Friday, February 27, 2015

BÀN VỀ TRUYỆN NGẮN THÁI BÁ TÂN



BÀN VỀ TRUYỆN NGẮN THÁI BÁ TÂN

Bài viết của một dịch giả Mỹ BÌNH LUẬN VỀ VĂN XUÔI THÁI BÁ TÂN

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus)
Tâm Sự Của Người Chuyển Ngữ

Thú thật khi có dịp đọc những truyện ngắn của Thái Bá Tân, niềm xúc động trỗi lên và tôi như bị thôi miên, lên cơn sốt, như lậm phải ngải, thế là ý định muốn được chuyển ngữ những truyện ngắn của Thái Bá Tân đã ập đến. Biết ông có những truyện ngắn được chuyển ngữ sang Tiếng Anh, nhưng chẳng hiểu sao tôi vẫn bị cuốn vào sự thu hút khó cưỡng lại. Và tôi đã nghĩ Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học của chúng ta sẽ vinh dự biết bao về sự có mặt hiện diện của Thái Bá Tân. Và vì yêu mến những truyện ngắn của ông, tôi đã âm thầm chuyển ngữ những truyện ngắn mà tôi yêu thích.

Trên tay các bạn là tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) gồm những truyện ngắn của Thái Bá Tân. Tất nhiên ông không đặt tên cho bất cứ truyện ngắn nào của mình là Tình Khúc Hoa Sen cả. Song khi đọc những truyện ngắn của ông, chẳng hiểu sao tôi cứ nghĩ về loài hoa sen. Loài hoa của dân tộc Việt, loài hoa của Phật, của sự thanh cao, của: gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Từ đó tôi đã nghĩ đến cái tên Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) và tôi quyết định chọn tên này để tôn vinh những dòng viết của Thái Bá Tân – Những dòng viết của một tâm hồn, một con người, với tôi – Ông thực sự là một nhà văn lớn, mặc dù có thể Thái Bá Tân sẽ thầm trách tôi: Cậu nói thế là có phần quá lời rồi. Thế là cậu đang hại tôi rồi, Nguyễn Thơ Sinh ơi.

Bản thân Thái Bá Tân là vậy. Văn ông là cuộc đời của ông. Chẳng hiểu sao tôi luôn nghĩ thế. Những trang viết của ông luôn hiền lành. Những câu văn mềm và hiền như cháo cảm. Những câu chuyện chan chứa ân tình. Những bài học nhân nghĩa. Những cái nhìn đầy khoan dung, độ lượng. Đọc văn ông tôi có cảm giác đi vãn cảnh chùa, được tịnh thân, được hầu truyện cùng sư cụ tại một ngôi chùa cổ giữa núi rừng hoang vu.

Rồi tôi nhớ trong Kinh Thánh Tân Ước theo Thánh Lu-ca có viết một câu: Người tốt thể hiện tánh thiện vì tánh thiện chất đầy trong lòng mình, kẻ ác để lộ điều bất nghĩa từ trái tim họ. Vì từ trái tim đã tràn đầy, những điều ác thiện sẽ được cất lên thành tiếng. (The good man brings good things out of the good stored up in his heart, and the evil man brings evil things out of the evil stored up in his heart. For out of the overflow of his heart his mouth speaks. - Luke 6:45). Vận vào trường hợp Thái Bá Tân, tôi thấy có phần thật rất đúng.

Văn học Việt Nam có nhiều cây bút để lại trong tôi nhiều ấn tượng. Dĩ nhiên mỗi cây bút có những nét riêng, những dấu ấn để đời khác nhau. Nên nếu ví mỗi cây bút như vẻ đẹp của hai cô con gái nhà họ Vương, theo lời cụ Nguyễn Du thì mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Và tôi biết rõ ấn tượng trong văn chương có thể nói rất chủ quan, rất cảm tính cá nhân. Văn của ai hay và văn của ai đó hay hơn, đó là sự đồng cảm và thẩm thấu rất riêng giữa bạn đọc và một tác giả. Có người yêu Tô Hoài. Có người nghiện Nguyễn Tuân. Có người say Khái Hưng. Có người mất ăn mất ngủ với Nguyễn Ngọc Tư. Với bản thân mình, tôi quý văn Thái Bá Tân ở chỗ ông là người duy nhất cho tôi cảm giác được đọc lại những dòng của Nam Cao thuở nào.

Tôi chưa một lần gặp Thái Bá Tân. Càng mới chỉ biết đến ông qua sự mở rộng của thời đại thông tin (internet). Và rồi khi có cơ hội được đọc những dòng ông viết, tôi sửng sốt. Sự ngưỡng mộ về những điều ông viết khiến tôi nhận ra (nơi văn chương của ông) những bóng dáng của trúc, của sen, của thông, của lúa, của sợi muống, dây cà, củ dong, khóm riềng… Gần gũi và đậm đà những nét chân phương hiền hòa dân tộc.
Và tôi đã không thể cưỡng lại mình được. Tôi nghĩ đến độc giả của Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học. Tôi nghĩ đến tình cảm của độc giả giành cho tủ sách này. Và tôi hy vọng đây sẽ là một món quà ý nghĩa. Từ suy nghĩ đó, tôi mạo muội chuyển ngữ một số truyện ngắn của ông gồm:

Món Quà Tặng Mẹ (The Gift for Mother) Tập Xe Đạp (Learn to Ride a Bike) Hai Chiếc Gương (The Two Mirrors) Người Không Nhớ Tên Mình (The Woman Who Could Not Recall Her Name) Nhân Quả (Bad Karma) Hà Nội Những Ngày Trước Tết (Hanoi A Few Days before Tet) Sa Pa Mây Phủ (Cloudy Sapa) Người Rách Bóng (The Person with Torn Shadow) Người Vợ Lý Tưởng (The Ideal Wife) Người Khổng Lồ Mắt Xanh (The Giant with Blue Eyes) Đổi Đời (Changing of Fate)

Thái Bá Tân là một nhà giáo. Tôi đã được đọc những dòng cảm xúc do người học trò của ông bày tỏ thái độ và lòng tri ân của họ. Tôi thật sự ngưỡng mộ ông và thầm ganh tị. Tất nhiên tôi, khi đọc những dòng Thái Bá Tân viết, càng cảm thấy mình muốn được là học trò của ông (cũng như tôi đã từng nghĩ mình là học trò của Trịnh Bích Ngân) vì tôi đã học hỏi được những thủ pháp trong sáng tác nơi hai cây bút Thái Bá Tân và Trịnh Bích Ngân. Và lần này tôi mong rằng Thày Thái Bá Tân sẽ rộng lòng cho phép Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học có được những tác phẩm độc đáo của ông.

III. Mạch Văn Của Một Nguyễn Bính

Nếu như văn Thái Bá Tân khiến tôi nghĩ đến Nam Cao (trong văn xuôi) bằng khả năng sử dụng ngòi bút diễn tả những mạch văn mềm mại và hiền hòa, rất rau luộc và cá kho, giản dị chân thành; thì trong vương quốc thi ca, văn Thái Bá Tân đã khiến tôi nghĩ đến thi sĩ Nguyễn Bính – Vua thơ lục bát – Người đã viết những vần thơ trong lành như hương thơm của khế chín, như vị ngọt của bòng đầu vụ, của mùi lạc luộc ngậy bùi, của nước mưa múc ra từ vại đất nung bằng cái gáo dừa… Hiển nhiên văn Thái Bá Tân đã khiến tôi xúc động vì tính chất trong trẻo, dân dã, hiền lành ấy.

Nếp dẻo, khoai từ bùi ngậy, sắn bở, dong ngọt… Những tố chất điềm đạm hiền lành chắt chiu của phù sa dân tộc rất đỗi quen thuộc ấy, theo mạch nhìn đời của Thái Bá Tân, ướp vào trái tim của một kẻ biết quý trọng chữ tâm hơn là mải lo đánh vật với những biển lận cong queo. Để rồi mạch văn của Thái Bá Tân trở thành trong sáng, gần gũi, thanh cao như vừng bánh đúc bên cạnh bát mắm tôm sủi bọt. Như trăng mười sáu. Như cau bánh dày. Như trà mạn. Như tâm sự của một kẻ suốt đời nặng lòng với mảnh đất chôn nhau cắt rốn.

Thái Bá Tân từng làm thơ, dịch thơ. Vậy mà văn Thái Bá Tân không sóng sánh mật thơ. Thoạt tưởng có người nghĩ vậy. Nhưng chất nhạc và thang âm bằng trắc trong văn Thái Bá Tân thực sự rất tuyệt vời. Văn ông đọc trơn tru, trong trẻo, không vỏ cua, gai tôm, càng không giương đông kích tây về mặt thủ pháp. Tuồng như trong văn Thái Bá Tân mọi cái đều rất tự nhiên. Cá tươi làm gỏi ắt sẽ ngon, lạc giồng đẫy ngày luộc lên khắc sẽ bùi, ngô non tất phải ngọt… Và như thế văn Thái Bá Tân như một món ăn không cần đến mì chính, chất phụ gia, hàn the hay đường hóa học. Văn ông mịn màng, hiền lành, điềm đạm và chân thật. Thứ văn chỉ những cây bút sau khi chồn tay (đắc đạo) mới nghĩ đến. Thứ văn chương không còn tơ màng đến cái thời khua múa, leo trèo. Cuối cùng rồi thì cái gì cũng thế. Cỏ phía bên đó non hơn ư? Núi bên kia lam hơn ư? Rồi thì con ngựa chạy mãi, cuối cùng thấy ở đâu cỏ cũng úa như nhau. Nó chán. Nó hí vang: Chân lý ư? Trò ảo cả. Phải chăng chân lý (tất cả) nều nằm ở lẽ tự nhiên. Mà đã là lẽ tự nhiên thì chẳng phải tra đường mật ong mới ngọt, hoặc chẳng cần chất rơm mồi lửa thì mặt trời mới đỏ hực mỗi ngày.

Văn Thái Bá Tân đọc sướng lắm. Cái sướng của mình được ở nhà mình. Cái sướng được ngồi gần mẹ, được ăn sắn luộc bở tơi chấm với muối vừng. Cái thời trẻ tuổi, bụng cao dạ dốc, ăn nứt rốn mới thôi. Cái sướng của điếu thuốc lào kéo một hơi dài, sòng sọc, sảng khoái. Cái sướng của tắm ao, của ngủ ngày, và cả cái sướng theo kiểu còn đi chơi trộm kiếm đồng mua rau. Cái sướng của lý lẽ mình chẳng phải hổ thẹn với ai. Nói chuyện với mình, với đời, oang oang như đang hét toáng vào hai đầu gối. Đó là những cái sướng độc giả chỉ tìm thấy ở nơi Thái Bá Tân rất hiếm thấy ở những cây bút cùng thời với ông.

