Tuesday, February 24, 2015

THƠ CHỮ HÁN VIỆT NAM - NGUYỄN HÀNH



Tác giả: Con Nguyễn Điều, anh cùng cha khác mẹ với thi hào Nguyễn Du, sinh năm 1771, mất 1824, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Nghệ An. Ông là người học rộng, uyên thâm, có tài văn thơ, được xếp vào hàng "An Nam ngũ tuyệt" (Năm văn nhân nổi tiếng nhất đương thời, trong đó có hai chú cháu Nguyễn Du, Nguyễn Hành). Cuộc đời ông đầy sóng gió, sống nghèo khổ cho đến lúc qua đời, để lại hai tập thơ mang nặng nỗi niềm u uất khôn nguôi là "Minh quyên pha" và "Quan đông hải”.

Chọn câu thơ "Nhất thân vị hư chủ" làm đầu đề

Thân như chiếc thuyền nhẹ
Trôi giữa sóng cuộc đời.
"Trung, tín" làm tay lái,
Giữ thuyền không chơi vơi.

Ngày xuân, vịnh đùa bức tường
nhà hàng xóm phía nam

Phía Bắc tường, mình đói,
Phía Nam, hàng xóm no.
Không thấy gió xuân thổi,
Chắc vì tường cao to.

Trăng trung thu năm nay

Trăng thu năm nay đẹp,
Tỏa ánh sáng bao la.
Gió thổi, cây xao động,
Tưởng gió từ quê nhà.

Năm mới làm thơ đùa chơi

Lại thêm một năm mới,
Cảnh đẹp, lòng thảnh thơi.
Vì chủ nợ không tới,
Toàn khách quý đến chơi.

Gặp bạn

Xa nhau vì số mệnh,
Nhưng vẫn nặng tình người.
Gặp nhau, cười im lặng,
Rồi mỗi người một nơi.

Ngắm trăng

Giữa thị thành náo nhiệt,
Ngồi ngắm trăng, trong lòng
Tự nhiên thấy thanh thản,
Như ở giữa núi sông.

Lời tự vấn lương tâm trong đêm tĩnh mịch

Ba mươi năm trước tấm lòng này,
Tấm lòng không đổi đến hôm nay.
Hôm nay tóc bạc, càng không đổi,
An bần lạc đạo 1), tấm lòng ngay.

(1) Vui víi ®¹o nghÜa mµ an t©m trong c¶nh nghÌo.

Tặng vợ

Nghèo khổ, vô danh cũng tại chồng,
Nhưng chẳng trách đời quá bất công.
Cái nghĩa tao khang 1) mong giữ trọn
Tới ngày đầu bạc với răng long.

(1) Tao khang - bã rưîu vµ c¸m, thøc ¨n cña ngưêi nghÌo, ý nãi t×nh vî chång thuë hµn vi.

Cầm cố

Vất vả đất người, luôn đói ăn,
Cầm cố đôi khi cả áo quần.
Thân này thật tiếc, không cầm được.
Mãi chẳng về quê, dẫu một lần.

Mượn người cái kính

Nối nghiệp cha ông, cày bằng mắt.
Tuổi tác, than ôi, khiến mắt mờ.
Bác cho mượn kính, như thêm sức
Để cày thêm nữa ruộng văn thơ.

Thơ làm lúc lên đường

Đất người lưu lạc, kiếp long đong.
Những muốn về quê, về chẳng xong.
Như chim phải đậu thành phương Bắc,
Ngong ngóng về Nam với núi Hồng.

Thơ vịnh gió nam

Xưa bên cửa sổ, ngủ say khì,
Thân này chẳng biết khổ chia ly.
Giờ nếm đủ điều, trăm cái khổ.
Chỉ còn ngọn gió bạn cố tri.

Say sưa cảnh thái bình

Thành đô giàu có, đẹp ban ngày,
Nhưng đêm đầy tiếng trẻ ăn mày.
Được bổ làm quan, vui phú quý,
Phải nghe và giúp những người này.

Bệnh dịch lại tái phát

Đầy trời khí lạnh, dẫu đang xuân.
Sao trời nỡ giáng họa cho dân.
Những muốn thân này đem thế mạng,
Để đỡ cho dân, dẫu một phần.

Trung thu

Trăng thu tỏa sáng khắp La Thành.
Đời, sau đại dịch, lại tươi xanh.
Nay vui không phải vì trăng đẹp,
Mà vui cuộc sống của dân lành.

Tự thuật khi xem sách bói

Học xem bói tướng lắm gian nan,
Dẫu chơi khuây khỏa lúc an nhàn.
Ba chục năm trời vui bói toán,
Chưa lần nào bói để cầu quan.

