Tuesday, February 24, 2015

THƠ CHỮ HÁN VIỆT NAM - NGUYỄN PHI KHANH



Tác giả: Sinh năm 1356, mất 1429, cha Nguyễn Trãi, tự Phi Khanh, hiệu Nhị Khê, người Chi Ngại, Phương Sơn, nay thuộc huyện Chí Linh, Hải Hưng, xuất thân nghèo khổ, từng làm gia sư trong nhà Trần Nguyên Đán, về sau lấy con gái ông ta; đỗ tiến sĩ năm 1374. Do xuất thân bình dân nên không được làm quan, đến đời Hồ Quý Ly mới được trọng dụng. Khi quân Minh đánh bại triều Hồ, ông cùng nhiều người khác bị bắt sang Trung Quốc và chết ở đấy. Tác phẩm: "Nhị Khê thi tập", "Nguyễn Phi Khanh thi văn tập", "Thanh hư động ký"...

Trong thuyền, ngẫu hứng thành thơ

Bao năm lam chướng chốn quê người,
Nỗi nhớ quê nhà chẳng chút vơi.
Nay rũ bụi trần, già, thoát tục,
Nhìn sông, nhìn núi, lại nhìn trời.

Tặng tiên sinh họ Phạm ở Đông Triều 1)

Như trong quán trọ sống cùng nhau,
Người đời ai sống lẻ, bao lâu?
Nay bác đến đây, làm mấy chén,
Hơn nhận nghìn thư tận đẩu đâu.

(1) Chưa rõ là ai, có thể là Phạm Nhân Khanh.

Mưa đêm ở Hoàng Giang 1)

Mưa thu trên bến liễu
Rơi xuống mui thuyền tre.
Đèn khi mờ khi tỏ.
Lòng ngổn ngang trăm bề.

(1) Khúc sông Hồng chảy qua thành phố Nam Định.

Tiếng chuông sớm ở Hóa Thành 1)

Tiếng chuông chùa thong thả
Vọng từ xa tới thuyền.
Sông mênh mông, trăng xế.
Trời sáng dần, nước lên.

(3) Mét ®¬n vÞ hµnh chÝnh thêi TrÇn, nay lµ vïng Nam §Þnh.

Ở chùa Thiên Thánh Hựu Quốc, 1) dậy sớm

Cảnh chùa thơ mộng tựa Bồng Lai.
Nhạc trời đêm ngủ vọng bên tai.
Sáng dậy, đầu xuân, lười, rỗi việc,
Nhìn hoa mới nở mép sân ngoài.

(1) Chưa râ ë ®©u.

Đêm thu

Buồn mới, buồn xưa nào đã quên.
Nỗi lòng nam bắc ngủ không yên.
Thu đến mà sao vương vấn mãi.
Trăng buồn đơn độc sáng ngoài hiên.

Trung thu, ngắm trăng cảm hoài

Trung thu, lại vẫn sống phương xa.
Trăng thanh gió mát, buồn lòng ta.
Hứng thơ còn đó, vần chưa hết.
Ngong ngóng Lầu Nam nỗi nhớ nhà.

Trong thuyền, ở Thiên Trường 1)
            Bài một

Triệu Khánh phía nam, vịnh - phía tây.
Theo suối, thuyền đi dưới bóng cây.
Gió xuân cái buồn không xua được,
Còn xui tiếng cuốc vọng về đây.

(1) Mét ®¬n vÞ hµnh chÝnh thêi TrÇn, nay lµ vïng Nam §Þnh.

Trong thuyền, ở Thiên Trường
            Bài hai

Nắng xuân, thuyền nhỏ giữa mênh mông.
Đêm vẫn còn mơ chốn gác hồng.
Phiêu bạt bốn năm, nhiều bệnh tật.
Chưa được về quê, buồn não lòng.

Ở quán xá miền sông Thao

Gió đông đưa nắng dọi lên hè.
Lá xanh, hoa đỏ, sắc xuân khoe.
Đôi tiếng chim rừng kêu khắc khoải,
Cứ ngỡ như vườn thôn Nhị Khê.