Cứ thế, Nguyễn Bính tài hoa với những vần thơ lục bát có thể khiến hoa dong phải đỏ môi hơn, hoa bòng phải vội vã mỉm cười, để trai tài gái đẹp có thể mượn khung cửi, mượn sợi tơ, tỏ tình bằng cánh bướm, lung linh huyền ảo. Thái Bá Tân qua một ngả khác, bằng văn xuôi, đong đưa chiếc võng đay cáu mùi mồ hôi, thế mà giấc nồng ngày hè bỗng dưng trở thành huyền thoại, trở thành ký ức; lóc tủy chẻ óc tìm không thấy, mà hễ đưa tay sờ lên ngực lại thấy phình phịch đập. Kể ra viết văn mà được như thế thấy nó cũng sướng. Gì chứ, viết mà không thẹn với cây bút và trang giấy, với bàn phím và màn ảnh, âu đó cũng là một cái thú của người phu chữ xưa nay.

Thế mạnh của Thái Bá Tân là khả năng sử dụng ngôn ngữ hiền lành giản dị (vốn nhiều cây bút trẻ, kể cả những cây bút trước ông, cùng thời, và thế hệ sau này đều cảm thấy khó nuốt). Gần như người ta nghĩ: Đã viết văn thì văn phải khác đi những sự bình thường. Mà họ nghĩ thế cũng đúng. Giữa một con phố sầm uất, hàng phở, hàng cơm, hiệu cao lâu, cơm tầu, cơm tây, lủ khủ ê hề, ai lại dám bày ra mẹt bánh đúc hay gánh bún ốc. Cứ như thể người ta sợ hãi phải trở thành đơn giản, thành gần gũi. Ngại sự quê mùa. Sợ người chê bai, cho là mình hai lúa quá, chân đen mắt toét.
Còn Thái Bá Tân thì không thế. Ông là người khá lạ lẫm trong việc giữ chặt cho mình cái mai rùa quê kệch, mốc meo, rơm rạ. Ông không gia giảm chế biến kho tàng ngôn ngữ dân tộc bằng những kiểu thức lạ mắt, lạ tai. Ông chỉ biết rau muống nếu không ăn sống thì luộc. Hoặc buồn buồn nấu canh với tôm khô. Hoặc xào. Thế thôi. Ông không nghĩ đến chuyện phải có nồi lẫu rau muống mới ngon, hoặc món rau muống xào gan dê, hoặc rau muống ninh chao, bóp gỏi, trộn gừng, nướng vỉ…

Thái Bá Tân rất gần với Nguyễn Bính ở chỗ cả hai đều nặng lòng với hoa xoan, hoa chanh, với dậu mồng tơi, với khung cửi. Cả hai đều thành tài, học cao hiểu rộng, đi xa biết nhiều, vậy mà vẫn hiền hòa trong cách nhìn, cách nói. Có lẽ do học ăn, học nói, học kỹ đến cả cách học gói, học mở; đâu ra đấy, nên sự hiền lành chất phác chẳng thể nào mất đi được. Vì thế trong văn Thái Bá Tân luôn lấp lánh những nụ cười hạt huyền, những dải yếm đào, và cái váy hiền hòa của bờ ao trinh bạch.

Như Nguyễn Bính viết: Hoa chanh nở giữa vườn chanh. Có gì là xấu khi mình là hoa chanh nở trên cành chanh. Chừng nào hoa chanh nở trên cành sấu mình mới sợ. Thái Bá Tân gần như đã đạt đến một cảnh giới thần tiên của giọng văn hiền lành (đặt giả thiết nếu như ông phải vật vã đàng chân tu mới có được), còn nếu như bản chất văn của ông lúc nào cũng hiền hòa như thế; sẽ không ngoa nếu ta bảo ông có giọng văn của một vị bụt lọt lòng.

Có giai thoại kể lại Nguyên Hồng đã sửa tiểu thuyết Bỉ Vỏ của mình tám lần rồi mới đưa ra nhà in. Tất nhiên khi đọc Bỉ Vỏ, người không bận rộn chỉ làm nhoáng một buổi tối (và thức hơi khuya) là xong cả một tiểu thuyết. Bởi lẽ văn Nguyên Hồng rất hiền hòa, vắn tắt, mạch lạc. Văn Thái Bá Tân cũng thế. Cũng khúc triết, lôi cuốn, đọc không mệt óc, không mỏi trí. Văn Thái Bá Tân giống như một ca khúc hay, đệm nhạc tốt, giọng hát truyền cảm, người nghe sẽ sướng, không thấy tai mình, óc mình bị tra thúc, ấn ép. Vì thế sức mạnh của văn Thái Bá Tân đến từ sự mềm mại chân tình, không cần đến những thủ pháp màu mè, chèn độn, hoa lá cành nào cả.

IV. Tài Nghệ Hư Cấu Của Thái Bá Tân

Thái Bá Tân độc đáo không chỉ ở cách viết văn hiền hòa, một thế mạnh khác của Thái Bá Tân là khả năng hư cấu. Tất nhiên Thái Bá Tân không hư cấu giống Bác Ba Phi (một nhân vật truyền thuyết của văn chương dân dã miền Nam), nhưng đọc văn Thái Bá Tân, yếu tố hư cấu được phô bày một cách rất toạc mõm heo; mắm tôm có hương vị của mắm tôm, chẳng việc gì phải lây nhây, kèn cựa, che đậy, vá víu. Vì thế hư cấu của Thái Bá Tân chinh phục người đọc bằng một sự chấp nhận rất đỗi hữu xạ tự nhiên hương. Thái Bá Tân có cái hay của một cây bút biết tạo cảnh, phối trí, sắp xếp các tình tiết rất lôi cuốn, ly kỳ, như có bỏ bùa, gắn bả, hoặc có mồi nhử nữa (nên dẫu biết cụ đang bốc đấy, nhưng cứ để yên, gượm cái đã, xem coi cụ bốc đến cỡ nào, có đủ phét hay không). Đấy. Cái hay của Thái Bá Tân là thế. Chết là chết ở cái chỗ ấy. Vì lẽ đó văn Thái Bá Tân có một sự lôi cuốn rất lạ. Sự tự nhiên trong những tình tiết đã mở toang những cánh cửa bản đề khô mỡ. Ông chân thật lắm. Đời có gì xấu xa đâu mà đậy che. Mà cái đẹp của đời chắc gì đã khá hơn để mà khoe mẽ. Khát thì chum sẵn nước, cứ tự nhiên mà vục gáo. Đói. Nhà có rổ khoai luộc, rãi hiều hơn củ, xơ đấy, nhưng các bác không ngại thì xin cứ ngồi vào, đừng khách sáo. Cái hay trong hư cấu của Thái Bá Tân là cái hư cấu đầy hứng thú theo kiểu khi có bạn bạn thân trà hóa thành rượu, dong luộc hóa thành sâm

Vì thế trong tất cả những câu chuyện của ông, Thái Bá Tân không câu nệ cái nhẽ người ta sẽ tra hạch, vạch vọi, bới tìm. Thái Bá Tân (hơi ương gàn bướng bỉnh) ở chỗ coi văn chương chỉ là cái nồi đồng. Còn nấu nướng cái gì thì cứ hậu xét đã. Vào rừng mà không có cái nồi mới lo, chứ nào ai lo vào trong rừng có cái gì để nấu. Vì thế văn chương chỉ là phương tiện để sẻ chia, để gióng lên tiếng lòng mới là trách nhiệm. Món nấu có ngon hay không thì rau non sẽ ngọt, thịt tươi ắt sẽ ngon. Còn khi anh đói, xơi tất, cái gì cũng được, bảo thế có ngoa, có oan hay không, các vị?

Vì Thái Bá Tân nắm vững quan điểm sáng tác của mình, nên ông không còn ưu tư chuyện mình sẽ bị người ta vỗ cho: Lại bốc rồi! Song ông sử dụng hư cấu (và thủ pháp xây dựng bố cục) để chuyên chở những thông điệp rất con người. Đó là thứ can đảm cận với chân lý, rất bản chất. Ông giống như con thiêu thân, thấy lửa là lao vào, cũng may đấy chỉ là ngọn đèn điện, không bị thiêu chết, nhưng vẫn cứ khỏe lao đầu vào ánh sáng, không cưỡng lại được. Vì vậy những câu chuyện của ông đọc lên biết rõ là hư cấu đấy, nhưng lại đáng đọc, đáng tin, đáng để suy gẫm, đáng để truyền khẩu, chuyền tay.

Đọc các truyện ngắn trong tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) của Thái Bá Tân, từ chuyện ông già người Pháp trở lại Hà Nội tìm ân nhân, nhân vật đứa ở tên Tý đổi đời, chuyện người con mua quả dừa cho mẹ, chuyện người đàn ông có cái bóng bị rách, hay chuyện một nhà nghiên cứu triết học thành công trong sự nghiệp nhưng thất bại trong tình yêu, một ông cụ thợ mài dao bất hạnh, cả một đời mặc cảm tội lỗi, lo âu, chuyện một thày giáo gốc Hà Nội được điều lên Bản Vẹo (ở Sapa) khỉ ho cò gáy nảy nở một mối tình đầy bi kịch… Tất cả đều hầm hập những hình ảnh hư cấu, (có thể chí ít nó được hư cấu hóa từ thực tế kinh qua của tác giả), vậy mà độc giả yêu mến những cái mớ hư cấu ấy. Nói khác đi người ta tìm thấy sự thật trong những điều ông hư cấu. Toạc hẳn ra. Còn hơn lắm đứa, vỗ phèng, gõ mõ, um oe ầm cả lên, toàn là sự thật cả, thế mà đãi đúng ba hôm, mòn cả đũng váy, mà rồi cũng chỉ thấy rặt toàn là cuội cả!
Vì thế đọc văn Thái Bá Tân, cái sướng là sướng ở chỗ được gãi đúng chỗ.
V. Đặc Tính Nhân Văn Trong Truyện Ngắn Thái Bá Tân

Văn Thái Bá Tân là văn của tấm lòng. Vì thế những câu chuyện của Thái Bá Tân không ác độc. Lẽ ra phải nói đúng hơn là cái ác trong văn Thái Bá Tân là cái văn của đĩ thõa hoàn lương, kẻ cướp buông đao thành phật, xấu cải tà, gian qui chánh. Văn Thái Bá Tân là văn kể những câu chuyện ma xin từ bỏ áo giấy, bụt nhường áo cà sa, nẻo chánh đạo mọc mầm từ lương tri, nở những đóa mặt trời, rọi vào ngục đời để chân dung Chân Thiện Mỹ được mở rộng thênh thang cõi lòng bồ tát.

