Monday, February 23, 2015

THƠ PHẬT - KINH HIỀN NGU - 3



26
BỐ THÍ MẮT MÌNH

Tôi tận mắt chứng kiến
Chuyện này của Thích Ca
Khi Ngài ở Xá Vệ,
Trong vườn cây Kỳ Đà.

Lúc bấy giờ Đức Phật
Đang giảng trước đám đông
Về giới và chính pháp,
Ai nghe cũng nức lòng.

Có ông lão mù mắt,
Đẳng cấp Bà La Môn,
Ngồi bên vệ đường bẩn,
Vẻ chán nản, đau buồn.

Nghe người đi rầm rập,
Ông hỏi có chuyện gì.
Người ta bảo đi gặp
Phật Thích Ca Mâu Ni.

Ông cũng muốn đi lắm,
Nhưng khốn nỗi mù lòa.
Cuối cùng có người nọ
Đồng ý dắt ông già.

Vừa nghe Phật thuyết giảng,
Đôi mắt mù, lạ thay,
Bỗng nhìn thấy ánh sáng,
Mồn một giữa ban ngày.

Ông chiêm ngưỡng Đức Phật -
Hào quang quanh đầu Ngài.
Đúng tám mươi vẻ đẹp,
Và tướng tốt - ba hai.

Ông sụp lạy xuống đất,
Xin Ngài cho đi theo.
Đức Thế Tôn hoan hỉ,
Nói: “Thiện Lai Tỳ Kheo!”

Lập tức, tóc ông rụng,
Bộ áo cũ sờn mòn
Thành áo cà-sa mới.
Ông trở thành sa-môn.

Không bao lâu sau đó,
Nhờ chuyên tâm tu hành,
Ông chứng A La Hán,
Cao quí và hiển danh.

Thấy sự lạ như vậy,
Tôi, tức A Nan Đà,
Muốn biết rõ duyên cớ,
Bèn hỏi Phật Thích Ca.

Phật đáp: “Đã lâu lắm,
Qua nhiều A Tăng Kỳ,
Có ông vua vĩ đại,
Bác ái và từ bi.

Con người nhân đức ấy
Tên là Tu Đề La,
Có đôi mắt kỳ diệu,
Nhìn bốn mươi dặm xa.

Vua bốn vạn nước nhỏ,
Hai vạn bà phu nhân,
Với năm trăm thái tử
Và một vạn đại thần.

Vì là vua nhân đức
Nên đất nước thanh bình,
Dân an cư lạc nghiệp,
Không cướp bóc, chiến tranh.

Một hôm, vua chợt nghĩ:
Đất nước ta mạnh giàu,
Giờ phải làm việc thiện
Để lấy phước về sau.

Rồi ngài liền ra lệnh
Mở tất các kho,
Phát thóc gạo nhà nước
Cho dân ăn kỳ no.

Bốn mươi nghìn nước nhỏ
Cũng nhận được lệnh này.
Họ mở kho phát chẩn,
Hào phóng và hàng ngày.
         
Thế mà có người nọ,
Vua một nước chư hầu,
Lại không theo lệnh ấy,
Không sợ bị chém đầu.

Ông vua hỗn láo đó
Tên là Bà Bạt Di,
Vốn vô đạo, hung ác,
Chẳng coi ai ra gì.

Các quan khuyên phải trái,
Vua nhất quyết không theo,
Không mở kho phát chẩn
Cứu đói cho người nghèo.

Hay tin này hỗn láo,
Lập tức Tu Đề La
Dấy đại binh cả nước
Thề giết chết ông ta.

Bà Bạt Di sợ hãi,
Định bỏ trốn đi ngay,
Thì có viên quan nọ,
Hiến diệu kế thế này:

“Tâu bệ hạ đáng kính,
Đức vua Tu Đề La
Từng long trọng tuyên bố,
Trừ hai thân, mẹ cha,

Ngài sẽ không ngần ngại
Cho tất cả mọi người
Những gì ngài đang có.
Quả hào hiệp nhất đời.

Bệ hạ hãy nhanh chóng
Cho một người mù lòa
Đến xin đôi mắt sáng
Của vua Tu Đề La.”

Bà Bạt Di lập tức
Cho đưa lên kinh đô
Một ông già mù mắt,
Rách rưới và gầy gò.

Ông là một đạo sĩ,
Đẳng cấp Bà La Môn,
Có học, giỏi ăn nói,
Biết ứng xử rất khôn.

Vào cung, ông lão ấy
Xin mắt Tu Đề La.
Thế mà vua, thật lạ,
Đồng ý cho ông ta.

Cả triều đình than khóc
Và van xin, không ai
Nỡ cầm chiếc dao nhọn
Khoét đôi mắt của ngài.

Có một gã đồ tể
Cuối cùng đã được mua.
Hắn khoét một con mắt
Rồi đặt lên tay vua.

Vua liền cất lời thệ,
Nâng con mắt trên tay:
“Tôi tình nguyện dâng mắt
Cho ông già mù này.

Để ông mắt lại sáng,
Lại được thấy mặt trời.
Để tôi, sau thành Phật
Cứu độ cho mọi người.”

Ngài đặt con mắt ấy
Vào hố mắt ông già.
Ông này liền nhìn thấy
Ánh mặt trời chói lòa.

“Tâu bệ hạ,” ông nói.
“Bằng mắt ngài cho tôi,
Tôi nhìn thấy rất rõ.
Như thế đủ lắm rồi.

