Tuesday, February 24, 2015

VIỆT NAM LƯỢC SỬ DIỄN CA - 8



21
TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 - 1585)

Hôm nay ông kể chuyện
Về một người tuyệt vời,
Một nhà thơ, ông trạng,
Buổi Mạc - Lê giao thời.

Vâng, đúng một ông trạng,
Dân gian gọi trạng Trình,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, phải nói,
Cực giỏi và thông minh.

Nào, ông bắt đầu kể.
Cũng không dài lắm đâu.
Các cháu nghe, cố nhớ.
Nào, chúng ta bắt đầu.

*
Có một anh chàng nọ,
Nghèo, chẳng còn gì ăn.
Vợ chau mày, con đói,
Anh ta ngồi bần thần.

Bất chợt, anh ta nhớ,
Hình như xưa tổ tiên
Để lại chiếc ống quyển,
Dặn lúc nào thiếu tiền

Hay tiệt hết đường sống,
Gia cảnh quá bần hàn,
Thì mở ra, trong đó
Có bức thư gửi quan.

Chiếc ống quyển nhỏ bé
Giấu kỹ trên xà nhà,
Qua nhiều đời, ám khói
Được lấy xuống, mở ra.

Bên trong có thư thật.
Anh ta mang bức thư
Đến nhà quan sở tại,
Vẫn chưa rõ thực hư.

Lúc ấy quan đang nghỉ,
Nằm đọc sách trong nhà.
Thấy báo thư Cụ Trạng,
Liền vội vàng đi ra.      

Quan vừa đi đến cửa,
Bỗng nhiên có thanh dầm,
Chắc lâu ngày bị mọt,
Rơi đúng chỗ quan nằm.

Quan hoảng hồn, thoát chết,
Liền mở thư ra xem.
Thư có dấu, chữ ký
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bức thư ngắn, chỉ viết:
“Tôi cứu ông vừa rồi.
Vậy xin ông giúp đỡ
Cháu bảy đời của tôi.”

*
Nguyễn Bỉnh Khiêm là Trạng,
Một thi nhân diệu kỳ,
Một đại quan chính trực
Và một nhà tiên tri.

Ông sinh ở Vĩnh Lại,
Nay Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Đúng vào thời thịnh trị
Của vua Lê Thánh Tông.

Tên thật Nguyễn Văn Đạt,
Hiệu Cư Sĩ Bạch Vân,
Mẹ là Nhữ Thị Thục,
Giỏi tướng số, thơ văn.

Bà là con quan lớn,
Khó tính khi kén chồng,
Mãi đến lúc luống tuổi
Mới chịu lấy cha ông,

Tức là Nguyễn Văn Định,
Tài năng loại thường thường,
Có tướng sinh quí tử,
Sau dễ thành đế vương.

Để con thành hoàng đế,
Bà đã bắt bố ông
Mười hai giờ đêm ấy
Mới được vào động phòng.   

Bố ông, chắc nóng vội,
Vào sớm hơn ít nhiều,
Nên con bà, thật tiếc,
Chỉ đại thần trong triều.

Sau chuyện ấy, bà giận,
Về với bố mẹ mình,
Rồi lấy ông chồng khác,
Rồi tính giờ, năm sinh,

Bà sinh được Trạng nữa,
Lại Lưỡng Quốc Trạng Nguyên,
Trạng Bùng, Mai Nham Tử,
Phùng Khắc Khoan, đại hiền.                   

Nguyễn Bỉnh Khiêm từ nhỏ
Được bà mẹ cầu kỳ
Dạy đến nơi đến chốn,
Không sót một môn gì.

Về sau, khi khôn lớn,
Tìm thầy tận xứ Thanh,
Lương Đắc Bằng, bảng nhãn,
Giúp hoàn thiện học hành.    

Ông thầy này uyên bác,
Từng là quan đại thần,
Sau từ quan, chán nản,
Về quê sống thanh bần.

Cậu trò Bắc học giỏi,
Chăm chỉ và thông minh,
Được thầy trước khi chết
Tặng “Thái Ất Thần Kinh”.

Đó là cuốn sách quí
Ông mang từ nước Tàu,
Về Chu Dịch, bói toán,
Bắt phải học thuộc làu.         

Thời ấy chính sự loạn,
Nguyễn Bỉnh Khiêm ở nhà,
Không bon chen thi thố
Chín kỳ thi đại khoa.

Khi nhà Mạc thành lập,
Đời ít nhiều tạm yên,
Ông mới ra thi cử,
Lập tức đậu Trạng nguyên.

Năm ấy bốn lăm tuổi,
Ông được bổ làm quan
Đông Các Đại học sĩ,
Lo soạn thảo công văn.

Ông nhanh chóng thăng tiến,
Đến chức Tả Thị lang
Của bộ Hình, bộ Lại,
Bạn của Thái thượng hoàng,

Tức vua Mạc Thái Tổ.
Tiếc là ông vua này
Đã qua đời quá sớm
Để ấu chúa lên thay.

Chính sự lại nát bét,
Đói kém, mất lòng dân.
Ông dâng sớ đòi chém
Mười tám tên lộng thần.

Trong mười tám tên ấy
Có con rể, Phạm Dao.
Thế mới biết quan Trạng
Chính trực đến mức nào.

Vua không chấp thuận sớ.
Năm Một Năm Bốn Hai,
Sau tám năm tại vị,      
Ông về với trúc mai.

Nhưng hai năm sau đó
Vua Mạc lại mời ông
Làm Thượng thư bộ Lại,
Tước hiệu Trình Quốc công.

Cũng nhờ tước hiệu ấy
Ông trở thành Trạng Trình.
Một đại thần hòa nhã,
Liêm khiết và công minh.

Bảy ba tuổi, từ chức,
Ông dựng Am Bạch Vân,
Tức là Lều Mây Trắng,
Rồi xây Quán Trung Tân.

Thỉnh thoảng vua có việc
Lại đón ông vào kinh.
Các quyết định quan trọng
Đều hỏi ý Trạng Trình.

Ông mở lớp dạy học
Bên bờ sông Tuyết Giang.
Nhiều học trò vinh hiển,
Thành một danh sách vàng.

Vào cuối năm Ất Dậu,
Tức Một Năm Tám Năm,
Ông qua đời lặng lẽ
Ở tuổi đời chín lăm.

Đích thân Mạc Đôn Nhượng
Cùng các quan đại thần
Về quê ông cúng viếng
Để bày tỏ tình thân.

Vừa là nhà chính trị,
Nhà tiên tri đại tài,
Ông là nhà thơ lớn,
Sáng tác khoảng nghìn bài.

Cả chữ Nôm, chữ Hán,
Thơ ông thật trữ tình,
Về thiên nhiên, sông nước,
Về thế thái, nhân tình.

Về số, ông là nhất
Trong năm trăm năm thơ.
Về chất, cũng loại nhất,
Đọc, không thể hững hờ.

Tuy nhiên, phải thừa nhận
Ông nổi tiếng ở đời
Nhờ những bài sấm ký
Về sự việc, về người.    

Thật lạ, nhiều tiên đoán
Lại rất đúng sau này,
Như việc quân Pháp phá
“Tan tành Cổ Am Mây.”

Hay việc ông đoán đúng
Thế chiến lần thứ hai.
“Diễn ra năm Thân - Dậu”,
Tàn khốc và kéo dài.

Năm Một Năm Sáu Tám,
Nghe lời khuyên của ông
Mà Nguyễn Hoàng yên chí
Vào lập nghiệp Đằng Trong.

Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm
Muốn bỏ Lê, lên ngôi,
“Thờ Phật thì ăn oản”,
Ông nói thế, đành thôi.

Trước khi mất, nhà Mạc
Đến hỏi kế dài lâu.
Đáp: “Đất Cao Bằng nhỏ,
Nhưng lợi thế về sau”.

Nhờ thế mà nhà Mạc
Đã chọn vùng đất này
Lập căn cứ, lánh nạn,
Tồn tại thêm nhiều ngày.


TRUYỀN THUYẾT VỀ TRẠNG TRÌNH

Có không ít truyền thuyết
Về Trạng Trình xưa nay.
Nhân tiện ông sẽ kể
Thêm vài chuyện thế này.

Hồi học ở Thanh Hóa
Với Bảng nhãn họ Lương,
Ông được thầy rất quí
Vì thông minh khác thường.  

Đến mức trước khi chết
Thầy truyền lại cho ông
Cuốn “Thái Ất” quí giá
Mà thầy đã thuộc lòng.

Cuốn sách rất khó hiểu
Do đạo sĩ Triệu Nga
Rất nổi tiếng Đời Tống
Đúc kết rồi soạn ra.

Thầy có người cùng họ
Làm quan, sống bên Tàu,
Tên là Lương Nhữ Hốt,
Chỗ thân tình từ lâu.

Một lần thầy đi sứ,
Sang gặp lại người này.
Ông cho thầy cuốn sách,
Lưu giữ đến hôm nay.

Thực ra cuốn sách ấy,
Dẫu uyên bác, thông minh,
Bỉnh Khiêm chưa hiểu lắm,
Nhưng luôn giữ bên mình.

Lại nói, rời Thanh Hóa,
Đời loạn, chưa muốn thi,
Ông theo một hảo hán
Tên là Lý Hưng Chi.

Có lần, khi phiêu bạt,
Cùng vị hảo hán này
Ông vượt qua biên giới,
Sống tạm giữa rừng cây.       

Một sáng nọ, tỉnh dậy,
Ông thấy một ông già
Dáng dị thường, quắc thước,
Cứ lởn vởn quanh nhà.

Ông già ấy, thật lạ,
Cứ nhìn ông chằm chằm,
Tay mân mê bối rối
Chiếc gậy trúc đang cầm,

Nguyễn Bỉnh Khiêm ra hỏi.
Ông đáp: Đi ngang qua
Thấy có luồng khí lạ
Bốc lên từ mái nhà.

Và rằng ông vất vả
Tìm kiếm khắp đó đây
Một cuốn sách rất quí, 
Tìm đã hai năm nay.

Khi ông già được hỏi
Cuốn sách đó là gì,
Ông đáp: Đó là cuốn
“Thái Ất Kinh tiên tri”.

Rằng thầy tôi ngày trước
Đem tặng nó một người
Là sứ thần Đại Việt,
Rồi người ấy qua đời

Trao nó cho môn đệ.
Giờ tôi tìm người này.
Vì thấy có khí lạ,
Nên tôi đã đến đây.

Người ấy có cuốn sách,
Nhưng cũng chẳng làm gì
Khi không có lời giải
Để hiểu lời tiên tri.

Tôi thì có lời giải,
Thầy trao khi qua đời.
Khi tìm được cuốn sách,
Sẽ có ích hai người.

Nguyễn Bỉnh Khiêm nghe thế,
Liền lẳng lặng vào nhà,
Lấy cuốn sách “Thái Ất”,
Hai tay đưa ông già.

Ông già nhìn thấy nó,
Sụp xuống lạy rất lâu.
Rồi ông chăm chú đọc,
Đọc và giảng từng câu.

Hai người đọc, bàn luận
Bảy ngày bảy đêm dài.
Đọc và hiểu mọi chuyện
Quá khứ và tương lai.

Rồi cả hai vội vã,
Chia tay, người một nơi
Sợ hãi vì phạm thượng
Do hiểu được ý trời.

Ông già lên phương Bắc.
Nguyễn Bỉnh Khiêm một mình
Về nước, thi, đỗ trạng,
Rồi sau thành Trạng Trình.

*
Có một anh trò giỏi
Đến thăm thầy Trạng Trình.
Hôm ấy ba mươi Tết,
Ông đang ở làng mình.

Hai người đang bàn luận
Về tướng số, tử vi,
Về nhân tình thế thái,
Về sấm ký, tiên tri.

Bỗng ngoài cổng ai đó
Bảo có việc muốn nhờ.
Ông sai anh đầy tớ
Bảo người ấy hẵng chờ.