Giấc mơ xuân ở Đông Ngàn 1)

Sông Lô, xóm nhỏ phía bờ đông.
Nhà tối vì trời mưa bãi nông.
Đưa tiễn xuân đi, chim cuốc cuốc
Chốc chốc lại kêu trong khóm hồng.

(1) Nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.

Trong núi

Sau mưa, cây tỏa khói, trời chiều
Nhuộm hồng mây trắng lượn phiêu diêu.
Tỉnh dậy, không hay xuân sớm muộn.
Trong rừng có tiếng đỗ quyên kêu.

Cảnh xuân ở xóm bên sông

Mùa xuân khắp xóm rợp cây xanh.
Một dòng suối nhỏ uốn quanh quanh.
Mưa tạnh, bờ đê vương khói nhạt.
Đỗ quyên vui hót rộn trên cành.

Thơ đề ở chùa Tiên Du 2)

Núi sông Thiên Đức - đế đô xưa.
Danh lam thắng cảnh đẹp như mơ.
Cõi tiên sao phải tìm đâu nhỉ?
Khắp nơi dấu tích vẫn chưa mờ.

(2) Ở núi Tiên Du, nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh.

Chuông sớm ở Hóa Động

Tiếng chuông chùa thong thả
Từ xa vọng đến thuyền.
Sông mênh mông, bàng bạc.
Trời sáng, nước triều lên.

Qua chơi Động Đình, họa theo vần thơ của Nhị Khê

Dẫu trẻ nhưng anh giỏi, lắm tài.
Còn tôi, thơ phú hẩm hiu hoài.
Việc đời không tính thua hay được.
Chuyện giàu, danh vọng, bỏ ngoài ta.
Ở ẩn, an nhàn là tốt nhất.
Hơn ai chê cá ngắn hay dài 1).
Nếu không ngại cảnh nghèo, thanh bạch,
Mời anh năng tới, chuyện lai rai.

1). Lấy nghĩa chữ ở Hán Thư, ý nói đừng trên sông mà khen chê cá là mua việc bàn suông vô ích.

Tháng Chín ở thôn quê, uống rượu một mình

Một mình uống rượu ở làng quê.
Nỗi lòng sâu kín nói ai nghe.
Thu nhạt, lối đi cây cỏ mọc.
Hoa mai nở muộn, mưa dầm dề.
Long Sơn 1) tụ họp, lòng mong muốn.
Bành Trạch 2) từ lâu đã muốn về.
Thân này trót ở Trung thư 3) sở.
Rối bời mọi việc giống trong mơ.

1). Tên núi ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Nhân ngày tết Trùng Dương, Mạnh Gia đến dự tiệc ở đấy, say rượu với bạn bè, gió thổi bay mất dải mũ mà không biết.
2). Nơi ở ẩn của Đào Tiềm,
3). Nơi Nguyễn Phi Khanh làm việc ở kinh đô.

Tiễn quan hành nhân Đỗ Tông Chu đi sứ

Mùa xuân, đưa tiễn bác, hồi lâu
Nhớ cảnh khoa trường thi, gặp nhau.
Nay bác là quan hành nhân sứ 1),
Tôi ở Trung thư giống thuở nào.
Qua đèo Ngũ Lĩnh, lên yên ngựa.
Ngũ Hồ 2) khi đến, xuống thuyền câu.
Trượng phu đâu dễ buồn ly biệt.
Vỗ gươm cười lớn, ngẩng cao đầu.

1). Một chức quan trong sứ bộ triều đình thơi xưa.
2). Tên các địa danh ở Trung Quốc mà đoàn sứ bộ ta đi qua.

Lánh giặc trong núi

Trong núi suốt ngày say, ngắm hoa.
Một mình đóng cửa, tránh can qua.
Hai năm loạn lạc mình lo chạy,
Để mẹ sáu mươi sống ở nhà.
Đất trời gió bụi, ta nhàn nhã.
Lam chướng núi rừng dạ xót xa.
Canh cánh nỗi lòng, đêm khó ngủ.
Nhìn sao Ngưu Đẩu ngóng trời xa.

