Monday, February 23, 2015

TRUYỆN THƠ THIÊN CHÚA GIÁO - PHẦN BA



CHÚA GIÊ-SU CHỌN MƯỜI HAI TÔNG ĐỒ

Chúa Giê-su lần nọ
Giảng đạo ngay bên bờ
Hồ Ghen-nê-xa-ret.
Nhiều người nghe hàng giờ.

Bỗng Đức Chúa nhìn thấy
Giữa hồ hai chiếc thuyền.
Chủ thuyền không đánh cá,
Mà giặt lưới kề bên.

Một trong hai thuyền ấy
Là của ông Si-môn.
Thuyền thì lớn và chắc,
Nhưng cá không một con.

Chúa ra hiệu cho lại,
Rồi bước xuống thuyền ông.
Từ trên thuyền, tiếp tục
Chúa giảng cho đám đông.

Giảng xong, Giê-su nói:
“Sao ông không ra hồ,
Chỗ nước sâu, quăng lưới?
Chắc bắt được cá to.”

Si-môn buồn bã đáp:
“Vâng, đã thử, tiếc sao,
Suốt cả ngày quăng lưới
Chẳng bắt được con nào.”

Nhưng nghe theo lời Chúa,
Ông lại ra giữa hồ,
Đánh được rất nhiều cá,
Mà lại toàn cá to.

Chắc phải có phép lạ.
Sao có thể thế này?
Chỉ quăng lưới một lúc,
Đã hai thuyền cá đầy.

Ông Si-môn lập tức,
Cùng Gia-cô-bê, Giăng,
Hai bạn chài lúc ấy,
Cúi lạy Chúa mà rằng:

“Chúng tôi thật đắc tội.
Có mắt cũng như lòa.”
Giê-su nói: “Đứng dậy
Và hãy đi theo ta.”

Vậy là Ngài chọn được
Ba tông đồ cho mình,
Những người luôn kính Chúa,
Mẫn cán và trung thành.

Một nhân viên thu thuế,
Có tên là Lê-vi,
Được Ngài nhận sau đó:
“Ông hãy theo ta đi!”

Hôm sau, hai môn đệ
Của Giô-an thông minh
Cũng được Ngài chấp nhận
Và cho đi theo mình.

Một trong hai người ấy
Tên là An-rê-a,
Em Giô-an Tẩy Giả,
Quê ở vùng Giu-đê-a.

Chúa Giê-su sau đó
Tới miền Ga-li-lê,
Chấp nhận thêm người nữa,
Là ông Phi-li-pê.

Ông này còn giới thiệu
Một người tốt, thân quen
Và cũng được Chúa chọn,
Là Na-tha-na-en.

Số tông đồ của Chúa
Sau lên đến mười hai.
Mỗi người một tính cách,
Nhưng một lòng theo Ngài.

Trong mười hai người ấy
Có một người xấu xa,
Đã nỡ lòng bán Chúa
Là tông đồ Giu-đa.


LỜI CHÚA GIÊ-SU DẠY MỌI NGƯỜI

Cùng các tông đồ mới,
Chúa Giê-su dừng chân
Ở vùng đất bằng phẳng
Mầu mỡ và đông dân.

Nhiều tín đồ của Chúa
Khắp cả vùng Giu-đê-a
Hay tin, kéo nhau đến,
Cả gần và cả xa.

Ngài không chỉ giảng đạo
Mà còn chữa bệnh lành
Cho những người bệnh tật
Ngồi rất đông xung quanh.

Biết Chúa có thần lực
Chữa bách bệnh, ai ai
Cũng muốn gần, cốt để
Được chạm tay vào Ngài.

Ngài nói: “Người nghèo khổ,
Người ăn ở hiền hòa,
Có tâm và có đức,
Không làm việc xấu xa,

Hết lòng kính phụng Chúa,
Thực sự giúp đỡ người,
Sẽ được lên Nước Chúa,
Hưởng ân phước đời đời.”

Ngài dạy: “Làm việc thiện,
Làm xong nên quên đi.
Tay phải không được biết
Tay trái đang làm gì.

Và rằng khi cầu nguyện,
Phải tránh xa đám đông.
Phải nhớ đóng chặt cửa,
Ngồi một mình trong phòng.

Lời cầu phải mạch lạt.
Buổi cầu nguyện hàng ngày,
Đúng giờ và đúng chỗ,
Phải bắt đầu thế này:

“Lạy Đức Cha vinh hiển,
Đấng đang ngự cõi trời.
Mong triều đại Cha đến
Với chúng con, cõi người.

Xin Đức Cha ban phước
Cho đủ ăn hôm nay;
Xin tha hết tội lỗi
Của chúng con đời này.

Để chúng con rộng lượng
Tha tội lỗi cho ai
Đã gây nên đau khổ
Cho các con của Ngài.

Xin Cha hãy che chở
Khỏi điều không tốt lành,
Ngăn những điều cám dỗ
Làm sa ngã con mình…”

Chúa Giê-su dạy thế.
Mọi người chăm chú nghe.
Tiếng tốt lan truyền rộng
Khắp cả vùng Giu-đê.


TIỆC CƯỚI Ở CA-NA

Lần nọ có tiệc cưới
Ở vùng đất Ca-na.
Chúa cùng các môn đệ
Cũng được mời tham gia.

Cũng có mặt hôm ấy
Ma-ri-a, mẹ Ngài.
Tiệc đang vui, bất chợt
Rượu không còn, ai ai

Cũng lấy làm lo lắng,
Không biết phải thế nào.
Giữa lúc bối rối ấy,
Chúa liền nói: “Không sao.

Hiện có sáu chum đá
Ta vừa thầy ngoài sân.
Hãy đem đổ đầy nước,
Sẽ có cái đang cần.”

Đó là những chum lớn
                   Làm phép rửa hàng ngày
Theo phong tục Do Thái
Vẫn tuân thủ xưa nay.

Mỗi chum khoảng trăm lít,
Hoặc một trăm hai mươi.
Đổ xong nước, Chúa nói:
“Múc rượu mời mọi người!”

Mọi người uống, thật lạ.
Đúng là rượu, tuyệt vời.
Tất cả tạ ân Chúa,
Thỏa thích uống, vui cười.

Đây chính là phép lạ
Chúa làm lần đầu tiên
Trước con dân của Chúa
Ở đất It-ra-en.


CHÚA GIÊ-SU CHỮA BỆNH CHO NGƯỜI BẠI LIỆT

Lần nọ, Ngài giảng đạo,
Người nghe đến rất nhiều.
Trong số họ còn có
Cả người Pha-ri-sêu.

Không ít người tìm đến,
Nghe danh Chúa Giê-su
Có thể chữa lành bệnh
Cả cho người đui mù.

Có một người bại liệt
Được khiêng đến gặp Ngài,
Mong được Ngài chữa bệnh,
Nhưng chật cứng trong ngoài.

Họ không sao vào được,
Leo lên nhà, và rồi
Bóc mái, thả cáng xuống,
Ngay trước chỗ Ngài ngồi.

“Đứng dậy đi, anh bạn. -
Chúa nói với người này.
Anh đã được tha tội.
Vậy đi về nhà ngay!”

Người bại liệt đứng dậy,
Tạ ơn Chúa, anh ta
Cõng trên vai chiếc cáng,
Lập tức đi về nhà.

Mọi người thấy, kinh ngạc,
Cả người Pha-ri-sêu.
Càng thêm kính trọng Chúa
Đã giàu lòng thương yêu.


NGƯỜI PHỤ NỮ TỘI LỖI ĐƯỢC CHÚA THA THỨ

Có một ông giàu nọ,
Thuộc người Pha-ri-sêu,
Một hôm mời được Chúa
Đến nhà ăn cơm chiều.

Trong bữa ăn, bất chợt
Có một người đàn bà
Bê chiếc bình bạch ngọc
Đựng dầu thơm vào nhà.

Trong thành ai cũng biết
Về người đàn bà này,
Người đàn bà tội lỗi,
Bị khinh ghét xưa nay.

Bà khóc, lấy nước mắt
Rửa bàn chân cho Ngài,
Dùng tóc mình lau sạch,
Xức dầu thơm lên ngoài.

Ông chủ nhà thầm nghĩ:
“Đã là Chúa, ông ta
Chắc biết con người ấy
Tội lỗi và xấu xa.”

Đọc được ý nghĩ đó,
Chúa Giê-su hỏi ông:
“Nếu có hai con nợ.
Một người nợ trăm đồng.

Người kia nợ năm chục.
Cả hai được ông tha.
Vậy ai trong số họ
Yêu ông hơn, chủ nhà?”

“Yêu tôi hơn, chắc chắn
Là người nợ tôi nhiều.”
“Đúng như vậy, - Chúa nói
Với người Pha-ri-sêu. -

Tôi vào nhà ông trước.
Lặng yên ông cứ ngồi.
Còn người này tội lỗi
Rửa bàn chân cho tôi.