Rồi thầy trò nhà Trạng
Cùng bấm quẻ tử vi
Để đoán biết người ấy
Sang đây để làm gì.      

Cả hai người bốc quẻ,
Trúng “thiết đoản, mộc trường”.
Tức “gỗ dài, sắt ngắn.”
Một quẻ rất bình thường.

“Theo con, người ấy đến
Để hỏi mượn chiếc mai.
Chiếc mai lưỡi sắt ngắn,
Mà cán gỗ lại dài.”

Quan Trạng nghe, liền đáp:
“Theo ý thầy, ông này
Đến để mượn chiếc búa.
Mời ông ta vào đây.”

Và rồi ông hàng xóm
Bước vào, chào hai người,
Hỏi mượn tạm chiếc búa,
Lúc ra về, mỉm cười.

Thấy học trò ngơ ngác,
Thầy Trạng nói ôn tồn:
“Con bấm quẻ rất khá,
Ta có lời khen con.

Nhưng đúng quẻ chưa đủ,
Còn phải đoán, phải suy.
Hôm nay ba mươi Tết,
Hỏi mượn mai làm gì?

Phải chăng là mượn búa?
Cũng “thiết đoản, mộc trường”
Để bổ củi, nấu bánh,
Đơn giản và bình thường.      

*
Lúc nãy ông vừa nhắc,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng Trình,
Có một người em nữa,
Cũng Trạng, rất thông minh.

Tuy chưa hề đỗ Trạng,
Nhưng dân gọi trạng Bùng,
Ông, một người uyên bác,
Có khí phách anh hùng.

Chắc các cháu còn nhớ,
Đó là Phùng Khắc Khoan,
Người có nhiều giai thoại
Lưu truyền trong dân gian.

Các cháu kiên nhẫn nhé.
Ông kể nốt hôm nay,
Chỉ sơ qua vài nét
Về ông Trạng Bùng này.


PHÙNG KHẮC KHOAN

Phùng Khắc Khoan nổi tiếng
Là một người tài, hiền.
Ông mới đậu Hoàng giáp,
Chưa hề đậu Trạng nguyên,

Nhưng được gọi là Trạng,
Chính xác là Trạng Bùng,
Vì quê ở Thạch Thất,
Và sinh ở làng Bùng.

Nghe người ta nói lại,
Phùng Khắc Khoan là em,
Tuy khác cha, cùng mẹ,
Với Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Được cha dạy từ nhỏ,
Rồi lại theo học anh,
Ông tấn tới nhanh chóng
Trên con đường học hành.

Nhưng dười triều nhà Mạc,
Ông không chịu đi thi.
Trung với triều Lê cũ,
Chỉ ở nhà ngủ khì.

Năm Một Năm Năm Bảy,
Ông đỗ đầu thi Hương,
Lúc đã hăm chín tuổi,
Rồi theo đường quan trường.

Trịnh Kiểm biết ông giỏi,
Cho làm ở Ngự dinh,
Trông coi bốn quân vệ,
Tham dự việc cơ binh.

Vua cho mở thi Hội,
Năm Một Năm Tám Không.
Ông thi đỗ Hoàng giáp,
Làm Thị lang bộ Công.         

Năm Một Năm Chín Bảy,
Sáu mươi chín tuổi đời,
Ông được cử đi sứ,
Tài đối đáp hơn người.

Chỉ hai năm sau đó,
Ông được thăng Thượng thư,
Bộ Công rồi bộ Lại,     
Rồi về quê nhàn cư.

*
Trong thời gian đi sứ,
Phùng Khắc Khoan nhập tâm
Học cách trồng ngô bắp,       
Cách dệt the, nuôi tằm.

Về nước, ông truyền lại
Cho dân chúng trong làng.
Một số nơi, vì thế,
Tôn ông làm Thành hoàng.

Một số giống lúa tốt
Ông cũng lén mang về
Để giúp dân Thạch Thất
Trồng chúng ở đồng quê.

Sau khi thành trí sĩ,
Ông ra đồng hàng ngày
Giúp dân đào kênh, rạch
Vùng xung quanh núi Thầy.

Nhờ thế mà có nước
Tưới cho các cánh đồng
Ở Phùng Xá, Hoàng Xá,
Giúp phát triển nghề nông.

*
Phùng Khắc Khoan, ta biết,
Còn là một nhà thơ,
Cả chữ Nôm, chữ Hán,
Còn lưu đến bây giờ.

Ông cũng là tác giả
“Sấm Thượng thư họ Phùng”,
Người đời chắc vì thế
Gọi ông là Trạng Bùng.

Thơ ông rất tao nhã,
Phong cách không giống ai.
Ông viết nhiều, chỉ tiếc,
Lưu được ba trăm bài.

*
Thay cho chuyện cổ tích
Ông sẽ kể hôm nay
Chuyện ngụ ngôn Esốp.
Nào nghe, chuyện thế này.


CHUYỆN CON ẾCH
MUỐN TO BẰNG CON BÒ

Có một chú Ếch nhỏ
Nói với bố của mình:
“Bố ơi, con vừa thấy
Một quái vật rất kinh.

Nó lớn như ngọn núi,
Hai chiếc sừng rất to...
Ếch bố nói: “Bình tĩnh,
Đó chỉ là con Bò.

Mà Bò thì hiền lắm.
Chỉ to xác thôi mà.
To xác cũng không khó.
Nếu muốn thì cả ta

Cũng có thể lớn vậy,
Vâng, to lớn như Bò.”
Rồi Ếch Bố phùng má
Lấy hơi thổi thật to,

To, to nữa, to mãi...
“To nữa lên, bố ơi!”
Ếch Bố nghe, càng thổi,
Thổi, thổi nữa, và rồi

Con Ếch ngu ngốc ấy
Nổ đánh bùm thật to.
Thế là hết con Ếch
Muốn to bằng con Bò.

*
Chúa sinh ra vạn vật
Kích thước không như nhau,
Nhưng Chúa cho tất cả
Mỗi con một cái đầu.

Không háo danh, khoe mẽ,
Làm tốt chức phận mình,
Không bắt chước ngu ngốc
Mới là người thông minh.     


22
KHỞI NGHĨA NÔNG DÂN THẾ KỶ 18
VÀ ĐẠI THẮNG QUÂN THANH

Giữa thế kỷ mười Tám,
Vua Lê ở Thăng Long
Chỉ còn là cái bóng,
Đang trên đường diệt vong.

Trong khi đó Phủ Chúa
Nắm hết mọi thực quyền,
Luôn hội hè, yến tiệc,
Lãng phí rất nhiều tiền.

Bọn tham quan đục khoét.
Dân cơ cực đủ bề,
Phải quanh năm lao dịch,
Lại sưu thuế nặng nề.

Chúa ăn chơi, hưởng lạc,
Đặc biệt là Trịnh Sâm.
Hoạn quan trong phủ Chúa
Lên con số năm trăm.

Bọn này rất hách dịch,
Ngạo mạn và khinh khi.
Mọi người ghê tởm chúng
Nhưng không biết làm gì.

Nông dân bị chiếm ruộng,
Rồi ruộng lại bỏ không.
Nhiều năm liên tiếp vỡ
Đê sông Mã, sông Hồng.

Nông nghiệp bị đình đốn,
Đình đốn cả công, thương.
Hàng vạn người chết đói,
Xác la liệt đầy đường.

Năm Một Bảy Ba Bảy,
Nguyễn Dương Hưng, Sơn Tây,
Mở đầu các khởi nghĩa
Ở Đàng Ngoài lúc này.

Rồi đến Lê Duy Mật
Ở xứ Nghệ, xứ Thanh,
Kéo dài ba thập kỷ,
Làm hoảng sợ triều đình.

Rồi khởi nghĩa Quận Hẻo,
Tức của Nguyễn Danh Phương,
Đánh chiếm vùng Tam Đảo,
Cả Sơn Tây, Tuyên Quang.

Cuộc khởi nghĩa lớn nhất
Với số nghĩa quân đông,
Nguyễn Hữu Cầu lãnh đạo
Ở Đồ Sơn, Hải Phòng.

Ông tiến đánh Kinh Bắc,
Uy hiếp cả Tràng An,
Đánh Sơn Nam, Thanh Hóa,
Rồi đánh chiếm Nghệ An.

Luôn dương cao khẩu hiệu
“Lấy của cải người giàu
Chia cho người nghèo khổ”,
Quận He Nguyễn Hữu Cầu

Được dân chúng hưởng ứng
Và giúp đỡ nhiệt tình.
Nhưng, như nhiều người khác,
Ông bị bắt, xử hình.

Các khởi nghĩa thất bại,
Cuối cùng bị dập tan,
Nhưng đã giúp thúc đẩy
Nhà Chúa Trịnh lụi tàn.

*
Giữa thế kỷ mười tám
Các Chúa Nguyễn Đàng Trong
Đã trở nên tha hóa,
Chỉ bòn rút của công.

Người nắm hết quyền lực
Trong triều đình Phú Xuân
Tự xưng mình “Quốc phó”,
Tên là Trương Thúc Loan.

Lê Quí Đôn có viết,
Hắn tham lam cực kỳ,
“Thu lợi từ năm cửa”,
Giàu, không thiếu cái gì.

Còn dân thì đói khổ,
Tiếng ca thán khắp nơi.
Rồi Chàng Lía khởi nghĩa,
Thu hút được nhiều người.

Đóng chốt ở Bình Định,
Các nghĩa quân của chàng
Làm bọn quan sở tại
Phải lo sợ, kinh hoàng.

Nhưng rồi cuộc khởi nghĩa
Bị dập tắt rất nhanh.
Phải chờ đến Nguyễn Huệ,
Việc đại sự mới thành.


KHỞI NGHĨA TÂY SƠN

Năm Một Bảy Bảy Một
Khi anh em Tây Sơn
Phất cao cờ khởi nghĩa,
Lòng dân ngút căm hờn.

Ba anh em họ Nguyễn
Lập căn cứ lâu dài
Vùng Tây Sơn Thượng Đạo,
Ở An Khê, Gia Lai.

Khi lực lượng đủ mạnh,
Họ đánh xuống đồng bằng,
Lập Tây Sơn Hạ Đạo,
Khí thế càng thêm hăng.

Nghĩa quân đòi công lý,
Bình đẳng cho người dân,
Lấy của người thừa mứa
Chia cho kẻ đói ăn.

Họ cũng đòi xóa nợ,
Bỏ sưu thuế nặng nề.
Nhân dân các dân tộc
Đều đứng lên nhất tề.

Năm Một Bảy Bảy Bảy,
Trong một trận tấn công
Nghĩa quân giết Chúa Nguyễn,
Chấm dứt xứ Đàng Trong.

Chỉ Nguyễn Ánh trốn thoát,
Ra Phú Quốc đợi thời,
Rồi cầu vua Xiêm cứu,
Mang tiếng xấu với đời.


CHIẾN THẮNG RẠCH GẦM – XOÀI MÚT

Năm Một Bảy Tám Bốn,
Quân Xiêm đánh nước ta.
Ba vạn quân đường bộ
Tiến về hướng Cần Thơ.

Hai vạn quân đường thủy
Đi theo hướng Kiên Giang,
Đổ bộ lên Rạch Giá,
Nhanh và khá dễ dàng.

Năm Tám Lăm, tháng Một,
Nguyễn Huệ dẫn đại binh
Tiến thẳng vào Gia Định.
Mỹ Tho là bản doanh.

Ông nghiên cứu trận địa
Quyết định chọn khúc sông
Rach Gầm đến Xoài Mút
Để chuẩn bị tấn công.

Khúc sông rộng nghìn mét,
Sáu nghìn mét chiều dài,
Hai bên bờ rậm rạp,
Tiện bố trí phục mai.

Giữa có hòn đảo nhỏ
Cũng um tùm cỏ cây.
Ông ém quân, đợi sẵn
Chờ địch đi qua đây

Sáng mười chín, tháng Một
Năm Một Bảy Tám Năm,
Nhử địch vào mai phục,
Từ Xoài Mút, Rạch Gầm

Và từ cù lao nhỏ
Quân Nguyễn Huệ tấn công,
Bất ngờ và mãnh liệt.
Không biết trước đề phòng,

Nên chiến thuyền Xiêm Thái
Đã bị đánh tan tành,
Chiếc chìm, chiếc bị cháy.
Trận đánh kết thúc nhanh.