Con mắt kia còn lại
Ngài hãy giữ cho mình.
Ngài rất cần đến nó.
Ngài, vị vua hiền minh.”

“Ta hứa cho hai mắt
Thì ngươi cứ nhận đi.
Để cứu người, tích đức,
Ta chẳng tiếc cái gì.”

Nói đoạn, ngài ra lệnh
Móc đưa cho ông già
Con mắt mình còn lại.
Mắt vua Tu Đề La.

Lập tức trời nghiêng ngả,
Thiên nhân xếp hàng dài
Từ trên cao bay xuống,
Cùng sụp lạy trước ngài:

“Ngài là vị Bồ Tát,
Đại đức, đại từ bi.
Xin ngài hãy cho biết
Sau muốn trở thành gì?”

Vua đáp lễ rồi nói:
“Tôi nhường mắt cứu người,
Chỉ muốn được thành Phật
Cứu chúng sinh, cứu đời.”

“Chắc ngài phải đau lắm?”
“Không, không đau chút nào.”
“Bị móc hai con mắt,
Ngài bảo không đau sao?”

Thấy thiên nhân nghi kỵ,
Vua ngửa mặt lên trời,
Phát nguyện: “Tôi hiến mắt
Chỉ thành tâm cứu người.

Tôi không hề đau đớn.
Nếu tôi nói thực lòng,
Xin hãy cho sáng mắt.
Bây giờ, trước các ông!”

Vừa dứt lời, đôi mắt
Của vua Tu Đề La
Liền nguyên lành trở lại,
Nhìn bốn mươi dặm xa.

Xong, vua quay sang nói
Với người xin mắt mình:
“Mai sau ta còn tặng
Mắt trí tuệ, thông minh.”

Ông này về báo lại
Với vua Bà Bạt Di.
Tên vua độc ác ấy,
Sợ quá, chết tức thì.

Kể đến đây, Đức Phật,
Bảo tôi, A Nan Đà:
“Ông vua cho mắt ấy
Là tiền kiếp của ta.

Còn ông già mù mắt
Là ông già mù này,
Người được ta từng hứa
Cho đắc đạo hôm nay.”

Mọi người nghe, hoan hỉ,
Ca ngợi thầy Thích Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.


27
NĂM TRĂM NGƯỜI MÙ

Lần ấy ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
May mắn được chứng kiến
Chuyện này của Thích Ca.

Bấy giờ, ở nước cạnh,
Là nước Tỳ Xá Ly,
Năm trăm người mù mắt
Thường tự dắt nhau đi.

Họ xin ăn, đói khổ,
Ngủ vật vạ bên đường,
Cơm bữa no bữa đói,
Nhìn mà thấy thật thương.

Rồi họ nghe người nói,
Ai thấy Phật Như Lai,
Bệnh tật nào cũng khỏi
Nhờ hưởng ân đức Ngài.

Ai mù, mắt sẽ sáng,
Ai đói có cơm ăn,
Người loạn trí tỉnh lại,
Người gù, lưng thẳng dần.

Thế là họ quyết định
Dắt nhau đi gặp Ngài.
Nhưng Xá Vệ xa lắm,
Đường vừa khó vừa dài.

Họ không ngớt van vỉ
Ai đó giúp dẫn đường,
Nhưng ai cũng từ chối,
Dẫu thương thì vẫn thương.

Cuối cùng họ quyết định
Tích góp năm trăm đồng.
Ai dẫn đường đưa họ,
Đó sẽ là tiền công.

Có người nhận việc ấy.
Cầm tiền xong, anh này
Bảo mình sẽ đi trước,
Còn họ, thành một dây,

Bám vai nhau mà bước,
Tuyệt đối không được rời,
Chắc sẽ không bị lạc
Và nhanh chóng tới nơi.

Nhưng vài ngày sau đó,
Tới nước Ma Kiệt Đà,
Anh ta bỏ đi mất,
Mặc cho họ kêu la.

Năm trăm người mù mắt
Đứng ngơ ngác giữa đồng,
Dẫm nát cả ruộng lúa
Của một bác nhà nông.

Bác giận, nhưng biết họ
Bị bỏ rơi dọc đường,
Mù, đang muốn gặp Phật,
Nên chuyển giận thành thương.

Bác cho người dẫn họ
Đi tiếp, đường còn xa.
Tới Xá Vệ thì Phật
Đã sang Ma Kiệt Đà.

Họ kéo nhau sang đấy,
Thì Phật đã quay về.
Đúng bảy lần như thế
Mới gặp Ngài, may ghê.

Nhờ hào quang của Phật
Cả năm trăm con người
Tự nhiên mắt lại sáng,
Được thấy ánh mặt trời.

Họ cúi đầu, vui sướng,
Cảm tạ Phật lòng lành,
Rồi đồng thanh xin phép
Được làm người tu hành.

Đức Phật rất hoan hỉ,
Biết năm trăm người nghèo
Thực sự muốn qui Phật,
Nói: “Thiện Lai Tỳ Kheo!”

Lập tức quần áo họ
Biến thành áo cà-sa,
Tóc rụng hết, và họ
Thành người của Thích Ca.

Tôi lấy thế làm lạ,
Bèn cung kính hỏi Thầy.
Và Đức Phật đã kể
Một câu chuyện thế này.

*
Cách đây vô lượng kiếp,
Có một đám rất đông
Năm trăm nhà buôn chuyến
Vượt qua một cánh đồng.

Họ đến một hang đá,
Rất hiểm trở và sâu,
Hai bên là vách núi.
Hang tối đen một màu.