Xem đánh cờ vây

Bên hiên, nhàn nhã thú thanh tao.
Hai vị chơi cờ đua thấp cao.
Thoạt nghe lách cách như mưa đá.
Mới nhìn ngang dọc tựa trăng sao.
Bên được, bên thua, tranh lấn đất.
Hàng dọc, hàng ngang cố vượt rào.
Mọi việc như cờ cần tính trước.
Chẳng ván nào chơi giống ván nào.

Theo tướng công Băng Hồ 1)
đi chơi sông Xuân Giang

Trời quang, mây sáng, cảnh thần tiên.
Hơn hẳn ngày xưa Thắng Liễu Xuyên 2)
Lục hồng, tần trắng, thơ cao hứng.
Quần áo lượt là thật có duyên.
Đừng nhắc thi nhân nơi Thái Thạch, 3)
Nghĩ tới Giang Nam 4) bậc sĩ hiền.
Tiếng mái chèo khua, khoan lại nhặt.
Người, gió, lời ca chung một thuyền.

(1) Tức Trần Nguyên Đán.
(2) Một cảnh đẹp được nhắc đến trong thơ Trình Minh Đạo đời Tống.
(3) Tên đất ở huyện Đương Đồ, tỉnh An Huy, là nơi Lý Bạch lúc say thấy trăng liền vồ bắt.
(4) Chỉ Trần Đăng, người Đông Hán, một kẻ sĩ hồ hải nổi tiếng.

Chiều thu, từ trên thành nhìn ra

Kinh thành tháng chín, lá vàng rơi.
Vệt nắng xiên ngang đọng giữa trời.
Chim hồng ly biệt bay theo gió.
Trăng xuyên kẻ lá, rụng tơi bời,
Trong bốn mùa, thu - thi hứng nhất.
Già lão buồn đau nhất kiếp người.
Trước cảnh điêu tàn sau chiến sự,
Trời lạnh vời trông, luống ngậm ngùi.

Thú quê nhà

Quanh nhà rào nhọn tựa muôn chông.
Nhà nhỏ bên chùa, cạnh mép sông.
Mưa tạnh, ao chuôm ran tiếng ếch.
Én bay làm rụng cánh hoa hồng.
Nhàn nhã, vườn xuân vui uống rượu.
Đời đẹp, vô lo, kéo giấc nồng.
Tỉnh dậy, đi chơi cùng lũ trẻ,
Gặp ai cũng nói chuyện nhà nông.

Chơi núi Phật Tích, đối diện
với dòng sông, ngẫu hứng làm thơ

Nửa đời vướng bụi, phụ thiên nhiên.
Đến tận bây giờ chưa được yên.
Đời dẫu trăm năm mà nháy mắt.
Một phút vui chơi hơn núi tiền.
Hưởng thú hoa, sông, giờ chính ngọ,
Sông Nghi 1) gió mát cảnh thần tiên.
Bên suối dừng chân tìm cảnh vắng.
Nhìn núi bâng khuâng nhớ thánh hiền.

(1) T¨ng §iÒm tõng nãi: "T¾m ë s«ng Nghi, høng giã ë ®µi Vò Vu, ca vÞnh mµ vÒ..."

Khiển hứng ngày thu

Đình hòe 1) làm khách, phận chim hồng.
Tóc rối đầy sương, tựa cỏ bồng.
Gió thu lá rụng bay ngang mặt.
Mưa dầm, đóng cửa, mắt buồn trông.
Nóng lạnh ở đời tùy tay quạt.
Phiền muộn xui ta cạn chén nồng.
Bên song tỉnh giấc, trưa ngồi dậy,
Ngâm giảng thơ văn, dạy tiểu đồng.

(1) ChØ n¬i ë cña TÓ tưíng.