Mà rửa bằng nước mắt,
Rồi lau bằng tóc mình.
Một việc làm hối cải,
Rất nặng nghĩa ân tình.

Tội người này nhiều thật,
Nhưng nay đã được tha.”
Sau đó, Ngài âu yếm
Nói với người đàn bà:

“Con đã được xá tội.
Vì bằng chính lòng thành
Và lương tâm hối cải.
Con đã tự cứu mình.”


NGƯỜI SA-MA-RI-TAN TỐT BỤNG

Chúa Giê-su thường kể
Những câu chuyện của Ngài
Để minh họa bài giảng.
Chuyện thường ngắn, không dài.

Như ta biết, Thiên Chúa
Đưa ra mười điều răn
Trong sách kinh Cựu Ước,
Quan trọng và rất cần.

Trong mười điều răn ấy,
Quan trọng nhất hai điều,
Là phải yêu Thiên Chúa
Bằng trái tim thương yêu.

Hai là yêu hàng xóm
Như yêu bản thân mình.        
Yêu không chút vụ lợi,
Chân thành và công minh.

“Thế nào là hàng xóm?”
Bỗng có người hỏi ngay.
Để trả lời, Đức Chúa
Kể câu chuyện thế này.

*
Có một người Do Thái
Một mình, đi giữa đồng,
Bị bọn cướp trấn lột,
Cướp hết đồ của ông.

Chúng đánh ông gần chết,
Nằm còng queo, thật thương.
Một linh mục Do Thái,
Thấy ông bên vệ đường.

Thế mà linh mục ấy
Coi như không thấy gì.
Đáng lẽ ông phải giúp,
Nhưng thản nhiên, ông đi.

Rồi một phó linh mục,
Cũng Do Thái, đi qua.
Ông này cũng không giúp,
Coi như việc người ta.

Cuối cùng, một ông lão
Người Sa-ma-ri-tan,
Thấy, dừng lại giúp đỡ,
Trông gầy yếu, nghèo nàn.

Tộc người của ông lão,
Như ta biết, bao đời
Không ưa người Do Thái,
Không ở cùng một nơi.

Người Do Thái cũng vậy,
Vốn ghét tộc người này.
Không làm ăn, buôn bán,
Không nói chuyện, bắt tay.

Thế mà ông lão ấy
Cúi xuống băng vết thương
Cho ông người Do Thái
Đang nằm ngất bên đường.

Ông chở người bị nạn
Trên con la của mình
Tới quán trọ gần đó
Nhờ chăm sóc tận tình.

Hơn thế, người Do Thái
Bị cướp, chẳng còn gì,
Nên ông bỏ tiền túi
Thanh toán các khoản chi.

Lúc xong xuôi mọi việc,
Người Sa-ma-ri-tan
Mới lên đường đi tiếp,
Gầy yếu và nghèo nàn.

Kể xong câu chuyện ấy,
Ngài bảo người hỏi Ngài:
“Giờ thì ông đã biết
Người láng giềng là ai.

Một khi người Do Thái
Được chính người ghét mình
Thương yêu và giúp đỡ
Rất vô tư, tận tình,

Thì tại sao con Chúa,
Lại phân biệt tổ tông,
Văn hóa và sắc tộc,
Không yêu nhau thực lòng?”


ĐỨA CON LẦM LẠC

Lần nọ, khi giảng đạo,
Chúa kể câu chuyện này,
Coi như một bài học
Về dạy đời rất hay.

Xưa có chàng trai nọ,
Con một phú ông giàu,
Tự nhiên cảm thấy chán
Cảnh ở nhà buồn rầu.

Thế là anh xin bố
Tạm ứng trước cho anh
Tiền anh được thừa kế
Để làm chuyến du hành.

Và rồi, tiền trong túi,
Anh lên đường xa nhà,
Ăn tiêu rất thoải mái,
Tới một nước rất xa.

Ở đấy, nhiều tiền bạc
Nên bạn bè cũng nhiều.
Chẳng bao lâu tiền hết,
Nên trắng tay, thành nghèo.

Lại đúng mùa đói kém,
Anh chẳng có gì ăn
Buộc phải làm người ở
Cho một bác nông dân.

Anh giúp ông chăn lợn.
Cả mùa hè, mùa đông.
Đói, phải ăn cả cám
Như bầy lợn ngoài đồng.

Một hôm, anh chợt nghĩ:
Đằng nào cũng làm thuê.
Thà làm thuê cho bố,
Chắc đang sống ở quê.

Vậy là anh cuốc bộ,
Dép mòn vẹt dưới chân,
Áo quần rách tơi tả,
Tìm về với người thân.

Anh ngạc nhiên thấy bố
Trong thời gian vắng mình,
Biết con sẽ quay lại,
Nên hàng ngày chờ anh.

Không trách con hoang phí,
Bỏ nhà đi cũng không,
Ông bố mở tiệc lớn,
Lại ôm con vào lòng.


CHÚA GIÊ-SU CHỮA LÀNH
CHO MƯỜI NGƯỜI BỊ BỆNH PHONG

Chúa Giê-su lần nọ
Tới một làng phía đông.
Hay tin, liền xuất hiện
Mười người bị bệnh phong.

Ngài làm phép, rồi nói:
“Các ngươi hãy đi nhanh
Gặp các thầy tư tế.
Chắc rồi bệnh sẽ lành.”

Họ đi mới một quãng,
Thì có sự lạ đời.
Tự nhiên thấy biến mất
Các vết lở trên người.

Cả mười người khỏi bệnh.
Thế mà rồi không ai,
Trừ một người duy nhất
Quay lại tạ ơn Ngài.

Đó là một ông lão
Thuộc người Sa-ma-ri,
Vốn bị người Do Thái
Khinh rẻ chẳng ra gì.

Ngài nói: “Chín người ấy
Là con chiên của ta.
Họ vô ơn bạc nghĩa,
Không tạ ân Chúa Cha.

Chỉ ngươi, người ngoại quốc,
Biết cư xử có tình.
Vậy ta tha hết tội,
Và chữa bệnh cho lành.”


CHÚA GIÊ-SU CHÚC PHƯỚC CHO TRẺ EM

Một lần, có ai đấy
Đưa mấy cháu thiếu nhi
Đến để Ngài chúc phước,
Nhưng tông đồ đuổi đi.

Chúa Giê-su liền nói:
“Hãy để chúng lại đây.
Vì nước Chúa hạnh phúc
Là của các cháu này.”

Nói đoạn, Chúa âu yếm
Đặt bàn tay của mình
Lên đầu các cháu bé,
Rồi Ngài chúc phước lành.


NGƯỜI PHỤ NỮ NGHÈO CÚNG TIỀN

Chúa Giê-su lần nọ
Thăm dân It-ra-en,
Ngồi bên hòm công đức,
Xem người ta cúng tiền.

Không ít người giàu có
Cúng vàng bạc, cúng nhiều.
Nhưng có một bà góa
Dáng tiều tụy, đói nghèo

Chỉ cúng hai xu nhỏ
Bà giấu sâu trong người,
Với bàn tay run rẩy
Và nét mặt rạng ngời.

Ngài bảo các môn đệ:
“Chính người đàn bà này
Mới công đức nhiều nhất,
Nhiều hơn hết hôm nay.

Người khác cúng những cái
Họ có thừa, còn bà,
Cái duy nhất mình có,
Cúng hiến hết cho ta.”


CHÚA GIÊ-SU NUÔI ĂN NĂM NGHÌN NGƯỜI

Một đám đông môn đệ
Cùng lên núi, ở đây
Chúa Giê-su giảng đạo
Liên tục suốt cả ngày.

Chỉ khi mặt trời lặn,
Và đêm đang buông dần
Các tông đồ mới biết
Mọi người chưa được ăn.

Từ sáng đến tận tối
Chưa ai được ăn gì.
Đang đêm, đường lại khó,
Biết mua mua đâu bánh mì?

Chúa Giê-su thấy vậy,
Quay sang hỏi đám đông
Xem ai đang có bánh
Để chia sẻ hay không.

Một cậu bé mang lại
Suất trưa cậu mang đi,
Gồm hai con cá nhỏ
Và một chiếc bánh mì.

Tay cầm cá và bánh,
Chúa cầu kinh hồi lâu,
Rồi đưa cho môn đệ
Từng người, chuyền cho nhau.

Thật lạ, bánh và cá
Được chuyền cho người bên,
Mà vẫn còn lại đó,
Trong tay người vừa chuyền.

Năm nghìn người hôm ấy
Được một bữa ăn no
Từ bữa trưa khiêm tốn
Của đứa bé chăn bò.

Số bánh ăn không hết
Chất mười hai giỏ đầy.
Mọi người tạ ân Chúa
Bữa ăn kỳ lạ này.


CHÚA GIÊ SU ĐI TRÊN NƯỚC

Sau bữa ăn tối ấy,
Năm nghìn người no nê,
Ngài sai các đồ đệ
Vượt biển Ga-li-lê.

Còn Ngài thì lên núi,
Trên tảng đá, một mình
Trong đêm khuya tĩnh lặng,
Lại tiếp tục cầu kinh.

