.
Nét chữ ngài đanh như thép bạc.
Mềm mại câu thơ tựa ráng hồng.
Trong trạm sứ thần thường rảnh rỗi,
Kể nhiều chuyện lạ khắp tây đông.
(1) S«ng Ng©n Hµ.
(2) S«ng Hång ngµy nay.
Đi chơi trên núi
Bài
một
Mây tạnh, trời quang, lòng thảnh thơi.
Lên núi chiều thu dạo, nghỉ ngơi.
Bóng tùng cổ kính che tầm mắt.
Lững lờ suối lạnh cá đang bơi.
Đồng Long 1) cuồn cuộn xuôi ra biển.
Hương Tượng 2) núi cao đến chạm trời.
Cùng bạn đồng liêu vui ngắm cảnh.
Phủi rêu trên đá, viết thơ chơi.
1. Cã lÏ ®©y lµ mét cöa
biÓn ë NghÖ An.
2. Tªn nói thuéc huyÖn
PhØ Léc, nay lµ Can Léc, Hµ TÜnh.
Đi chơi trên núi
Bài
hai
Vốn vẫn thích châu hẻo lánh này.
Cùng nhau cưỡi ngựa dạo hôm nay.
Quan chức ở đời như hạt cát,
Mà việc như sông chảy suốt ngày.
Sống mãi kinh thành giờ bạc tóc.
Trên núi nhà tranh sách chứa đầy.
Những muốn xin vua, vua có hiểu,
Cho về ở ẩn giữa rừng cây?
LÊ QUÁT
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, tự là Bá Quát, người huyện Đông Sơn, Thanh Hóa,
từng làm tới Thượng thư Hữu bật nhập nội hành khiển. Học trò xuất sắc của Chu
Văn An; còn lưu được 7 bài thơ.
Nỗi lòng
Bài
một
Việc nhiều mà ốm, hóa ra nhàn,
Được ngồi yên tĩnh ngắm nhân gian.
Song Mai 1) gió thổi, màu hoa cúc
Ánh vàng lên tận mép lan can.
(1) CÇu Song Mai - chưa râ ë ®©u.
Nỗi lòng
Bài
hai
Đã mấy năm nay chán sự đời,
Nhớ nhà, buồn đọc Thức Vi 1) chơi.
Trời lạnh, giật mình, năm sắp hết.
Trong mưa gió thổi, cánh lan rơi.
(1)
Tªn mét bµi th¬ trong Quèc Phong, Thi
Kinh, nãi vÒ t©m tr¹ng ng¬uêi lưu l¹c muèn trë vÒ quª h¬ư¬ng.
Tiễn Phạm Sư Mạnh đi sứ
phương Bắc
Vượt mười hai ải, mấy dặm ngàn.
Mong người và ngựa được bình an.
Sứ Bắc, bác đi, tôi ở lại.
Kẻ được công danh, kẻ được nhàn.
TRẦN NGUYÊN ĐÁN
Tác giả:
Sinh năm 1325, mất 1390, hiệu là Băng Hồ, quê lộ Thiên Trường, nay là Ninh
Bình, là cháu tằng tôn của Trần Quang Khải, và là ngoại tổ Nguyễn Trãi. Ông
được bổ nhiệm làm quan rất sớm, tới chức Tư đồ phụ chính. Cuối đời về ở ẩn tại
núi Côn Sơn. Hiện còn lưu được 51 bài thơ.
Kính họa vần thơ "Hoàng
mai tức sự" của nhà vua
Năm tháng trôi qua, tóc bạc dần.
Tùng trúc ngoài vườn diễu đạo nhân.
Tể tướng bây giờ không quá bận,
Nhìn bóng cây đang nhích lại gần.
Thơ làm vào tháng Giêng, năm
Mậu Thân (1368)
Ba phần tóc bạc, chốn nhân gian,
Sự đời đang rối, khó an nhàn.
Chỉ tiếc không như Tiền Nhược Thủy, 1)
Tuổi đời bốn chục đã từ quan.
(1) Ngưêi ®êi Tèng, lµm quan ®Õn chøc §ång
tri khu mËt vµ xin tõ chøc n¨m 40 tuæi.
Thơ làm trong đêm, đi thuyền
về
Đất Biện phương đông, bắc - đất Yên, 1)
Dân thường bị giết, đói triền miên.
Mượn ánh đèn chài xem sách cổ.
Làm sao yên giấc ngủ trên thuyền?