Cái thú quê nhà

Sau loạn còn may sót mái nhà.
Trẻ thơ sáu tuổi đọc ê a.
Buổi trưa ngủ dậy, vườn im ắng.
Chim hót, đầy thềm phủ xác hoa.
Ngâm thơ, đọc sách, lòng thư thái.
Thân nhàn, tâm trí chẳng lo xa.
Không học người đời tham dục vọng,
Sống ẩn nơi này hợp ý ta.

Đợt rét đầu xuân

Sương mù dày đặc, gió và mây.
Đợt rét đầu xuân đã mấy ngày.
Thương xuân, ủ rũ chim không hót.
Nước mưa như ngọc dính trên cây.
Thư phòng tĩnh mịch, tha hồ đọc.
Việc đời để đấy, ngủ kỳ say.
Mong ta có thể làm tia nắng,
Sưởi ấm mùa xuân cả nước này.

Thơ vịnh núi Côn Sơn,
trình chủ nhân động Thanh Hư 1)

Đẹp sánh Đồ Cầu, 2)  núi ở đây.
Những mong được đến sống nơi này.
Dấu giày Linh Vận  3) in rêu xám.
Tử Du 4) thuyền buộc giữa làn mây.
Bận việc, thời gian trôi vùn vụt.
Đêm nằm mơ dạo dưới rừng cây.
Nhân đây đề vịnh Thanh Hư động,
Dẫu còn chưa đạt tứ thơ hay.

(1). Chỉ Trần Nguyên Đán.
(2) Tên ấp thuộc nước Lỗ.
(3) Tức Tạ Linh Vận, nhà thơ lớn thời Nam Bắc triều, thường hay đi chơi thăm cảnh sông núi.
(4) Tên tự của Vương Hy Chi, người đời Tấn. Có lần trong đêm tuyết Tử Du mở cửa uống rượu, rồi bỗng nhớ tới bạn là Đới Quí ở Diệm Khê, bèn cưỡi thuyền đi thăm. Nhưng khi thuyền tới nơi thì Tử Du quay về ngay. Có người hỏi tại sao, ông đáp: "Còn hứng thì đến, hết hứng thì về, hà tất phải gặp mặt".

Xóm nhỏ

Vài gian nhà cổ sát bờ ao.
Hoa lau, hương cỏ, hứng thơ cao.
Sương nặng đè lên hai lớp ngói.
Vầng dương đã mọc quá hàng rào.
Đau ốm, ngoài vườn đầy thảo dược.
Buồn đời, uống rượu, chẳng làm sao.
Coi thường mọi việc, lòng thanh thản,
Hồn thả theo hương gió ngọt ngào.

Đêm thu dậy sớm, gửi Kiểm chính Hồng Châu 1)

Bâng khuâng, phòng vắng ngước nhìn ra.
Mưa trên lá chuối phía sau nhà.
Ngõ Gấm 2) trăng tàn, chuông đã điểm.
Xóm Đông 3)vó ngựa gõ xa xa.
Thơ muốn hay hơn, nên đổi điệu.
Bệnh tình chưa ngớt, thuốc còn pha.
Sai trẻ quét sân, chờ ông đến,
Cùng ngồi nói chuyện những ngày qua.

(1) Tøc NguyÔn H¸n Anh, em ®ång hao cña t¸c gi¶.
(2) Xãm nhµ quan.
(3) Tªn mét xãm ë kinh ®«.

Quán khách

Rượu ngon tự rót uống an nhàn.
Chạnh lòng vượn hạc 1) buổi gian nan.
Ngoài cửa có cây, khách dễ kiếm.
Nhà tranh tô điểm khóm hoa lan.
Một đợt mưa mai, thơ gợi hứng.
Nửa giường gió thổi, giấc miên man.
Chuyện dở, chuyện hay không nghĩ đến,
Tỉnh dậy thắp hương, dạo khúc đàn.

(1) Loµi v¬ưîn h¹c thư¬êng kh«ng ë yªn mét chç, nªn ngư¬êi x¬a cã c©u "viªn t©m h¹c ý"  ch người thÝch ngao du, kh«ng thiÕt c«ng danh.