La liệt trong những trang viết của Thái Bá Tân là những câu chuyện răn đời, thế mà chẳng hề giáo điều, sáo rỗng, mỵ dân. Văn Thái Bá Tân rất con người. Ông không hề nỡ ruồng bỏ (mặc dầu đã có lúc tưởng như ông cũng sẽ suy nghĩ, kết án rất tầm thường như nếp nghĩ của cõi ta bà, thế tục) để rồi nhân vật của mình bị chết đuối. Thái Bá Tân không muốn, càng không thể nhìn thấy những nhân vị bị đục khoét, bị ăn cắp.

Vì thế ông viết để nhủ đời. Khuyên bảo hay răn dạy, ai nghĩ sao tuỳ hảo ý. Có lẽ Thái Bá Tân đọc nhiều, tiếp cận với những tư tưởng lớn, lại có cơ duyên của một người thích gieo trồng hạt thiện. Để rồi từ những dòng ông viết, ta thấy ảnh hưởng của những cây bút lớn như Azit Nexin của Thổ Nhĩ Kỳ, Oscar Wilde của Ái Nhĩ Lan, Bồ Tùng Linh và Lỗ Tấn của Trung Quốc, Nam Cao của Việt Nam… Tất cả đều giống nhau ở chỗ giá trị con người (bất luận được nhìn từ góc độ nào) vẫn giữ được nguyên vẹn hình hài khởi thủy, dẫu lõa thể hay được quấn vòng nguyệt quế, vẻ đẹp của nhân vị con người luôn luôn là hạt ngọc sáng nhất trong kho báu những hạt ngọc do bàn tay Hóa công tạo dựng.

Thái Bá Tân yêu con người. Có lẽ rõ nét nhất trong tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) của ông, Thái Bá Tân đã viết về cô gái tên Tý trong truyện ngắn Đổi Đời (Changing of Fate). Lẽ ra Thái Bá Tân có thể dừng lại (cách mà Oscar Wilde đã dừng lại với nhân vật Dorian Gray của mình trong tiểu thuyết duy nhất của ông Chân Dung Dorian Gray), lẽ ra nhân vật Tý sau khi nhờ tài buôn hương bán phấn mà trở thành bà Diễm Hạnh sẽ bị quả báo, như thế sẽ thỏa mãn được khát khao rất chung, mà cũng có vẻ rất tầm thường của cõi thị phi. Nhưng Thái Bá Tân đã vén sạch những dây nhợ rừng rú, đào bới bằng những ngón tay của chính mình, moi lên những ước mơ đã bị lãng quên từ đá cuội, để rồi mặt trời bao giờ cũng tỏa ánh hào lung linh sau mỗi lần bão tố.

Đời người qua lăng kính văn chương của Thái Bá Tân luôn giữ được những nét đẹp của ngọc thạch. Trong đó Thái Bá Tân là một người thợ ngọc tận tâm với nghề cắt gọt. Những viên đá qua tay ông bỗng có hồn, đẹp lung linh đến độ khó ngờ. Chuyện ông lão mài dao và cuộc đời ông trong quá khứ. Ông lấy cái chết của mình để gột rửa. Ta không ghét ông lão. Ta cũng không thấy ông đáng thương hại. Ta mừng. Ông đã được giải phóng bằng sự chuộc lỗi cao cả nhất. Đó là cách ông chịu trách nhiệm đón nhận bản án từ tòa án lương tâm của chính trái tim mình (trong truyện Nhân Quả - Bad Karma). Còn trong truyện ngắn Hà Nội, Những Ngày Trước Tết (Hanoi A Few Days before Tet), một người đàn ông Pháp đã trở lại Việt Nam tìm người ơn trong thời chiến. Những tuyến nhân vật và các tình tiết được xây dựng, không phải để thanh minh biện bạch cho đâu là đúng, đâu là sai; mà là sự khắc họa bổn phận lương tri, của những tâm hồn đã vượt qua cõi ý thức hệ để xích lại gần hơn với bản chất con người.

Vì vậy chất người trong văn Thái Bá Tân chính là chất sống đã cung cấp cho bản thân ông, và cho cả đời những chất xúc tác cần thiết để các phản ứng hóa học lương tri có cơ hội cất cánh. Làm chim, bầu trời rộng và xanh đến thế mà không dám cất cánh bay bay, như thế sẽ thật uổng phí một đời làm chim. Đó là điều Thái Bá Tân muốn nhắc nhở mỗi người chúng ta vậy.

VI. Cảm Ơn Một Cây Bút Có Lòng

Cảm ơn Thái Bá Tân, cảm ơn một cây bút có tấm lòng. Cảm ơn một nhà văn đã viết từ những lưu cữu trăn trở, từ những bộc bạch của quả nhà, cây vườn, mộc mạc thôi mà vẫn đủ sức mạnh để chúng ta nhận ra một chân lý: Giữa bùn vẫn có hương sen nồng đượm ngát thơm.

Thái Bá Tân viết văn bằng âm nhạc của tấm lòng. Âm nhạc có sức chuyên chở rất lớn. Và âm nhạc có thể đánh động lòng thiện. Âm nhạc có thể nuôi dưỡng lương tri. Nó là thứ lương thực để biến cuộc sống con người trở nên bớt nhàm tẻ, bớt cằn cỗi, và mỗi lúc mỗi thêm thăng hoa, nếu như người ta mở cửa để cho âm nhạc chân chính đi vào tâm hồn của họ. Quả nhiên vậy, mỗi áng văn của Thái Bá Tân là một khúc nhạc. Ông viết văn bằng nhạc lý của nhân văn, bằng sự phối âm của trách nhiệm. Và rồi những giai điệu trong văn Thái Bá Tân là giai điệu của một vở nhạc kịch đầy biến tấu, nơi đó hình hài chân dung con người bao giờ cũng bật sống dậy, vươn thành những vũ khúc có thể nối kết giữa ngàn năm đã qua và những ngày mai đây sẽ đến.

Cảm ơn Thái Bá Tân. Cảm ơn một nhà văn của tấm lòng. Một nhà văn đã góp phần để Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học của chúng ta có thêm những tác phẩm hay, những bài học không phải chỉ giúp chúng ta có cơ hội trau dồi Anh Ngữ, luyện đọc, luyện tư duy, song đó còn là những bài học để chúng ta rèn luyện bản thân, xích lại gần hơn với đời, với tha nhân.

VII. Chia Tay Thái Bá Tân

Chia tay nhà văn Thái Bá Tân, có lẽ các bạn sẽ có cùng suy nghĩ với tác giả chuyển ngữ tập truyện ngắn Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) mong rằng đây không phải là tập truyện ngắn duy nhất của ông giới thiệu trong Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học. Với những truyện ngắn đặc sắc và ấn tượng như thế, văn chương của Thái Bá Tân nhất định sẽ giúp tủ sách của chúng ta được thêm phong phú, chất lượng hơn.

Chia tay nhà văn Thái Bá Tân, tác giả chuyển ngữ tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) muốn được chia sẻ với các bạn đó là cảm giác dễ chịu khi làm việc với tập truyện ngắn này. Một phần lớn bởi lẽ lối viết của Thái Bá Tân rất dễ dịch sang Anh Ngữ. Vì vậy các bạn khi đọc phiên bản tiếng Việt của tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus), xin hãy mạnh dạn có những câu dịch của riêng mình, vì điều này không khó thực hiện, song phần thưởng nhất định sẽ đem lại những lợi ích lâu dài cho các bạn.

Một điều nữa tác giả chuyển ngữ tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) xin nhân đây thưa cùng tác giả Thái Bá Tân; một nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhà dịch thuật chuyên về Tiếng Anh - Hãy đón nhận bản dịch này bằng một tình thương của một người thày đối với đứa học trò chưa một lần đến lớp của thày học. Cổ nhân có câu: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Một chữ cũng là thày, nửa chữ cũng là thày. Huống chi Thày Thái Bá Tân đã cho chúng ta nhiều chữ. Trong đó chữ tâm là chữ khiến tất cả chúng ta xúc động nhiều hơn cả.

Vâng. Thay mặt tất cả những ai đã yêu mến và ủng hộ Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học, em xin được gởi đến thày Thái Bá Tân lời chúc sức khỏe, lời cảm ơn, cùng với những tình cảm chân thành nhất đối với một người thày đã dạy nhiều thế hệ những bài học quý giá, bài học của tấm lòng, bài học của chữ nhân, chữ nghĩa, và cao đẹp hơn cả là bài học của chữ tâm.

Nguyễn Thơ Sinh Fort Worth, Hè, 2012.