(1) Tøc Yªn Kinh, nay
lµ thµnh phè B¾c Kinh, BiÖn - tøc BiÖn Kinh, nay lµ thµnh phè Khai Phong. §©y
lµ hai kinh ®« ®êi Tèng.
Thơ làm lúc đêm khuya
Đêm thu, gió lạnh thổi ngoài sân.
Hiu hắt đèn khuya lụi tắt dần.
Đôi chút ngâm nga lòng tĩnh lại.
Ngủ đi là hết nợ duyên trần.
Đêm không ngủ
Trong phủ thu buồn, chậm khắc canh.
Vườn cũ cây tùng vẫn biếc xanh.
Bao việc đang chờ, toàn việc gấp.
Thà bệnh còn hơn lúc bệnh lành.
Thơ làm vào tháng Sáu năm
Nhâm Dần (1362)
Hè hạn, bây giờ thu ngập úng.
Lúa khô, mạ thối, khổ muôn phần.
Đọc nghìn cuốn sách mà vô dụng.
Bạc đầu còn nợ nỗi thương dân.
Tháng Chín, ngắm hoa cúc, họa
bài thơ của vua
Hoa nở khắp nơi, rợp cấm thành, 1)
Đang mùa cúc đẹp tiết thu hanh.
Nhị ngọc ngậm sương đêm trĩu nặng.
Bông hoa nhuộm nắng rực trên cành.
Mừng tiết cuối thu trời thật đẹp,
Chớ phụ lời thề xưa yến oanh.
Nhà nghèo nhưng chẳng tham tiền bạc.
Sử còn nhắc mãi chuyện đồng tanh. 2)
(1) Thành vua ở.
(2) Theo sách Hậu Hán thư, Thôi Liệt vì có năm
trăm đồng mà mua được chức Tư đồ. Từ đó
có câu "hơi đồng tanh" để chỉ việc mua quan bán tước.
Họa vần bài thơ "Thu
hoài" của vua
Soi gương - việc nước khiến mau già.
Nhìn giấy đau đầu, chẳng thiết tha.
Đất nước thanh bình, trời đã tạnh.
Gió thổi trên lầu tựa sáo ca.
Sách nhiều như biển mà ngán đọc.
Tỉnh rượu, việc nhiều mới nhớ ra.
Ngoài ải Tiêu Quan 1) giờ tĩnh lặng.
Thanh đao chớm gỉ, gác trong nhà.
(1) Một ải quan trọng ở huyện Cố Nguyên, tỉnh
Cam Túc.
Cảm xúc đêm ba mươi tháng
Chín
Song thưa nửa khép, đọng hương hoa.
Sông Ngân mờ đục, ánh trăng tà.
Nấu cháo, trong niêu thơm gạo mới.
Lư cũ hương xông, đợi ngấm trà.
Sắc thu nghìn lạng không mua nổi.
Thời gian nhàn phí cứ trôi qua.
Cúc tàn, mai nở, mang ân mới.
Đèn đỏ, sách vàng, ấy nghiệp ta.
Đỉnh Phượng Hoàng ở núi Chí
Linh
Đỉnh cao Song Phượng vút trời xanh.
Núi Phượng Hoàng xưa vốn nổi danh.
Tháp ở Lân Phong soi bóng nước.
Suối bên Miết Thủy chảy yên lành.
Bậc đá cheo leo rêu phủ kín.
Sau mưa cầu gẫy, mốc lên nhanh.
Gió thổi, thông reo vang giữa núi,
Như phượng bay về tấu cửu thanh. 1)
(1) Tức chín khúc nhạc thiều của vua Thuấn. Tương
truyền mỗi lúc cử nhạc đều có chim phượng bay đến.
Tháp Bảo Nghiêm
Chín tầng vững chắc, đẹp như tranh,
Nơi thiêng hương khói Phật lòng lành.
Ban đêm gió thổi, buồn tiếng mõ.
Giữa ngày nắng dọi, nước long lanh.
Na xá 3) nghiêng nghiêng cây bút trắng.
Tăm Ma 4) yên vị chiếc trâm xanh.
Ai đem thất bảo tô lên tháp,
Công phu chạm trổ, khổ dân lành.
(3) (4) Chỉ nơi tu hành của nhà Phật, chưa rõ
ở đâu.
Mưa nhỏ
Mưa núi đầu xuân, ngày lại ngày,
Từ núi chui ra những đụn mây.
Mặt trời khi tối, khi sang sáng.
Màn mưa khi mỏng lại khi dày.
Khóm trúc cài trâm, mai ngậm nụ.