Miếu thờ An Dương Vương

Lập miếu thờ vua, ấy lẽ thường.
Kim Quy chuyện cũ, chắc hoang đường.
Chí lớn của vua nay đã toại.
Miếu cổ thờ công bậc đế vương.

Đêm ba mươi tết ở Bắc Thành

Năm ngoái ở Nam Sách,
Năm nay ở Bắc Thành.
Đói khổ, luôn phiêu bạt,
May mà vẫn nguyên lành.
Thơ viết buồn, u uất,
Uống rượu, nghĩ quẩn quanh.
Chốc nữa là năm mới,
Pháo nổ, nghe rất đanh.

Thăm chùa Trấn Quốc

Xanh xanh chùa Trấn Quốc,
Giữa hồ như đang trôi.
Trâu vàng và thuyền bạc 1)
Đều đã bay lên trời.
Cảnh hồ không thay đổi.
Khách tự nhiên bồi hồi.
Chợt nghe chuông chùa điểm,
Ngâm bài "Về đi thôi!" 2)

(1) Theo truyền thuyết, Không Lộ có tài thu hết đồng đen Ph¬ương Bắc, đúc thành chuông lớn.Vì đồng đen là mẹ của vàng nên nghe tiếng chuông, trâu vàng từ Trung Quốc chạy sang tìm mẹ đến vùng đất Tây Hồ hiện nay, nó quần dẫm mãi, đất lở thành hồ.
(2) Đào Tiên đời Tấn có từ văn nổi tiếng "Qui khí lai tư" (Về đi thôi!).

Cái thú ngâm thơ

Đói, không thèm để ý,
Cứ ngâm thơ dài dài.
Bao cái buồn lo khác,
Gạt khỏi đầu, khỏi tai.
Ngâm, không cần kén chữ,
Chẳng lo đúng hay sai.
Thơ quả là thần dược.
Người đời nói không sai.

Khúc ngâm về sự lên đường

Đường - người đi mà có.
Cứ đi, đừng nản lòng.
Đạo và đời cũng vậy,
Càng học càng thấy thông.
Phu Tử không cầu lợi,
Nhan Hồi nhà trống không.
Nhờ dạn dày cảnh ngộ,
Mà thành "Tín thiên ông".

Khúc ngâm về sự ra đi và quay lại

Đi - nhưng đi đâu được?
Quay về - đâu dễ về.
Người sống ở thành thị,
Lòng vương vấn đồng quê.
Lo quanh năm suốt tháng.
Con nợ rình bốn bề.
Thân yếu gầy, rất nhẹ,
Trách nhiệm quá nặng nề.

Lời của vàng

Hòm vàng đêm thanh vắng
Bỗng nói với chủ nhà:
Vào đây nhờ bất nghĩa,
Vì bất nghĩa lại ra.
Nay người ta cúng nộp,
Mai cúng nộp người ta.
Còn vàng thì vẫn thế,
Luôn đổi chủ, thay gia.

Dịch lớn

Như một bầy giặc dữ,
Dịch lớn đang hoành hành.
Từ đất Tiêm, đất Lạp, 1)
Nay lan tới Long Thành. 2)
Mắt nhìn dân chúng chết,
Lòng oán giận trời xanh.
Hận không tìm được thuốc,
Để hiến các công khanh. 3)

(1) Tøc Th¸i Lan vµ C¨mpuchia
(2) Tªn cò cña Hµ Néi.
(3) Quan lín trong triÒu, ®Ó hä ph©n ph¸t cho d©n chóng.

Về văn chương

Văn chương là thần khí,
Được ban cho muôn dân,
Là tâm tư, tình cảm,
Huyền diệu như có thần.
Dài như sông Giang, Hán,
Khó lường như phong vân.
Nối thời gian - là Đạo.
Lo việc đời - là Văn.

Năm mới, trong cảnh tha hương

Bốn chín năm qua sống phí hoài.
Sống buồn, no đói với cơm khoai.
Từ Tết đến nay thường đứt bữa.
Già trẻ luân phiên chiếc áo dài.
Nợ đời chưa trả, thành lo nghĩ.
Nặng tình đạo nghĩa với ngày mai.
Rất muốn thăm quê mà chẳng được,
Đành hướng về Nam, nén thở dài.

Bài thơ về trăng sáng

Trăng rất sáng đêm nay.
Trăng từ đâu đến đây?
Xưa ở quê nhiều bận
Ta đã ngắm trăng này.
Đêm nay, giữa trăng sáng,
Quê hương xa nghìn mây.
Trăng khi tròn khi khuyết,
Lòng ta luôn vẫn đầy.