Lại nghe nói vùng ấy
Có nhiều bọn cướp đường.
Chúng sẽ cướp hàng hóa,
Giết người không xót thương.

Mọi người rất lo sợ.
Làm thế nào bây giờ?
Hang tối, không đi được,
Cũng không thể ngồi chờ.

Bỗng một người trong họ
Nói: “Đừng buồn làm gì.
Tôi đã nghĩ được cách
Đưa cả đoàn ta đi.”

Nói đoạn, con người ấy,
Vốn ít lời xưa nay,
Lấy miếng lụa Bạch Điệp
Tự mình quấn vào tay.

Anh tẩm dầu, châm lửa,
Rồi đi trước dẫn đầu,
Giơ cánh tay - bó đuốc
Soi đường người đi sau.

Cứ thế, họ dò dẫm
Đi liên tục bảy ngày,
Vấp ngã rồi đứng dậy,
Mới ra khỏi hang này.

*
Kể đến đây, Đức Phật
Bảo tôi, A Nan Đà:
“Người đốt tay làm đuốc
Là tiền kiếp của ta.

Do ta dám dũng cảm
Hy sinh vì mọi người,
Nên nay ta chứng quả
Đặc tôn ba cõi đời.

Năm trăm nhà buôn ấy
Nay là những người mù,
Được ta cứu lần nữa
Để theo đường chân tu.”

Mọi người nghe, hoan hỉ,
Ca ngợi thầy Thích Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.


28
PHÚ NA KỲ

Tôi tận mắt chứng kiến
Chuyện này của Thích Ca
Khi Ngài đang tá túc
Trong vườn cây Kỳ Đà.

Thời ấy ở Phóng Bát,
Một nước lớn kề bên
Có ông Đàm Ma Tiện,
Rất lắm ruộng, nhiều tiền.

Ông nổi tiếng nhân đức,
Có hai người con trai.
Tiện Na - con thứ nhất.
Tỷ Kỳ Đà - thứ hai.

Một lần ông ốm nặng.
Cho mời nhiều thầy lang,
Cung phụng rất chu đáo,
Lại còn thưởng bạc vàng.

Bọn thầy lang thất đức
Thấy vậy bèn cố tình
Không chạy chữa gì cả
Để kiếm lợi cho mình.

Nhà có cô đầy tớ
Thông minh và nết na,
Thấy thế, báo ông chủ,
Khuyên đuổi chúng khỏi nhà.

Rồi tự cô chăm sóc,
Lo thuốc thang cho ông.
Chẳng bao lâu ông khỏi,
Rất biết ơn, hài lòng.

Ông nói ông muốn thưởng
Cái gì đấy cho cô.
Cô người ở bèn đáp,
Không phải không thẹn thò,

Rằng từ lâu cô muốn
Được ông chủ thương tình
Cho một đêm ân ái
Trên giường ngủ của mình.

Ông chủ cười, đồng ý.
Sau chín tháng, đến thì,
Cô sinh được cậu bé,
Đặt tên Phú Na Kỳ.

Cậu bé ấy khôn lớn,
Thành chàng trai tuyệt vời,
Thông minh và tháo vát,
Lại chịu khó, thương người.

Tiếc, thân phận hèn mọn,
Tức là con cô hầu,
Chàng không được yêu quí
Như hai người con đầu.

Sau khi ông chủ chết,
Anh hai, Tỷ Kỳ Đà,
Muốn hãm hại em út,
Bèn bàn với Tiện Na.

May Tiện Na, anh cả,
Thương em Phú Na Kỳ,
Bèn cho ít vàng bạc
Rồi bảo em trốn đi.

Chắc do trời dun dủi,
Chàng mua gỗ ngưu đầu
Và chiên đàn, để đấy.
Không nghĩ mấy tháng sau

Hoàng hậu lâm bệnh nặng,
Muốn khỏi, phải uống than
Của hai loại gỗ ấy,
Ngưu đầu và chiên đàn.

Vua cho người tìm kiếm,
Nhưng tìm mãi không ra.
Phú Na Kỳ dâng gỗ,
Chữa khỏi bệnh cho bà.

Chàng được vua ban thưởng
Đúng một nghìn lạng vàng.
Chàng đem số tiền ấy
Một phần chia dân làng,

Phần còn lại mua đất,
Mười mẫu thượng đẳng điền,
Xây nhà, thuê người ở,
Sống sung sướng như tiên.

Sau đó, chàng cùng bạn
Sắm thuyền đi buôn xa.
Họ gặp cá Ma Kiệt
Khi biển nổi phong ba.

Nhưng nhờ lời khấn Phật,
Họ thoát được tử thần,
Trở về nhà nguyện vẹn,
Giàu có gấp nhiều lần.

Tuy nhiên, sau lần ấy,
Ngưỡng mộ Phật Thích Ca,
Thấy cuộc đời bèo bọt,
Chàng quyết định xuất gia.

Cùng năm trăm người khác,
Bạn đi buôn với mình,
Chàng đến gặp Đức Phật,
Nói rõ hết sự tình.

Cả bọn cùng cúi lạy,
Một lòng xin đi theo.
Đức Phật rất hoan hỉ,
Nói: “Thiện Lai Tỳ Kheo!”

Ngay lập tức, tất cả
Đúng năm trăm nhà buôn
Nhờ phép màu của Phật,
Thành năm trăm sa-môn.

Sau đó, nhờ tu luyện
Tất cả năm trăm người
Chứng quả A La Hán,
Được vinh hiển muôn đời.