Wednesday, February 25, 2015

BẠCH NGỌC



Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Một người bạn trẻ đã kể tôi nghe câu chuyện này. Chuyện xảy ra với chính anh ta, lạ lùng và khó tin đến mức nếu không được trực tiếp nghe từ miệng một người đứng đắn và mẫu mực như anh thì tôi nhất quyết sẽ cho là chuyện nhảm nhí, và tất nhiên chẳng mất công đem kể ra đây.
“Thưa thầy, chuyện quả đúng như thế ạ. - Anh gọi tôi bằng “thầy” vì trước đó có theo học lớp tiếng Anh của tôi một thời gian. Tôi làm nghề tay trái này đã lâu, nhờ nó mà kiếm đủ sống để nuôi gia đình và tiếp tục đeo đuổi cái nghiệp văn chương bạc bẽo, vất vả này. - Em sợ lắm. Thầy có cho đấy là tai họa và có thể làm hại cả cuộc đời em sau này không?”
Tôi không trả lời câu hỏi khó khăn này của anh. Đúng ra tôi có trả lời, chốc nữa đọc phần cuối các bạn sẽ thấy. Bây giờ cho phép tôi kể lại một cách ngắn gọn cái chuyện kỳ cục ấy đã xảy ra thế nào. Vì lý do tế nhị, tôi xin không dùng tên thật của anh, mà chỉ tạm gọi một cách chung chung là X.
Chuyện thế này.
   *   
Hôm ấy là một trong những buổi chiều thứ bảy mà X. luôn mong đợi. Anh đang trên đường từ Bát Tràng về Hà Nội. Anh không còn trẻ nhưng chưa vợ, khá đẹp trai và dân Hà Nội gốc. X. được phân công dạy cấp ba ở đây với lời hứa sau ba năm sẽ chuyển về nội thành, thế mà tới nay đã quá gấp đôi cái thời hạn ấy rồi mà chẳng thấy người ta động tĩnh gì. Làng nghề truyền thống nổi tiếng cả nước này đã làm anh ngấy tận cổ bởi cái chất giở ông giở thằng, giở nông thôn giở thành thị và những lò gốm đen xỉn bẩn thỉu của nó.
Không giống những chiều thứ bảy khác chỉ mong hết tiết để vù về nhà, lần này anh thấy chẳng hứng thú chút nào, lại buồn nữa. Chẳng vì sao mà vẫn thấy buồn, thậm chí anh không phóng xe nhanh để sớm về nhà. Hay vì thời tiết?
Mà thời tiết lúc đó thì quả là chán thật. Đã cuối thu, suốt ngày trời mưa lất phất, những cơn mưa như thật như đùa, chỉ đủ làm mặt đường nhớp nháp và phủ một màng mỏng nhầy nhầy lên tay và mặt. Thỉnh thoảng gió lạnh thổi từ phía sông Hồng càng tăng thêm vẻ buồn tẻ và sự khó chịu vô cớ. Trời chưa tối nhưng âm u, xa xa đã thấp thoáng một vài chấm đèn. Phía ngoài đê, sát sông, chỉ thấy những đám mờ mờ không rõ là làng hay bãi ruộng.
Khi cách cầu Chương Dương khoảng vài kilômét, X. bỗng thấy có cô gái đứng sát bờ đê giơ tay xin đi nhờ. Việc này vẫn xảy ra và nói chung anh thường cho đi. Tuy nhiên hôm nay, trong tâm trạng ủ ê vô cớ, anh chẳng muốn chút nào. Anh đã định cho xe phóng qua như chắc nhiều người khác từng làm trước đó, vậy mà khi đến gần người kia bỗng dưng anh đỗ lại, cứ như không phải anh mà ai đó vô hình đang điều khiển chiếc nó.
Đó là một cô gái khoảng hăm hai, hăm ba tuổi và rất xinh, với vẻ mặt buồn buồn, nhợt nhạt nhưng có sức hấp dẫn lạ lùng. Dẫu đang nhập nhoạng tối, anh vẫn nhận ra điều ấy. Người cô dong dỏng cao, có lẽ hơi gầy. Mọi cái ở cô đều toát lên vẻ tử tế, sạch sẽ của người xuất thân từ gia đình giàu có và nền nếp - từ đôi khuyên vàng, chiếc nơ buộc tóc màu xanh da trời rất hợp, chuỗi hạt đeo quanh chiếc cổ thanh tú và chiếc áo trắng, rất trắng và sạch, đến mức anh lấy làm ngạc nhiên sao giữa ngày mưa gió thế này mà nó không hề dây bẩn, dù chỉ một vết nhỏ.
“Anh cho em đi nhờ một quãng, được không ạ?” - cô nói, khẽ khàng và e lệ không chút giả tạo.
Chưa hết sững sờ trước vẻ đẹp khác thường của cô gái, X. lúng túng mỉm cười rồi gật đầu. Cô lên xe, anh có cảm giác như xe không nặng thêm chút nào. Cả hai cùng im lặng. Chiếc xe lăn bánh đều đều dọc bờ đê, nhưng trống ngực X. đập mạnh và rất nhiều ý nghĩ vấn vương trong đầu. Cô ta là người thế nào nhỉ? Sao xinh và có vẻ con nhà giàu như vậy lại phải xin nhờ xe? Ở cô ta có cái gì lạ lùng và lành lạnh. Cái lạnh ấy bây giờ anh cảm thấy ngay sau lưng, vì tự lúc nào cô gái đã ngồi xịch lại rất gần. Cả hơi thở nhẹ sát gáy anh cũng lạnh. Là giáo viên dạy văn giàu óc tưởng tượng, X. hình dung đủ chuyện, và thấy sờ. Nhưng sợ gì khi đang đi cùng xe với anh là một cô gái trẻ đẹp, có thể nói đẹp nhất xưa nay anh từng gặp? Cô gái ấy đang ngồi sát sau lưng, hai tay ôm người anh... Đúng, ôm khá chặt. Không hiểu sao mãi lúc này anh mới nhận thấy điều đó. Anh bối rối thực sự, nhưng không nói gì.
Tới nhà nghỉ “Nắng Chiều” thì bỗng chiếc xe chạy chậm lại rồi dừng hẳn. Chiếc Dream ngoại mới mua nửa tháng trước đó. “Chắc hết xăng”, anh nghĩ, nhưng mở ra thấy còn đầy. Lạ thật.
“Sao vậy anh?” - cô gái hỏi.
“Chắc hỏng vặt cái gì đó. Tôi chữa xong ngay bây giờ”, anh đáp, thoáng bối rối.
Cô gái đứng cạnh, nhìn X. hý hoáy sửa khóa xăng và bu-gi hồi lâu nhưng chiếc xe vẫn không chịu nổ.
“Hay chị chịu khó đi bộ một quãng đến đằng kia gọi tắc-xi vậy?” - anh nói, không phải không có ý tiếc.
“Không sao, em chờ. Em thích nhìn anh chữa xe. - Cô ngập ngừng một lát rồi nói thêm: - Em thấy mến anh...”
X. nhìn cô ngạc nhiên, chưa hiểu cô nói thế nghĩa là gì. May lúc ấy trời đã tối nên cô không thấy anh đỏ mặt. Rồi cô gái lại gần, âu yếm đặt một tay lên vai anh.
“Anh dễ thương thật đấy. Anh có thích em không?” - cô nhìn thẳng vào mắt anh.
“Thích”, anh nói như bị ai xui khiến, cũng nhìn vào mắt cô. Đôi mắt bây giờ không lạnh mà đang ánh lên những tia cháy bỏng.
“Thế anh có... có muốn em không?” cô gái ngượng ngùng nói rồi đưa mắt về phía nhà nghỉ “Nắng Chiều”.
“Thì ra là gái làm tiền, - anh nghĩ, hơi thoáng thất vọng. - Một cô gái lạ lùng”.
Được giáo dục trong một gia đình rất khuôn phép, xưa nay X. chưa lần nào đặt chân vào các nhà nghỉ mà anh xem là nơi không xứng đáng và nên bắt đóng cửa từ lâu. Còn tiếp xúc, chứ chưa nói là quan hệ, với các cô gái bán hoa thì cả trong ý nghĩ anh cũng chẳng dám. Thế mà bây giờ có người trơ trẽn mời chào anh, xinh đẹp, tử tế nhưng vẫn thuộc hạng ấy. Anh lúng túng nhìn cô gái, thầm xấu hổ khi thấy mọi cố gắng chống đỡ của anh đều bất lực trước cái nhìn say đắm và có cả vẻ van xin trong đôi mắt cô.
“Có chứ, - cuối cùng anh lên tiếng, cố lấy giọng vui vẻ để tỏ ra mình cũng biết ăn chơi. - Một người như em ai chẳng muốn.”
Rồi hai người dắt xe đi xuống nhà nghỉ “Nắng Chiều” ngay dưới chân đê.
    *    
“Anh hôn em đi!”
X. áp môi mình vào đôi môi đang hé mở đợi chờ. Anh thoáng giật mình vì thấy nó rất lạnh.
“Cảm ơn anh”.
“Cảm ơn? - anh ngạc nhiên tự hỏi. - Cô này kì cục thật”.
“Anh có thể hôn vào mắt em được không?”
Anh lại áp môi vào mắt cô, từng mắt một. Chúng cũng lạnh.
“Cảm ơn anh. Anh biết không, anh là người đàn ông đầu tiên hôn em đấy, - cô gái nói. Đôi mắt được hôn giờ trông rạng rỡ. - Thật mà. Anh không tin à? Nhưng điều đó chẳng quan trọng. Quan trọng là em đã được một người đàn ông hôn. Chắc em nói thế, anh thấy lạ lắm nhỉ?”
Quả X. thấy lạ, nhưng không nói gì. Anh vòng tay ôm chặt cô rồi đẩy về phía chiếc giường. Người cô cũng rất lạnh, nhưng lúc này X. không còn băn khoăn đến điều ấy.
“Cảm ơn anh,” cô gái lại nói khi hai người mặc quần áo.
Lại cảm ơn. Kỳ thật. Hay đàn bà mỗi lần sau chuyện ấy ai cũng nói cảm ơn? Anh móc túi, có bao nhiêu tiền đưa hết cho cô gái.
“Ấy chết, sao anh làm thế? - cô hoảng hốt kêu lên. - Em không phải loại người anh tưởng đâu.” Rồi cô rùng mình, đưa hai tay ôm mặt xấu hổ. Hình như khóc.
“Vậy em là ai?” - X. ngỡ ngàng hỏi sau một chốc im lặng.
“Em là Ngọc, Bạch Ngọc. Em tốt nghiệp Đại học Quốc gia năm ngoái, đang theo khóa cao học, định sang năm đi Anh học tiếp nhưng bây giờ thì đành thôi...”
“Vì sao?” anh tò mò hỏi. Anh tin những điều cô nói. Một người như cô chắc không biết nói dối.
Bạch Ngọc không đáp. Lần nữa cô ngước nhìn anh đắm đuối với đôi môi chờ đợi. Anh cúi xuống. Chúng vẫn lạnh. Bạch Ngọc lần nữa lại nói “cảm ơn”.
“Em có thể cho anh địa chỉ của em được không?”
“Được, - cô nói và khẽ cúi đầu thở dài, - tuy chẳng để làm gì”.
X. nhét vội vào túi mảnh giấy Bạch Ngọc đưa cho, rồi hai người bước ra khỏi phòng.
Chiếc xe lúc nãy tự nhiên chết máy, bây giờ vừa bấm đề đã nổ ngay, nhưng X. không nhận thấy điều kỳ lạ đó vì còn chưa hết ngạc nhiên với những gì mới xảy ra.
“Anh đưa em về nhà nhé?”
Bạch Ngọc lặng lẽ gật đầu. Cô bảo anh đi về phía xã Bồ Đề chứ không qua bên kia cầu Chương Dương như anh tưởng. Tới rìa làng N. cô xuống xe, cảm ơn và nói cô muốn đi bộ một mình. X. đứng yên chăm chú nhìn theo, không nhận thấy để mất hút cô từ lúc nào. Dọc đường về nhà, anh băn khoăn tự hỏi sao một người như Bạch Ngọc lại sống ở cái làng nghèo nàn ấy. Mọi chuyện có vẻ kỳ lạ và đáng ngờ...
   *   
“Sáng hôm sau em tìm đến nhà Bạch Ngọc theo địa chỉ cô ấy cho, - X. kể tiếp. - Đó là một biệt thự kiểu Pháp xinh xắn ở khu Ba Đình, cùng phố với mấy sứ quán nước ngoài. Em dò hỏi thì biết đó là nhà một ông bộ trưởng mới về hưu, có cô con tên là Bạch Ngọc chết vì tai nạn ô tô cách đấy ba ngày, chôn ở nghĩa địa làng N. xã Bồ Đề, vốn quê gốc của ông. Để chắc chắn hơn, em còn dò hỏi tuổi tác, trường học và vẻ ngoài của Bạch Ngọc. Tất cả đều đúng. Thầy thấy có lạ không?”
“Sau đó cậu tìm đến nghĩa địa, đúng không?”
“Vâng ạ. Ở đấy có ngôi mộ mới với tấm bia đá cùng ảnh chụp, ghi rõ họ tên. Hà Bạch Ngọc, ngày sinh... ngày mất... Em thấy như cô ấy nheo mắt mỉm cười với em, thậm chí còn nói ‘Cảm ơn!’ Em ngạc nhiên và sợ quá...”
X. im lặng, chắc chờ tôi lên tiếng an ủi.
“Hóa ra người đàn bà đầu tiên em gần gũi không phải người mà là ma, - anh ngước nhìn tôi không dấu nổi vẻ lo lắng. - Tại sao cô ấy làm thế? Tại sao lại chọn em? Thầy có cho đấy là tai họa, và có thể làm hỏng cả cuộc đời em không?”
Quả thực đây là câu hỏi không dễ trả lời, nhưng cuối cùng tôi vẫn trả lời nó theo cách tôi cho là tốt nhất:
“Tớ nghĩ không. Bạch Ngọc là người tốt nên chắc không bao giờ làm hại cậu. Vả lại, cô ấy còn chịu ơn cậu...”
“Chịu ơn em?”
“Vâng. Cô ấy chẳng luôn miệng cảm ơn cậu đấy sao? Như tất cả các cô gái khác, Bạch Ngọc không muốn chết mà chưa được biết cảm giác hạnh phúc cái hôn của một người đàn ông. Đó là nỗi sợ thầm kín, có thể vớ vẩn, nhưng rất thật và rất con gái. Cậu đã mang đến hạnh phúc ấy cho Bạch Ngọc. Chắc chắn cô ấy sẽ phù trợ cậu”.
X. có vẻ yên tâm hơn.
“Nhưng hôn và ngủ với ma thì chẳng là điều dễ chịu. Nếu việc này xảy ra với thầy, chắc thầy không nói thế!”
“Cậu rõ vớ vẩn. - tôi cười đáp. - Già và béo như tớ thì có ma nào nó thèm để ý!”
   *   
Thấm thoắt đã gần chục năm trôi qua. X. lấy vợ, có con, và dường như rất hài lòng với hạnh phúc của mình. Mọi việc đều tốt đẹp. Tôi thầm mừng vì lời nói an ủi chiếu lệ ngày nào hóa ra đúng. Tết Thanh Minh năm nào tôi và X. cũng ra nghĩa địa làng N. thắp cho Bạch Ngọc mấy nén hương. Từ lâu X. không còn bị ám ảnh bởi đôi môi giá lạnh của cô, nhưng anh vẫn một mực bắt tôi tuyệt đối giữ kín mọi chuyện. Tôi không nghĩ tôi vi phạm lời hứa với anh bằng cách viết truyện ngắn này vì suy cho cùng, không người nào ngoài anh và tôi biết X. là ai.