Để báo tiết trời luôn đổi thay.
Hương cháy trong lò tàn mấy lượt,
Mà ông hàng xóm vẫn đang cày.
Trong núi ngẫu nhiên làm thơ
Ngựa béo không màng, chán áo lông. 1)
Thích về ở ẩn giữa rừng thông.
Gió thổi, ngồi yên nghe tiếng lá,
Đưa mắt về tây ngắm ráng hồng.
Mắt xanh, 2) chủ tiếp người xanh tóc. 3)
Áo trắng 4) khách chờ có rượu không.
Đừng học Khuất Nguyên mà tự vẫn.
Ai tỉnh, ai say tự ở lòng.
1. Chỉ sự giàu sang.
(2) Tương truyền Nguyễn Tịch đời nhà Tấn khi gặp bạn tri kỷ thì mắt xanh lên, và trở nên trắng khi nhìn kẻ xấu.
(3) Chỉ người trẻ tuổi.
(4) Đào Tiềm người đời Tấn thích uống rượu và chơi hoa cúc. Một lần không
có rượu uống, ông đang hỏi hoa cúc thì bỗng có bạn là Vương Hoằng mặc áo trắng đến chơi. Tác giả dùng điển tích này để nói về cảnh thú của người ở ẩn.
Tháng Chín, có người đến
thăm, cùng làm thơ
Đầy tớ rung chuông báo có người.
Mừng được khách văn chợt ghé chơi.
Vườn đầy hoa đẹp, tha hồ ngắm.
Yên tĩnh cùng ngồi nghe lá rơi.
Đai rộng, áo chùng, già hợp cảnh,
Bốn ngựa, xe cao, tỉnh mộng đời.
Một chén gượng say, mình được gặp,
Ngại gì lau sậy có sương rơi.
Mừng Chu Tiểu Ân 1) được bổ
chức
tư nghiệp ở trường Quốc tử
giám
Việc học từ giờ chắc đổi thay.
Trường lớn ân vua đã có thầy.
Đức tựa Thái Sơn, kinh sử thạo.
Kính Lão, sùng Nho, chính sự hay.
Trẻ già cùng tắm sông Nghi Thủy, 2)
Ngày ông giày cỏ trở về đây.
Nghiêu Thuấn rũ xiêm mà trị nước,
Nhờ được Sào, Do 3) giúp một tay.
(1) Tức Chu Văn An.
(2) Một con sông ở tỉnh Sơn Đông, quê của
Khổng Tử.
3) Tức Sào Phủ và Hứa Do, hai ẩn sĩ đời Nghiêu
Thuấn.
Ngày thu
Bên sông, nhà lá, cỏ đầy sân.
Mùa thu, vườn nhỏ hứng vô ngần.
Mai nở, cúc đưa hương đệ tử.
Thông xanh, trúc mảnh giống công thần.
Cây rộn gió reo, lòng tĩnh lặng.
Đường dài, đất rộng chẳng chùn chân.
Phía tây cảnh sắc giờ thay đổi.
Vấn vương cá vược với rau thuần. 1)
(1) Tương truyền Trương Hàn người đời Tấn nhớ mùi vị canh rau thuần và chả cá vược ở quê mà từ quan về nhà.
Đề nhà quan diệu của Đạo Lục
Thái Cực 1) ở Nguyệt Giản
Xe ngựa nhà ai chạy lối bên?
Thử đem điều ấy hỏi tầng trên.
Xuân hết, đào lê hương cũng hết.
Thu qua, thông cúc vẫn còn nguyên.
Sống chết lòng son này vẫn thế.
Mấy lần chim hạc trắng thành đen. 2)
Doanh Châu, Bồng Đảo 3) đâu không biết,
Nhưng rũ bụi trần, ta giống tiên.
1) Chưa rõ là ai.
(2) Theo sách Cổ Kim chú, chim hạc sống đến
nghìn năm sẽ hóa thành màu xanh, sống hai nghìn năm nữa lại hóa màu đen.
(3) Các địa danh nơi ở của thần tiên ở biển
Bột Hải.
Tuổi già đến
Những muốn về già được lãng quên.
Áo mũ chầu vua mãi cũng phiền.
Thu hết, cá tôm nương biển cả. 1)
Già vui con cháu cảnh bên đèn.
Mắt kém, ban ngày lười đọc sách.
Rượu buồn, đêm ngủ giấc không yên.
Ngũ Lăng 2) ngày trước không màng tới.