Bỗng nhiên trời nổi bão,
Mưa và gió rất to,
Sóng dâng cao, suýt lật
Thuyền của các tông đồ.

Họ vật lộn chống đỡ
Với mưa bão suốt đêm.
Nhưng mưa bão không ngớt,
Mà còn hung dữ thêm.

Bất chợt lúc gần sáng
Họ nhìn thấy một người
Bước đi trên mặt nước,
Như lơ lửng giữa trời.

Họ lo lắng, hoảng sợ,
Không biết Chúa Giê-su
Đang đi đến với họ
Giữa trời biển mịt mù.

Ngài bảo họ đừng sợ.
“Ta đến cứu anh em!”
Ngài lên thuyền, gió bão
Cũng bắt đầu lắng êm.

Dẫu nhiều lần trước đó
Thấy Chúa trổ phép màu,
Các đồ đệ không thể
Không kinh ngạc, nhìn nhau.


CHÚA GIÊ-SU CHỮA BỆNH CHO NGƯỜI MÙ

Các tông đồ của Chúa,
Dẫu chứng kiến nhiều lần,
Vẫn không ngớt kinh ngạc
Khi Ngài trổ phép thần.

Ngay sau đêm làm phép
Cấp bánh mì ăn no
Cho năm nghìn người đói,
Chúa và các tông đồ

Đi đến một vùng đất
Gọi là Bê-tha-da,
Nơi có một người nọ,
Mới sinh đã mù lòa.

Người ta mang ông ấy
Đến gặp Chúa Giê-su.
Xin Ngài chữa lành bệnh.
Ngài liền dắt ông mù

Đi ra khỏi thành phố,
Rồi tới một cánh đồng,
Ngài liền nhổ nước bọt
Vào hai mắt của ông.

“Ông nhìn rõ rồi chứ?”
“Dạ thưa Chúa, bây giờ
Con nhìn thấy hình Chúa
Như hình cây, mờ mờ.”

“Tốt lắm, - Giê-su nói,
Chạm mặt ông bằng tay.”
“Giờ thì con nhìn rõ,
Y hệt như ban ngày.”


NGƯỜI GIÀU KHÓ VÀO NƯỚC CHÚA

Lần nọ, đang giảng đạo,
Chợt có một chàng trai,
Thuộc gia đình giàu có,
Tìm đến gặp, hỏi Ngài:

“Con muốn lên Nước Chúa
Để hưởng phước sau này.
Vậy kính xin Chúa bảo
Phải làm gì hôm nay.”

Chúa đáp: “Phải tuân thủ
Các điều răn của ta -
Không giết người, trộm cắp,
Phải kính trọng mẹ cha,

Không làm chứng gian dối,
Không bao giờ ngoại tình.
Phải thương yêu người khác
Như thương yêu chính mình…”

“Thưa, tất cả điều ấy
Con đã làm xưa nay.
Con còn làm gì nữa
Để được hưởng ân này?”

“Vậy con hãy đem bán
Ruộng đất và cửa nhà,
Chia cho người nghèo khổ,
Rồi hãy đi theo ta.”

Anh nhà giàu trẻ tuổi
Nghe thế lấy làm buồn,
Vì tham lam tiếc của.
Cuối cùng bỏ đi luôn.

“Với người giàu, - Chúa nói -
Lên Nước Chúa là điều
Xưa nay quả rất khó.
Còn khó hơn rất nhiều

So với một việc khó
Là bắt con lạc đà
Chui qua lỗ kim nhỏ.
Hãy nhớ lời của ta.”


CHÚA GIÊ-SU VÀO THÀNH GIÊ-RU-SA-LEM

1
Nhiều tháng đi đây đó
Thuyết giáo ngày và đêm.
Chúa Giê-su quyết định
Vào Giê-ru-sa-lem.

Hôm ấy ngày Chủ Nhật,
Đúng vào năm ba mươi,
Như thường lệ, thành phố
Đang đông đúc đầy người.

Ngài nghĩ giờ là lúc
Ngài phải chứng tỏ mình
Đối với dân Do Thái
Là Đức Chúa anh minh.

Sứ mạng Ngài sắp hết.
Ngài nói với tông đồ
Sắp tới Ngài sẽ chết,
Nhưng bảo họ đừng lo,

Vì ba ngày sau đó
Ngài sống lại, và rồi
Ở thêm mấy tuần nữa,
Ngài sẽ bay lên trời.

Khi gần đến thành phố,
Ngài bảo lấy con lừa
Để Ngài cưỡi lên nó.
Lúc ấy đã gần trưa.

Nhiều đám đông trải áo
Trên đường Ngài đi qua.
Một số vẫy cành cọ,
Miệng hô hô-xa-na!

Họ muốn Ngài nhanh chóng
Thành vua It-ra-en.
Chỉ là vua mới được
Chào đón theo cách trên.      

2
Ngài vào Đền Thờ Lớn,
Là nơi thờ Chúa Trời,
Giờ biến thành cái chợ,
Bán đủ thứ trên đời.     

Có bán cả súc vật
Để làm lễ tế thần.         
Bọn đổi tiền, ăn cắp
Được tự do làm ăn.

Ngài đuổi hết bọn chúng,
Còn bện chiếc roi dài
Để xua đuổi súc vật
Và gà vịt ra ngoài.

Từ đấy Ngài thuyết giảng
Và chữa bệnh hàng ngày,
Những người mù, què quặt,
Người mụn lở chân tay.

Ngài giúp mọi người hiểu
Về Thiên Chúa, Nước Trời,
Về tình yêu, thương cảm
Giữa người và con người.

3
Nhưng các quan tư tế
Lại khó chịu với Ngài,
Vì chính người của họ
Bị Ngài đuổi ra ngoài.

Họ sợ vua La Mã
Trừng trị họ nay mai
Vì để dân tụ họp
Rất đông khi theo Ngài.

Và rồi quan trọng nhất,
Họ sợ Ngài có ngày
Dần dần lấn át họ
Về quyền lực nơi này.  

Cuối cùng, họ quyết định
Phải giết Ngài mới yên,
Bằng cách nhờ môn đệ
Bán Ngài để lấy tiền.


BUỔI THUYẾT GIẢNG TRÊN NÚI      

1
Hết nơi này, nơi khác,
Khắp vùng Ga-li-lê,
Đức Chúa đi, giảng đạo,       
Chữa cho người đui, què.

Được mọi người mến mộ,
Cả người giàu, người nghèo,
Đức Chúa đâu, họ đấy,
Cả đám đông đi theo.   

Một hôm, trên sườn núi,
Ngài nói với tông đồ
Và đám đông những việc
Họ quan tâm và lo.

Qua buổi giảng hôm ấy
Ngài đã giúp mọi người
Hiểu hơn về Thiên Chúa
Và ứng xử ở đời.

2
Người thực sự hạnh phúc, -
Ngài nói, - là những ai
Giàu điều đẹp lòng Chúa,
Chứ không giàu tiền tài.        

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa
Dạy: Không được giết người.
Giê-su nói: Hơn thế,
Ta không được hận đời.

Nếu ta hận người khác
Hay tìm cách trả thù,
Tức là ta phạm tội,
Mắt sáng mà như mù.

“Mất mắt phải đền mắt,
Mất răng phải đền răng”,
Cựu Ước dạy như thế.
Chúa Giê-su thì rằng

Dẫu sao, ta phải cố
Yêu kẻ thù của mình.
Để thù hận đè nén,
Ta sẽ mất thông minh.

Chỉ Tình Yêu có thể
Thắng được điều Ác Tà.
Hãy tỏ lòng nhân ái.
Hãy bình thản bỏ qua

Định kiến và nỗi sợ,
Trả đũa và thù hằn.
Những điều ấy rất dễ
Tăng lên gấp nhiều lần.

Về tình yêu, Ngài nói:
Yêu là phải suốt đời,
Phải nêu gương chung thủy,
Yêu ai, yêu một người.

Yêu phải biết tha thứ,
Biết cùng nhau thích nghi.
Đừng vì cái nhỏ nhặt
Để cái lớn mất đi.         

Trong sách kinh Cựu Ước
Người ta nghĩ ở đời
Có nhiều tiền, nhà rộng
Là đẹp ý Chúa Trời.

Giê-su nói ngược lại:
Đừng ky cóp bạc vàng,
Là cái sẽ biến mất,
Hoặc trộm lấy dễ dàng.

Mà thay cho của cải,
Hãy tích góp tình yêu
Rồi gửi nơi Đức Chúa,
Sẽ bền lâu hơn nhiều.

Không thể thờ hai chủ,
Cũng như không thờ Tiền,
Mà lại còn thờ Chúa.
Hai cái không đi liền.

Chỉ đam mê tiền bạc,
Theo sách Ti-mô-thi,
Là cội nguồn bất hạnh,
Làm chệch hướng ta đi.

Không có gì sai trái
Trong việc hưởng thụ đời.
Có điều, mình hưởng thụ,
Nhưng cũng không quên người.