Hơn hai vạn quân thủy,
Sống sót mấy nghìn người,
Theo đường bộ về nước.
Một đòn đau nhớ đời.

Trong đó có Nguyễn Ánh,
Sang Xiêm xin lưu vong,
Nhưng mộng quay về nước
Vẫn ấp ủ trong lòng.

Trận Rạch Gầm - Xoài Mút
Của Nguyễn Huệ Quang Trung
Là trang sử oanh liệt,
Một chiến thắng oai hùng.

Theo Đại Nam Thực Lục:
Quân Xiêm sau trận này,
Nghe hai tiếng Đại Việt,
Hồn vía liền lên mây.

*
Hay tin quân thủy chết,
Quân bộ Xiêm chạy dài.
Nguyễn Huệ đã tính kế
Diệt Chúa Trịnh Đàng Ngoài.

Bấy giờ quân Chúa Trịnh
Đang đóng ở Phú Xuân.
Chúng giở trò quấy nhiễu,
Gây bất bình trong dân.

Năm Một Bảy Tám Sáu,
Ông vượt đèo Hải Vân
Cùng tướng Nguyễn Hữu Chỉnh
Tiến đánh thành Phú Xuân.

Nhờ đang mùa nước lớn,
Thuyền nghĩa quân tiến nhanh.
Cùng bộ binh nhiều hướng,
Nguyễn Huệ áp chân thành.

Quân Trịnh bị tiêu diệt
Vì bạc nhược, nản lòng.
Thừa thắng, quân Nguyễn Huệ
Chiếm toàn bộ Đàng Trong.

Tiếp đến, ông lập tức
Tiến quân ra Bắc Kỳ
Để “Phù Lê diệt Trịnh”,
Rầm rập bước quân đi.

Tháng Bảy năm Tám Sáu
Ông đánh thành Thăng Long.
Chúa Trịnh bị dân bắt
Và giao nộp cho ông.

Thế là đã chấm dứt
Hai thế kỷ kéo dài
Chính quyền của Chúa Trịnh,
Thường được gọi Đàng Ngoài.

Dòng sông Gianh thơ mộng
Thôi không là dòng sông
Một thời vốn chia cắt
Đằng Ngoài và Đàng Trong.

*
Khi dẹp xong Chúa Trịnh,
Trao quyền cho vua Lê,
Nguyễn Huệ cùng binh tướng
Lên đường trở về quê.

Ông cho Nguyễn Hữu Chỉnh
Giúp trấn thủ Nghệ An
Cùng tướng Nguyễn Văn Duệ
Cai quản cả địa bàn.

Chẳng bao lâu, miền Bắc
Lại rối loạn, vua Lê
Mời Hữu Chỉnh ra dẹp.
Dẹp xong, Chỉnh không về,

Mà ở lại Miền Bắc
Còn tỏ ra lộng hành,
Ra mặt chống Nguyễn Huệ,
Củng cố lực lượng mình.

Hay tin này, Nguyễn Huệ
Lập tức từ Phú Xuân
Cử tướng Vũ Văn Nhậm
Ra trị tên gian thần.

Trị xong Chỉnh, thật tiếc,
Đến lượt Nhậm khinh nhờn,
Cũng có ý thoán nghịch,
Bất tuân lệnh Tây Sơn.

Năm Một Bảy Tám Tám,
Nguyễn Huệ ra Thăng Long,
Diệt Nhậm, vua Lê sợ
Trốn sang bên kia sông.

Nhiều sĩ phu nổi tiếng
Giúp Nguyễn Huệ hết lòng
Giữ chính quyền Miền Bắc
Khi ông ở miền Trong.

Đó là Ngô Thì Nhậm,
Một chí sĩ Bắc Hà,
Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp
Và nhiều người gần xa.


ĐẠI THẮNG QUÂN THANH

Vua Lê, Lê Chiêu Thống,
Muốn giữ ngôi của mình,
Làm một việc dại dột
Là cầu cứu nhà Thanh.

Cuối Một Bảy Tám Tám
Vua Thanh là Càn Long,
Đã sai Tôn Sĩ Nghị
Đánh chiếm thành Thăng Long.

Hai chín vạn quân giặc
Cùng rất nhiều chiến xa,
Chia thành bốn đạo chính,
Tiến sâu vào nước ta.

Quân ta phải tạm rút
Về Tam Điệp - Biện Sơn.
Ngô Thì Nhiệm cấp tốc
Cho báo về Tây Sơn.

Ta lập tuyến phòng ngự -
Quân bộ ỏ Ninh Bình,
Quân Thủy ở Thanh Hóa,
Không cho giặc tiến binh.

Nhận được tin khẩn cấp,
Nguyễn Huệ liền xưng vương,
Hiệu Quang Trung Hoàng đế,
Rất hợp lẽ đạo thường.

Lên ngôi xong, lập tức
Hoàng đế mới Quang Trung
Cho xuất quân Bắc tiến,
Đoàn quân đi điệp trùng.

Đến Nghệ An dừng lại,
Ông tuyển mộ thêm quân,
Rồi duyệt binh hoành tráng,
Làm nức lòng quân dân.

Ông tuyển quân thêm nữa
Khi vừa đến xứ Thanh.
Rồi làm lễ tuyên thệ
Trước quân lính của mình.

Khi tới núi Tam Điệp
Vua Quang Trung hài lòng,
Khen ngợi Ngô Thì Nhậm
Tạm bỏ thành Thăng Long

Để bảo toàn lực lượng,
Chờ vua và viện binh.
Mở tiệc khao tướng sĩ,
Vua nói trước quân mình:

“Ba quân ăn Tết tạm.
Đúng mồng Bảy tháng Giêng
Ta hứa cùng ăn Tết
Ở Thăng Long linh thiêng!”

Lập tức sau đại tiệc,
Đạo quân lớn của ông
Được chia thành năm mũi
Tiến đánh thành Thăng Long.

Ông chỉ huy mũi chính
Đánh thẳng vào Tràng An.
Hai mũi tiếp, hỗ trợ,
Đánh vào phía Tây Nam.

Mũi thứ tư được lệnh
Vội cấp tốc lên đường,
Theo chiến thuật thần tốc,
Đánh về phía Hải Dương.

Quyết không cho giặc rút.
Chỉ giết hoặc bắt hàng,
Mũi thứ năm đợi sẵn,
Đánh chặn ở Lạng Giang.

Đêm ba mươi âm lịch,
Vượt Gián Khẩu, quân ta
Diệt quân tiền tiêu địch
Rồi rầm rập tiến ra.

Đúng đêm mồng Ba Tết,
Ta bí mật bao vây
Đồn Hạ Hồi, Thường Tín,
Rồi diệt gọn đồn này.

Mờ sáng mồng Năm Tết,
Quân ta đánh Ngọc Hồi.
Đây là chốt quan trọng
Xung quanh chôn địa lôi.

Đồn lũy xây kiên cố,
Có chông sắt bốn bên.
Ba vạn lính tinh nhuệ
Canh giữ suốt ngày đêm.

Ta mở đầu trận đánh
Bằng hơn một trăm voi
Xông lên như cơn lốc,
Dẫm nát đồn Ngọc Hồi.

Theo sau đoàn voi ấy
Là bộ binh của ta,
Khiên quấn rơm che ngực,
Cùng gươm giáo sáng lòa.

Quân Thanh không chống nổi,
Liền bỏ chạy tơi bời,
Bị voi dẫm, bị giết.
Đâu cũng thấy xác người.

Cũng vào thời gian ấy,
Một mũi của quân ta,
Đô đốc Long là tướng,
Tấn công đồn Đống Đa.

Giặc trở tay không kịp,
Chết, chưa hết bàng hoàng.
Tướng giăc Sầm Nghi Đống,
Tự tử, không đầu hàng.

Hay tin, Tôn Sĩ Nghị
Liền hồn vía lên mây,
Vượt Nhị Hà bỏ trốn,
Chui lủi suốt nhiều ngày.

Đúng trưa mồng Năm Tết,
Trong chiến bào, oai phong
Vua cùng quân chiến thắng
Tiến vào thành Thăng Long.

Dân Thăng Long náo nức
Chào đòn vua Quang Trung,
Người anh hùng áo vải
Lập chiến tích anh hùng.

*
Thế đấy, các cháu ạ.
Ba mươi vạn quân Thanh
Bị quân dân Đại Việt
Đánh một trận tan tành.

Ông cháu ta phải biết,
Tự hào về cha ông.
Hơn thế, để chiến đấu
Và bảo vệ non sông.

Giờ đến chuyện cổ tích.
Ông sẽ kể hôm nay
Chuyện về nàng tiên cá,
Một câu chuyện rất hay

Của nhà văn Đan Mạch
Tên là An-đec-xen.
Ông đọc nó từ nhỏ
Mà không bao giờ quên.

Câu chuyện này cảm động,
Đẹp khó nói thành lời.
Các cháu nghe sẽ biết
Cái giá được làm người.


NÀNG TIÊN CÁ
                        
Rất sâu dưới đáy biển,
Giữa mịt mù xa khơi,
Có một thế giới đẹp,
Đẹp lung linh, tuyệt vời.

Ở đấy nước xanh thẳm,
San hô đủ các màu.
Cá nhởn nhơ bơi lội
Như chim bay trên đầu.                                           

Như mọc trên mặt đất,
Cây ở đây rất nhiều,
Tôm cá leo lên nghịch,
Chơi những trò đáng yêu.

Các nàng tiên cá hát
Những bài ca du dương,
Hay đến mức thủy thủ,
Để tàu đi lạc đường.

Vua Thủy Tề oai vệ
Sống trong cung của ngài,
Chỉ suốt ngày yến tiệc,
Rất hiếm khi ra ngoài.

Từ ngày vợ vua chết,
Mọi việc trong triều đình
Đều do Thái Hậu quản,
Hợp lý và thông minh.

Bà là người quyền lực,
Tốt bụng nhưng kiêu sa.
Ai bà cũng yêu quí,
Nhất là các cháu bà.

Cháu bà, toàn cháu gái,
Năm nàng, đẹp như tiên,
Tất cả đều nhí nhảnh,
Vui tươi và dịu hiền.

Đặc biệt là nàng út,
Da mịn như cánh hồng,
Mắt như hai viên ngọc,
Luôn mơ màng, xanh trong.

Nàng đẹp còn ở chỗ
Khác con người có chân,
Nàng có cái đuôi lớn,
Tất nhiên đẹp tuyệt trần.

Cả năm nàng tiên cá
Nhởn nhơ chơi suốt ngày
Trong vương quốc của nước,
Ánh sáng và cỏ cây.

Cả năm nàng háo hức
Chờ đến lúc trưởng thành,
Tức đến mười lăm tuổi
Để lên mặt biển xanh.

Lúc ấy, bà Thái Hậu
Sẽ cho phép từng người
Lần đầu rời đáy biển,
Ngoi lên nhìn mặt trời.

Các nàng sẽ được thấy
Thành phố và tàu thuyền,
Cùng núi sông, bến cảng,
Trường học và công viên.

Nàng tiên cá bé nhỏ,
Vì được sinh sau cùng
Nên phải chờ lâu nhất
Ngày được rời thủy cung.

*
Rồi cái ngày ấy đến,
Nàng tiên cá lần đầu
Được Thái Hậu trang điểm
Kỹ càng như cô dâu.

Khi nàng lên mặt nước,
Vầng dương đã xế tà,
Một núi mây đỏ rực
Âm ỉ cháy xa xa.

Như mặt gương, biển lặng.
Một con tàu đứng yên,
Các cột buồm được hạ,
Nhấp nháy những ánh đèn.   

Bơi lại gần, nàng thấy
Trên tàu có nhiều người
Ăn mặc rất sang trọng,
Nhiều tiếng hát, tiếng cười.