Đêm mơ tiếng nỏ bắn không tên. 3)
(1) Ngoài biển, vào dịp cuối thu là lúc sóng
yên nước lặng, tôm cá thường ra biển vào thời gian này để kiếm ăn. Ở đây tác
giả ví mình muốn ở ẩn lúc về già.
2) Năm tên đất ở Trung quốc, là An Lăng,
Trường Lăng, Dương Lăng, Miếu Lăng và Bình Lăng.
(3) Ý nói về già sức yếu, như nỏ không tên,
chẳng được tích sự gì.
Tiễn Long Nham 1) về Diễn
Châu 2)
Bạc đầu còn bận việc trong kinh,
Để vắng bờ sông, nước dập dình.
Tôi vẫn làm quan nơi Bách phủ, 3)
Mà ông trở lại chốn Lai đình. 4)
Mắt xanh nhìn nhau cùng lưu luyến.
Núi biếc hồn thơ thật hữu tình.
Đi đi, đừng sợ nhiều mưa gió.
Tùng bách vườn xưa chẳng hại mình.
(1) Chưa rõ nguời nào.
(2) Phủ Diễn Châu, phía bắc Nghệ An, nay là
huyện Diễn Châu.
(3) Đời nhà Hán thường trồng cây bách bên tòa
Ngự sử, nên tòa này thường được gọi là Bách phủ.
(4) Ngày xưa ở Trung quốc có nguời tên là Lão
Lai Tử rất mực hiếu thảo. Tương truyền đã bảy mươi tuổi, hàng ngày ông còn mặc
áo hoa năm sắc, múa trước sân như trẻ con, thỉnh thoảng lại ngã xoài giả vờ
khóc để cha mẹ bật cười vui vẻ. Sau này chữ Lai Đình được dùng để chỉ việc ở
nhà còn bố mẹ già, có khi để chỉ người con hiếu thảo.
Hoa cúc đỏ
Chớm thu, người bệnh bớt ưu sầu.
Trời trong, mây trắng đuổi vờn nhau.
Rượu thơm Bành Trạch 1) đầy ly ngọc.
Suối mát Nam Dương 2) biếc một màu.
Hương thơm sắc đẹp, hoa này hiếm.
Cuối mùa, khí phách vẫn bền lâu.
Say rượu, hoa không làm đỏ mặt,
Trời đẹp, lẽ nào không tiếp nhau!
(1) Đào Tiềm người nước Tấn, quê ở Bành Trạch.
Ông thích rượu và hoa cúc, vì vậy các nhà thơ xưa thường dùng từ rượu Bành
Trạch, chỉ rượu ngon.
(2) Tên đất thuộc tỉnh Hà Nam có suối Cúc Đàm
chảy qua, tương truyền ai uống sẽ sống lâu.
Trong núi, cảm hứng
Mười năm chính sự, ngọn đèn mờ. 1)
Chống gậy vừa đi vừa nghĩ thơ.
Chỉ có vị sư sang hỏi chữ.
Không ai thăm viếng, chẳng ai chờ.
Cấp phát Thanh miêu 2) e chẳng dám.
Lui về Lục Dã 3) chỉ trong mơ.
Đợi đến công thành, danh được toại,
E xương bạc trắng tự bao giờ.
(1) Chỉ tuổi già.
(2) Vương An Thạch đời nhà Tống thi hành
"Thanh miêu pháp", theo đó, nhà nuớc cho dân vay tiền lúc mạ còn
xanh, lúc lúa chín sẽ trả cả gốc và lãi.
(3) Tên biệt thự lúc về hưu của Bùi Độ, người
đời Đường.
Cảm xúc khi ở trong quân
Tay bút, tay gươm luôn đó đây.
Ra đi thấm thoắt đã trăm ngày.
Đất khách buồn nghe gà gáy sáng.
Dục về chim cuốc gọi đâu đây.
Mặc công danh đợi, còn chưa muộn.
Bạn bè phiêu bạt tựa làn mây.
Biển rộng, trời cao, nhàn tản quá.
Sóng yên, gió lặng, cánh chim bay.
Dùng vần thơ của quan thiếu
bảo Trương
Công 1), đề chùa Đại Minh ở
núi Phả Lại
Buổi loạn, thời gian trôi rất nhanh.
Gió thổi buồm căng cuộc dạo quanh.
Như cá kình kêu, chuông vọng núi.
Tháp nhô tựa kiếm chọc trời xanh.
Biên ải trăng soi, lòng khách chạnh.
Chùa xưa mưa nhỏ, khói yên lành.