Trong buổi giảng hôm ấy
Ôn tồn và nhẹ nhàng,
Ngài nêu một nguyên tắc,
Gọi là Nguyên Tắc Vàng:

Đừng làm với người khác
Những gì bản thân ta
Không muốn chính điều ấy    
Người khác làm với ta.

Và rằng đừng lớn tiếng
Chê ai đó đúng sai.
Cách này hay cách khác,      
Ai cũng sai như ai.


BỮA ĂN TỐI CUỐI CÙNG

Chúa Giê-su lúc ấy
Ở Giê-ru-sa-lem
Được mọi người ngưỡng mộ
Như vì sao trong đêm.

Tuy nhiên, Ngài biết trước,
Rằng Ngài sắp đi xa.
Theo tiếng gọi Thiên Chúa,
Ngài sẽ lên với Cha.

Ngày được chờ đợi nhất,
Là ngày lễ Vượt Qua,
Cuối cùng cũng đã đến
Với mọi người, mọi nhà.

Ngày ấy dân Do Thái
Sẽ ăn bánh mì khô,
Rau đắng, thịt cừu nướng,
Uống bốn cốc rượu nho.

Hai tông đồ của Chúa,
Giô-an và Phê-rô
Được sai đi tìm chỗ
Để Chúa và tông đồ

Tổ chức bữa ăn cuối
Mừng ngày lễ Vượt Qua.
“Các ông cứ vào phố,
Tất sẽ tìm được nhà.

Thấy ai mang vò nước,
Hãy lặng lẽ theo sau.
Theo về nhà, hãy hỏi:
“Phòng của chúng tôi đâu?

Người ấy chỉ lên gác
Một phòng đẹp rất to,
Đủ bàn ghế, bát dĩa
Cho ta và tông đồ.”

Mọi việc đúng như thế.
Khi ngồi vào ăn chung,
Chúa bảo các môn đệ:
“Đây là lần cuối cùng

Ta cùng các môn đệ
Dự bữa tiệc Vượt Qua,
Trước khi bị câu rút,
Lên với Đức Chúa Cha.

Trước khi ăn, thật lạ,
Ngài lấy một chiếc khăn
Và một chậu nước sạch
Rồi cẩn thận rửa chân,

Rửa rất sạch, lần lượt
Cho tông đồ của mình. 
Ngài rửa chậm, sạch sẽ,
Rồi mới rửa chân mình.

Lúc ấy Ngài đã biết
Giu-đa sẽ bán Ngài,
Bị đóng đinh câu rút
Trên thánh giá ngày mai.

Các tông đồ và Chúa
Tối hôm ấy ăn chung,
Một bữa ăn đáng nhớ -
Bữa ăn tối cuối cùng.

Rồi Ngài lên tiếng nói,
Làm mọi người ngạc nhiên:
“Ngồi đây, có một vị
Sắp bán ta lấy tiền.”

“Ai, ai?” - Mọi người hỏi.
“Hãy nhìn theo tay ta.”
Ngài đáp, cầm lát bánh
Rồi đưa cho Giu-đa.

Ngài bảo tên phản bội:
“Sao ngươi còn chờ gì?”
Giu-đa đứng bật dậy
Rồi vội vàng bỏ đi.

Ngài bẻ một chiếc bánh,
Chia mỗi người một phần.
“Xương thịt của ta đó,
Mời mọi người cùng ăn.”

Rồi Ngài rót cốc rượu,
Lần lượt chuyền quanh bàn.
“Máu ta đấy, hãy uống.”
Lúc ấy đêm sắp tàn.


CHÚA GIÊ-SU BỊ BẮT

Các tư tế lo lắng
Uy tín Ngài lên cao,
Muốn giết, trừ hậu họa,
Mà chưa biết cách nào.

Một tông đồ của Chúa,
Giu-đa, thằng đê hèn,
Đã đồng ý bán Chúa
Lấy ba mươi đồng tiền.

Là tông đồ, hắn biết
Ngài ở đâu, làm gì.
Nên báo quan tư tế
Đêm đến, bắt Ngài đi.  

Chúng bắt đêm, bởi lẽ
Không dám bắt ban ngày,
Sợ dân biết, tức giận,
Sẽ làm loạn xứ này.      

Sau bữa tối hôm đó,
Cùng tông đồ của mình,
Ngài ra khu vườn vắng,
Cầu nguyện, đón bình minh.

Ngài vẫn thường ra đấy.
Giu-đa biết điều này,
Nên dẫn bọn tư tế
Và binh lính đến đây.   

Phê-rô liền rút kiếm,
Chém đứt tai một tên.
Chúa Giê-su cản lại:
“Hãy cất kiếm, đứng yên.

Nếu muốn, ta có thể
Gọi Cha ta hôm nay.
Ngài sẽ giết chúng nó.
Nhưng việc phải thế này.”

Thế là Ngài bị bắt.
Các tông đồ, mỗi người -
Do sợ bị bắt nốt -
Chạy tan tác mỗi nơi.

Thấy Chúa bị xử chết,
Giu-đa, dẫu đê hèn,
Bỗng thấy lòng hối hận,
Nên hắn trả lại tiền.

Sau đó hắn tự sát.
Tội bán Chúa, phản thầy
Còn nặng hơn thánh giá
Trên vai Chúa yếu gầy.


CHÚA GIÊ-SU BỊ ĐÓNG ĐINH CÂU RÚT

Hàng năm, vào dịp lễ,
Tổng quản Phi-la-tô,
Quan toàn quyền La Mã,
Muốn mị dân, bày trò

Tha một tên tội phạm,
Hay tha mạng một người
Bị bắt vì bạo loạn,
Để nêu gương cho đời.

Năm ấy sự lựa chọn
Là giữa Chúa Giê-su
Và một tên tướng cướp
Hiện đang bị giam tù.

Phi-la-tô thực sự
Muốn tha chết cho Ngài,
Nhưng đám đông phản đối,
Rất giận dữ, ai ai

Cũng kêu to: “Giết hắn!
Tên Do Thái xấu xa!
Tha cho tên tướng cướp!
Tha cho Ba-ra-ba!”

Sau mấy lần do dự,
Cuối cùng Phi-la-tô
Buộc lòng phải nhân nhượng
Đám đông đang reo hò.

Thế là Chúa bị xích,
Rồi dẫn ra pháp trường.
Theo sau, nhiều phụ nữ
Khóc than Ngài xót thương.

Ngài bị đánh, ném đá,
Bị đem làm trò cười,
Bị phỉ nhổ vào mặt,
Máu bê bết đầy người.

Với vòng gai trên trán,
Bị lột trần, một mình,
Ngài phải vác thập giá
Chốc nữa bị đóng đinh.

Yếu quá, không vác nổi,
Si-môn vác thay Cha.
Cứ thế, Ngài bị dẫn
Lên đồi Gôn-gô-tha.

Bọn quan và binh lính
Chế diễu, sao không ai,
Thánh thần và Thiên Chúa,
Xuất hiện để cứu Ngài?

Cùng hai tên tội phạm,
Ngài đã bị đóng đinh
Xuyên tứ chi khô héo,
Trên thánh giá của mình.      

Khắc trên đầu thánh giá
Là dòng chữ màu đen:
“Hắn là Vua Do Thái”,
Thay cho họ và tên.

Ngài khẽ gọi tên Mẹ,
Tên tông đồ Giô-an,
Cả tên Cha, Đức Chúa:
“Sao Cha nỡ bỏ con?”

Có một người phụ nữ
Đứng nhìn Ngài từ xa.
Bà, một người tội lỗi,
Tên là Mac-đa-la.

Cứ thế, trong sáu tiếng,
Thân xác Ngài phơi khô.
Giô-sê chờ trời tối,
Hạ Chúa xuống nhà mồ.


CHÚA GIÊ-SU SỐNG LẠI

Hôm ấy là Thứ Sáu,
Vì đang vội, không ai
Lau rửa xác sạch sẽ
Và xức dầu cho Ngài.

Hôm sau là Thứ Bảy,
Lại là ngày nghỉ ngơi,
Vậy phải chờ Chủ Nhật.
Sáng Chủ Nhật đẹp trời,

Theo một toán phụ nữ,
Bà kia, Mac-đa-la,
Mang theo dầu, hương liệu,
Lên đồi Gôn-gô-tha.     

Đến nơi, bà kinh ngạc
Không thấy xác Ngài đâu.
Chợt nhìn lên, bà thấy
Hai thiên thần trên đầu.

“Sao lại tìm người sống
Giữa những người chết rồi?
Ngài không ở đây nữa,
Mà đã bay lên trời.”

Bất chợt, bà hốt hoảng
Khi thấy có một người,
Bà không biết là Chúa.
Người ấy nói thành lời:

“Ta là Chúa sống lại.
Con hãy quay về nhà,
Báo với anh em biết,
Ta lên cùng Chúa Cha.”

Bà vội vã quay lại
Kể với các tông đồ
Những gì bà chứng kiến,
Còn hồi hộp và lo.