                                    Hà Nội, 28. 4. 2002

BÀ TÔI



Truyện ngắn. Thái Bá Tân

1
Ngày xưa có ông vua tên là Đế Thích, lên ngôi chưa được bao lâu thì bỗng có giặc ngoại xâm kéo đến. Thế yếu, vua phải đem cả hoàng tộc xuống biển rồi từ đó lên thuyền chạy vào phía Nam. Đi một mạch ba ngày ba đêm không nghỉ, đến vùng biển xứ Nghệ thì gặp bão, thuyền chìm, chỉ ba người thoát chết nhờ may mắn được sóng đánh dạt vào một hòn đảo. Đó là hoàng hậu và hai công chúa còn nhỏ.
Hòn đảo ấy gần đất liền, nhưng vì nhỏ và toàn đá nên không có người, trừ một nhà sư trẻ đêm ngày tụng kinh niệm Phật mong đắc đạo. Được nhà sư giúp đỡ, chăm sóc, ba người phụ nữ nhanh chóng bình phục. Trong khi đó, không hiểu sao nhà sư bỗng trở nên bần thần và hay suy nghĩ vẩn vơ. Sống tách biệt lâu ngày, lần đầu tiên được gặp những người phụ nữ đẹp, lại trong hoàn cảnh họ bất lực và ở một nơi hẻo lánh như thế, dần dần dù không muốn, trong đầu nhà sư đã nẩy ra những ý nghĩ mờ ám. Và rồi một hôm, khi hai công chúa đã ngủ, ông lẻn đến với hoàng hậu, định giở trò chim chuột. Dù biết ơn và kính trọng nhà sư, hoàng hậu một mực từ chối. Cuối cùng, khi thấy nhà sư rút dao dọa giết, bà toan đập đầu vào đá tự tử để giữ tròn trinh tiết. Thấy thế, nhà sư hoảng sợ. Khi cơn bột phát tình cảm lắng xuống, ông rất đỗi xấu hổ và hối hận.
- Ôi, nhục nhã thay! Cùng một lúc ta đã phạm ba tội lớn. - Nhà sư ngửa mặt lên trời kêu to. - Là sư, ta không lo tu thân đắc đạo mà để quỉ dữ xác thịt cám dỗ, đó là tội thứ nhất. Tội thứ hai là cưỡng ép một người đàn bà bị nạn đang được mình che chở. Cuối cùng là có ý định giết người!... - Rồi sẵn con dao trong tay, ông tự đâm vào cổ mình và chết.
Hoàng hậu cũng hối hận không kém. Bà cho rằng đáng lẽ phải trả ơn, chính bà đã giết chết ân nhân mình. Bà ôm xác nhà sư than khóc hồi lâu rồi cũng cầm dao tự tử theo. Sáng hôm sau hai công chúa tỉnh dậy đoán hiểu hết mọi chuyện. Vô cùng đau xót, họ nắm tay nhau cùng nhảy xuống biển.
Về sau, để nêu gương tuẫn tiết của hoàng hậu, người ta lập một ngôi đền ở làng Kình, nay thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, trên mỏm một núi đá nhìn thẳng ra hòn đảo nhỏ nơi xảy ra tấn bi kịch. Trong đền có cả tượng nhà sư cùng hoàng hậu và hai công chúa.

2
Đó là câu chuyện về sự tích đền Kình mà ngày bé bà ngoại thường kể tôi nghe. Sau này lớn lên, đọc trong "Truyện cổ dân gian Việt Nam" của Nguyễn Đổng Chi, tôi cũng thấy có chuyện ấy, chỉ khác ở câu chữ và cách diễn đạt. Rất có thể chính bà tôi đã kể cho nhà văn nghe khi ông đến đây thu thập tài liệu.
Bà tôi làm nghề buôn bán, nổi tiếng là người có bản lĩnh và táo tợn. Nghe nói có thời bà từng là chủ của mấy chiếc thuyền lớn chuyên chở cá và nước mắm từ làng Kình vào tận Hà Tĩnh bán, khi ra chở đầy cau khô và mít, bưởi... Ông ngoại tôi chết sớm, việc buôn bán trở nên thua lỗ, tính tình bà cũng thay đổi theo, dần dần trở thành người nghiệt ngã và đặc biệt rất mê tín.
Ngoài mẹ tôi, bà còn có một người con nữa là cậu tôi. Đó là một người cao lớn, đẹp trai, tốt bụng và vui tính nhưng nghị lực yếu đuối và là "thứ bỏ đi" như bà tôi vẫn nói. Quen được nuông chiều từ nhỏ, lớn lên quả đúng cậu tôi là người thế thật - dễ thích, dễ chán, chẳng bao giờ đủ kiên nhẫn làm xong việc gì, thêm vào đó lại sớm nhiễm thói rượu chè, cờ bạc. Chưa đầy bốn mươi, cậu tôi đã kịp thay đổi bốn đời vợ. Một hôm, khi đánh bạc đâu đó về khuya, chờ mãi không thấy đò, lại đang say rượu, thế mà cậu tôi dám liều lĩnh bơi qua sông Hoàng Mai giữa mùa nước lớn và tất nhiên đã chết đuối, hai ngày sau xác mới nổi lên, bị sóng đánh dạt lên bậc đá sát chân đền Kình.
Tuy bốn đời vợ nhưng cậu tôi chẳng để lại cho bà đứa cháu nào. Thế là vô tình tôi trở thành người được bà yêu và quan tâm nhất. Chẳng hiểu vì sao bà chọn tôi trong khi tôi còn một đàn em cả trai lẫn gái, không ít đưa thông minh và ngoan hơn. Có lẽ đó là một trong những đặc điểm không lý giải nổi của người già. Có điều, tôi chẳng lấy thế làm thích. Tôi miễn cưỡng tiếp nhận sự chiều chuộng của bà - đó là những chiếc vòng bạc đủ cỡ mà tôi phải đeo vào cổ, vào tay dù là con trai; những bộ quần áo kỳ cục tự bà may và đương nhiên tôi phải mặc để bạn bè tha hồ chế giễu.
Nhà tôi ở Diễn Châu, cách làng Kình những năm mươi cây số, thế mà hè nào tôi cũng phải ra ở với bà ít nhất một tuần hoặc nửa tháng. Còn vào ngày rằm tháng giêng hàng năm thì bất luận thế nào cũng phải ở bên bà. Vào ngày ấy, bà đánh thức tôi dậy rất sớm, tắm rửa sạch sẽ rồi mặc cho bộ quần áo đẹp nhất. Xong, hai bà cháu cùng ra đền Kình. Bà dẫn tôi đi khắp một lượt trong đền, vừa đi vừa kể lại câu chuyện nhà sư và hoàng hậu, không quên kèm theo những lời răn đe rùng rợn.
- Cháu có sợ chết không? - bà hỏi khi đứng trước tượng ông sư.
- Có ạ, - tôi rụt rè đáp.
- Thế thì hãy nhớ lấy gương ông này!
Rồi bà kể một thôi thật dài về những điều khủng khiếp mà con người đáng thương kia phải gánh chịu khi bị đầy xuống địa ngục. Chẳng hiểu vì sao tôi còn nhỏ mà bà phải răn đe những chuyện như thế. Cứ theo bà thì mọi tội lỗi và tai họa trên đời đều từ cái thú xác thịt mà ra. Bà ghê tởm và tìm cách xa lánh nó như xa lánh quỉ dữ. Tất nhiên bà cũng bắt đứa cháu yêu của mình có thái độ tương tự. Mãi sau này tôi mới hiểu bà tôi phải nghĩ ra tất cả những điều ấy để giữ mình trong suốt cuộc đời góa chồng kéo dài của bà.
Tiếp đến là phần phóng chim lấy phước. Bà trịnh trọng thắp hương, quì trước tượng hoàng hậu, hồi lâu lầm rầm cầu khấn gì đó. Còn tôi thì lặng lẽ quì bên cạnh. Xong, bà ra giữa sân đền, trao cho tôi chiếc lồng có nhốt những con chim bồ câu - bao giờ cũng màu trắng, vì sao tôi không biết, mà bà đã mua ngoài chợ từ ngày hôm trước. Tự tay tôi phải mở lồng, bắt ra từng con rồi tung lên trời, bao nhiêu con phụ thuộc vào số tuổi của tôi năm ấy.
Trong khi tôi thong thả thực hiện cái lễ nghi mang tính tôn giáo và đầy huyền bí đó, trông mặt bà thật long trọng, nghiêm khắc và căng thẳng. Bà hồi lâu nhìn theo từng con chim được thả bay lên cao cho đến lúc mất hút trong không trung, thầm hy vọng sẽ có ngày chúng mang lại điều tốt lành cho ân nhân mình.
Lần thả chim sớm nhất còn nhớ được có lẽ khi tôi lên ba hoặc bốn và đang được bế trên tay mẹ. Tiếp đến, việc này đều đặn lặp đi lặp lại hàng năm, cùng ngày, cùng địa điểm và cùng những thủ tục bất di bất dịch. Khác chăng chỉ  ở số lượng chim thả, nghĩa là mỗi năm thêm một con cho phù hợp với tuổi.
Bà tôi là người tuy tốt nhưng nghiệt ngã như đã nói, không những tôi mà cả mẹ tôi cũng sợ. Vì vậy dù bận bịu việc đồng ruộng, dù xa xôi và nhiều khi chỉ đơn giản không muốn, mẹ tôi vẫn phải đem tôi về quê ngoại. Những năm gặp lụt tàu không chạy được, chúng tôi phải xin ô tô tải đi nhờ hoặc cuốc bộ cả năm mươi cây số, nhẩy từng bước một trên những thanh tà vẹt bị mặt trời đốt nóng hừng hực. Người nhỏ, chân ngắn, tôi thường  tập tễnh đi sau. Mệt quá, chốc chốc tôi ngồi phệt xuống đường ray, thút thít khóc. Những lúc ấy, hoặc mẹ tôi phải ngồi xuống cùng nghỉ, giở cơm nắm ra cho ăn, hoặc cõng tôi đi tiếp, vừa đi vừa dài dòng giải thích rằng chúng tôi phải vất vả như thế không phải không có lý do, rằng tương lai và hạnh phúc của tôi phụ thuộc vào bà, vào đền Kình và những con chim được phóng thích.
Ngày nhỏ nhiều lần tôi nghe bà nói với mẹ về tôi, như thể sau này tôi sẽ "cháu con đông đúc", "công thành danh toại", và "làm rạng rỡ cho cả dòng họ"... Cũng vì thế mà bà đã không tiếc công sức, tiền của chăm lo cho tôi sớm đạt được điều ấy. Là người cực đoan, bà rất tin vào suy nghĩ của mình. Còn mẹ tôi thì rõ ràng có ý nghi ngờ. Mà nghi ngờ cũng có lý, vì nói chung tôi là đứa trẻ bình thường, học không dốt nhưng lười, chỉ thích duy nhất môt việc là đọc sách.