Sự nghiệp Bình Hoài 2) ghi vách núi.
Cúi soi xuống nước, tóc còn xanh.
(1) Chưa rõ là ai.
(2) Bùi Độ người đời Đường dẹp yên loạn lạc ở
đất Hoài Thái, được nhà vua sai Hàn Dũ làm bài Bình Hoài bi ký để ca ngợi.
Mùa thu, thả thuyền ra chơi ở
Đông Triều
Đầu bạc hai ông, lại yếu già,
Chơi thuyền, uống rượu, nước bao la.
Thủy triều đang rút, ngăn dòng chảy.
Một cánh chim bay giữa nắng tà.
Cảnh đẹp mà buồn vì thế sự,
Nhiều nỗi thăng trầm, nghĩ xót xa.
Mịch La, Xích Bích 1) toàn chuyện cũ,
Sớm muộn lại về với núi hoa.
1. Mịch La là tên con sông ở Hồ Nam, nơi Khuất
Nguyên trầm mình tự tử. Xích Bích, đoạn sông Trường Giang chảy qua huyện Hoàng
Cương, tỉnh Hồ Bắc, nơi xẩy ra trận thủy chiến giữa Chu Du và Tào Tháo. Tào
Tháo đại bại.
Ngẫu hứng đề thơ
Vốn thường vẫn biết có là không.
Có không, không có ở trong lòng.
Mọi cái ở đời đều có lý.
Xuân về đâu cũng có xuân phong.
Trà đặc, rượu ngon mời khách quý.
Trúc thẳng, mai gầy bạn lão ông.
Rỗi việc, soi gương mà luống thẹn.
Ốm già vẫn bám chức tam công. 1)
(1) Ba chức lớn trong triều là Thái úy, Tư đồ
và Tư không. Tác giả lúc này giữ chức Tư
đồ.
Đề sau tập thơ quan Lỗ Bạ 1)
Công danh, tài đức vượt Hy, Hiên 2).
Dân vui, nước thịnh, lắm người hiền.
Các quan văn võ đều hay chữ.
Thơ phú say mê cả thợ thuyền.
Ngang dọc đất trời lòng đã quyết.
Đánh Nam dẹp Bắc cứ triền miên.
Hết khảo thư văn, xem luyện võ.
Bao giờ bác được phút ngồi yên?
(1) Chưa rõ là ai.
(2) Tức Hiên Viên và Phục Hy, hai ông vua
trong thần thoại Trung Quốc.
Thơ đề nơi chỗ ở cũ của Sùng
Hư 1)
Áo quan tạm cởi để cùng ông
Gậy lê, giày cỏ dạo trên đồng.
Trước hiên mây tụ, trăng kề cửa.
Suối reo róc rách, trời xanh trong.
Tạm đóng cửa huyền vào cửa tĩnh.
Ở đời có sống cũng như không.
Được gặp sư huynh dù đã muộn,
Nhưng vẫn bao la sáng cõi lòng.
(1) Chưa rõ là ai.
Gửi tặng quan Kiểm chính
Nguyễn Ưng Long ở Nhị Khê 1)
Lạnh lẽo mưa phùn lẫn gió sương.
Quán trọ đìu hiu, khách vấn vương.
Bên dậu, cúc già còn giữ tiết.
Dưới khe, mai trắng nức mùi hương.
Rợ Hồ chưa đến Hoa Môn ải, 2)
Bùi Độ lăm le Lục Dã đường. 3)
Trăng non sao vội cày mây sớm,
Chức Tử vi lang 4) mở rộng đường.
(1) Tức Nguyễn Phi Khanh.
(2) Một cửa ải ở phía bắc Trung Quốc.
(3) Tên ngôi nhà lúc về hưu của Bùi Độ, nhân
vật nổi tiếng đời Đường.
(4) Chức quan ở tòa Tử vi sảnh đời Đường. Tác
giả muốn nói tài Nguyễn Phi Khanh đáng được giao chức trọng.
Họa vần bài thơ "Tân
bình thư sự" của
Phạm Sư Mạnh, quan An phủ sứ
trấn Tân Bình
Chí sĩ đâu nề vượt biển xa,
Với cả lòng mình, cất tiếng ca.
Dầm mưa, gội nắng đền minh chúa.
Hang hùm, ổ rắn diệt trừ ma.
Nhật nguyệt đầy vơi, trông dễ thấy.
Người đời tốt xấu khó nhìn ra.