Rồi vào mộ, lần nữa
Bà thấy tấm vải tang,
Nhưng xác Ngài biến mất,
Càng ngạc nhiên, bàng hoàng.

Khi mọi người đi hết,
Vừa khóc, Mac-đa-la
Vẫn ngồi bên mộ Chúa,
Vừa thương khóc xót xa.

Giê-su lại xuất hiện,
Lặng lẽ đứng trước bà.
“Vì sao ngươi phải khóc,
Hay đang tìm người nhà?”

Bà không nhận ra Chúa,
Tưởng ai đó dưới đồi.
“Nếu ông lấy xác Chúa,
Hãy trả lại cho tôi!”

“Ma-ri-a, - Chúa nói. -
Con hãy quay về nhà,
Báo với các môn đệ,
Ta về với Cha ta.”

Bà theo lời Chúa dặn,
Lại báo với mọi người
Rằng Đức Chúa còn sống,
Nhưng sẽ bay lên trời. 

Kể từ khi sống lại
Sáng Chủ Nhật, trong mồ,
Hai lần Ngài đã gặp,
Nói chuyện với tông đồ.         

Thêm bốn mươi ngày nữa
Chúa ở chốn trần ai.
Rồi nói lời vĩnh biệt,
Ngài lên với Cha Ngài.


CHÚA GIÊ-SU HIỆN RA VỚI CÁC TÔNG ĐỒ

Buổi chiều ngày hôm ấy,
Ngày thứ nhất trong tuần,
Các tông đồ của Chúa
Đang tụ họp quây quần

Trong một ngôi nhà nhỏ,
Nơi cửa đóng bốn bề.
Họ sợ dân Do Thái
Đến chất vấn nặng nề.

Bỗng nhiên Chúa xuất hiện,
Trước tông đồ của Ngài,
Dù ngôi nhà khép kín,
Luôn cửa đóng then cài.

Tất cả mừng, thấy Chúa.
Ngài nói: “Chào anh em.
Chúc bình an, vui vẻ.”
Rồi Ngài chìa cho xem

Hai bàn tay xương xẩu
Hôm trước bị đóng đinh.
Nhìn những vết đinh lớn,
Ai cũng chợt rùng mình.

Một tông đồ hôm ấy,
Không có mặt trong nhà.
Nên không tin chuyện lạ.
Tên ông là Tô-ma.

Tám ngày sau, lần nữa
Chúa lại hiện về đây.
Tô-ma đang có mặt.
Ngài nói với ông này:

“Tay ta đây, nhìn kỹ.
Hãy lấy ngón xuyên qua.
Giờ con tin rồi chứ?
Hãy cầm lấy tay ta.”

Ông Tô-ma liền nói:
“Kính lạy Đức Giê-su.
Kính lạy Đức Thiên Chúa.
Con có mắt mà mù.”

Không nghi ngờ gì nữa,
Giờ thì các tông đồ
Đã tin Chúa sống lại,
Dẫu chưa hết sững sờ.


CHÚA GIÊ-SU ĐI VỚI HAI TÔNG ĐỒ
TRÊN ĐƯỜNG E-MAU VÀ VỀ TRỜI

Hai tông đồ của Chúa
Có việc, đi với nhau
Tới một khu làng nhỏ
Có tên là Em-mau.

Vừa đi, vừa trò chuyện
Về điều mới xẩy ra.
Chợt có một người lạ,
Cùng đường, đi ngang qua.

Người này xin nhập bọn,
Đỡ mệt nhọc đường dài.
Đó là Chúa, lúc ấy
Họ không nhận ra Ngài.

Vì Ngài đã làm phép
Để họ không nhận ra.
“Sao các anh buồn thế,
Có chuyện không vui à?”

“Bác là người duy nhất
Không biết rằng, than ôi,
Chúng đóng đinh thập giá,
Giết Giê-su chúng tôi?

Mà Ngài là ngôn sứ
Thiên Chúa phái về đây
Cứu giúp dân Do Thái
Thoát khỏi cảnh đọa đầy.

Thế mà Ngài đã chết
Nay là ngày thứ ba.
Thật lạ, trong hầm mộ,
Có mấy người đàn bà

Nói không tìm thấy xác.
Còn thấy Ngài hiện hình,
Và rằng Ngài sống lại,
Trở về với Cha mình…”

Đến làng, tối hôm ấy
Họ mời Ngài dừng chân,
Rồi vào một quán trọ,
Cùng ngồi xuống bàn ăn.

Giê-su cầm chiếc bánh,
Nhẹ nhàng bẻ làm hai,
Đưa cho họ, lập tức
Họ liền nhận ra Ngài.

Cũng liền ngay lúc ấy,
Trước mặt cả hai người,
Chúa Giê-su biến mất,
Cứ như thể bốc hơi.

Rồi Ngài lại xuất hiện,
Đưa họ ra khỏi nhà,
Tới một vùng yên tĩnh
Là Bê-ta-ni-a.

Ngài giơ tay làm dấu,
Chúc phước cho hai người.
Bốn mươi ngày sau đó,
Giê-su bay lên trời.


PHÉP LẠ CỦA CHÚA

Trong một căn phòng lớn
Ở Giê-ru-sa-lem,
Hơn trăm người tụ tập
Cầu nguyện ngày và đêm.

Họ là các môn đệ
Và bạn bè, những người
Đã từng được gặp Chúa
Theo Ngài đi nhiều nơi.

Họ cầu nguyện và đợi
Thấy phép lạ diệu kỳ
Như Chúa hứa với họ,
Trước khi Ngài ra đi.

Mười ngày sau khi Chúa
Sống lại từ nhà mồ,
Người Do Thái tổ chức
Một ngày lễ rất to.

Lần nữa cả thành phố
Lại nhộn nhịp khác thường.
Đến đền thờ tế lễ
Rất nhiều khách thập phương.

Trong căn phòng rộng nọ
Ở Giê-ru-sa-lem,
Mọi người đang cầu nguyện,
Như mọi lần, ban đêm.

Bất chợt có tiếng sấm
Rất to từ trên trời.
Tiếp đến là lưỡi lửa
Bám quanh đầu mỗi người.

Nhưng không ai hoảng hốt,
Vì biết tiếng sấm này
Là điều Chúa đã hứa
Và họ chờ lâu nay.

Các môn đệ sụp lạy
Tạ ơn Chúa lòng lành.
Trong khi đó, dân chúng
Từ khắp nơi trong thành

Thấy sự lạ chớp lửa,
Liền kéo đến rất đông.
Họ tưởng đám môn đệ
Là lũ điên lên đồng.

Ông Phê-rô đứng dậy
Giải thích với mọi người
Về phép lạ của Chúa,
Hiện đang ngự trên trời.

“Giê-su được Thiên Chúa
Gửi đến cứu chúng ta.
Ngài là Đấng Cứu Rỗi
Cho mọi người, mọi nhà.

Thế mà các ngươi ác,
Đã không tin Chúa mình,
Vu cho Ngài điều xấu
Để phải chịu tử hình.

Nay Ngài được Thiên Chúa
Cho sống lại, lên trời,
Nhưng lòng Ngài vẫn nặng
Tình yêu thương mọi người.”

Tất cả nghe, đứng lặng,
Rất hối hận trong lòng.
Họ hỏi: “Để chuộc lỗi,
Phải làm gì, thưa ông?”

“Hãy nhờ làm phép rửa,
Nhân danh Chúa Giê-su.
Gột hết mọi tội lỗi.
Xua hết mọi hận thù.

Hãy hết lòng kính Chúa,
Tin phép lạ của Ngài.
Sẽ được Ngài ban phước
Và dẫn dắt lâu dài.”

Mọi người nghe, lạy Chúa,
Làm theo lời Phê-rô,
Xuống sông chịu phép rửa
Và trở thành tín đồ.

Sau buổi thuyết giảng ấy,
Tin đồn lan khắp nơi.
Số tín đồ theo Chúa
Đã hơn ba nghìn người.

Suốt nhiều ngày sau đó
Tín đồ càng tăng thêm
Chiếm phần lớn dân số
Của Giê-ru-sa-lem.

Vậy là Đạo Thiên Chúa
Bước đầu được hình thành,
Lan truyền đến nơi khác
Và phát triển rất nhanh.

                   ______________


Phần Ba - TRUYỆN và THƠ


SAM-SÔN VÀ ĐÊ-LI-A

1
Các con chiên Do Thái
Ba nghìn năm trước đây
Sinh sống ở vùng đất
Pa-let-tin ngày nay.

Nhiều năm, nhiều thế kỷ,
Để bảo vệ đức tin,
Họ phải luôn chiến đấu
Với người Pa-let-tin.

Cuộc chiến ấy tiếp diễn
Cho đến tận hôm nay.
Hiện cả hai dân tộc
Giành nhau khu Bờ Tây.

Ai cũng bảo mình đúng,
Không ai chịu nhường ai.
Pa-let-tin thắng thế
Trong một thời gian dài.