3
Dễ đến mười năm nay tôi mới có dịp trở lại quê ngoại Quỳnh Lưu. Bà tôi chết cuối năm 1968, trong một trận pháo Mỹ bắn từ biển vào. Bà con thân thích chẳng còn ai, trừ một ông già năm nay gần tám mươi tuổi mà mẹ tôi nói tôi phải gọi là cậu. Dĩ nhiên, một trong những việc tôi quan tâm đầu tiên là đền Kình.
- Người ta phá đi rồi, -  ông cậu tám mươi tuổi đáp cộc lốc.
- Nhưng vì sao ạ? - tôi vội hỏi, ngạc nhiên và lo lắng.
- Ôi dào, ai mà biết được các ông ấy. Mấy ông lên xã họp hành cái phát động gì đó vài buổi, thế là về bắt dân dỡ phá ngôi đền, nói để xây nhà văn hóa. Mà rồi ba năm nay có thấy cái nhà ấy đâu.
- Thế dân không phản đối à?
Cậu tôi thở dài:
- Dân thì biết gì mà phản với chẳng đối. Vả lại, họ bảo phá đền để chống cái phong kiến, cái lạc hậu thì còn nói vào đâu được nữa.
- Cả mấy cây si cũng bị chặt à? - tôi hỏi.
- Thì anh cứ ra xem, khắc biết.
Ở Diễn Châu, cách làng tôi chừng hai cây số về phía Nam có đền thờ An Dương Vương. Ngày bé chúng tôi thường thả trâu dưới chân núi Mộ Dạ rồi leo lên chơi trốn tìm trong đền. Về sự tích ngôi đền này, không cần nghe ai chúng tôi cũng biết vì sách giáo khoa phổ thông có nhắc tới. Nhiều lần chúng tôi chụm đầu cùng nhìn xuống đáy chiếc giếng giữa sân đền, cố tìm giọt máu của Mỵ Châu mà tương truyền còn có trong đấy; hoặc vòng ra phía sau đền để đoán tìm nơi An Dương Vương nhảy xuống biển tự tử. Biển bây giờ đã lùi xa hàng cây số xuống phía đông.
Trong suốt nhiều năm dài tuổi thơ và cả bây giờ, tôi vẫn thầm tự hào quê tôi có được một lúc cả hai ngôi đền nổi tiếng, đến mức được viết thành sách và trong nước ai ai cũng biết. Thế mà nay một trong hai ngôi đền ấy, ngôi đền làng Kình, đã không còn nữa.
Tôi thơ thẩn bước đi giữa lổn nhổn gạch vỡ và những túm cỏ dại mọc rải rác ở nơi xưa là sân đền, lòng bâng khuâng mãi nỗi buồn khó tả. Tôi lan man suy nghĩ về một thời xa xưa huyền bí, về những con người bất hạnh làm nên sự tích ngôi đền và những con người thực dụng thô thiển sau này đã xóa bỏ nó một cách không thương tiếc. Tất nhiên tôi cũng nghĩ về bà tôi, một người mà trong tiềm thức của tôi bao giờ cũng là cái gì đấy không thể tách rời khỏi tuổi thơ và mảnh đất tôi sinh trưởng. Cũng như quê tôi, con người ấy bắt rễ sâu vào quá khứ, khắc khổ, vất vả nhưng hiền lành, và điều quan trọng nhất là suốt đời chỉ cầu mong điều tốt cho tôi. Với tôi, bà luôn là người ít nói và khó hiểu. Mãi gần đây, nhân có đợt phát động mua công trái, vô tình tôi được biết thời kháng chiến chống Pháp có lần bà nổi tiếng là người mua công trái nhiều nhất huyện, nổi tiếng về cả việc chính bà tự nguyện cho bộ đội cả hai con thuyền còn lại của mình để làm phương tiện vận tải.
Giá bây giờ sống lại, bà tôi sẽ nghĩ gì?
Lần cuối cùng gặp bà, tôi đã mười bẩy tuổi, vừa tốt nghiệp phổ thông và sắp đi học xa. Lần ấy, dù không là rằm tháng giêng, bà cũng dẫn tôi ra đền Kình và tôi lại thả mười bảy con chim lên trời, với đúng cái thủ tục không thay đổi những năm trước đó. Kể ra từ khi học cấp ba, do đã lớn và hay xấu hổ, bà có châm trước ít nhiều phần nghi lễ, thí dụ tôi có thể không phải quì lạy, hoặc tránh không ra đền vào lúc đông người. Phần mình, gặp lúc đói kém, bà đã chịu thay những con chim bồ câu đắt tiền bằng chim sẻ hoặc chim gáy, nhưng nói chung những trường hợp như thế không nhiều.
Một lần, bà giao việc ra chợ mua chim cho cậu tôi. Đang cần tiền uống rượu, cậu tôi đến một nhà trong xóm mượn tạm mấy con bồ câu mang về. Sáng hôm sau, từ đền Kình chúng lại quay về với chủ cũ. Không hiểu thế nào chuyện lộ, bà đã thẳng tay đuổi cậu tôi ra khỏi nhà, còn tôi thì suýt bị gọi ra Quỳnh Lưu để làm lại lần nữa cái thủ tục buồn chán ấy.
Về ước mong "cháu con đông đúc", chắc hẳn bà tôi sẽ thất vọng ghê gớm, vì mãi tới nay tôi vẫn chưa vợ, dù đã ở cái tuổi ngày xưa bà có cháu đầu lòng là tôi. Có thể bà sẽ hối hận vì quá răn đe tôi bằng tấm gương của ông sư kia chăng? Còn chuyện "công thành danh toại" hay thậm chí "làm rạng rỡ cả dòng họ" – chắc tôi cũng chẳng làm bà vui hơn bao nhiêu, tuy đã được in mấy cuốn sách và thỉnh thoảng xuất hiện trên báo này, báo nọ. Nhiều khi, nghĩ về những hy sinh mà bà chịu đựng và những hy vọng bà đặt vào tôi, tôi cứ áy náy như mình là người mắc nợ lâu ngày chưa trả.

4
Sáng hôm sau, rời làng Kình, tôi ra chợ Mụ mua một đôi bồ câu - tiếc  không có màu trắng - nhét vào chiếc cặp da to mà tôi vẫn xách đi công tác thay va-li, rồi lặng lẽ đi về phía mỏm núi đá nơi trước đó từng có một ngôi đền nổi tiếng.
Buổi sáng, trời thật đẹp. Biển lặng, gió nhẹ nhưng sóng vẫn vỗ mạnh vào những tảng đá lớn nằm ngay sát chân. Tôi đứng lặng một phút, thầm cầu mong vong linh bà tôi được yên nghỉ nơi chín suối. Như cậu bé rụt rè ngày nào, tôi mở cặp, nhẹ nhàng giữ đôi chim trong lòng tay, giơ chúng lên cao và từ từ nới mở các ngón. Được tự do, đôi chim ngơ ngác mở to mắt nhìn quanh mấy giấy mới đập cánh bay đi...
Một cái gì đấy tê tê, êm dịu chạy qua tim. Tôi chợt hiểu: cùng đôi chim ấy, tuổi thơ vừa tuột khỏi tay tôi bay đi. Bay đi vĩnh viễn.
Trên không, đôi chim biến mất từ lúc nào. Chỉ còn lại những chiếc lông tơ nhẹ màu trắng đang nghiêng ngả lượn thành vòng trong gió.

Quảng Bá, 11.5.1985.