Nhưng sang trọng hơn cả,
Và xinh đẹp tuyệt vời
Là một chàng hoàng tử
Khoảng mười sáu tuổi đời.

Hôm ấy là sinh nhật,
Nên khi chàng bước ra,
Cả bầu trời rực sáng
Vì đèn và pháo hoa.

Pháo hoa làm nàng sợ,
Vội lặn xuống thật sâu,
Nàng cứ nghĩ như lửa
Thi nhau rơi xuống đầu.

Rồi mọi thứ lắng xuống,
Đèn cũng bớt lung linh,
Nàng thì vẫn đắm đuối
Nhìn Hoàng Tử của mình.

Bỗng mây đen kéo đến,
Trời chợt nổi phong ba,
Sóng chồm lên giận dữ,
Sấm nổ, chớp chói lòa.

Tàu bị sóng đánh vỡ
Đang chìm xuống biển sâu.
Chàng Hoàng Tử xinh đẹp
Cùng chìm với con tàu.

Nàng tiên cá vội vã
Bơi lại để cứu chàng.
Hai người trôi theo sóng
Giữa biển trời mênh mang.

Sáng hôm sau, trời tạnh,
Mặt trời hồng nhô lên.
Hoàng Tử vẫn còn sống
Nhưng đôi mắt nhắm nghiền.         

Nàng hôn đôi mắt ấy,
Hôn khuôn mặt thật xinh.
Nàng muốn chàng sống lại
Bằng tình yêu của mình.

Rồi lựa theo con sóng,
Nàng đưa chàng lên bờ.
Đó là một bãi biển
Hoang dã mà nên thơ.

Đặt chàng lên bãi cát,
Nàng theo sóng, lùi ra,
Vừa mừng, vừa lo sợ
Theo dõi chàng từ xa.

Chuông nhà thờ chợt điểm,
Mấy cô gái từ làng
Đi ra biển kéo lưới,
Ngạc nhiên khi thấy chàng.   

Rồi nhiều người nữa đến,
Có cả một chiếc xe.
Họ đưa chàng đi mất.
Nàng tiên cá quay về.

*
Rất nhiều lần sau đó
Nàng còn tới nơi này,
Nhưng không thấy Hoàng Tử,
Chỉ thấy trời và mây.

Nàng buồn, luôn tư lự,
Không còn muốn làm gì,
Không cùng bạn bơi lội,
Không nghe sóng thầm thì.

Cuối cùng một cô chị
Biết nỗi buồn lòng nàng,
Dẫn đường, đưa nàng đến
Tận lâu đài của chàng.

Lâu đài của Hoàng Tử
Nằm ngay bên cửa sông,
Xây bằng đá cẩm thạch,
Đủ màu xanh, màu hồng.

Những bậc cầu thang lớn,
Những tấm thảm rất dày,
Những chùm đèn rực rỡ,
Trầm mặc những hàng cây.

Hoàng Tử, đêm thanh vắng,
Thường ra đứng ngoài hiên,
Tiếc là chàng không biết
Có nàng đang kề bên.

Nàng buồn, lên tiếng hát,
Một giọng hát tuyệt vời,
Thật du dương, êm ái,
Thuộc loại hay nhất đời.

Nàng hát cho Hàng Tử,
Thế mà chàng không nghe,
Tưởng đấy là tiếng sóng
Dạt dào trong đêm khuya.

Bỗng nhiên nàng thấy thích
Thế giới của loài người.
Thích được sống như họ
Giữa núi rừng xanh tươi.

Thái Hậu cho nàng biết
Loài người khác mọi loài,
Có linh hồn bất tử
Sống mãi cùng tương lai.

Và rằng các tiên cá
Cũng có được linh hồn
Nếu có người yêu họ
Hơn cha mẹ yêu con.

Từ đấy nàng mơ tưởng
Mong muốn được thành người,
Thành vợ của Hoàng Tử,
Sống hạnh phúc suốt đời.

Cuối cùng nàng quyết định
Nhờ phù thủy giúp nàng.
Một mụ già gớm ghiếc
Suốt đời sống trong hang.

Mụ tự tay chế thuốc,
Do tu luyện lâu ngày,
Có thể làm phép lạ,
Ai cần giúp, giúp ngay.

Vừa thấy nàng, mụ nói:
“Ta biết rồi, đừng lo.
Ôi công chúa xinh đẹp,
Thật điên rồ, điên rồ.

Ngươi muốn được Hoàng Tử
Đem lòng yêu thương ngươi.
Muốn trở thành bất tử
Với linh hồn con người.

Không sao, ta sẽ giúp.
Giá không rẻ lắm đâu,
Và cũng xin nói trước,
Sẽ đau đấy, rất đau.

Ta cho ngươi liều thuốc,
Ngươi sẽ có đôi chân
Thon thẳng và uyển chuyển
Như cô gái người trần. 

Nhưng mỗi lần ngươi bước
Như có nghìn mũi chông
Châm chân ngươi, đau lắm.
Ngươi có chịu được không?”

Mụ phù thủy nói tiếp
Khi thấy nàng gật đầu:
“Ngươi hãy nghĩ cho kỹ,
Không vội vàng được đâu.

Vì thành người, mãi mãi
Ngươi sẽ không bao giờ
Quay trở lại với biển,
Dẫu ai cũng mong chờ.

Và nếu chàng Hoàng Tử
Không thực sự yêu ngươi
Như con yêu bố mẹ,
Ngươi sẽ không thành người.

Nếu chàng cưới người khác
Thì rạng sáng hôm sau,
Ngươi chết, thành bọt biển
Trôi giữa sóng bạc đầu...”

Nàng tiên cá chấp nhận
Tất cả những điều này.
Ôi, tâm hồn bất tử,
Ôi, tình yêu mê say.

Đổi lại, mụ phù thủy
Đòi giọng hát của nàng,
Một giọng hát kỳ diệu,
Du dương và dịu dàng.

Vì tình yêu Hoàng Tử,
Vì linh hồn nghìn năm,
Nàng để mụ cắt lưỡi
Và trở thành người câm.

Tay cầm lọ thuốc độc,
Nàng tiên cá dịu hiền
Bơi một vòng từ biệt
Rồi nhẹ nhàng lao lên.

*
Mặt trời còn chưa mọc,
Chàng Hoàng Tử của nàng
Đang trầm ngâm ngắm biển,
Tay tì lên cầu thang.

Nàng uống hết lọ thuốc,
Thấy cháy cổ, và rồi
Như có lưỡi kiếm sắc
Xẻ thân nàng làm đôi.

Nàng ngất, trôi theo sóng,
Tỉnh dậy, thấy mình trần
Và thay cho đuôi cá,
Nàng có một đôi chân.

Nàng vội vàng lấy tóc
Quấn xung quanh che người,
Ngước nhìn lên, chợt thấy
Hoàng Tử đang mỉm cười

“Nàng là ai?” chàng hỏi.
“Từ đâu tới?” Nhưng nàng
Vì câm, không nói được,
Chỉ lắc đầu khẽ khàng.

Hoàng Tử đỡ nàng dậy,
Rồi dìu nàng lên lầu.
Như mụ phù thủy nói,  
Nàng thấy đau, thật đau.

Khi mỗi lần cất bước,
Như có nghìn mũi kim
Châm vào chân đau buốt,
Nhưng nàng vẫn lặng im.

Nàng đi bên Hoàng Tử
Dịu dàng như bông hồng
Dáng đi thật uyển chuyển,
Bước mà nhẹ như không.

Hoàng Tử cho nàng diện
Những bộ váy tuyệt vời,
Nàng thành người đẹp nhất,
Không nói mà chỉ cười.

Nhưng nàng có thể nhảy,
Mà nàng nhảy đẹp sao.
Ai nhìn cũng thán phục,
Không thua kém người nào.

Thế mà không ai biết
Cái đau dưới chân nàng,
Cái đau như lửa cháy
Theo bước nhảy nhẹ nhàng.

Khi mọi người đi ngủ,
Nàng ra ngồi, nhúng chân
Xuống nước biển mát lạnh,
Để cái đau nguội dần.

Xa xa phía trước mặt,
Giữa sóng biển bốn bề
Các chị nàng đang đến,
Hát, gọi nàng quay về.

Có đêm nàng còn thấy
Cả Thủy Tề, vua cha,
Và cả bà Thái Hậu...
Ôi, nhớ nhà, nhớ nhà.

Nhưng nàng vẫn ở lại
Mong được Hoàng Tử yêu
Để trở thành bất tử.
Chàng yêu nàng, có điều

Yêu như yêu em gái,
Vì chàng vẫn buồn rầu
Thương nhớ cô gái trẻ
Cứu chàng lần đắm tàu.

Vì nàng câm, không thể
Nói mọi chuyện với chàng,
Cả chuyện cô gái ấy
Chình là nàng, là nàng.        

Và cuối cùng đã đến
Cái phải đến, than ôi,
Chàng Hoàng Tử cưới vợ,
Cưới vợ và lên ngôi.

Tiệc cưới đêm vui vẻ,
Nàng khóc, ngồi một mình,
Trân trân nhìn biển cả,
Đợi tia nắng bình minh.

Nàng sẽ thành bọt biển
Tan giữa sóng trùng khơi,
Và cùng tan với nó
Là ước mơ thành người.        

Chợt các chị nàng đến,
Mặt buồn bã, lo âu,
Những mái tóc óng mượt
Không còn bay trên đầu.

“Để cứu em, các chị
Trước khi đi đến đây,
Cho phù thủy mái tóc
Để lấy con dao này.

Em hãy cầm lấy nó,
Từ giờ đến bình mình,
Đâm vào tim Hoàng Tử,
Chính xác, không rùng mình.

Khi máu Hoàng Tử chảy
Xuống chân em, tức thì
Chân lại thành đuôi cá,
Bình thường như mọi khi.

Bây giờ em phải chọn
Hoặc là em, hoặc chàng,
Ai là người sẽ chết.
Đừng chần chừ, hoang mang.”

Các chị chàng nói đoạn
Rồi lặn xuống biển sâu.
Nàng cầm con dao sắc,
Lặng lẽ đi lên lầu.       

Hoàng Tử và công chúa
Đang ngủ say trong phòng.
Cả hai ngời hạnh phúc.
Còn nàng, nàng thì không.

Nàng buồn bã đứng lặng,
Nhìn hai người hồi lâu.
Kia, mặt trời sắp mọc.
Phải quyết định, mau, mau.

Nàng giơ con dao nhọn,
Chững lại một vài giây,
Rồi vứt nó xuống đất,
Đúng vào lúc rạng ngày.

Nàng gieo mình xuống biển.
Cả người nàng vỡ ra,
Tan thành muôn mảnh nhỏ
Dưới ánh nắng chói lòa.

Một lúc sau, thật lạ,
Nàng cảm thấy dịu dàng
Những tia nắng ấm áp
Đang vuốt ve người nàng.

Nghĩa là nàng chưa chết.
Nàng nhìn thấy mặt trời
Và trăm nghìn sinh vật
Đang bay lượn khắp nơi.

Những sinh vật nhỏ bé,
Trong suốt như thủy tinh,
Vừa bay, chúng vừa hát,
Hữu hình mà vô hình.

Chúng gọi nàng nhập bọn,
Vậy là nàng, cuối cùng
Thành tiên nữ nhỏ bé,
Bay lượn trên không trung.

Nàng tiên cá tội nghiệp
Hy sinh vì tình yêu
Mà không thành bất tử,
Lại đau khổ quá nhiều.

Nhưng giờ là tiên nữ,
Trong ba trăm năm tròn,
Nếu chuyên làm việc thiện,
Nàng sẽ có linh hồn.

*
Một câu chuyện thật đẹp,
Một tình yêu xót xa.
Từ ngày ấy, có thể,
Nhiều năm đã trôi qua.

Có thể nàng tiên cá
Từ lâu đã thành người
Với linh hồn bất tử
Sống vĩnh viễn trên đời.