2
Vào lúc gian khó nhất,
Đức Chúa Trời lòng lành
Đã cho người Do Thái
Một anh hùng trứ danh.

Số là vợ chồng nọ,
Mãi mà không có con,
Cuối cùng sinh cậu bé,
Đặt tên là Sam-sôn.

Đó là một dũng sĩ
Ngang tài với Hec-quyn,
Sau được giao sứ mệnh
Đánh lại Pa-let-tin.

Lớn lên, chàng tự nguyện
Qui phục trước Chúa Trời,
Thành một Na-zi-rit,
Tức phải thề suốt đời

Không bao giờ cắt tóc,
Không uống rượu, ăn nho,
Không lại gần xác chết,
Không hung hãn, côn đồ.

Chàng cao lớn, vạm vỡ,
Xinh đẹp như vị thần,
Được tôn thành Quan Án,
Che chở cho muôn dân.

Nhưng bất chấp phong tục
Và lời khuyên họ hàng,
Chàng đem lòng yêu mến
Một cô gái dịu dàng.

Cô gái này, thật tiếc,
Là người phe bên kia.
Họ yêu nhau say đắm,
Không bao giờ chia lìa.

Than ôi, cô gái ấy
Bị chính người của cô
Bắt trói, ném vào lửa
Cho đến khi thành tro.

Chàng Sam-sôn tức giận,
Thề nhất định có ngày
Giết hết người Ả Rập
Để trả mối thù này.

Chàng tay không, đơn độc,
Tìm lính Pa-let-tin,
Rồi trong cơn giận dữ,
Giết chết cả hàng nghìn.

Chúng bao vây bốn phía,
Chàng bẻ một thanh xà,
Quật chúng chết như rạ,
Rồi ung dung về nhà.

Từ đấy người Do Thái
Được yên ổn hàng ngày,
Không sợ người Ả Rập,
Chèn ép như trước đây.

Còn các quan Ả Rập
Thì ghét chàng làm sao.
Như chiếc gai phải nhổ
Mà chưa biết cách nào.

Cuối cùng chúng tìm được
Một mưu kế thánh thần,
Cổ xưa và đơn giản,
Ấy là kế mỹ nhân.

Xưa nay ta đã biết,
Các anh hùng tài ba,
Giỏi và anh hùng thật,
Nhưng luôn thua đàn bà.

Cả Sam-sôn cũng vậy,
Chàng dũng cảm hơn người,
Thế mà đã gục ngã
Trước một nụ cười tươi.

Đó là một cô gái,
Tên là Đê-li-a,
Tất nhiên rất xinh đẹp,
Quyến rũ và mặn mà.

Cô được người Ả Rập
Hứa thưởng rất nhiều vàng,
Nếu biết được bí mật
Sức mạnh người yêu nàng.

Nàng nhiều lần dò hỏi,
Nhưng anh hùng Sam-sôn
Nhất định không chịu nói,
Dẫu bị nàng giận hờn.

Nàng phải dùng vũ khí
Lợi hại nhất xưa nay
Là nước mắt, nàng khóc,
Khóc và dỗi suốt ngày.

Cuối cùng, không chịu nổi,
Chàng thú thật với nàng,
Rằng bí quyết sức mạnh
Nằm ở mái tóc chàng.

Và rồi ru chàng ngủ
Trong cánh tay yêu kiều,
Nàng đã lén lấy kéo
Cắt trụi tóc người yêu.

Giặc đến, chàng vùng dậy
Định đánh như mọi khi,
Nhưng sức lực đã mất,
Bị chúng trói, lôi đi.

Chúng chọc chàng mù mắt,
Giam dưới ngục, bằng tay
Phải đẩy chiếc cối nặng,
Hết đêm rồi lại ngày.

3
Trong ngôi đền to lớn
Người dân Pa-let-tin
Cúng thần linh của họ,
Kéo nhau đến kìn kìn.

Để thêm phần vui vẻ,
Họ bắt chàng Sam-sôn
Xích giữa hai hàng cột,
Rồi trát phấn, bôi son.

“Hỡi Đức Chúa vĩ đại, -
Chàng ngửa mặt lên trời. -
Hãy cho con sức mạnh,
Chỉ lần này nữa thôi!”

Đức Chúa Trời nghe thấu
Tiếng kêu này đau thương:
Chàng vung tay phá xích
Bằng sức mạnh phi thường.

Cột đền thờ bằng đá
To những mấy vòng tay,
Chàng nghiến răng, xô mạnh,
Chiếc cột đá lung lay

Rồi từ từ đổ sụp,
Kéo theo cả ngôi đền.
“Hôm nay ta sẽ chết
Cùng lũ giặc đê hèn!”

Kẻ thù chàng lúc ấy
Đang tiệc tùng, vui chơi,
Bị vùi trong gạch đá
Và bụi bay ngút trời.

Cũng bị vùi trong đấy
Một người con quang vinh
Của dân tộc Do Thái,
Dám vì dân quên mình.



TRUYỆN BÀ RUT

Thời ấy, ở Do Thái,
Tức thời của Sam-xôn,
Lòng tin vào Thiên Chúa
Ở người dân không còn.

Năm nọ, trời hạn hán,
Đất khô nẻ khắp nơi.
Tiếp đến là nạn đói,
Cướp sinh mạng nhiều người.

Ông Ê-mi-lê-lêc
Rời thành Bêt-lê-hem,
Đi làm thuê kiếm sống,
Đi không quản ngày đêm.

Ông bỏ lại bà vợ
Cùng Rut và Ô-pha,
Hai con dâu của họ,
Đều là người nết na.

Kiếm cái ăn không dễ,
Ông và hai con trai
Bỏ mình nơi đất khách,
Chết, chôn không quan tài.

Vợ ông thành góa phụ,
Tên bà là Nao-mi.
Giờ không nơi nương tựa,
Chẳng biết sống bằng gì.

Bà nghe đồn về Chúa
Và phép lạ của Ngài,
Nên muốn về quê cũ,
Dù quê chẳng còn ai.

Bà lựa lời khuyên nhủ
Hai con dâu nén lòng
Quay về nhà bố mẹ
Và lần nữa lấy chồng.

Cả Ô-pha và Rut
Không tin vào Chúa Trời.
Đều là dân Mô-áp,
Thờ thần tượng suốt đời.

Cô Ô-pha đồng ý.
Nhưng cô Rut thì không.
Nàng một mực xin phép
Sống chết cùng mẹ chồng.

Hai mẹ con quay lại
Vùng Bết-lem, ở đây
Họ kiếm ăn vất vả,
Cốt để sống qua ngày.

Nhờ mẹ chồng dạy bảo,
Rut, cô gái dịu hiền,
Bỏ đạo cũ, thờ Chúa
Như người It-ra-en.

Hàng ngày cô chăm chỉ
Ra mót lúa ngoài đồng.
Cô thường hay nhịn đói,
Nhường bánh cho mẹ chồng.

Bô-a là ông chủ
Của cánh đồng lúa mì.
Hay tin về cô Rut,
Hiếu thảo và nhu mì.

Ông sai đám thợ gặt
Cố tình sót ít bông
Để cô nhặt, làm bánh
Nuôi mình và mẹ chồng.

Ông đem lòng yêu Rut.
Và một thời gian sau
Xin cưới cô làm vợ,
Sinh được đứa con đầu

Có tên là Ô-bet,
Một cái tên rất hay.
Ô-bet là ông nội
Vua Đa-vít sau này.

Một ông vua vĩ đại
Của người It-ra-en,
Hậu duệ của bà Rut
Hiếu thảo và dịu hiền.

Thêm một điều kỳ diệu:
Đức Bà Ma-ri-a,
Người đã sinh ra Chúa,
Cũng hậu duệ của bà.

Theo nhánh vua Đa-vít,
Chúa Giê-su ra đời,
Trở thành Đấng Cứu Thế
Để cứu giúp mọi người.


CÁI CHẾT CỦA BÀ QUÍ TỘC LA MÃ

Xưa, giáo dân La Mã
Thường cầm nến theo người
Viếng nhà thờ Đức Mẹ,
Ngày Đức Mẹ Lên Trời.

Một bà quí tộc nọ,
Cũng đi vào nhà thờ.
Đang cầu nguyện, bất chợt
Bà bỗng thấy mờ mờ

Một người quen biết cũ,
Chết đã sáu tháng qua,
Thế mà giờ ngồi đấy,
Đang cầu nguyện bên bà.

Lễ xong, bà vội vã
Đi ra khỏi nhà thờ,
Lòng chưa hết nghi hoặc,
Và quyết định đứng chờ.

Lát sau, bà nhìn thấy
Người bạn cũ bước ra.
“Xin lỗi, chị có phải
Là Ma-rô-zi-a?”

“Vâng, đúng tôi, chào chị.”
“Nhưng chị chết đã lâu.
Vậy làm sao có thể
Bây giờ ta gặp nhau?”