Dùng vần thơ lưu biệt của Trịnh Sinh 1) để từ biệt

Bầu rượu tôi mang gió thổi xiêu.
Theo bác trăng đi, lạnh mái chèo.
Phụng dưỡng mẹ cha, tròn chữ hiếu.
Thói đời danh lợi nhớ đừng theo.
Xưa ước về thăm sông núi cũ,
Hải hồ nay được chuyến phiêu diêu.
Nhớ nhau, mai chẳng tìm nhau được.
Trời Nam mây phủ, nhạn bay nhiều.

(1) Chưa râ lµ ai.

Chơi núi Côn Sơn

Núi như chiếc cột đỡ trời mây.
Bụi trần không vướng, cách xa đây.
Sau mưa suối chảy càng thêm mạnh.
Tiêu tan lam chướng, hết sương dày.
Cõi tục trăm năm như giấc mộng.
Ta cũng thành tiên, nhàn nửa ngày.
Hết hứng, vào chùa xin tạm nghỉ.
Chuông chiều giục nguyệt mọc trên cây.

Từ phủ Thiên Trường,
lênh đênh ra cửa biển, gặp gió

Bên thuyền, rồng cuộn sóng, phun mây.
Tháng Tư biển động suốt đêm ngày.
Ngoài biển sóng gầm như giã gạo.
Trên bờ gió thổi, ngả nghiêng cây.
Một chiếc thuyền đơn, hai mái tóc.
Muôn trùng nghiêng ngả tấm lòng ngay.
Nếu chẳng là quan vì việc nước,
Đã khỏi long đong cảnh thế này.

Tháng Chín, trong bữa tiệc
tại nhà tướng công Băng Hồ

Dưới mũ sa đen tóc rối bay.
Vào phủ tướng công ngày lại ngày.
Đời dài, mấy bận vui Trùng Cửu? 1)
Ba tháng mùa thu, nhất tháng này.
Đang vui chẳng nhẽ hoa không có?
Muốn được giải sầu cần uống say.
Mơ mơ tỉnh tỉnh, nhân ngày đẹp.
Cười hát một mình trước gió tây.

(1) Tøc tiÕt Trïng Cöu, ngµy chÝn th¸ng ChÝn ©m lÞch.

Ở quê, xúc động trước cảnh hạn hán,
gửi trình tướng công Băng Hồ

Đồng ruộng cháy khô, đỏ một màu.
Thôn quê đói khổ, cậy vào đâu?
Khắp nơi hạn hán đồng khô nẻ.
Mưa trời có đợi, chắc còn lâu.
Đã thế, tham quan lo vơ vét,
Người người cơ cực cảnh buồn đau.
Thơ này viết tạm thay tờ tấu,
Vì đang ốm nặng, chửa về chầu.

Trên đường, nơi đất khách

Trượng phu không chịu nhục xưa nay.
Lệ đầm vạt áo lúc chia tay.
Nhá nhem Kiến Lĩnh, 1) tìm nơi ngủ.
Xuất phát Trường Châu 2) mới rạng ngày.
Trời đất rất may, đang có đạo.
Non sông chưa nỡ bỏ thân này.
Nếu giúp được đời bằng chút khổ,
Chẳng ngại đường xa, tớ lẫn thầy.

(1) (2) Tªn ®Þa danh, chưa râ ë ®©u.

Sáng thu, xúc cảm thành thơ

Chuông sớm chùa bên báo rạng ngày.
Qua mành, tia nắng dọi, lung lay.
Đất người thức giấc, buồn tư lự.
Đốt lò hương sớm, cứ ngồi ngây.
Thu muộn, ngoài sân nhìn lá rụng.
Âm thầm nhỏ lệ, đếm chim bay.
Đại Đông, 1) thơ cổ ba lần đọc.
Cuộc đời đã vậy, tính sao đây?