Mà biết đâu, có thể,
Nàng đang sống đâu đây,
Chuyên tâm làm việc thiện,
Cứu rỗi cuộc đời này.


23
QUANG TRUNG HOÀNG ĐẾ (1753 - 1792)

Hôm qua ông đã nói
Về khởi nghĩa nông dân
Ở thế kỷ mười tám,
Đặc biệt là Tây Sơn.

Cả về các chiến thắng
Ngọc Hồi và Đống Đa.
Một trang sử chói lọi
Trong lịch sử nước nhà.

Giai đoạn lịch sử ấy
Gắn với một anh hùng,
Một con người vĩ đại,
Là Hoàng đế Quang Trung.

Hôm nay ông sẽ kể
Nhiều và chi tiết hơn
Về người anh hùng ấy,
Người con của Tây Sơn.

Đồng thời, trong khi kể,
Nhân thể ông cháu ta
Điểm lại những sự kiện
Đã nói ngày hôm qua.

*
Ba anh em Nguyễn Huệ,
Như sử sách đã ghi,
Quê gốc ở xứ Nghệ,
Dòng dõi Hồ Quý Ly.

Họ đi theo Chúa Nguyễn
Vào lập nghiệp Đằng Trong.
Thời kỳ đầu, nghe nói,
Cũng vất vả, long đong.

Ít ra bố mẹ họ
Phải làm nghề buôn trầu.
Ba trai và năm gái,
Nguyễn Nhạc là anh đầu.

Anh thứ hai - Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ là thứ ba.
Cả ba đều giỏi võ,
Mở lò ở quê nhà.

Mỗi người là sư tổ
Của một môn quyền hay,
Thành Tây Sơn võ phái,
Thuộc Bình Định ngày nay.

*
Năm Một Bảy Bảy Mốt,
Lấy cớ chống cường quyền,
Nguyễn Nhạc làm khởi nghĩa.
Lòng dân đang không yên,

Nên lập tức hào sĩ
Và nhiều người đi theo.
Lấy của kẻ giàu có
Đem chia cho dân nghèo.

Quân Tây Sơn giỏi võ,
Nguyễn Huệ là tướng tài
Nên đánh đâu thắng đấy,
Quân Chúa Nguyễn chạy dài.

Hai năm sau khởi nghĩa,
Anh em nhà Tây Sơn
Đánh đến tận Bình Thuận,
Chiếm được thành Quy Nhơn.

Nhưng giữa năm Bảy Bốn
Từ Gia Định đánh ra,
Chúa Nguyễn chiếm Bình Thuận
Và Gia Khánh, vậy là

Ba anh em Nguyễn Nhạc
Còn vùng đất Phú Yên
Đến vùng đất Quảng Ngãi,
Nhưng một vệt nối liền.

Cũng năm ấy, Chúa Trịnh
Cho đưa ba vạn quân
Vượt sông Gianh, nhanh chóng
Chiếm được thành Phú Xuân.

Chúa Nguyễn nhân dịp ấy
Tiến đánh quân Tây Sơn.
Ba anh em co cụm,
Phải rút về Quy Nhơn. 

Tình thế rất nguy ngập.
Cả Đằng Trong, Đằng Ngoài
Đều o ép - phải chọn
Nên hòa, nên đánh ai?

Nguyễn Nhạc đã quyết định
Xin Chúa Trịnh cầu hòa,
Rảnh tay đánh chúa Nguyễn,
Sau thắng, sẽ đánh ra.

Muốn mượn tay Nguyễn Nhạc
Làm kẻ thù yếu dần,
Chúa Trịnh liền đồng ý,
Nhưng không chịu rút quân.

*
Tạm yên ở phía Bắc,
Quyết đánh bại Đằng Trong,
Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ
Cầm quân đi tiên phong.

Tướng Nguyễn Huệ lúc ấy
Còn là chàng thanh niên,
Hăm ba tuổi, quyết định
Phải chiếm lại Phú Yên.

Ông nhanh chóng bắt sống
Tướng giặc Nguyễn Khoa Kiên,
Giết chết nhiều tướng khác,
Có cả Nguyễn Văn Hiền.

Tướng Trịnh, Hoàng Ngũ Phúc,
Thấy Nguyễn Huệ thắng nhanh,
Bèn rút về bám trụ,
Chốt giữ Phú Xuân thành.

Thiên tài của Nguyễn Huệ
Sau trận thắng Phú Yên
Liên tiếp được khẳng định,
Thanh thế ngày càng lên.

Đặc biệt qua các trận
Tiến sâu vào phía trong,
Đánh chiếm thành Gia Định,
Thần tốc và tấn công.

Chỉ trong vòng bảy tháng,
Từ chỗ bị bao vây,
Nguyễn Huệ đảo thế trận,
Luôn đánh Đông dẹp Tây.

Hai Chúa Nguyễn bị giết,
Giải phóng cả toàn miền.
Nguyễn Ánh phải bỏ chạy
Ra Phú Quốc nằm yên.

*
Năm Một Bảy Bảy Tám
Nguyễn Nhạc tự xưng vương,
Lập niên hiệu Thái Đức
Nguyễn Huệ làm Long Nhương.

Năm Một Bảy Tám Sáu
Nguyễn Huệ đánh Phú Xuân.
Thành Phú Xuân thất thủ,
Càng nức lòng nghĩa quân.

Rồi cũng liền sau đó
Ông đánh ra Thăng Long,
Cử tướng Nguyễn Hữu Chỉnh
Đi trước làm tiên phong.

Tinh thần đang rệu rã,
Các tướng Trịnh bàng hoàng,
Nên chưa đánh đã chạy
Hoặc hạ giáo đầu hàng.

Chúa Trịnh Tông bỏ trốn,
Dân bắt, giải về kinh.
Dọc đường, quá hoảng sợ,
Ông đã tự quyên sinh.

Thần tốc, như vũ bão,
Nguyễn Huệ vào Thăng Long
Như đi vào chỗ trống,
Gặp vua Lê Hiển Tông.

*
Về danh nghĩa, Nguyễn Huệ
Bầy tôi vua Hiển Tông,
Nhưng thực chất quyền lực
Đều nằm trong tay ông.

Rồi qua Nguyễn Hữu Chỉnh,
Trước là một đại thần,
Ông trở thành phò mã,
Lấy công chúa Ngọc Hân.

Chỉ mấy ngày sau đó
Lê Hiển Tông qua đời.,
Thông qua nhiều dàn xếp,
Lê Chiêu Thống lên ngôi.

Tướng Nguyễn Huệ quyết định
Đem công chúa Ngọc Hân
Cùng đại quân trở lại
Đóng ở thành Phú Xuân.       

*
Như ta biết, Nguyễn Nhạc
Chia đất nước làm ba,
Nguyễn Lữ vùng Gia Định,
Nguyễn Huệ xứ Bắc Hà.        

Việc Nguyễn Huệ tự ý
Đánh chiếm thành Thăng Long
Khi ông chưa cho phép
Khiến ông không hài lòng.

Mâu thuẫn ngày một lớn,
Nghi kỵ và đối đầu,
Và rồi năm Tám Bảy
Hai anh em đánh nhau.

Mà đánh nhau dữ dội,
Tây Sơn đánh Tây Sơn.
Nguyễn Huệ cho đại bác
Nã vào thành Qui Nhơn.

Nguyễn Nhạc thấy yếu thế
Phải nén nhục cầu hòa.
Nghĩ tình anh em ruột,
Nguyễn Huệ trách, rồi tha.

*
Nhân Tây Sơn lục đục,
Cả Đằng Ngoài, Đằng Trong
Liền tập hợp lực lượng
Nhất tề chống lại ông.

Quân Trịnh ở Miền Bắc
Đưa Trịnh Bồng lên ngôi.
Ở Gia Định, Nguyễn Ánh
Cũng chiếm được nhiều nơi.

Nguyễn Huệ lại Bắc tiến,
Lại đánh nhanh, tốc thần.     
Sau khi giành thắng lợi,
Đưa quân về Phú Xuân.

Trong khi đó Nguyễn Ánh
Chiếm được vùng Đằng Trong.
Nguyễn Nhạc già, thoái vị,
Nhường ngai vàng cho ông.

*
Năm Một Bảy Tám Tám
Lê Chiêu Thống thỉnh cầu
Vua Càn Long giúp đỡ,
Và một thời gian sau

Tướng Thanh, Tôn Sĩ Nghị,
Dẫn hăm chín vạn quân
Ào ào như thác chảy,
Tiến qua Ải Nam Quan.

*
Vừa lên ngôi hoàng đế,
Lấy niên hiệu Quang Trung,
Nguyễn Huệ lại Bắc tiến,
Đoàn quân đi trùng trùng.

Để tuyển thêm binh lính,
Ông dừng ở Nghệ An,
Cho diễu binh rầm rộ,
Quân số lên trăm ngàn.

Đoàn quân diễu binh ấy
Tiến thẳng ra Bắc Kỳ,
Thế mạnh như vũ bão,
Rầm rập bước chân đi.

Ngày hai mươi tháng Chạp
Tới Tam Điệp, Quang Trung
Hẹn đến ngày mồng bảy
Ăn Tết ở Thăng Long.

Đến ngày mồng năm Tết,
Với chiến thắng Đống Đa,
Tây Sơn đã đại thắng,
Giải phóng cả Bắc Hà.

Chủ tướng Sầm Nghi Đống
Tự vẫn vì buồn lo.
Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy,
Xác giặc chết thành gò.

*
Dẫu chiến thắng oanh liệt,
Để gìn giữ hòa bình,
Nguyễn Huệ vẫn quyết định
Giảng hòa với nhà Thanh.

Nhà Thanh sai sứ giả
Sang phong vương cho ông,
Còn mời sang Trung Quốc
Mừng thọ vua Càn Long.

Theo kế Ngô Thì Nhậm,
Năm Một Bảy Chín Mươi,
Ông cử đoàn sứ giả
Một trăm năm mười người.

Cháu ông, Phạm Công Trị,
Thay ông, giả làm vua,
Dẫn đầu đoàn sứ ấy,
Giặc biết, đành làm ngơ.

Ông còn có ý định
Cầu hôn con vua Thanh,
Đòi lại đất Lưỡng Quảng,
Tiếc là việc không thành.

Ông bị bệnh, chết sớm,
Tháng Chín năm Bảy Hai,
Hưởng thọ bốn mươi tuổi,
Một con người toàn tài.

Bốn năm trên ngôi báu,
Ông làm được nhiều điều,
Đánh đuổi giặc xâm lược,
Thiết lập một vương triều.

Ông chấn hưng nông nghiệp,
Khuyến khích ngành công thương,
Cho tự do tôn giáo,
Xây thêm nhiều tuyến đường.

Ông sửa đổi hành chính,
Sắp xếp lại chức quan,
Chữ Nôm thay chữ Hán
Khi soạn thảo công văn.

*
Vua Quang Trung Hoàng Đế,
Nhà quân sự tuyệt vời,
Người anh hùng dân tộc
Sống mãi trong lòng người.

Theo sử sách chép lại,
Trước khi đánh Thăng Long,
Ông bày ra một cách
Làm quân sĩ nức lòng.

Ông nói với quân sĩ
Sẽ tung trăm đồng tiền,
Nếu tất cả đều sấp,
Ta sẽ thắng, tiến lên!

Trăm đồng tiền, quả thật,
Đều sấp hết, việc này
Làm nức lòng binh sĩ,
Nghĩ trời cho vận may.

Thực ra, vua trước đó
Cho đúc chúng, có điều
Cả hai mặt đều sấp.
Một cú lừa đáng yêu.

*
Còn câu chuyện cổ tích
Ông sẽ kể bây giờ
Là một truyện nổi tiếng
Ông viết lại thành thơ.

Chắc nhiều cháu đã đọc
Hay xem phim truyện này.
Không sao, cứ nghe lại,
Đơn giản vì nó hay.