“Là vì dưới luyện ngục
Tôi phải chịu tù đày
Do những tội lớn nhỏ
Mình trót phạm trước đây.

Nhưng hôm nay thì khác,
Ngày Đức Mẹ Lên Trời,
Tôi đã được Đức Mẹ
Cho lên với cõi người.

Có nhiều người đã chết
Cũng được lên đêm nay.
Chúa không cho chị thấy
Và gặp những người này.”

Thấy bạn mình nghi hoặc,
Bà Ma-rô-zi-a
Nói thêm: “Chị sẽ gặp
Đức Mẹ Ma-ri-a

Vào ngày lễ Đức Mẹ
Đúng giờ này, năm sau,
Khi bất ngờ chị chết
Giữa lúc đang nguyện cầu.”

*
Câu chuyện này có thật.
Thánh Đa-mi-a-nô
Ghi chép lại cẩn thận
Cả địa điểm, ngày giờ

Bà quí tộc La Mã
Vào dịp lễ năm sau
Đã chết rất bí ẩn
Trong lúc đang nguyện cầu.


CHUYỆN TÊN TƯỚNG CƯỚP VÀ ĐỨC MẸ MA-RI-A

Năm Một Sáu Sáu Bốn,
Một linh mục Dòng Tên
Xuất bản cuốn sách quí
Nói về các thánh hiền.

Ông sống ở nước Ý,
Người gốc Na-pô-li.
Cuối sách ông có kể
Một câu chuyện ly kỳ.

“Tôi không thể im lặng
Không kể mọi người nghe
Một câu chuyện có thật,
Xẩy ra đầu mùa hè.

Đức Giám Mục tôn kính,
Vốn cẩn thận xưa nay,
Xác nhận sự có thật
Câu chuyện lạ kỳ này.”

*
Trong địa phận rộng lớn
Ngài cai quản, gần đây
Xuất hiện một tướng cướp
Giết người không ghê tay.

Một hôm, bọn đồng đảng
Đem về cho hắn ta
Một thiếu nữ xinh đẹp,
E lệ và nết na.

Cô nhân danh Đức Mẹ
Ma-ri-a Đồng Trinh,
Xin tướng cướp đừng nỡ
Làm nhục danh tiết mình.

Là một tên vô lại,
Không hiểu sao lần này
Hắn động lòng trắc ẩn,
Tha cho nàng, thật may.

Hơn thế, vốn cẩn thận,
Vì sợ bọn lâu la
Giở trò bậy, tự hắn
Đưa cô về tận nhà.

Đêm hắn lên giường ngủ,
Trong mơ thấy Đức Bà
Hiện lên, nói với hắn:
“Con làm đẹp lòng ta.

Vì việc làm cao thượng,
Ta sẽ nhớ đến con.”
Hắn tưởng mơ vớ vẩn,
Nên sáng dậy, quên luôn.

Một thời gian sau đó,
Hắn bị bắt, người ta
Quyết định treo cổ hắn,
Dù hắn cố xin tha.

Đêm trước ngày hành quyết
Hắn lại thấy Đức Bà
Hiện lên, đứng bên hắn:
“Chắc con còn nhớ ta.

Ta chính là Đức Mẹ
Ma-ri-a Đồng Trinh.
Vì đã cứu cô gái
Giữ danh tiết của mình,

Nên ta ban ân phước,
Tha tội lỗi cho con.
Để con, sau khi chết,
Được giải thoát tâm hồn.

Ngày mai ta sẽ đến
Đưa con lên Thiên Đường.
Con đã làm đẹp ý
Ma-ri-a Nữ Vương.”

Nghe xong, hắn choàng dậy,
Không tin vào tai mình.
Rồi sung sướng, chờ đợi
Được giải đi hành hình.

Mặt hắn ngời hạnh phúc
Khi lên đoạn đầu đài.
Đức Giám Mục khó hiểu,
Hỏi vì sao, và Ngài

Được tên cướp kể lại
Về giấc mơ đêm qua,
Về việc cứu cô gái
Và đẹp lòng Đức Bà.

Ngài chắp tay cung kính
Lạy Đức Mẹ Đồng Trinh,
Rồi đem chuyện kể lại
Cho con chiên của mình.

Tất cả cùng đứng lặng,
Tạ Đức Mẹ lòng lành.
Tên cướp ứa nước mắt,
Chờ bản án thi hành.

Trên chiếc giá treo cổ,
Trước con mắt mọi người,
Tên cướp chết, hạnh phúc,
Trên môi thoáng nụ cười.


BỨC TƯỢNG CỦA ĐỨC MẸ

Kiến trúc sư người Pháp,
Ông De Sa-ra-xa,
Hơn bảy mươi năm trước,
Trong khi đang xây nhà,

Thấy đầu một bức tượng
Của Đức Mẹ Đồng Trinh,
Làm bằng đá cẩm thạch,
Rất đẹp, còn nguyên lành.

Ông ghép các mảnh vỡ
Bức tượng của Đức Bà,
Đem về thờ cung kính
Như báu vật trong nhà.

Bỗng một hôm, bất chợt
Tai nạn đổ xuống đầu.
Đứa con trai duy nhất
Vốn đau ốm từ lâu,

Hiện đang nghỉ, dưỡng bệnh
Với ông nội của mình.
Nay có điện ốm nặng,
Đang thập tử nhất sinh.

Trước khi tới thăm nó,
Ông De Sa-ra-xa
Quỳ lạy trước bức tượng:
“Con kính lạy Đức Bà,

Con đã cứu bức tượng,
Thờ cúng bấy lâu nay.
Con xin Mẹ ban phước
Cứu qua tai họa này.”

Rồi ông đến nhà bố,
Cách xa cả ngày đường.
Đến nơi thì vẫn thấy
Con khỏe mạnh bình thường.

Bố ông nói: “Thật lạ.
Nó đã lạnh toàn thân.
Thế mà giờ sống lại,
Cứ như có phép thần!”

Kiến trúc sư người pháp,
Ông De Sa-ra-xa,
Đến trước bàn thờ Chúa
Lạy, tạ ơn Đức Bà.


VẠN VẬT ĐỀU TUYỆT ĐẸP
John Kable

Vạn vật, lớn và nhỏ,
Tuyệt đẹp, luôn hài hòa,
Thông minh và kỳ diệu -
Đều do Chúa tạo ra.

Con chim nhỏ ca hát,
Bông hoa nhỏ vươn đầu.
Đức Chúa cho chim cánh,
Ngài cho hoa sắc màu.

Sườn núi lá cây đỏ,
Dòng sông trôi thảnh thơi.
Buổi sáng - vầng dương mọc,
Đêm - sao sáng trên trời.

Đều do bàn tay Chúa:
Cây mọc trong rừng xanh,
Mặt trời hè ấm áp,
Trái trên cây ngon lành.

Chúa cho mắt để thấy,
Cho đôi môi để cười.
Chúa toàn năng sáng tạo
Hết mọi vật trên đời.


NGÀY LỄ VA-LEN-TIN

Hoàng đế Clô-đi-ut,
Vào thế kỷ thứ ba
Tiến hành nhiều cuộc chiến
Cả gần và cả xa.

Vị hoàng đế hiếu chiến
Không được dân đồng tình.
Dân thường hay trốn lính.
Quân không có đủ binh.

Ông nghĩ nguyên nhân chính
Là thanh niên nước ông
Thích ở nhà với vợ,
Vợ làm họ mềm lòng.

Ông bèn ra lệnh cấm
Các thần dân của mình
Không tổ chức lễ cưới,
Không thành lập gia đình.

Một lệnh cấm kỳ quặc,
Nhưng vẫn phải tuân theo.
Trái lệnh, sẽ bị giết,
Cả người giàu, người nghèo.

Cùng Thánh Ma-ri-ut,
Linh mục Va-len-tin
Bí mật làm lễ cưới
Cho các cặp thanh niên.

Cuối cùng ông bị bắt,
Bị kết án tử hình
Bằng cách đem thiêu sống
Trước con mắt dân tình.

Đêm trước ngày hành quyết,
Ông gửi tấm thiệp hồng
Cho một cô gái trẻ
Được ông giúp lấy chồng.

Bức thiệp được nắn nót
Ký tên Va-len-tin,
Gửi gắm nhiều hy vọng,
Tình yêu và niềm tin.

Tấm thiệp tình yêu ấy
Được người đời về sau
Bắt chước vị linh mục,
Âu yếm gửi cho nhau.

Và rồi ngày ông viết,
Ngày Mười Bốn tháng Hai,
Trở thành ngày lễ hội
Tình yêu của gái trai.

Vào ngày ấy, trai gái,
Cả ở Việt Nam ta,
Để tỏ tình, gửi thiệp
Cùng bánh kẹo và hoa.


NGƯỜI KHỔNG LỒ ÍCH KỶ
Oscar Wilde

1
Ngày xưa, ở Anh quốc
Có một người khổng lồ,
Một người rất to lớn,
  khu vườn cũng to.

Đó là khu vườn đẹp
Với bãi cỏ rất xanh,
Hoa muôn nở, khoe sắc,
Trái cây chín trên cành.