(1) Tªn mét bµi th¬ trong phÇn TiÓu Nhã cña Kinh Thi.

Đậu thuyền cạnh lăng họ Nguyễn 1)

Trên sông Thiên Đức 2) đậu thuyền con.
Mộ hoang họ Nguyễn đã thành cồn.
Lẫm liệt khí thiêng nghe phảng phất.
Bên sông đền cổ vẫn đang còn.
Nhưng khí rồng bay 3) thì chẳng có.
Cột hoa chim đậu, 4) cũng khô mòn.
Ngẫm việc trăm năm, buồn đứng lặng.
Một mình trơ trọi giữa hoàng hôn.

(1) NguyÔn gia, tøc nhµ Lý. Khi nhµ TrÇn lªn ng«i, ®æi nhµ Lý thµnh nhµ NguyÔn.
(2) Nay lµ s«ng §uèng.
(3) Nh¾c l¹i viÖc Lý Th¸i Tæ dêi ®« tõ Hoa Lư ra Th¨ng Long thÊy cã rång vµng hiÖn lªn.
(4) ChiÕc cét cao, trªn ®Ønh cã thanh gç, dùng ë n¬i ®« héi. §ã lµ dÊu hiªu nhµ vua s½n sµng thu nhËn ý kiÕn cña nh©n d©n trong nưíc, vµ lµ vËt tưîng trưng cho sù thÞnh vưîng cña triÒu ®¹i.

Đêm ba mươi tết, dùng vần của Đỗ Phủ,  
cùng các bạn ngồi chung bàn tiệc, làm thơ

Tiễn đưa năm cũ ở quê người.
Tuyết như hoa trắng, vẫn còn rơi.
Cây khô, con quạ ngồi run rẩy.
Đám cỏ ngoài sân báo tiết trời.
Thời gian níu giữ, đèn thay bấc.
Giải sầu, cốc rượu cứ đầy vơi.
Mỗi sáng vào chầu, lo chải chuốt.
Ngắm tóc hoa râm, ngẫm sự đời.

Nhân tiết trung thu, xúc cảm thành thơ

Sóng trăng như sóng biển bao la.
Lưa thưa mây đọng giải Ngân Hà.
Ao nhỏ sau mưa đầy ánh nguyệt.
Chạnh buồn man mác khách quê xa.
Xin nhờ trăng sáng cao trên ấy
Soi thấu đời này cảnh xót xa.
Mong cho mãi mãi dân no ấm,
Để được thăm chơi khắp nước nhà.

Đêm thu lưu biệt quan kiểm chính Hồng Châu

Tôi về Nhị Khê bắc.
Bác ở lại nơi này.
Tiễn nhau, sương ướt áo.
Mặt trời hồng khuất mây.
Gạt lệ, trao thơ tặng.
Uống rượu, buồn chia tay.
Hẹn nhau đêm rằm tới.
Dưới trăng uống thật say.

Cảm hứng ở xóm núi

Ba mươi năm lẻ sống hư danh.
Về quê, quên hết chuyện không lành.
Trùm khăn đi giữa nơi đồng nội.
Hong tóc ngồi chơi chốn thác ghềnh.
Phù du chuyện cũ cho quên hết.
Sự đời thay đổi, rất mong manh.
Ai bảo thôn quê buồn, tẻ nhạt?
Quanh nhà dậu mướp đã rờn xanh.

Xóm quê

Trúc ba hàng đang đợi.
Già tính chuyện quay về.
Chiều thu ngồi uống rượu.
Tha thẩn dạo làng quê.
Trời rộng, chim bay lượn.
Trăng mọc phía bờ khe.
Chợt nghe chuông chiều điểm,
Dục trẻ khép cổng tre.

Thơ đề chùa Huyền Thiên

Chùa tiên cao ngất chín tầng mây.
Đường lên dây níu, khói sương bay.
Buổi trưa thanh vắng, chim không hót.
Suối cũ hai bờ rợp bóng cây.
Già tìm học đạo, trời luôn biết.
Quan nhàn, mộ Phật mới về đây.
Nếu gặp Xích Tùng, xin nhắn hộ,
Rằng tôi cũng muốn sống nơi này.