ANH DŨNG CẢM VÀ ANH HÈN



Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Ông Sêkhốp có một truyện, ngắn thôi nhưng khá độc đáo, là "Anh Béo và anh Gầy". Câu chuyện đang viết đây, vốn bị hoãn nhiều lần chỉ vì không tìm được một cái tên vừa ý, vậy tôi xin bắt chước ông, tạm gọi là "Anh Dũng Cảm và anh Hèn".
          Xin được bắt đầu bằng Dũng Cảm.
          Ở huyện ngoại thành Hà Nội nọ có một người nổi tiếng dũng cảm, không phải chuyện chiến trường hoặc săn bắt cướp, dù cả hai việc này anh từng trải qua và chắc không là thằng hèn. Dũng cảm ở đây với nghĩa đấu tranh chống những điều chướng tai gai mắt, cái bây giờ được gọi là "hiện tượng tiêu cực", và rất tiếc đang đầy rẫy khắp nơi, đến mức nhiều người khác cũng dũng cảm như anh đâm nản mà thôi. Nhưng anh thì không, cương quyết không. Anh đã ba mươi lăm tuổi, to con, khỏe mạnh, từng là lính đặc công nên nghe đồn giỏi võ lắm. Tiếc là trong cuộc chiến này anh không được phép phát huy sở trường đó.
          Hóa ra ở đời làm người tử tế và dũng cảm thật khó. Cái giá phải trả cho sự dũng cảm ấy cũng không nhỏ. Từ chiến trường trở về với đủ loại huân huy chương, giấy khen và bằng dũng sĩ, anh được người ta hồ hởi chào đón rồi bố trí một chân trong chính quyền địa phương, phù hợp với công trạng. Nhưng rồi dần dần, cũng chính "người ta" ấy đã khéo léo gạt anh ra ngoài, trù dập anh một cách tinh tế, khiến anh biết đấy mà không bắt bẻ vào đâu được. Cuối cùng anh chỉ còn  là một tay lực điền cày sâu cuốc bẫm như bao người khác, để nuôi cô vợ hay đau ốm và ba đứa con còn nhỏ. Tất cả chỉ vì anh không giống các cán bộ khác - quá thẳng thắn, quá thật thà, quá yêu công lý và cũng vì quá dũng cảm.
Làm ruộng là một sở trường nữa của anh, vì anh vốn từ đồng ruộng mà lớn lên rồi ra trận. Anh tháo vát, biết lo toan, lại chịu khó nên nói chung cuộc sống không đến nỗi. Anh chẳng có gì để phàn nàn. Cái làm anh khó chịu là những chuyện bất công xung quanh, "những việc đâu đâu" như vợ anh nói. Mặc dù không phải lúc nào chúng cũng liên quan đến anh, nhưng hễ thấy là anh cứ lao vào "đấu tranh", theo kiểu "đâu có giặc là ta cứ đi" của ngày trước. Mà anh đấu tranh mạnh mẽ, trực diện, không chút khoan nhượng, đôi lúc thiếu mất sự tế nhị cần thiết. Nhiều khi anh làm quá, không chỉ không mang lại hiệu quả mà còn bị hiểu lầm, bị coi là hâm gàn và không hiểu thời cuộc. Một kiểu Đông Kisốt mà người ta thấy vừa đáng yêu vừa tội nghiệp.
          Một hôm vợ anh lên cơn hen nặng, phải đi bệnh viện cấp cứu. Việc này năm nào cũng xẩy ra, ít thì một, nhiều có khi ba bốn lần, nên anh có chút kinh nghiệm và biết phải làm gì.
Giống mọi lần, người ta cho vợ anh hít thở qua một loại máy đặc biệt ba ống Ventolin Nebule, loại 5 mg. Ba ống thuốc này được một cô bác sĩ trẻ viết lên tờ giấy rồi chỉ cho anh sang phòng bên mua. Ngồi trong phòng cấp cứu, dẫu lo lắng và thương vợ, anh vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Anh biết chốc nữa vợ anh sẽ tỉnh lại, thở được và nếu không có gì nghiêm trọng thì sau mấy tiếng họ có thể về nhà tự điều trị tiếp. Bệnh hen là vậy.
Anh lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh. Vẫn những cảnh quen thuộc. Phần lớn bệnh nhân là dân quê, với vẻ ngơ ngác sợ sệt thường trực trên mặt và sự khúm núm trong thái độ. Lo cho bệnh tình đã khổ, họ còn bị ám ảnh bởi một cái khổ khác còn ghê gớm hơn, là tờ phiếu thanh toán viện phí và thuốc men đang đợi. Tờ phiếu với những con số đáng sợ, nhất là khi qui ra thóc, thứ hàng duy nhất họ có mà lại đang xuống giá.
Các nhân viên y tế thì vẫn cái vẻ bình tĩnh nghề nghiệp ấy, (bình tĩnh đến mức người nhà bệnh nhân cảm thấy sốt ruột và nghĩ hay vì mình chưa làm những thủ thục bất thành văn nào đó), vẫn thái độ ít nhiều mang tính ban ơn ấy của những người ý thức rõ quyền lực và tầm quan trọng của mình. Anh quá quen với cảnh này và luôn nhắc mình kiềm chế không "đấu tranh vì lẽ phải" ở bệnh viện cùng những "thiên thần áo trắng" ở đó. Họ có chuyên môn, cũng phải làm việc vất vả và từng cứu sống nhiều người, trong đó có vợ anh. Đây là lĩnh vực tế nhị, anh thầm nghĩ, có tiêu cực chút ít cũng không nên cố chấp. Đạo làm người không cho phép lấy oán trả ân. Xưa nay anh chưa bao giờ to tiếng ở bệnh viện và theo lệ chung, người ta làm gì anh làm nấy, cả những việc mà ở nơi khác anh nhất định không bỏ qua. Tất nhiên anh cũng cảm thấy chút ít bứt rứt, khó chịu.
          Ba tiếng sau, cũng tại phòng cấp cứu, anh được yêu cầu thanh toán để xuất viện. Anh bình tĩnh, lặng lẽ thực hiện cái yêu cầu chính đáng đó. Nhưng anh bỗng nhíu mày hồi lâu nhìn tờ giấy thanh toán. Suy nghĩ một lúc như đắn đo điều gì, anh hỏi người thu tiền:
          - Xin lỗi chị, cho tôi hỏi. Loại thuốc Ventolin Nebule này ngoài quầy thuốc bệnh viện giá bốn mươi nghìn đồng một vỉ năm ống, sao ở đây thấy ghi hai mươi nghìn đồng một ống? Tức là một trăm nghìn đồng một vỉ, đắt hơn sáu mươi nghìn...
          - Tôi không biết. - Người kia khó chịu đáp. - Tôi chỉ thu tiền.
          - Vậy ai biết? - Anh bình tĩnh hỏi lại, cố lấy giọng nhẹ nhàng.
          - Tôi đã bảo không biết mà. Cứu được người rồi không lo mà về, còn thắc mắc rách việc.
          Anh lại đứng suy nghĩ, đắn đo, rồi đi tìm cô bác sĩ trẻ. Anh nhắc lại thắc mắc của mình, một cách mềm mỏng và lịch sự.
          - Anh này hay nhỉ, - cô ta đáp, hình như cố tình to tiếng để làm anh phải xấu hổ. - Anh biết thế sao không ra hiệu thuốc mà mua để bây giờ khỏi mè nheo vì tiếc tiền. Đã tiếc tiền sao còn đưa vợ đến đây cấp cứu?
          Anh thấy nóng mặt tức giận vì thái độ hỗn xược của cô nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh.
          - Nhưng chính chị chỉ cho tôi sang phòng kia mua, chứ không ra quầy thuốc chỉ cách đây vài chục bước. Tôi xin hỏi chị: Cái giá này do bệnh viện chính thức qui định hay các chị tự đặt ra, thích bao nhiêu thì bán bấy nhiêu?
          Thấy giọng anh có vẻ cứng rắn, lập luận chắc chắn, khác hẳn cách nói của những ông bà nông dân khác, cô bác sĩ thoáng chút bối rối nhưng cố nói át:
          - Thời buổi thị trường, mỗi nơi một giá. Giữa cái sống và cái chết mà anh còn so đọ một vài chục nghìn. Tiếc đắt thì lần sau tự chữa lấy ở nhà, đừng đến đây nữa.
          - Vậy là các người thông đồng với nhau, lợi dụng chính cái điều mà các người gọi là "giữa cái sống và cái chết" ấy để bắt chẹt, ăn chặn, ăn cướp những bệnh nhân nghèo, chủ yếu là những người nhà quê như tôi. - Anh nói to, rành rọt từng tiếng. Anh đã không còn giữ được bình tĩnh và quên hẳn sự kiềm chế vẫn luôn nhắc mình khi vào bệnh viện. - Các người là một lũ ăn cắp!
          - Anh nói sao? Anh dám bảo chúng tôi ăn cắp? - Cô kia lu loa.
          - Vâng, đúng thế, - anh hạ giọng, cúi sát mặt cô ta. - Tôi đã nói và xin nhắc lại rằng cô, chính cô là một con ăn cắp, công khai, trắng trợn và vô liêm sỉ. Cô ăn cắp hết ngày này sang ngày khác, nhưng hôm nay tôi bắt cô quả tang. Và theo luật, tôi phải đưa cô đến đồn công an để giải quyết như với những con ăn cắp chuyên nghiệp khác. Đi, bây giờ cô phải đi theo tôi. - Anh túm chặt tay cô ta, định lôi đi.
          - Ối làng nước ơi, cứu tôi với! - Cô kia la lên. - Có một thằng điên, một thằng mất dạy đang làm nhục tôi.
          - Câm mồm! Nếu mày không phải đàn bà thì tao đánh vỡ mặt. Ăn cắp còn già mồm!
          Thấy động, mọi người nhanh chóng kéo lại. Khi biết chuyện, nhiều bệnh nhân và người nhà tỏ ý đồng tình. Họ mừng ra mặt vì bỗng dưng có được anh chàng lập dị nói hộ điều họ đang ấm ức.
          - Xưa nay họ vẫn thế đấy mà chẳng ai dám nói gì.
          - Lương y như từ mẫu. Đẹp gớm.
          - Đồ mất dạy, phải trị cho chúng một trận.
          - Trả tiền lại cho người ta, không nuốt được đâu.
          - Nhưng mà cái ông kia cũng quá đáng. Phải cho người ta sống với chứ. Làm vất vả, lương ít. Có mấy đồng bạc...
          - Bà nói chán bỏ mẹ. Việc gì ra việc ấy. Lương ít thì đòi nhà nước tăng. Làm vất vả thì người ta đã trả hai mươi lăm nghìn đồng tiền cấp cứu rồi còn gì. Bà tính xem, một người chúng ăn chẹt mấy chục nghìn như thế, trong khi mỗi ngày chúng cấp cứu bao nhiêu người, chia nhau mỗi đứa bao nhiêu?
          - Đánh bỏ mẹ nó đi!
          Một thanh niên mặc áo trắng hùng hổ đi lại, xô mạnh vào ngực người Dũng Cảm, định gỡ cô bác sĩ vẫn bị anh túm chặt cổ tay.
          - Bỏ ra. Bỏ ra ngay! Anh định gây rối à?
          - Câm mồm. Nó thì tao không đánh, chứ mày thì tao đánh đấy. - Anh quắc mắt nói, và bóp mạnh một cái vào vai hắn bằng bàn tay còn lại, khiến hắn đứng đờ ra bất động, chẳng nói thêm được lời nào nữa. - Nào, bây giờ thì mày phải theo tao ra đồn công an, con ăn cắp.
          Rồi anh kéo cô bác sĩ, lúc này đang khóc và đã bắt đầu hiểu rõ mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
          - Chúng tôi là công an đây. Anh cần gì? Có chuyện gì vậy? - Hai anh công an vừa vội vã bước lại gần, vừa nói.
          - Ồ, thế thì hay quá. Các anh đến thật đúng lúc. - Anh Dũng Cảm sung sướng nói. Anh vắn tắt kể lại những gì đã xẩy ra. - Bây giờ nhờ các anh đưa hộ con ăn cắp này về đồn xử lý theo đúng luật pháp nhà nước. Các anh có mang còng theo không? Cần nhiều đấy, không phải một đâu.
          Hai anh kia tỏ vẻ lúng túng. Họ không thể không nhận thấy anh Dũng Cảm nói có lý. Xung quanh lại nhao nhao tiếng đồng tình của nhiều người.
          - Chúng tôi chỉ là công an bảo vệ bệnh viện, - một người nói. - Vả lại, theo tôi, gọi đây là hành vi tiêu cực thì đúng hơn, chứ bảo là ăn cắp như anh  kể cũng hơi quá...
          - Ăn cắp, theo tôi, là lợi dụng lúc người khác không để ý hoặc cả tin, không hiểu biết để lấy tiền của người ta. Vậy đây đúng là hành vi ăn cắp chứ không phải tiêu cực. Chưa nói đến tính cao quí của ngành y và sự nghèo đói của người nông dân.
          - Đành thế, nhưng dẫu sao... Biết nói với anh thế nào được nhỉ?
          - Các anh là người đại diện và bảo vệ pháp luật. Hẳn các anh biết xử lý thế nào. - Anh Dũng Cảm hạ giọng. - Tôi đã bắt quả tang. Giấy thanh toán đây, thuốc đây, giá đây. Bây giờ các anh định giải quyết thế nào?
          Một chốc sau họ, gồm anh Dũng Cảm, hai nhân viên công an và cô bác sĩ, cùng lên phòng giám đốc bệnh viện.
          Ông giám đốc là một người nghiêm khắc, một giáo sư nổi tiếng và đáng kính trong ngành. Ông chăm chú nghe anh Dũng Cảm, chốc chốc lại gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Nghe xong, ông ngồi im lúc lâu, mặt ửng đỏ, một bên má dật dật. Cuối cùng ông nói, thong thả và dứt khoát. Cô bác sĩ - ăn cắp cúi nhìn xuống đất và vẫn còn khóc.
          - Thứ nhất, thay mặt toàn bệnh viện, tôi thành thật xin lỗi anh và những người như anh. Với tư cách là thủ trưởng cơ quan, tôi cũng có lỗi, và vì vậy tôi xin lỗi anh. Thứ hai, tôi đồng ý với anh khi gọi việc làm đáng xấu hổ này là hành vi ăn cắp, vì nói gì thì nói, đây quả đúng là ăn cắp. Một cách có hệ thống, hàng ngày, trắng trợn và đểu giả như anh nói. Tôi thực sự lấy làm đau lòng và xấu hổ vì việc làm này của các nhân viên tôi.
          Liền sau đó, ông cho người gọi trưởng khoa cấp cứu đến, bắt ngay lập tức phải mang tiền chênh lệch trả lại cho người bị hại.
          - Tôi hứa với anh sẽ kỷ luật nghiêm khắc những người có lỗi, và sẽ không để lặp lại hiện tượng này.
          - Cảm ơn giáo sư, - anh Dũng Cảm nói. - Xin giáo sư cho biết bệnh viện sẽ kỷ luật như thế nào?
          - Chúng tôi sẽ đem vụ này ra Hội đồng kỷ luật của bệnh viện và xử lý theo qui định của bộ.
          - Nhưng đây là hành vi ăn cắp như chính giáo sư đã thừa nhận. Mà tội ăn cắp, theo tôi biết, thì phải truy cứu hình sự, tức là phải xử ở tòa án chứ không giải quyết nội bộ qua Hội đồng kỷ luật.
          Đến lượt ông giáo sư lúng túng.
          - Vâng, có lẽ anh nói đúng. Quả thật đây là lần đầu tôi gặp người nhìn nhận sự việc theo hướng này. Mà tôi lại không am hiểu lắm về luật pháp. Tôi sẽ nêu ý kiến của anh, thậm chí bênh vực anh trước Hội đồng kỷ luật và các cơ quan chức năng. Anh biết đấy, ở đâu cũng có người tốt, người xấu. Tôi rất mong và hy vọng không vì việc này mà anh mất niềm tin vào bệnh viện chúng tôi và những người đang làm việc ở đây. Xin anh cho biết địa chỉ. Tôi sẽ đích thân thông báo kết quả xử lý vụ này cho anh.
          Anh Dũng Cảm, nhân vật của chúng ta, đưa vợ về nhà. Dọc đường đi, không hiểu sao anh bỗng thấy thật buồn. Anh đạt được cái công lý anh muốn, vợ anh đã qua cơn nguy hiểm, sự tức giận cũng không còn nữa. Ấy vậy mà anh vẫn cảm thấy buồn, như có cái gì hẫng hụt trong lòng. Anh không hiểu và không thể xác định rõ đó là cái gì. Anh căm ghét tất cả bọn ăn cắp, nhất là bọn ăn cắp mặc áo blu trắng. Nhưng chính cái bọn ăn cắp thứ hai ấy lại vừa cứu vợ anh thoát chết. Anh có làm quá không, có thực sự anh đã lấy oán trả ân không?  Nếu con bé ăn cắp kia bị đuổi việc, bị tù tội thật thì sao? Chuyện gì sẽ xẩy ra với nó và gia đình nó? Càng nghĩ anh càng thấy rối. Suốt đêm ấy anh cứ quẩn quanh mãi với những suy nghĩ chẳng mấy vui vẻ này. Cuối cùng, anh quyết định khi nhận được tin báo của ông giáo sư giám đốc bệnh viện, anh sẽ tự mình xin tha cho cô kia, nếu mức độ trừng phạt quá nặng.
          Đấy, chuyện anh Dũng Cảm là như thế. Bây giờ chắc các bạn sẽ hỏi: "Còn chuyện anh Hèn thì sao?"