Do nghiệp chướng quá nặng,
Phú Na Kỳ, tiếc thay,
Chỉ được chứng sơ quả,
Dù kinh kệ suốt ngày.

Mùa an cư năm ấy
Đức Phật cho mọi người
Muốn đi đâu tùy ý,
Để tu luyện ngoài đời.

Phú Na Kỳ xin phép
Được trở về quê hương,
Tức vương quốc Phóng Bát
Để khất thực trên đường.

Chàng bị mọi người mắng,
Bị đánh đập nhiều khi,
Nhưng thản nhiên chịu đựng,
Coi như không chuyện gì.

Sau ba tháng như vậy,
Tội chướng tiêu tan dần,
Chàng chứng A La Hán,
Rũ hết sạch bụi trần.

Được chứng kiến chuyện ấy,
Tôi, tức A Nan Đà,
Rất tò mò muốn biết,
Bèn hỏi Phật Thích Ca:

“Bạch Thế Tôn cao quí,
Xin Thầy nói cho hay,
Phú Na Kỳ kiếp trước
Làm gì nên nỗi này?”

Phật Thích Ca bèn đáp:
“Chuyện từ xưa, đã lâu,
Thời Đức Phật Ca Diếp,
Có một ông nhà giàu.

Ông phát tiền công đức,
Xây ngôi chùa gần nhà,
Nuôi chư tăng, cúng Phật,
Người tấp nập vào ra.

Sau khi ông bố chết,
Người con trai lên thay,
Cũng qui y, nhập Phật,
Cai quản ngôi chùa này.

Chùa rất đông sư sãi,
Có nhiều vị cao niên.
Hàng ngày họ dọn dẹp
Trước khi ngồi định thiền.

Có tỳ kheo nào đó,
Phiên trực nhật, một lần,
Nhổ cỏ xong, không dọn,
Để chất đống ngoài sân.

Ông chủ chùa cáu gắt,
Mắng: “Ai nhổ, dọn đi.
Đúng là lười và bẩn,
Như một con nô tỳ.”

Ông không biết người ấy,
Bị mắng lười, thấp hèn,
Là một bậc La Hán,
Đáng kính và cao niên.

Đến đây, Đức Phật nói:
“Tỳ kheo Phú Na Kỳ
Là chủ chùa đã mắng
Vị sư già từ bi.

Và rằng vì tội ấy,
Trong suốt năm trăm năm,
Ông đầu thai hèn kém,
Để chuộc lại lỗi lầm.

Giờ nghiệp chướng đã hết,
Do tu đức giúp đời,
Ông chứng A La Hán,
Vinh hiển như mọi người.”

Chúng tôi nghe, hoan hỉ,
Ca ngợi thầy Thích Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.


29
NGƯỜI ĐỔ PHÂN THUÊ

Tôi may mắn chứng kiến
Chuyện này của Thích Ca
Khi Ngài đang tá túc
Trong vườn cây Kỳ Đà.

Thời ấy thành Xá Vệ
Chật hẹp, lại đông dân
Nên việc đại tiểu tiện
Thành phức tạp bội phần.

Người giàu thường đại tiện
Vào bô bạc hoặc sành,
Rồi thuê người nghèo khổ
Đem đi đổ ngoài thành.

Có một người hạ tiện,
Tên ông là Ni Đề,
Nhà nghèo, chỉ kiếm sống
Bằng cách đổ phân thuê.

Đức Phật biết người ấy
Nghiệp chướng xưa đã tan,
Và nay chính là lúc
Đưa ông lên Niết Bàn.

Một hôm tôi theo Phật
Vào thành gặp người này.
Vừa mới đến đầu phố,
Thấy ông, như mọi ngày

Đang gánh phân đi đổ.
Nhìn thấy Phật, ông ta
Liền xấu hổ lảng tránh,
Đứng nép sau góc nhà.

Bất ngờ, Phật xuất hiện,
Ông luống cuống, và rồi
Va thùng vào tường gạch,
Ngã, phân lấm đầy người.

Ông ta ngồi úp mặt,
Không dám ngước lên trông.
Phật hỏi: “Ông có muốn
Theo ta xuất gia không?”

“Bạch Thế Tôn cao quí,
Con hạ tiện, hèn nghèo,
Làm sao dám hỗn láo
Mơ ước thành tỳ kheo?”

Phật đáp: “Đạo ta lớn,
Không phân biệt sang hèn.
Ai muốn đều có thể
Bước chân vào cửa thiền.”

Ni Đề nghe, lập tức
Sụp lạy Phật Thích Ca,
Vui mừng đến phát khóc,
Xin được phép xuất gia.

Ngài sai tôi nhanh chóng
Đưa Ni Đề ra sông,
Giúp tắm rửa sạch sẽ
Rồi thay áo cho ông.

Sau khi về Tịnh Xá,
Người gánh phân thuê nghèo
Được Đức Phật thuyết pháp,
Nói: “Thiện Lai Tỳ Kheo!”

Lập tức tóc ông rụng,
Áo thành áo cà sa.
Từ đó ông chính thức
Là người của Thích Ca.

Ông nghe Phật giảng pháp,
Đầu óc ngộ rất nhanh,
Rồi chứng A Lan Hán,
Đủ các phép Thần, Minh.

Người dân trong thành phố
Hay tin về Ni Đề,
Không che giấu khinh bỉ
Và những lời cười chê.

“Cái lão gánh phân ấy
Nay thành tỳ kheo à?
Sao phải cúng dàng lão?
Sao phải cho vào nhà?”