Cuối thu

Chẳng gì oan trái hoặc buồn đau,
Mà cảnh cuối thu cũng gợi sầu.
Gió lạnh, cúc tàn phai trước cửa.
Não nùng mưa gió suốt đêm thâu.
Thu tiếc cho ta, trôi rất chậm,
Tuổi già ập tới, chẳng chờ lâu.
Tỉnh mộng Vi Viên, 1) đầu đã bạc.
Cá vược, rau thuần lỡ hẹn nhau.

(1) Tªn gäi toµ Trung Thư, ý nãi giÊc méng lµm quan.

Trong khi ốm, nhớ vần thơ "Đêm thu"
của kiểm chính Hồng Châu Nguyễn Hán Anh 1)

Hương tàn, tỉnh mộng khách đường xa.
Ngọn đèn heo hắt sáng bên ta.
Xào xạc lá vàng rơi trước ngõ.
Bên hiên bàng bạc dải Ngân Hà.
Trăng sáng đa tình soi bóng nước.
Xuân về điểm xuyết bức tranh hoa.
Không chịu phải buồn vì ốm nhẹ,
Tỉnh dậy ngâm thơ, hát váng nhà.

(1) NguyÔn H¸n Anh vµ NguyÔn Phi Khanh ®Òu lµ con rÓ cña TrÇn Nguyªn §¸n. Hång Ch©u lµ ®¬n vÞ hµnh chÝnh thêi TrÇn vµ Hå.

Tiễn thái học sinh Nguyễn Hán Anh 1) về Hồng Châu

Trò chuyện đêm qua được ít thôi.
Sáng nay người ngựa đã đi rồi.
Lòng ngóng về đông nơi suối nước.
Mắt nhìn trời bắc vợi xa xôi.
Thương con chim thước sân hòe vắng.
Nhớ mãi chim hồng sống lẻ loi.
Chanh thơm, nếp trắng, vừa cất rượu.
Nợ đời chỉ tiếc nặng lòng tôi.

(1) Chưa rõ là ai.

Theo tướng công Băng Hồ đi chơi sông Xuân Giang

Trời xuân, mây bập bồng.
Mái chèo khua trên sông.
Khí phách nơi hồ hải.
Chùa miếu gửi tấm lòng.
Thơ viết về chim, cá,
Hoa cỏ và suối trong.
Chơi chán, quay thuyền lại.
Vách núi mặt trời hồng.

Đáp lại bài thơ "Cái rét mùa xuân"
của thái học sinh Đạo Khê

Khắp thành mưa bụi cứ lây rây.
Lạnh lẽo gió xuân thổi suốt ngày.
Ý muốn làm quan như khói mỏng.
Mối tình đất khách nhẹ như mây.
Lưu thủy, cao sơn 1) giờ lỡ nhịp.
Giấc mơ cờ thắm chẳng còn hay.
Chỉ thương trăm họ dân kêu khổ, 
Áo rách, nhà phên lạnh thế này.

(1) Nước chảy, non cao: Xưa nghe Bá Nha gảy đàn thanh thót, Chung Tử Kỳ nói: "Chí của anh đang ở trên núi cao". Khi nghe gảy tiếng trầm, lại nói: "Chí của anh nơi nước chảy". Khi Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn vì cho rằng trên đời chẳng con ai biết nghe đàn ông nữa.

Mừng quan triệu doãn kinh đô Nguyễn
Công được bổ đi làm kinh lược sứ ở Vân Đồn 1)

Vua ban chiếu chỉ, bác lên đường
Làm kinh lược sứ chốn mù sương.
Đông Triều, phần nửa dân ly tán.
Vân Đồn tro khói vẫn còn vương.
Ra tay cứu nước, lo tìm kế.
Mở lòng nhân nghĩa, giúp dân thường.
Bây giờ văn trị, 2) mong chưa muộn.
Vua còn bận việc ở biên cương.