NÀNG BẠCH TUYẾT VÀ BẢY CHÚ LÙN

Có bà hoàng hậu nọ
Một buổi chiều mùa đông,
Ngồi khâu bên cửa sổ,
Tuyết rơi trắng ngoài đồng.

Vì mải nhìn tuyết trắng,
Bà đâm kim phải tay,
Để ba giọt máu đỏ
Rơi lên lớp tuyết dày.

Bất chợt, bà thầm nghĩ:
“Ước gì trời cho mình
Sinh được cô con gái
Bé nhỏ và thật xinh.

Da nó trắng như tuyết,  
Mái tóc dài, thật đen,
Môi đỏ như giọt máu,
Một cô bé dịu hiền.”

Chắc trời nghe lời ước:
Chưa đầy một năm sau
Bà sinh cô con gái
Đúng như lời nguyện cầu.    

Bà đặt tên Bạch Tuyết.
Nhưng cô vừa mới sinh
Thì hoàng hậu ốm, chết,
Để cô lại một mình.

Bố cô thương cô lắm,
Thế mà một năm sau
Đã lấy bà vợ khác,
Nói là để giải sầu.

Nhỏ nhen và độc ác,
Mụ vợ mới rất xinh,
Suốt ngày nơm nớp sợ
Người khác xinh hơn mình.

Mụ có chiếc gương nhỏ,
Nhưng là loại gương thần.
Nó chỉ nói sự thật,
Là vật bất ly thân.

Một hôm mụ hỏi nó:
“Này gương, nói ta hay,
Có phải ta, hoàng hậu,
Xinh đẹp nhất đời này?”

Gương đáp: “Thưa hoàng hậu,
Người đẹp nhất là bà!”
Mụ nghe, rất thích thú,
Kiêu càng kiêu gấp ba.

Trong khi đó, Bạch Tuyết
Càng lớn lại càng xinh.
Đến năm mười ba tuổi,
Đẹp nghiêng nước, nghiêng thành.

Mụ cầm gương, lại hỏi:
“Này gương, nói ta hay,
Có phải ta, hoàng hậu,
Xinh đẹp nhất đời này?”

Gương đáp: “Thưa hoàng hậu,
Trước đẹp nhất là bà,
Giờ so với Bạch Tuyết,
Nhan sắc bà thua xa!” 

Mụ nghe gương nói thế,
Liền tái mặt vì ghen.
Từ đấy, thấy Bạch Tuyết,
Mụ giận, tưởng phát điên.    

Ngày một thêm kiêu ngạo
Và đố kỵ, mụ ta,
Một hôm bèn cho gọi
Ông lão thợ săn già:

“Ngươi phải đem Bạch Tuyết
Vào sâu trong rừng dày,
Giết chết và sau đấy
Mang gan nó về đây!” 

Vốn thương người, ông lão
Không đang tâm giết nàng.
Để lừa mụ hoàng hậu,
Ông giết một con mang.

“Thật đáng đời cho nó!”
Mụ kêu lên vui mừng,
Rồi ngấu nghiến ăn hết
Lá gan con thú rừng.

*
Lại nói nàng Bạch Tuyết,
Một mình giữa rừng cây,
Nàng sợ, nhưng không biết
Phải làm gì lúc này.     

Thật lạ là thú dữ
Không hề làm hại nàng.
Cao trên đầu chim hót,
Dưới chân ngập lá vàng.

Nàng cứ đi đi mãi,
Cho đến khi bất ngờ
Thấy một ngôi nhà lá
Bé nhỏ và đơn sơ.

Đi nhiều nên đói, mệt,
Mà cũng đã tối trời,
Nàng quyết định dừng lại,
Xin vào nhà nghỉ ngơi.

Có một điều thú vị:
Mọi cái trong nhà này
Sạch sẽ và bé tí,
Trông thật xinh, thật hay.

Trên chiếc bàn bằng gỗ
Có bảy chiếc đĩa con,
Bảy khăn ăn, bảy bát,
Bảy chiếc thìa tí hon.

Kê sát vách, nàng thấy
Có đúng bảy chiếc giường,
Phủ vải trắng như tuyết,
Sạch sẽ và dễ thương.   

Nàng ngồi xuống bàn gỗ,
Bắt đầu uống và ăn,
Nhưng mỗi đĩa một tí,
Không muốn ai mất phần.

Rồi mệt, nàng buồn ngủ.
Giường cái thiếu, cái thừa,
Thử đến chiếc thứ bảy,
Nàng mới thấy thật vừa.

Chủ nhà ấy, tối mịt
Mới về, còn lấm bùn,
Họ làm việc ở mỏ.
Đó là bảy chú lùn.

Ngay lập tức các chú
Thấy có điều khác thường:
“Ai ăn vơi đĩa xúp?”
“Ai làm nhăn vải giường?”

“Ai đã uống cốc rượu?”
“Ai tưới nước cho hoa?”
Họ thắp bảy ngọn nến,
Rồi đi tìm khắp nhà.

Khi thấy nàng Bạch Tuyết,
Bảy chú đứng lặng người -
Một cô gái bé nhỏ,
Thật xinh và thật tươi.

Họ để nàng ngủ tiếp.
Giờ bảy chú sáu giường,
Đành luân phiên nhau ngủ,
Các chú lùn dễ thương.

Sáng hôm sau, tỉnh dậy,
Bạch Tuyết sợ hết hồn  
Khi bất ngờ chợt thấy
Bảy con người tí hon.

Họ ra hiệu đừng sợ,
Hỏi điều nọ, điều này.
Nàng bình tĩnh kể chuyện
Vì sao nàng tới đây.

Họ mời nàng ở lại
Trông nom việc trong nhà,
Lo nấu ăn, giặt dũ,
Trồng rau và tưới hoa.

Thế là nàng Bạch Tuyết
Tìm được nơi nương thân
Với những người bạn mới,
Rất chu đáo, ân cần.

Bảy chú lùn ngoài mỏ
Đến chiều tối mới về.
Nàng nấu sẵn cơm nước,
Lo chu tất mọi bề.

*
Mụ hoàng hậu độc ác
Nghĩ Bạch Tuyết không còn,
Nên mụ là đẹp nhất,
Không người nào đẹp hơn.

Mụ cầm gương, cười hỏi:
““Này gương, nói ta hay,
Có phải ta, hoàng hậu,
Xinh đẹp nhất đời này?”

Gương đáp: “Thưa hoàng hậu,
Trước đẹp nhất là bà,
Giờ so với Bạch Tuyết,
Nhan sắc bà thua xa!

Nàng Bạch Tuyết còn sống,
Ở với bảy chú lùn,
Trong ngôi nhà bé nhỏ
Sâu trong rừng gỗ mun!”

Vì gương không nói dối,
Nên mụ biết lão già
Đã không giết Bạch Tuyết,
Chắc thương tình mà tha.

Mụ lồng lên tức giận,
Tìm cách hãm hại nàng.
Cuối cùng nghĩ được kế:
Mụ giả vờ cải trang

Thành bà lão ốm yếu
Chuyên đi bán hàng rong.
Mụ vượt rừng, lội suối,
Đi sâu mãi vào trong.

Khi thấy ngôi nhà nhỏ,
Mụ cất tiếng rao hàng:
“Lão có nhiều hàng quí,
Nhiều áo xanh, áo vàng...”

Thấy bà lão tử tế,
Bạch Tuyết cho vào nhà.
Nàng mua chiếc áo chẽn
May rất đẹp, bằng da.

Vờ giúp nàng mặc áo,
Cúc hàng cúc phía sau,
Mụ lấy sợi dây nhỏ
Xiết cổ nàng thật lâu.

Nàng Bạch Tuyết tắt thở,
Ngã khuỵu xuống sàn nhà.
Mụ thét lên sung sướng:
“Giờ đẹp nhất là ta!”   

Bảy chú lùn hoảng sợ
Khi nhìn thấy cảnh này.
Họ đỡ nàng ngồi dậy,
Rồi nới lỏng sợi dây.

Cuối cùng nàng tỉnh lại
Kể hết mọi sự tình.
Các chú dặn cẩn thận
Khi ở nhà một mình.    

Và rằng mụ còn đến,
Không mở cửa cho vào,
Không mua bán, đổi chác,
Không nói một lời nào.

Mụ hoàng hậu sung sướng
Khi quay về đến nhà,
Cầm chiếc gương, mụ hỏi:
“Giờ ai đẹp bằng ta?”

Chiếc gương thần lại nói
Nàng Bạch Tuyết đẹp hơn.
“A, con bé còn sống.
Để rồi xem, liệu hồn!”

Rồi mụ lấy quả táo
Tiêm thuốc độc vào trong.
Chỉ nửa đỏ có độc,
Còn nửa xanh thì không.

Mụ cải trang lần nữa
Thành một bà nông dân,
Vượt qua bảy ngọn núi,
Đến được nơi mụ cần.

Mụ gõ cửa, Bạch Tuyết
Liền hỏi:”Bà cần gì?
Tôi sẽ không mở cửa.
Xin mời bà đi đi!”

“Ừ, thì đi,” mụ nói,
“Nhưng mẹ muốn mời con
Cùng ăn chung quả táo,
Nó rất đẹp, rất dòn.”

Mụ bổ đôi quả táo,
Ăn nửa quả màu xanh,
Nửa kia đưa Bạch Tuyết,
Hồng tươi, thật ngon lành.

Tưởng không có thuốc độc,
Nàng ăn và chết liền.
Mụ hoàng hậu độc ác
Vui mừng, kêu như điên:

“Giờ thì thôi, chết hẳn.
Những thằng lùn của mày
Dù có cố đến mấy,
Cũng bó tay lần này!”

Về nhà, mụ lại hỏi:
“Này gương, nói ta hay,
Có phải ta, hoàng hậu,
Xinh đẹp nhất đời này?”

Gương đáp: “Thưa hoàng hậu,
Người đẹp nhất là bà!”
Mụ rên lên sung sướng:
“Người đẹp nhất là ta!”        

Bảy chú lùn tối ấy,
Cố tìm cách cứu nàng,
Nhưng cứu mãi không được.
Họ đồng thanh khóc vang.

Khóc ba ngày ròng rã,
Rồi họ định đem chôn,
Nhưng thấy nàng tươi, đẹp
Như người sống, có hồn.

Họ đặt nàng Bạch Tuyết
Vào quan tài thủy tinh.
Trông nàng như đang ngủ,
Vô lo và thanh bình.

Họ còn cho khắc chữ,
Những con chữ bằng vàng,
Lên quan tài trong suốt,
Ghi rõ họ tên nàng.

Rồi họ đưa lên núi,
Đặt dưới tán cây xanh.
Các chú lùn lặng lẽ
Luân phiên nhau đứng canh.

Tất cả các loại vật
Cũng đến viếng thăm nàng.
Từ gấu, hổ, sư tử
Đến chim câu, đại bàng...

Thật lạ, nàng đã chết,
Mà sắc mặt vẫn tươi,
Môi đỏ, da như tuyết...
Hình như nàng đang cười.

*
Một hoàng tử nước nọ
Đi săn trong rừng mun,
Lạc đường, xin ghé nghỉ
Nhà của bảy chú lùn.

Chàng ngạc nhiên khi thấy
Chiếc quan tài thủy tinh,       
Có công chúa đang ngủ,
Nét mặt rất tươi xinh.

Dẫu biết nàng đã chết,
Nhưng hoàng tử yêu nàng,
Và muốn bằng mọi giá
Đưa nàng về nước chàng.

Thấy chàng yêu thực sự,
Bảy chú lùn cuối cùng
Đồng ý cho hoàng tử
Đưa Bạch Tuyết về cung.

Chàng liền cho thị vệ
Khiêng quan tài đi ngay.
Họ khiêng rất cẩn thận,
Nhưng vấp phải rễ cây,

Chiếc quan tài bị xóc,
Còn Bạch Tuyết bên trong
Đầu dựng lên, lắc mạnh,
Nôn ra miếng táo hồng.

Lập tức nàng sống lại,
Hỏi mình đang ở đâu.
Chàng hoàng tử vui sướng
Kể mọi chuyện từ đầu.