Đức vua Ba Tư Nặc
Nghe hết những lời đồn.
Vua cũng không thích lắm,
Bèn gặp Đức Thế Tôn.

Khi xe đến Tịnh Xá,
Vua thấy một nhà sư
Vá áo trên tảng đá,
Nét mặt rất nhân từ.

Bên cạnh ngài đang có
Bảy trăm người nhà trời
Dâng hoa và múa hát,
Chắc giúp ngài nghỉ ngơi.

Vua lại gần, đảnh lễ
Rồi nói ý định mình.
“Mời bệ hạ ngồi nghỉ,
Để tôi vào thưa trình.”

Nói xong nhà sư ấy
Khẽ cúi chào, và rồi
Chui qua tảng đá lớn
Mà trước đấy đã ngồi.

Lát sau ngài quay lại,
Báo Đức Phật đang chờ,
Cũng chui qua tảng đá,
Làm nhà vua sững sờ.

Vua thầm nghĩ: Trước hết
Phải hỏi Phật, người này
Là ai mà giỏi vậy,
Chui qua đá, lạ thay.

Phật đáp: “Ngài muốn biết
Nhà sư ấy là ai?
Là người hèn hạ nhất
Trong vương quốc của ngài.

Ni Đề là tên họ,
Trước làm nghề đổ phân,
Nay là vị La Hán
Phép thần thông như thần.

Bệ hạ bận trăm việc,
Đến thăm ta hôm nay,
Chắc không phải vô cớ,
Ngài muốn hỏi người này?”

Đức vua Ba Tư Nặc
Cúi rất thấp trước Ngài:
“Xin Thế Tôn cho biết
Trước người này là ai,

Đã làm gì nên tội
Để thành người đổ phân,
Rồi chứng A La Hán,
Phép thần thông như thần?”

Để trả lời, Đức Phật
Đã kể câu chuyện này,
Cũng lại về nhân quả,
Chí lý và rất hay.

*
Vô lượng kiếp về trước,
Nghìn vạn cõi nhân gian,
Khi Đức Phật Ca Diếp
Sinh và nhập Niết Bàn.

Có mười vạn tăng phật
Sống ở rừng Tùng Lâm.
Một hôm, vị tăng chủ
Kiết lỵ mãi không cầm.

Ông cậy thế tăng chủ,
Không chịu ra nhà cầu,
Mà đi vào bô bạc
Bắt một người đổ hầu.

Người ấy, ông không biết,
Đã chứng Tu Đà Hoàn.
Vậy là ông đã bắt
Một thánh nhân đổ phân.

Vì sự phạm thượng đó,
Người ấy, tức Ni Đề,
Trong suốt năm trăm kiếp
Làm người đổ phân thuê.

*
Nghe Đức Phật nói thế,
Vua cả mừng, ôm chân
Xin lỗi người hèn mọn
Nay là bậc thánh thần.

Mọi người thấy, hoan hỉ,
Ca ngợi thầy Thích Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.


30
SƯ BÀ VI DIỆU

Lần nọ ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
Biết chuyện này có thật,
Khi theo hầu Thích Ca.

Lúc ấy, Ba Tư Nặc,
Ông vua tốt, qua đời,
Người lên thay tàn ác,
Làm mất lòng nhiều người.

Nhiều phụ nữ còn trẻ,
Con nhà giàu, nết na,
Năm trăm người tất cả,
Muốn tìm đường xuất gia.

Họ lo sợ nhục dục,
Tức chuyện lập gia đình,
Cùng yêu đương, tình ái
Sẽ mang họa cho mình.

Vì lòng còn do dự,
Họ tìm hỏi nhiều người,
Trong đấy có Vi Diệu,
Một sư bà hiểu đời.

Thay cho lời khuyên nhủ,
Bà kể câu chuyện này,
Một câu chuyện có thật,
Đau lòng và đắng cay.

*
Có người phụ nữ nọ,
Con gái một nhà giàu,
Hiền lành và đức độ,
Thế mà đời buồn đau.

Khi đến tuổi xuất giá,
Bà lấy chồng, con trai
Một gia đình trưởng giả,
Thông minh và hiền tài.

Vợ chồng sống hạnh phúc,
Rồi sinh con đầu lòng.
Khi sắp sinh đứa nữa,
Theo lệ, bà xin chồng

Về nhà bố mẹ đẻ.
Thế là sáng hôm sau,
Vợ chồng bà xuất phát
Cùng với đứa con đầu.

Mới nửa đường, trời tối,
Họ ngủ dưới gốc cây
Trong khu rừng rậm rạp,
Màn đêm đen và dày.

Bỗng nhiên bà trở dạ,
Máu đỏ chảy thành dòng.
Rắn độc liền kéo đến,
Lặng lẽ cắn chết chồng.

Sáng dậy bà mới biết,
Khóc than vì buồn đau,
Rồi bà gượng đi tiếp,
Lưng cõng đứa con đầu.

Hai tay bà ôm chặt
Đứa con nhỏ mới sinh,
Vừa khóc bà vừa bước
Giữa trời nắng một mình.

Đến một giòng sông rộng,
May nước không quá sâu,
Bà lội xuống, để lại
Trên bờ đứa con đầu.

Tới bên kia, bất chợt,
Bà thấy con trai mình
Ngã xuống sông, lập tức
Bị dòng nước cuốn nhanh.

Bà kêu lên hốt hoảng,
Đặt con nhỏ lên bờ,
Quay lại cứu thằng lớn,
Thì thú dữ bất ngờ

Đến, tha đi đứa bé,
Tức đứa con vừa sinh.
Vậy là bà còn lại
Trơ trọi chỉ một mình.