Khúc ngâm về nhà hàng xóm phía đông

Nhà mình túng bấn, khổ trăm điều.
Hàng xóm nhiều tiền, nhưng lại keo.
Có tiền không tiêu thì thật ngốc.
Nhưng tiền không có, lấy gì tiêu?
Thường thế, thằng ngu giàu nứt vách.
Ở đời, kẻ sĩ đói, treo niêu.
Đừng quên Lý Bạch xưa từng dạy:
"Tiền tiêu bao nhiêu, có bấy nhiêu".

Chọn câu thơ "Hoa không
phân biệt đất nghèo giàu" làm đầu đề

Hoa không phân biệt đất nghèo giàu,
Đến kỳ cứ nở, khác gì đâu.
Dù cạnh lều tranh hay phủ chúa,
Hoa nở hồn nhiên đủ sắc màu.
Hoa tỏa hương thơm theo gió nhẹ,
Dỡn cùng trăng sáng suốt đêm thâu.
Xưa nay tạo hóa không thiên vị,
Lộc trời phân phát thật đều nhau.

Khúc ca về đàn cầm

Nhân trung thu chợt hứng,
Ngồi một mình gảy đàn.
Tiếng âm vang trong gió,
Tê tái tận tâm can.
Bao la như biển rộng,
Vòi vọi như núi ngàn.
Đâu dám mong tri kỷ,
Chỉ giải sầu lúc nhàn.

Cái vui

Không đốn củi, đánh cá,
Nhưng yêu núi và sông.
Đâu chẳng có sông núi.
Nhân, trí 1) tự trong lòng.
Khí hạo nhiên 2) chưa hết,
Vui thú với ruộng đồng.
Lúc nhàn nằm đọc sách.
Biết làm gì, nếu không?

(1) S¸ch "LuËn Ng÷" cã c©u: "BËc trÝ gi¶ th× vui víi n¬ưíc, bËc nh©n gi¶ th× vui víi nói".
(2) S¸ch "M¹nh Tö": "Ng• thiªn dưìng ng« h¹o nhiªn chÝ khÝ", nghÜa lµ: ta khÐo nu«i dưìng c¸i khÝ lín lao trong trêi ®Êt cña ta.

Trăng soi hồ nước

Ánh trăng đẫm hơi nước.
Nước dưới trăng, sáng lòa.
Trăng trên và trăng dưới,
Cùng hồ nước thành ba.
Hồ sâu, không thấy đáy.
Trăng cao, trời bao la.
Trước thiên nhiên huyền ảo,
Lâng lâng lệ muốn nhòa.

Cảnh hồ mùa thu

Hồ nước trong và sâu.
Cảnh bốn mùa giống nhau.
Tĩnh thì có trăng sáng,
Động - sóng đùa trêu nhau.
Tiếng chim kêu gọi bạn.
Nước róc rách gợi sầu.
Hồ nên thơ, thật đẹp,
Chỉ thiếu chiếc cần câu.

Hồ Tây

Xanh xanh một vệt nước Hồ Tây.
Mờ ảo lung linh nắng cuối ngày.
Trăng sáng, mặt hồ như dát ngọc.
Gió thổi nghiêng nghiêng khóm lá dày.
Lờ mờ cổ thụ che cung điện.
Khe khẽ chùa bên vọng tiếng chày.
Xưa nay lúc rỗi thường câu cá.
Nay mong câu cá mãi hồ này.

Đầm xưa

Chẳng biết từ đâu đến,
Chẳng biết chảy về đâu,
Đầm nước này tồn tại,
Qua bao đời vương hầu.
Bao lâu đài, cung điện,
Với cờ xí đủ màu,
Than ôi, giờ chẳng thấy,
Chỉ thấy nước đục ngầu.

Tiếng chuông sớm ở quán Huyền Thiên

Chợt nghe chuông sớm phía thành đông.
Tiếng chuông gọi khách tỉnh giấc nồng.
Tự đến, tự đi không báo trước,
Để lại bâng khuâng một nỗi lòng.
Vốn tính tự nhiên, không phải "định", 1)
Đạo thiền sẵn có, có hơn không.
Tiếng thủy triều reo bên cửa sổ.
Xa nhà, chuông sớm, nhớ mênh mông.

(1) Tøc thiÒn ®Þnh, kh¶ n¨ng tù tËp trung ®Ó tíi gi¸c ngé ch©n lý.

Xem đua thuyền

Đua thuyền nghe nói đã lâu nay,
Giờ mới được xem ở xứ này.
Không gió mà sông luôn cuộn sóng.
Mái chèo lên xuống cánh chim bay.
Có thua, có thắng, thi là vậy.
Nếu chót về sau, chớ cãi chày.
Đua xong ai lại về nhà nấy,
Để lại dòng sông với khói mây.

No comments:

Post a Comment