Rồi đúng kiểu hoàng tử,
Chàng đã cầu hôn nàng.
Rồi xe đón Bạch Tuyết
Về vương quốc của chàng.

Tiếp đến là lễ cưới,
Vui mọi nhà, mọi nơi.
Mụ hoàng hậu độc ác
Tất nhiên cũng được mời.

Mụ ăn mặc lộng lẫy.
Trước khi đi khỏi nhà,
Mụ hỏi gương: “Có phải
Đẹp nhất vẫn là ta?”

Gương đáp: “Thưa hoàng hậu,
Trước đẹp nhất là bà,
Giờ so với Bạch Tuyết,
Nhan sắc bà thua xa!” 
                                       
Mụ định không đi nữa,
Hết khóc lại thở dài,
Cuối cùng vẫn tới dự,
Xem cô dâu là ai.

Khi nhìn thấy Bạch Tuyết,
Mụ ngất, ngã xuống sàn.
Còn trái tim độc ác,
Uất ức mà vỡ tan.

Thế là hết đời mụ.
Đúng một mụ đàn bà,
Cứ thích thành đẹp nhất,
Gian xảo và xấu xa.


24
CHIẾN TRANH TÂY SƠN - CHÚA NGUYỄN

Năm Một Bảy Tám Bảy,
Tức Đinh Mùi, mùa thu,
Nguyễn Ánh trở về nước,
Nung nấu sự trả thù.

Ông gom nhặt tướng cũ,
Chiêu mộ người hiền danh,
Được Võ Tánh giúp sức,
Thế lực phát triển nhanh.

Chẳng bao lâu sau đó
Ông đánh chiếm Long Xuyên,
Chiếm Vĩnh Long, Sa Đéc,
Thanh thế ngày càng lên,

Ông lập căn cứ mới
Nay ở vùng Mỹ Tho.
Chuẩn bị lương, khí giới,
Cho quân đi thăm dò.

Năm Một Bảy Tám Tám,
Táo bạo và bất ngờ,
Ông đánh chiếm Gia Định,
Tức Sài Gòn bây giờ.

Tháng Chín, cũng năm ấy,
Tàu chiến Pháp đến đây.
Nguyễn Ánh học từ họ
Cách đánh của phương Tây.

Ông chiếm lại Bình Thuận
Năm Một Bảy Chín Không,
Lo chấn chỉnh kinh tế
Và củng cố quốc phòng.

Nhân Tây Sơn lục đục,
Nguyễn Ánh thường cho quân,
Chủ yếu là quân thủy
Tiến đánh, lấn đất dần.

Sau khi Nguyễn Huệ mất,
Nguyễn Quang Toản lên ngôi,
Lấy niên hiệu Cảnh Thịnh,
Triều chính luôn rối bời.

Vì vua còn quá nhỏ,
Thái sư Bùi Đắc Tuyên
Đảm đương hết công việc
Và ngày càng chuyên quyền.

Đại thần luôn lục đục.
Dân chúng lại bất bình.
Vua sao nhãng triều chính,
Sao nhãng cả việc binh.

Trong khi đó, Nguyễn Ánh
Lo chuẩn bị chiến tranh,
Lại được sĩ quan Pháp
Giúp kỹ thuật, tập tành.

Chuẩn bị xong, Nguyễn Ánh,
Năm Một Bảy Chín Ba
Xuất phát từ Gia Định,
Gồm nhiều mũi đánh ra.

Giữa Một Tám Không Một,
Sau khi chiếm Qui Nhơn,
Ông đánh thẳng ra Huế,
Thủ đô của Tây Sơn.

Thế yếu, Nguyễn Quang Toản
Phải chạy ra Bắc Hà.
Giữa năm sau Nguyễn Ánh
Lại tiếp tục đánh ra.

Ông lần lượt đánh chiếm
Hết Quảng Trị rồi Vinh,
Rồi đánh tiếp Thanh Hóa,
Đến Nam Định, Ninh Bình.

Từ đấy, quân Nguyễn Ánh
Đánh thẳng vào Thăng Long.
Nguyễn Quang Toản hoảng sợ,
Phải bỏ chạy, vượt sông

Định trốn lên mạn ngược,
Nhưng vừa đến Bắc Giang
Đã bị thổ hào bắt,
Vua và tôi đầu hàng.

Họ bị nhốt vào cũi
Giải về thành Thăng Long,
Giao nộp cho Nguyễn Ánh.
Cảnh tượng thật đau lòng.

Sau này ông bị giết
Theo kiểu xưa, nhục hình.
Bị năm voi xé xác,
Ai thấy cũng rùng mình.

*
Nhà Tây Sơn chấm dứt,
Tồn tại không lâu dài,
Từ Một Bảy Bảy Tám
Đến Một Tám Không Hai.

Cũng năm ấy Nguyễn Ánh
Đặt niên hiệu Gia Long,
Lần đầu tiên thống nhất
Trọn vẹn cả non sông.

Ông bỏ tên Đại Việt,
Đặt quốc hiệu Việt Nam.
Thủ đô của nước mới
Được chọn là Phú Xuân.

Năm Một Tám Không Sáu,
Thống nhất xong nước nhà,
Ông lên ngôi hoàng đế
Ở cung điện Thái Hòa.

*
Nhân tiện đây ông muốn
Nói thêm về điều này,
Về Việt Nam, quốc hiệu
Ta đang dùng ngày nay.

Sau chiến thắng, Nguyễn Ánh         
Cử sứ sang nhà Thanh
Để kết tình hòa hảo,
Và xin công nhận mình.

Ông xin đổi quốc hiệu
Đại Việt cũ thân thương
Thành Nam Việt, chữ ghép
An Nam và Việt Thường.

An Nam là tên cũ,
Tức nước Nam yên hòa.
Người Hán gọi khi họ
Chinh phục được nước ta.

Việt Thường là nước cổ
Cách đây ba nghìn năm,
Xưa nằm ở vùng đất
Thuộc Hà Tĩnh, Nghệ an.

Nhà Thanh không đồng ý,
Vì nhà Triệu trước đây
Có nước tên Nam Việt,
Sợ nhầm lẫn sau này.

Nên yêu cầu đổi ngược
Thành Việt Nam, thế là
Quốc hiệu Việt Nam ấy
Thành tên gọi nước ta.

*
NGUYỄN ÁNH

Sau suốt mấy thế kỷ
Loạn, chiến tranh triền miên,
Đất nước được thống nhất,
Quân chủ và tập quyền.

Lãnh thổ được mở rộng,
Đất nước lại bình an,
Từ biên giới Trung Quốc
Đến tận vịnh Thái Lan.

Nước có ba mươi tỉnh,
Và một phủ, Thừa Thiên.
Dân chúng được khuyến khích
Di dân, lập đồn điền.

Nhiều vùng đất hoang hóa
Được khai khẩn dần dần.
Nông, Công, Thương phát triển,
Dân yên ổn làm ăn.

Ông ban hành bộ luật,
Gọi là luật Gia Long,
Hay Hoàng Việt Luật Lệ,
Biên soạn rất dày công.

Luật gồm hăm hai cuốn,
Ba trăm chín tám điều.
Được xem là tiến bộ,
Dẫu khiếm khuyết còn nhiều.

Dưới thời vua Nguyễn Ánh,
Việt Nam là quốc gia
Hùng mạnh nhất khu vực,
Làm vẻ vang nước nhà.

Ông làm được nhiều việc.
Tiếc người đời về ông
Còn có cách đánh giá
Thiển cận và bất công.

*
Hôm nay, thay cổ tích,
Ông kể câu chuyện này.
Chuyện một nhà toán học.
Có thật, mới gần đây.


THẰNG HÈN VĨ ĐẠI

Có một nhà toán học
Trẻ tuổi và thông minh,
Tiếc rằng chàng nghèo quá
Nên đã bị người tình

Bỏ rơi, theo người khác,
Theo một chàng sĩ quan.
Cuộc đời vốn vẫn vậy,
Chẳng có gì đáng bàn.

Một lần, hai chàng ấy
Cãi cọ rất gắt gay,
Rồi thách nhau đấu súng,
Hẹn sau hai mươi ngày.

Nhưng đời thật trái khoáy:
Trong hai mươi ngày sau,
Nhiều phương trình toán học
Bỗng xuất hiện trong đầu.

Chàng cắm cúi làm việc,
Chạy đua với thời gian,
Hết tính toán lại viết,
Không rời khỏi chiếc bàn.

Rồi hai mươi ngày hết,
Công trình vẫn chưa xong.
Một công trình vĩ đại,
Chàng ấp ủ trong lòng.

Thôi thì đành chịu nhục.
Phải hoàn tất công trình,
Chàng xin hủy cuộc đấu,
Và đã được người tình

Thẳng thừng ném vào mặt
Một chữ “Hèn” sỗ sàng.
Chữ “Hèn” nhục nhã ấy
Suýt đã giết chết chàng.

Nhưng chàng cố gượng dậy,
Bất chấp lời thị phi,
Lại làm việc, làm việc,
Ngoài ra không biết gì.

Cuối cùng, công trình ấy
Cũng được chàng viết xong,
Một công trình vĩ đại
Chàng thực sự hài lòng.

Chàng tắm rửa sạch sẽ,
Uống một cốc rượu vang,
Cầm khẩu súng thách đấu
Rồi bắn vào tim chàng.

*
“Bàn về toán vũ trụ”,
Công trình toán “dở hơi”,
Được in mấy trăm bản
Sau khi chàng qua đời.

Rồi thiên tài vật lý,
Einstein, một ngày,
Trong cửa hàng sách cũ
Tìm thấy công trình này.

Ông say mê đọc nó,
Quả có một không hai.
Chốc chốc ông ngả mũ
Như cúi chào thiên tài.

Đọc xong ông kinh ngạc,
Suýt nữa thì kêu lên,
Khi thấy chữ “Le Lâche”,
Tên tác giả - Thằng Hèn.      

Lát sau ông chữa lại
Thành “Lâche le Grand”,
Tức “Thằng Hèn Vĩ Đại.”
Cũng là một dạng hèn.

*
Câu chuyện chỉ có thế.
Chẳng biết viết thêm gì.
Mà cũng chẳng cần viết.
Ai nghĩ gì thì tùy.

Có cái sai trong đúng,
Có cái đúng trong sai.
Có những người nhỏ bé,
Có những bậc thiên tài.

Có cái hèn hèn thật,
Có cái hèn tạm thời.
Ừ, thì hèn cũng được,
Miễn có ích cho đời.


25
CAO BÁ QUÁT (1809 - 1855)   

Sau Khi Nguyễn Ánh mất,
Các vua khác lên thay.
Triều chính không ổn định,
Dân cơ cực thường ngày.

Bệnh dịch và nạn đói
Làm chết hàng nghìn người.
Có nhiều cuộc khởi nghĩa
Đã nổ ra nhiều nơi.

Đó là cuộc khởi nghĩa
Của ông Phan Bá Vành,
Năm Một Tám Hai Một,
Ở Nam Định, Thái Bình.

Tiếp đến là khởi nghĩa
Nông Văn Vân, tri châu,
Ở Cao Bằng trùng điệp,
Dẫu kéo dài không lâu.

Có cuộc khởi nghĩa lớn
Năm Một Tám Ba Ba.
n Khôi lãnh đạo,
Ở miền Nam nước ta.

Ông chiếm được Gia Định,
Giết chết Bạch Xuân Nguyên,
Một tên quan gian ác,
Tham lam và lộng quyền.

Chỉ mấy tháng sau đó
Cả Lục Tỉnh đầu hàng.
Tiếc là ông bệnh, chết,
Con đường đi dở giang.

Năm Ba Lăm, tháng Bảy,
Quân vua từ Phú Xuân
Được điều đến đàn áp,
Cuộc khởi nghĩa tan dần.

Một cuộc khởi nghĩa nữa,
Khoảng hai mươi năm sau,
Chu Thần Cao Bá Quát,
Một nhà thơ, cầm đầu.