Bà nằm yên bất động
Rất lâu bên dòng sông,
Khóc đến cạn nước mắt,
Đau như xé trong lòng.

Chợt có ông già nọ,
Quen với bố mẹ bà,
Gặp, rồi báo hỏa hoạn
Thiêu cháy, chết cả nhà.

Nghe tin như sét đánh,
Bà chết ngất, ông già
Thương, đưa về chăm sóc
Như con cái trong nhà.

Mấy năm sau, khuây khỏa,
Một gia đình nhà giàu
Hiền lành và tử tế
Đến xin bà làm dâu.

Bà nhất mực không chịu,
Nhưng mọi người cứ khuyên.
Cuối cùng bà đồng ý
Đi bước nữa cho yên.

Ông chồng bà tốt bụng,
Thế mà rồi một đêm,
Đi ăn uống đâu đấy,
Trở về nhà say mèm.

Chỉ mấy phút trước đó
Bà trở dạ, sinh con.
Đang nằm yên bất động,
Mệt, còn chưa lại hồn.

Thấy vợ không mở cửa,
Giận dữ xông và nhà,
Ông chồng say điên loạn,
Bóp chết đứa con bà.

Rồi đang đêm mưa gió,
Bỏ nhà đi một mình,
Bà đến Ba La Nại,
Ngồi khóc bên cổng thành.

Một lúc sau, bất chợt,
Có một người lại gần,
Một người tốt, chững chạc,
Hỏi chuyện rất ân cần.

Ông này vừa chết vợ,
Con một đại thương gia,
Sau một lúc trò chuyện,
Tỏ ý muốn lấy bà.

Vì không nơi nương tựa,
Cuối cùng bà gật đầu.
Họ sống rất hạnh phúc,
Không ngờ ba năm sau

Ông chồng bà ốm chết.
Theo tục lệ nước ông,
Bà sẽ bị chôn sống
Để xuống mồ theo chồng.

May tối ấy bọn trộm
Đến đào mộ ông ta
Để lấy cắp vàng bạc,
Vô tình đã cứu bà.

Tên trùm thấy bà đẹp,
Bắt làm vợ của mình.
Nhưng rồi hắn bị bắt
Và bị đem hành hình.

Thế là một lần nữa
Lại bị chôn, lần này
Bà được con hổ đói
Moi bà lên, thật may,

Nó chưa kịp ăn thịt
Thì thấy người, bỏ đi.
Để mình bà ở lại,
Mê man, chẳng biết gì.

Cuối cùng, khi tỉnh dậy,
Bà sực nhớ người ta
Thường nói về ân đức
Của Đức Phật Thích Ca.

Thế là bà đi bộ,
Vượt đường dài, gian nan
Đến nơi Ngài giảng pháp
Ở vườn cây Kỳ Hoàn.

Vừa nhìn thấy Đức Phật
Rạng rỡ và uy nghi,
Bà vội vã sụp lạy,
Xin xuất gia, qui y.

Thấy bà gần lõa thể,
Ngài bảo A Nan Đà
Mang đến bộ quần áo
Rồi đặt trước mặt bà.

Ngài nhận bà vào giới
Giao cho một ni sư,
Là bà Đại Ái Đạo,
Thông tuệ và nhân từ.

Ni sư này kềm cặp,
Giúp đỡ bà tu hành,
Dạy “Vô thường”, “Tứ đế”.
Bà tiến bộ rất nhanh.

Chẳng bao lâu sau đó,
Bà đắc đạo, thành người
Hiểu rõ chuyện quá khứ
Và tương lai muôn đời.

Bây giờ bà mới biết
Sao đời bà buồn đau.
Kiếp trước bà là vợ
Một trưởng giả nhà giàu.

Ông này lấy vợ lẽ,
Một cô gái rất xinh,
Nên được ông yêu quí,
Và bà bị nhạt tình.

Thù quá mà hóa dại,
Bà lấy chiếc đinh dài,
Đóng vào đầu đứa bé
Con cô vợ thứ hai.

Về sau bà còn chối
Và thề độc rằng mình
Không hề làm điều ấy,
Viện cả các thần linh.

Rằng “Nếu tôi giết nó,
Thì chồng tôi về sau
Sẽ bị rắn cắn chết,
Con tôi, hổ xé đầu.

Bố mẹ tôi cũng vậy,
Sẽ bị cháy thành tro,
Còn tôi thì đang sống,
Sẽ bị chôn xuống mồ.

*
Đến đây, sư Vi Diệu
Nói: “Người đàn bà này
Chính là ta kiếp trước,
Nghiệp chướng đến ngày nay.”

Năm trăm cô gái trẻ
Nghe câu chuyện của bà,
Quyết dứt duyên trần tục,
Một lòng theo Thích Ca.

Trong đầu còn choáng váng
Vì những chuyện vừa nghe,
Họ cảm ơn sư cụ,
Tạ lễ, rồi ra về.


31
CON TRÂU BÁO OÁN

Tôi may mắn chứng kiến
Chuyện này của Thích Ca
Khi Ngài đang tá túc
Trong vườn cây Kỳ Đà.

Triều vua Ba Tư Nặc
Có vị quan đại thần,
Bảy con trai, trong đó
Sáu người đã thành thân.

Ông giàu có, hiền đức,
Tên là Lê Kỳ Di.
Ông nghĩ, còn cậu út
Đã đến tuổi, đến thì.