Từ lâu hẹn gặp nơi xa cách,
Ngâm trọn "Đình Vân", 1) trăng xế
tà.
1) Một bài thơ tả nỗi nhớ bạn của Đào Tiềm,
người đời Tấn.
Tặng tiến sĩ
Khoa thi vua mở, chọn người hiền,
Mong ngày chim phượng vụt bay lên.
Ngựa ruổi đường hoa, quần áo gấm.
Bảng vàng trước cổng có ghi tên.
Ta yếu, già nua, về Lục Dã, 1)
Xin nhường lớp trẻ dịp thăng thiên.
Mong chẳng bao lâu dân được nghỉ,
Biên thùy hết giặc, nước bình yên.
1. Chưa rõ ở đâu.
Họa vần bài thơ “Ban yến cho
những người
đỗ tiến sĩ ở điện Quan Đức”
của nhà vua
Ban mai, vườn cấm, bóng cây xiên.
Yến bày bát ngọc, lộc bề trên.
Các bậc đại khoa thơ xướng họa,
Mũ cài hoa ngự bậc danh hiền.
Ân cần huấn dụ, vua mong mỏi.
Vinh hoa, phú quí, mọi người khen.
Dẫu muốn chúc nhiều, không chúc hết.
Chúc cho đất nước được bình yên.
Tặng Chu Tiểu Ẩn 1)
Từ lâu lòng nguội mộng công danh.
Giá sương, mai vẫn đẹp trên cành.
Mây trắng chồng cao, nhà khuất núi.
Ngựa đi mỏi mệt chốn kinh thành.
Trướng huệ bỏ không, chim oán giận 2).
Bánh xe buộc cỏ 3), cứu dân lành.
Nước đang còn thịnh, trời đang giúp,
Sao bác chịu già với núi xanh?
1. Tức Chu Văn An.
2. Bài Bắc Sơn di văn của Lý Hoa đời Tề có
câu: “Huệ trường không hề dạ hạc oán”,
nghĩa là trướng huệ bỏ trống làm chim hạc ban đêm oán giận. Ở đây tác giả nói
ngược lại, ý khuyên Chu Văn An nên ra giúp nước.
3. Bánh xe quấn cỏ bồ: Đời xưa các vua thường
lấy cỏ quấn vào bánh xe để đón người hiền tài. Xe đi êm tỏ ý kính trọng.
Họa vần thơ của ông đồng tri
phủ
hữu ty Lê Mai Phương
Bác ngoại năm mươi, thế cũng già.
Việc đời đã trải, chán phù hoa.
Lạnh lùng sông Nhị, trăng thiên cổ.
Xóm vắng ngồi yên, ngắm bướm hoa.
Phúc họa đời mình không thiết nghĩ.
Chức nhỏ, buồn vui với nước nhà.
Chầu về, trà rượu xua lo lắng,
Dạy bầy con trẻ đọc ê a.
Dùng vần thơ của quan đồng úy
Hồng Châu
là Phạm Công để đưa trình các
quan đang chấm thi
Các ông vất vả, nghĩ mà thương.
Khó lòng sĩ tử dòm qua tường.
Không để chung chuồng gà với phượng.
Biết tìm từ đất đá hoa cương.
Có thêm Đồng Tử 1), hưng nhà Hán.
Lưu Phần 2) bỏ sót, yếu nhà Đường.
Đã có chiếu vua cho lấy rộng,
Nhưng trung phải xét trước văn chương.
1. Tức Đổng Trọng Thư, một nhà nho lớn đời Hán
Vũ Đế.
2. Người đời nhà Đường, trong một khoa thi
hương, Lưu Phần kịch liệt phê phán bọn hoạn quan nên bị đánh hỏng.
Trên đường phủ Thanh Hóa
Việc quân năm ngoái bắt qua đây.
Bây giờ lại đến, sáng hôm nay.
Đang hạn, thấy mây đùn phía bắc.
Giữa mùa sao Hỏa chạy về tây 1).
Tống Giang, sông hẹp, lơ thơ nước.
Đại Lợi 2), núi cao cỏ mọc dày.
Châu Ái bây giờ không giống trước.
Hỏi chuyện Đinh Lê ở đất này.
1. Kinh Thi có câu: Thất nguyệt lưu hỏa, tức
là Tháng Bảy sao Hỏa chạy về tây. Ở đây tác giả dùng ý ấy để nói thời tiết đã
sang tháng Bảy.
2. Tống
Giang, Đại Lợi, các địa danh ở Thanh Hóa.
No comments:
Post a Comment