Líu lo chim ca hát,
Những bài ca tuyệt vời.
Chim bay trong tán lá,
Chim bay cả trên trời.

Trẻ con sau giờ học
Thường kéo nhau đến đây,
Chơi các trò chúng thích,
Hoặc leo trèo trên cây.

Sau bảy năm làm khách
Ở một nơi rất xa,
Người khổng lồ, ông chủ,
Bỗng một hôm, về nhà.

Ông liền quát lũ trẻ:
“Hãy đi ra khỏi đây!
Ta là chủ, duy nhất
Được chơi ở vườn này!”

Lũ trẻ sợ, bỏ chạy,
Sau đó người khổng lồ
Dựng hàng rào bao bọc
Rất cao và rất to.

Rồi ông cắm tấm biển:
“Đây là vườn tư nhân,
Ai xâm phạm sẽ chết!
Cấm không được lại gần!”

Ông là người ích kỷ.
Ông chỉ ngồi trong nhà,
Nhưng không cho người khác
Vào vườn ông ngắm hoa.

Giờ lũ trẻ, thật tội,
Chẳng nơi nào để chơi.
Suốt ngày chỉ còn biết
Phơi đầu trần ngoài trời.

2
Mùa xuân đến, chim hót,
Hoa đua nở ngoài đồng.
Trong vườn ông ích kỷ
Vẫn lạnh, vẫn mùa đông.

Ở đây hoa quên nở,
Cây không chịu đâm chồi.
Chỉ có gió và tuyết,
Tuyết và gió mà thôi.

Người khổng lồ thì nghĩ:
“Chắc xuân muộn năm nay.”
Thực ra mùa xuân ấm
Không còn đến vườn này.

Cả mùa hè cũng thế,
Rồi tiếp đến, mùa thu,
Ở đây chỉ băng tuyết,
Tuyết băng và sương mù.

Một hôm, ngồi trên ghế,
Ông nhìn bức tường rào,       
Thấy qua khe hở nhỏ   
Lũ trẻ đang chui vào.

Lập tức vườn sống lại,
Chim chóc hót trên cành,
Muôn hoa lại đua nở,
Cây lá bắt đầu xanh.

Lũ trẻ lại đùa nghịch
Như không có chuyện gì.
Người khổng lồ cảm động,
Không nỡ đuổi chúng đi.

Giờ thì ông đã hiểu
Vì sao trong vườn ông
Mùa xuân không muốn đến,
Quanh năm chỉ mùa đông.

Và rằng ông ích kỷ
Không cho trẻ vào chơi.
Nay thì khu vườn đó
Là của chúng suốt đời.

Cầm chiếc rìu vĩ đại,
Ông ra phá hàng rào.
Lũ trẻ thấy ông đến
Liền bỏ chạy nháo nhào.

Và rồi ngay lập tức
Cả khu vườn nhà ông
Lại trở nên lạnh lẽo,
Cái lạnh của mùa đông.

Chỉ có một cậu bé
Còn ở lại vườn này.
Cậu còn bé, bé tí,
Không với tới cành cây.

Vì thế cậu đã khóc
Hai mắt lệ ướt nhòa,
Không chạy vì không thấy
Người khổng lồ đi ra.

Ông rón rén bước lại,
Thấy thương cậu bé này,
Rồi nhẹ nhàng bế cậu
Đặt lên một cành cây.

Lập tức cây mọc lá,
Hoa nở đủ các màu,
Chim lại hót, cậu bé
Ôm hôn ông thật lâu.

Lũ trẻ nhìn thấy thế
Đùn đẩy nhau, lại gần.
Rồi chúng lại đùa nghịch
Giữa khu vườn mùa xuân.

Từ đấy người đi chợ,
Khi đi ngang qua đây,
Thấy một ông to lớn
Chơi với trẻ suốt ngày.

Nhưng có điều thật lạ,
Là ông không thấy đâu
Cậu bé bé tí ấy
Vào buổi chiều hôm sau.

Hỏi trẻ, chúng không biết.
Ông thấy buồn trong lòng.
Ông rất yêu cậu bé,
Vì cậu đã hôn ông.

3
Tháng năm trôi lặng lẽ.
Người khổng lồ đã già.
Ông thường ngồi một chỗ,
Thư thản ngắm vườn hoa.

Hoa vườn ông đẹp thật,
Lộng lẫy những chồi non,
Nhưng loài hoa đẹp nhất
Với ông, là trẻ con.      

Ông ngồi xem chúng nghịch
Mà nước mắt muốn rơi.
Chúng chính là sự sống,
Là niềm vui cuộc đời.

Một hôm, trời gần tối,
Lũ trẻ đã về nhà,
Ông giật mình vui sướng
Khi lơ đãng nhìn ra

Và thấy cậu bé ấy,
Cái cậu bé hài đồng
Ở góc vườn phía Bắc,
Cậu bé đã hôn ông.

Cậu đứng dưới tán lá
Một cành cây màu xanh,
Có hoa trắng, quả bạc,
Và chuông vàng xung quanh.

Ông vui mừng chạy xuống,
Rồi chững lại, bàng hoàng:
Hai tay, hai chân cậu
Có dấu đinh rõ ràng.

“Ai dám làm hại cháu?
Kìa, máu chưa kịp đông.
Ông sẽ bóp cổ hắn
Bằng bàn tay của ông!”

Cậu bé cười, khẽ đáp:
“Ông khỏi lo lắng nhiều.
Vết thương này chảy máu
Là vết thương Tình Yêu.       

“Cháu là ai? - ông hỏi,
Đứng sững sờ, rồi ông
Giơ tay làm dấu thánh,
Quỳ trước Chúa Hài Đồng.

Chúa mỉm cười rồi nói:
“Xưa, cũng ở vườn này
Con cho ta vui thích
Được đùa nghịch, hôm nay

Ta cho con được phép
Theo ta, cùng lên đường
Tới vườn ta tuyệt đẹp,
Khu vườn ở Thiên Đường.”

4
Chiều hôm sau, lũ trẻ
Thấy ông khổng lồ già
Nằm chết dưới gốc mận,
Người ông phủ đầy hoa.


LỜI CỦA THÁNH LU-CA

Lu-ca, trong Tân Ước
Có nói một câu hay
Về cái ác, cái thiện.
Ý đại khái thế này.

Người có trái tim thiện,
Thì việc làm và lời
Mang đậm cái thiện ấy
Khi giao tiếp với người.

Ngược lại, có tim ác,
Nhất định cái ác này
Dẫu cố tình che giấu,
Vẫn bộc lộ hàng ngày.

Vì cái Thiện, cái Ác,
Trong tim bất kỳ ai,
Vẫn luôn tìm được cách
Thể hiện hết ra ngoài.


NẾU TÔI LÀ TIA NẮNG
                     Lucy Larcom

Nếu tôi là tia nắng,
Tôi biết phải làm gì.
Tôi sẽ tìm hoa huệ,
Xuyên qua rừng, tôi đi.

Tôi luồn lách qua chúng,
Dọi những tia nắng vàng
Cho đến khi chúng ngẩng
Những mái đầu dịu dàng.

Nếu tôi là tia nắng,
Tôi biết phải đi đâu.
Đến túp lều chỉ có
Bóng tối và buồn rầu.

Tôi sẽ dọi ánh sáng
Để làm họ ấm lòng,
Bắt đầu nghĩ về Chúa,
Về ngôi nhà, thành công.

Ơn Chúa, hãy phân phát
Những tia nắng chói lòa.
Nắng - hoặc chiếu hoặc chết.
Không có tia thứ ba.    


LỜI CẦU CHÚA CỦA ĐỨA BÉ
Betham Edwards

Được sinh trên trái đất,
Thưa Đức Chúa trên trời,
Con muốn mình mãi mãi
Được hạnh phúc bên Người.

Con muốn làm bông hoa
Mang niềm vui, no đủ.
Một bông hoa bé thôi,
Dẫu mới còn trong nụ.
        
Con muốn làm tia sáng
Để sáng mãi trong đời,
Để đi đâu, ánh sáng
Cũng theo con khắp nơi.
     
Con muốn làm bài hát 
Để an ủi người buồn,
Giúp người yếu thành mạnh,
Giúp người hát vui hơn.                  


VUA GIA-LONG VÀ ĐẠO CƠ-ĐỐC

Vua Gia Long Nguyễn Ánh
Nói một câu rất hay
Về đạo Cơ Đốc Giáo.
Đại khái ý thế này:

Đạo Cơ Đốc rất tốt,
Rất hợp với lòng ta.
Nhưng ta không theo được,
Vì một lẽ, đó là

Theo đạo này, thật tiếc,
Chỉ một vợ một chồng.
Ta thì muốn hơn thế,
Dẫu ta nói thực lòng,

Rằng cai trị một nước
Dễ, đơn giản hơn nhiều
So với việc quản lý
Mấy bà vợ ta yêu.


                             HẾT

No comments:

Post a Comment