Phải hỏi vợ cho nó.
Ông muốn tìm con dâu,
Phải thông minh, hiền thảo,
Xinh đẹp, con nhà giàu.

Kén chọn mãi không được,
Trong nước lẫn nước ngoài,
Ông bèn nhờ người bạn
Tìm vợ cho con trai.

Ông này rất hăng hái,
Liền khăn gói lên đường,
Sang tận nước Thị Lợi,
Cách những mấy ngày đường.

Ở đấy ông đã gặp
Năm trăm nữ đồng trinh
Đang hái hoa bên suối,
Mà cô nào cũng xinh.

Khi họ lội qua suối,
Ông nhận thấy một người
Không cởi dép, cứ lội,
Dẫu các bạn chê cười.

Hơn thế, cô thà ướt
Chứ không chịu xắn quần.
Một cô gái bản lĩnh,
Lại xinh đẹp tuyệt trần.

Đến một khu rừng nọ,
Các cô trèo lên cây,
Đua nhau nghịch, hái quả,
Trong khi cô gái này

Đứng yên nhìn các bạn
Hoặc lặng lẽ hái hoa.
Ông lấy thế làm lạ,
Theo cô về tận nhà.

Đến nơi, ông mới biết
Cô gái này là con
Một gia đình giàu có,
Đẳng cấp Bà La Môn.

Ông bố cô có biết
Lê Kỳ Di đại thần
Nên vui vẻ đồng ý
Để hai nhà kết thân.

Thế là liền sau đó
Lê Kỳ Di dẫn đầu
Một đoàn xe đông đảo
Sang Thị Lợi đón dâu.

Khi quay về, họ gặp
Một quán có nhiều cây.
Vì mệt, ai cũng muốn
Vào nghỉ quán trọ này.

Thế mà cô dâu mới,
Tên là Tỳ Xá Ly,
Bảo bố chồng đừng xuống,
Tiếp tục đánh xe đi.

Một lúc sau, quả thật,
Có đàn voi phát điên
Kéo đến, xô đổ quán,
Dẫm chết mấy người liền.

Đoàn xe lại đi tiếp.
Đến một khe nước nông,
Mọi người muốn dừng nghỉ,
Nhưng cô dâu bảo không.

Chỉ mấy phút sau đó
Nước đâu từ trên cao
Chảy xuống con suối ấy,
Cuộn sóng, réo ào ào.

Ông bố chồng ngồi cạnh,
Chép miệng và gật đầu:
“Hai lần mình thoát chết
Là nhờ có con dâu.”

Ông rất vui, vì vậy,
Khi vừa về đến nhà,
Giao cho cô quản lý
Ruộng đất và tư gia.

Mọi chuyện rất tốt đẹp.
Rồi một thời gian sau
Cô sinh một bọc trứng,
Ba hai quả đều nhau.

Ba hai quả trứng ấy,
Ba hai người con trai.
Lớn lên đều tuấn tú,
Thông minh và có tài.

Duy có người con út
Tính ngỗ nghịch khác người.
Một hôm, cùng bè bạn,
Cậu cưỡi voi đi chơi.

Khi đến chiếc cầu nọ,
Cậu thấy bên kia cầu
Là xe con Tể tướng.
Không ai chịu nhường nhau.

Ai cũng tranh đi trước,
Cậy nhà mình quan to.
Rồi lời qua, tiếng lại,
Rồi xẩy ra đôi co.

Cuối cùng cậu con út
Phớt lờ, coi như không,
Thúc voi, hất đối thủ,
Người và xe xuống sông.

Anh kia về mách bố.
Quan tể tướng thương con,
Thề rửa mối nhục ấy
Quyết một mất một còn.

Thời ấy có luật cấm
Mang vũ khí vào cung.
Trái luật sẽ bị chém.
Luật nghiêm khắc vô cùng.

Tể tướng bày kế độc,
Tặng con Tỳ Xá Ly
Ba hai chiếc roi ngựa
To, bằng da trơn lì.

Ông giấu con dao nhỏ
Trong mỗi chiếc roi này.
Các chàng trai không biết,
Mang vào cung hàng ngày.

Một hôm, quan tể tướng
Ghé tai vua thì thầm.
Vua cho khám roi ngựa
Tìm thấy nhiều dao găm.

Vua liền chiểu theo luật,
Mà luật có từ lâu.
Ba hai chàng trai trẻ
Lập tức bị chém đầu.

Rồi đầu họ bị chém
Cho vào hòm, tức thì
Binh lính mang hòm ấy
Đến nhà Tỳ Xá Ly.

Ở nhà bà lúc ấy
Đang có lễ thọ trai,
Có mặt cả Đức Phật
Và đệ tử của Ngài.

Tưởng vua gửi quà tặng,
Bà định mở ra ngay,
Đức Phật can, đừng mở,
Chờ ăn xong hẵng hay.

Thọ trai xong, Đức Phật
Và đệ tử ra về,
Bà mới cho người mở
Chiếc hòm lớn nặng nề.

Bà suýt ngất khi thấy
Đầu các con trai mình.
May trước đó được Phật
Cứu khỏi vòng vô minh,

Nên bà chỉ than khóc,
Chấp nhận đời phù du,
Có sống thì có chết,
Có oán thì có thù.

Nhưng gia đình đằng vợ
Các con trai của bà
Nghĩ vua giết oan trái
Các chàng rể, thế là

Họ dấy binh chống lại.
Vua phải trốn đi xa,
Tới vườn Cấp Cô Độc
Nương nhờ Phật Tích Ca.