1. Xưa gọi là châu Vân Đồn, thuộc phủ Hải Phòng,, nay nằm trên đất Quảng Ninh.
2. Trị nước, cứu đời bằng nhân nghĩa và phương pháp hòa bình.

Mùa hè năm Giáp Tí (1384) hạn lớn, vua
có sắc cho các lộ cầu mưa, chưa cầu trời đã mưa

Cây héo, đất khô, hạn khắp nơi.
Thì bỗng có mưa, cây tốt tươi.
Vua quan chuẩn bị, chưa cầu đảo,
Trời đã cho mưa, mát mặt người.
Con vật dân gian, rồng phun nước 1).
Thiên tử cầu mưa cứu giúp đời.
Cần chi thân xác phơi ngoài chợ? 2)
Chỉ có cái tâm thấu đến trời.

1. Rồng là biểu tượng của nhà vua. Tác giả nói rồng phun nước là hàm chỉ ông vua có đức, khiến trời đất phù hộ.
2. Nghi lễ cầu mưa thời xưa. Kinh Lễ có câu: “Trời lâu không mưa, ta muốn đem thân hình gầy còm ra đứng giữa nắng, mong trời thương xót mà cho mưa xuống.

Tiễn Vũ Thích Chi đi sứ Trung Quốc

Mây sứ năm màu phủ khắp nơi.
Khí tiết, nghĩa trung dọi sáng đời
Trạm mai 1) xuân đến, dồn vó ngựa.
Cuối đông, Hoài Thủy 2) tuyết đầy trời.
Vũ trụ có nam và có bắc.
Ngày khi có nắng, lúc mưa rơi.
Nâng chén hôm nay đưa tiễn bác,
Gửi trong chén rượu chút tình người.

1. Chỉ các trạm trên đường của người đi sứ.
2. Tên một con sông ở Trung Quốc.

Thơ làm lúc phụng chiếu vua đi Trường An 1)

Vũ Lâm 2) một dải, biếc màu xanh.
Việc vua đâu dám tiếc thân mình.
Khói nhạt sau mưa trên núi vắng.
Mây tan, trời ấm chốn đô thành.
Chiếu Đường 3) cảm động, thần dân khóc.
Lệnh Hán 4) lão phu chống gậy bình.
Ngẫm thẹn ân vua chưa báo đáp,
Quyết đem tài mọn giúp dân lành.

1. Địa danh thuộc tỉnh Ninh Bình.
2. Một vùng ở huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
3. Đường Đức Tông do dùng gian thần mà mất cơ nghiệp. Khi khôi phục được nhà Đường, ông đọc chiếu buộc tội mình rồi tự trói mình trước các quan, sau đó dùng người có tài và chăm lo việc nước.
4. Từ thời Hán Vũ Đế, các vua Hán quí trọng người già, hàng năm ra lệnh tổ chức lễ dưỡng lão ở nhà Thái Học.

Cảm xúc sau khi xem thi ở Thiên Trường 1)

Đến xem sĩ tử, vượt đường xa,
Nằm trong “tầm ngắm” 2) đại văn khoa.
Gió xuân vườn ngự, hoa lay động.
Mưa khắp bầu trời, liễu thướt tha.
Bên bến, đưa tin đôi cá chép 3).
Thuyền con trói chặt khách bôn ba.
Đã quá nửa xuân xa phụ mẫu.
Day dứt sáng nay nỗi nhớ nhà.

1. Tức phủ Thiên Trường xưa, nay thuộc khu vực Nam Định.
2. Câu này mượn ý của Đường Thái Tông nói với những người mới đỗ tiến sĩ: “Tất cả anh hùng trong thiên hạ đều đã nằm trong tầm cung của ta”.
3. Nhạc Phủ có đoạn viết: “Có người khách từ xa đến chơi, cho một đôi cá chép. Gọi trẻ ra mổ làm thịt thì thấy trong bụng cá có bức thư”.

No comments:

Post a Comment