                                                             *
          Anh Hèn là tôi. Tôi phải xin lỗi bạn đọc rằng chẳng hề có anh Dũng Cảm nào cả. Cũng như không hề có chuyện anh ta sống ở ngoại thành, đưa vợ cấp cứu cùng những việc làm dũng cảm đáng khen của anh. Tất cả đều do tôi hư cấu, hay "phịa" như người ta vẫn nói. Tôi là nhà văn mà. Phịa, nhưng trên cơ sở những chuyện có thật.
Cái sự thật đó là: Cách đây không lâu tôi phải đưa vợ tôi vào bệnh viện cấp cứu. Cũng bệnh hen, cũng bị nhân viên phòng cấp cứu thông đồng nhau bắt mua mỗi ống Ventolin Nebule với giá của họ là hai mươi nghìn đồng, trong khi chính quầy thuốc bệnh viện ấy bán mỗi vỉ năm ống với giá bốn mươi nghìn. Tôi cũng ngạc nhiên và bất bình không kém. Thậm chí tôi suýt làm ầm lên, tất nhiên không ở mức như anh Dũng Cảm. Nhưng tôi đã nhẫn nhục im lặng chẳng nói gì. Thứ nhất vì vợ tôi không cho làm. Bà ấy đang ốm nặng, lại dễ xúc động, làm sao tôi có thể hy sinh mạng sống vợ vì cái công lý trừu tượng nào đó? Sau nữa, mà đây mới là lý do quan trọng nhất, vì tôi hèn.
Trong ý nghĩ, tôi hình dung, tôi muốn tôi phải là anh Dũng Cảm kia, phải làm đúng những việc anh đã làm. Nhưng trong thực tế rất tiếc tôi không có được sự dũng cảm ấy. Tôi sợ làm vợ buồn, sợ mất thời gian, sợ căng thẳng thần kinh, sợ người khác cười chê vì tiếc mấy nghìn bạc mà làm ầm ĩ, sợ mình có nói cũng chẳng giải quyết được gì. Chính cô nhân viên quầy thuốc bệnh viện bảo tôi việc ấy vẫn xẩy ra thường xuyên, trước đây cũng như bây giờ và có lẽ cả sau này nữa. Đâu cũng thế. Tóm lại là tôi hèn, và có cớ xác đáng để hèn.
          Chẳng ai đem cái hèn của mình ra khoe. Tôi cũng vậy. Nhưng sự thật thế nào thì phải công nhận đúng thế ấy. Thế mà trước đây, các bạn biết không, tôi cũng thuộc loại người "hễ thấy bất công ở đâu là xông vào đánh" cơ đấy. Và tất nhiên, cũng từng lãnh đủ, nhưng tôi chưa một lần hối tiếc về việc mình làm. Chẳng qua mỗi tuổi một cách suy nghĩ, hành động, hay "sông có khúc, người có lúc" như các cụ nói.
Bây giờ tôi đã già, an phận với sự yếm thế của người về hưu. Tôi viết văn, suốt ngày gõ gõ bên chiếc máy vi tính. Cái trọng lượng cơ thể hơn tám mươi kilô cứ như kéo tôi dính chặt vào chiếc ghế, không cho bay vút lên cao như ngày nào. Các hoài bão, ham muốn, cả thể xác lẫn tinh thần, cứ teo dần, teo dần, và cùng với nó là cái quyết tâm đấu tranh vì công lý và lẽ phải. Nghĩa là trong chừng mực nào đó, tôi đã là người thoái hóa. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn cố cưỡng lại không chịu đầu hàng, chừng nào còn có thể. Truyện ngắn này tôi viết cũng nhằm mục đích ấy. Tôi hy vọng nó đến được tay những người cần đến. Biết đâu họ sẽ làm cái gì đó để ngăn chặn hiện tượng tiêu cực trên. Đã biết phận mình hèn thì chỉ dám đặt mục tiêu khiêm tốn thế thôi.
Vì không muốn biến truyện ngắn của mình thành bài phóng sự, tôi xin phép không nêu đích danh tên người, tên bệnh viện cùng ngày giờ xẩy ra những việc có thật ở đó. Tuy nhiên, dẫu hèn, tôi vẫn không có ý định giấu tên mình, người, như các bạn thấy, tôi còn đủ dũng cảm để viết và ký tên mình dưới câu chuyện này.

                                                          Hà Nội, 10. 3. 2001.