Bây giờ ông sẽ kể
Về ông nhà thơ này.
Ngang tàng và chí khí,
Mà thơ cũng rất hay.

*
Một hiện tượng kỳ lạ
Trên thi đàn nước ta.
Đó là Cao Bá Quát,
Một nhà thơ tài ba,

Một ông quan chính trực,
Đèo bòng nợ văn chương
Rồi sau thành “tướng giặc”,
Bị giết ở chiến trường.

Ông sinh ở Phú Thị,
Huyện Gia Lâm bây giờ
Bố ông và ông nội
Là thầy thuốc yêu thơ.

Ngày bé ông nghèo khổ
Nhưng nổi tiếng thông minh,
Văn hay và chữ tốt,
Thần đồng tỉnh Bắc Ninh.     

Thế mà thi luôn trượt.
Mãi sau ông thi Hương,
Đỗ Á Nguyên Hà Nội,
Nhưng thật tiếc, quan trường

Xếp ông vào cuối bảng
Trong số hai mươi người
Đỗ cử nhân lần ấy.
Bất công và buồn cười.

Sau đó ông vào Huế
Thi Hội, khá nhiều lần,
Nhưng lần nào cũng trượt.
Dù rất giỏi thơ văn.

Năm một tám bốn một,
Được quan tỉnh Bắc Ninh      
Tiến cử làm công chức,
Ông khăn gói vào kinh,

Rồi làm chức quan nhỏ
Trong bộ Lễ, thường niên
Ông được làm sơ khảo
Trường thi tỉnh Thừa Thiên.

Một lần chấm, ông tiếc,
Thấy một số bài thi
Viết hay và súc tích
Nhưng vô tình phạm qui.

Thế là cùng Phan Nhạ,
Một người chấm như ông,
Cao Bá Quát chữa lại
Bằng mực pha son hồng.

Việc lộ, ông bị bắt,
Đáng lẽ xử tử hình,
Sau vua xét, hạ xuống
Thành “giảo giam hậu trình”.        

Tức tạm giam đợi lệnh.
Ba năm sau, được tha
Để “dương trình hiệu lực”,
Tức chuộc tội, đi xa.    

Ông theo Đào Trí Phú,
Lên tàu lớn Phấn Bằng
Sang Nam Dương “hiệu lực”,
Kéo dài gần một năm.

Rồi sau được phục chức
Ở bộ Lễ, nhưng ông
Lần nữa bị sa thải,
Lại quay về Thăng Long.      

Năm một tám bốn bảy,
Bỗng có giấy mời ông
Quay lại Huế làm việc,
Một công việc văn phòng,

Là chỉnh lý thơ phú
Cũng có khi sưu tấm,
Nói chung là nhàn nhã
Ngay trong Viện Hàn lâm.

Do bản chất công việc,
Ông làm quen ở đây
Với Miên Trinh, Miên Thẩm.
Hai vị hoàng thân này

Đã mời ông gia nhập
Và đàm đạo đôi khi
Với nhóm thơ của họ,
Gọi là Mạc Vân Thi.    

Nhưng ba năm sau đó,
Do mất lòng quan thầy,
Ông bị đổi ra Bắc
Làm giáo thụ Sơn Tây.

Sau đó ông buồn chán,
Treo áo mũ, về nhà,
Mượn cớ cha vừa mất,
Phải phụng dưỡng mẹ già.

Năm Một Tám Năm Bốn,
Trời nắng hạn lâu ngày,
Lại gặp nạn châu chấu,
Dân đói, nhiều ăn mày.

Ông bí mật vận động
Một số người có tiền
Và sĩ phu yêu nước
Khởi nghĩa chống chính quyền.

Từ Quốc Oai, Vĩnh Phúc
Đến Lạng Sơn, Cao Bằng
Có nhiều người hưởng ứng,
Tinh thần cũng rất hăng.

Lại thêm Đinh Công Mỹ,
Bạch Công Trân Sơn Tây,
Các thổ mục giàu có,
Rất ủng hộ việc này.

Việc tụ nghĩa cứ vậy,
Được tiến hành từ từ.
Lê Duy Cự - minh chủ.
Cao Bá Quát - quốc sư.

Thành trì quân khởi nghĩa
Là vùng núi Mỹ Lương,         
Kiểu thay trời hành đạo,
Chống áp bức, bạo cường.

Rất tiếc, việc bại lộ
Khi chuẩn bị chưa xong,
Nên cuối năm năm bốn,
Ông buộc phải tấn công.

Lúc đầu nghĩa quân thắng
Ở Tam Dương, Thanh Oai,
Sau quân vua đánh rát,
Phải thua chạy dài dài.

Năm Giáp Dần, tháng Chạp,
Được người Thái, người Mường
Bổ sung vào lực lượng
Ở cứ điểm Mỹ Lương,

Ông chủ động đánh chiếm
Thành Yên Sơn lần hai,
Ngày nay huyện lỵ ấy
Là thị trấn Quốc Oai.

Phó lãnh binh Lê Thuận
Đem quân dàn hàng ngang,
Hai bên đang huyết chiến,
Tên đội Đinh Thế Quang

Cho lính bắn tới tấp
Vào hàng ngũ nghĩa quân.
Cao Bá Quát trúng đạn,
Ngã xuống chết bất thần.

Rồi tướng Nguyễn Văn Thực
Và tướng Nguyễn Kim Thanh
Cũng lần lượt bị bắt,
Chém, đầu bêu ngoài thành.

Hơn trăm quân khởi nghĩa
Đã bỏ mạng lần này
Cùng tám mươi người khác
Bị bắt và đi đày.

Vua Tự Đức từ Huế
Xuống chiếu thưởng, khao quân,
Ra lệnh cắt cắt thủ cấp
Cao Bá Quát nghịch thần     

Rồi cho xe bêu riếu
Khắp các tỉnh Bắc Kỳ,
Xong, đưa vào cối giã,
Để nước sông cuốn đi.

Quốc sư Cao Bá Quát
Còn là một nhà thơ,
Một nhà thơ rất lớn,
Nổi tiếng cả bây giờ.

Khi khởi nghĩa thất bại,
Triều đình đốt sách ông.
May mắn còn giữ được
Trong các thư viện công

Tổng cộng, không kể truyện,
Gần nghìn rưởi bài thơ
Chủ yếu thơ chữ Hán,  
Ý hay và bất ngờ.

Thơ ông là khí phách
Của một bậc túc nho,
Một tấm lòng yêu nước
Khao khát dựng cơ đồ.


GIAI THOẠI VỀ CAO BÁ QUÁT  

Cao Bá Quát từ nhỏ
Đã nổi tiếng thần đồng,
Ăn nói giỏi, chí lớn,
Kinh và sử thuộc lòng.

Lớn lên càng khí phách,
Không khuất phục người nào,
Nhất là bọn ngu dốt
Loại lý trường, cường hào.

Lần nọ, nhân lý trưởng
Đắp đôi voi ngoài đình,
Quát làm bài thơ nhỏ,
Còn ký cả tên mình:

“Đôi voi đắp đẹp đấy,
Đủ cả đuôi, cả vòi.
Sao không thấy “cái ấy”,
Hay ông lý ăn rồi?”

Lão lý trưởng tức lắm,
Nhưng không dám làm gì.
Dính vào bọn con nít,
Người lớn sẽ xầm xì.

Lần nọ, vua Minh Mạng
Kinh lý ra Thăng Long.
Dân đi xem đông đúc,
Quát cũng muốn thấy ông.

Hôm ấy trời oi bức,
Quát xuống tắm Hồ Tây
Đúng lúc Minh Mạng đến,
Dừng kiệu ngắm hồ này.

Cậu giả đò sợ hãi,
Tồng ngồng leo lên bờ.
Vua cho là hỗn láo,
Sai lính trói, bắt chờ.

Cậu khóc, xin tha tội,
Xưng mình học trò nghèo.
Vua nói tội này láo,
Phải đánh đúng mười hèo.

Học trò chắc giỏi chữ,
Vậy câu đối vua ra,
Nếu đối được, đối đúng,
Vua chiếu cố, sẽ tha.

“Dưới hồ, cá đớp cá.”
Vua nói rồi mỉm cười.
Quát lập tức đáp lại:
“Trên bờ, người trói người.”

Minh Mạng biết mình hớ
Để thằng nhóc con này
Đặt mình ngang với hắn,
Nhưng hứa rồi, tiếc thay.

Cao Bá Quát học giỏi,
Nhưng thi trượt đều đều.
Người Thăng Long thời ấy
Gọi Thánh Quát, Thần Siêu.

Số là bọn quan lại,
Ghét, tìm cách dìm ông.
Năm một tám ba một,
Đi thi Ở Thăng Long,

Bài ông làm rất tốt,
Nên được đậu cử nhân,
Thế mà khi thi Hội,
Quan ngửi thấy giọng văn

Đúng của Cao Bá Quát,
Bèn đánh trượt tức thì.
Nhưng ông vẫn không nản
Và tiếp tục đi thi.

Tiếp tục lại thi trượt,
Vì khẩu khí của ông
Quan đọc qua là biết.
Cuối cùng ông nản lòng,

Bỏ về quê nằm khểnh,
Suốt ngay chỉ rong chơi,
Làm thơ hay đọc sách
Và lặng lẽ chờ thời.      

*
Ở Thăng Long lúc ấy
Có thầy Nguyễn Văn Siêu,
Nổi tiếng là hay chữ,
Học trò theo rất nhiều.

Một lần Cao Bá Quát
Tò mò đến xem sao.
Tới nơi, đứng tựa cửa
Chốc chốc ghé nhìn vào.

Nguyễn Văn Siêu thấy lạ,
Bèn cho hỏi là ai.
Đáp: Học trò, nhân tiện
Đến ghé thăm thầy tài.

Thế thì hãy đối lại
Vế đối này bây giờ:
“Thầy, chõng tre cót két.”
“Trò, sân gạch thẩn thơ.”      

Quát đáp ngay tắp lự,
Vừa chuẩn lại vừa hay.
Siêu phục tài, giữ lại
Rồi đàm đạo suốt ngày.

Từ đó họ thành bạn
Dù tuổi tác chênh nhau,
Thành “Thần Siêu”, “Thánh Quát”,
Rất ý hợp tâm đầu.

Quát tuy còn ít tuổi,
Nhưng kiêu căng, khinh người,
Nói: Xưa này chỉ có
Bốn bồ chữ trên đời.

Hai bồ là của Quát.
Một - của Nguyễn Văn Siêu.  
Cả thiên hạ chỉ một,
Mà thế cũng là nhiều. 


THAY LỜI KẾT

Đến hôm nay, kết thúc
Chuyến đi của chúng ta,
Ngược thời gian tìm hiểu
Lịch sử nước non nhà.

Suốt hăm bảy thế kỷ,
Kể từ thời Hồng Bàng
Đến thế kỷ Mười Chín,
Nhiều trang sử vẻ vang,

Nhiều chiến công vĩ đại
Của bao lớp cha ông
Đã hy sinh xương máu
Để bảo vệ non sông.

Ta, ông và các cháu
Phải biết mà tự hào.
Vì không biết Quá Khứ
Đã diễn ra thế nào,

Chắc chắn ta không hiểu
Hiện Tại và Tương Lai.
Thế đấy các cháu ạ.
Phải biết vì Ngày Mai.

Những câu chuyện lịch sử
Ông kể các cháu nghe
Đơn giản và dễ hiểu,
Bằng thơ nói, như vè.

Các cháu đọc, cố nhớ.
Nhớ rồi kể cho nhau.
Vừa vui vừa bổ ích.
Cũng chẳng khó lắm đâu.

Chia tay, Ông Tân Béo
Chỉ mong muốn một điều
Là hãy chăm học sử.
Ông yêu các cháu nhiều.

Hà Nội, 13. 1. 2013

1 comment:

  1. Mời mọi người đọc blog mời. Tra google 0912375717 nhavanthaibatan.
    Trang này người ta khóa, không post được bài mới.

    ReplyDelete