Phiến quân kéo đến đấy,
Nhờ Phật mới chịu yên.
Tôi xin Ngài nói rõ
Mọi người biết nhân duyên.

*
Phật dạy, nhiều kiếp trước,
Có ba mươi hai người,
Đẹp trai và khỏe mạnh,
Một hôm cùng đi chơi.

Khi đến một vùng nọ,
Họ trộm được con trâu,
Quyết định đem mổ thịt,
Ăn thỏa thích với nhau.

Con trâu quì xuống lạy,
Xin tha chết, nếu không
Sau sẽ bị báo oán,
Những chuyện rất đau lòng.

Đức Phật dừng lại nói,
Khi kể xong chuyện này:
“Con trâu của kiếp trước
Là đức vua ngày nay.

Ba mươi hai người nọ
Nỡ lòng giết con trâu,
Nay là đám trai trẻ
Vừa mới bị chặt đầu.”

Mấy ông đằng nhà vợ,
Nghe hiểu chuyện oán ân,
Xin lỗi vua, tạ Phật,
Rồi lặng lẽ rút quân.

Mọi người nghe, chợt hiểu,
Cả tôi, A Nan Đà,
Đảnh lễ trước Đức Phật
Rồi lặng lẽ lui ra.


32
CON CÁ KHỔNG LỒ

Chính tôi được chứng kiến,
Phật Thích Ca Mâu Ni
Ở vườn cây Núi Trúc,
Thuộc nước La Duyệt Kỳ.

Một hôm, tắm rửa sạch,
Tôi, tức A Nan Đà,
Cung kính chắp tay lễ
Rồi bạch thầy Thích Ca:

“Xin thầy cho con biết
Nhóm Trần Như trước đây
Làm được điều gì tốt
Mà hưởng lộc kiếp này?”

Phật đáp: “Nhiều kiếp trước,
Có ông vua đã già,
Công tâm và nhân đức,
Tên là Thiết Đầu La.

Ông là vua vĩ đại,
Có bốn vạn đại thần,
Tám vạn nước lớn nhỏ,
Hai vạn bà phu nhân.

Ông thương yêu dân chúng
Như con cái trong nhà.
Người dân cảm đức ấy,
Yêu ông như yêu cha.

Bất chợt, một năm nọ
Xuất hiện điềm hỏa tinh,
Báo trước mười năm hạn.
Vua thương cho dân tình.

Cây ngoài đồng chết héo.
Người chết đói khắp nơi.
Vua mất ăn, mất ngủ,
Tiếng kêu than dậy trời.

Không nỡ nhìn dân chết,
Vua lập đàn tế trời,
Lạy tám phương, bốn hướng,
Đau xót cất thành lời:

“Tôi là vua, dân đói,
Xin các vị chư thần,
Cho tôi thành con cá
Để dân có cái ăn!”

Dứt lời, ngài lập tức
Thành con cá rất to,
Thân dài hàng trăm mét,
Như ngọn núi khổng lồ.

Có năm người thợ mộc
Lúc ấy ra bờ sông.
Con cá nói với họ:
“Nếu các ông đói lòng,

Hãy lấy dao, lấy búa
Xẻ thịt tôi mà ăn.
Nhớ gọi thêm người khác,
Gọi cả xa, cả gần.

Sau này tôi thành Phật,
Các ông sẽ là người
Đầu tiên được giác ngộ,
Cứu mình và cứu đời.”

Năm người kia lập tức
Xẻo một miếng thật to
Từ lưng con cá ấy,
Nướng lên ăn kỳ no.

Sau đó, dân cả nước,
Suốt mười năm không mưa,
Kéo đến ăn thịt cá,
Chưa hết, vẫn còn thừa.

Đến đây, đức Phật nói:
“Này con, A Nan Đà,
Ông vua ấy nhân ái
Là tiền thân của ta.

Còn năm người thợ mộc
Là nhóm Kiều Trần Như.
Họ là những người tốt,
Trung thực và nhân từ.

Và như ta đã hứa,
Họ là người đầu tiên
Được ta giúp giác ngộ,
Sau thành bậc đại thiền.

Chúng tôi, các đệ tử,
Ca ngợi thầy Thích Ca,
Cúi rất thấp, cáo biệt
Rồi lặng lẽ lui ra.


33
TÁM VẠN BỐN NGÀN CHIẾC THÁP

Lần nọ, ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
May mắn được chứng kiến
Chuyện này của Thích Ca.

Hôm ấy, tôi và Phật,
Vừa sáng, trời đầy sương,
Đi vào thành khất thực
Thấy lũ trẻ bên đường

Đang chơi trò đắp đất,
Xây thành phố, xây nhà,
Xây cả kho chứa thóc
Và cả những tháp ngà.

Một đứa trong bọn chúng
Thấy chân Phật phát quang,
Cúi lạy, lấy mẩu đất
Đem dâng Phật cúng dàng.

Phật cầm mẩu đất ấy
Bảo tôi khi về nhà
Bôi lên thềm phòng ngủ
Của Đức Phật Thích Ca.

Ngài nói: “Cậu bé ấy
Năm trăm năm về sau
Là vua một nước lớn
Rất rộng và rất giàu.

A Du Ca hoàng đế
Là tên cậu bé này.
Các đại thần của cậu
Là lũ trẻ hôm nay.

Chúng chấn hưng Tam Bảo,
Và sẽ xây cho ta
Tám vạn bốn ngàn tháp,
Cao to và nguy nga.

Tôi vui mừng, bạch Phật:
“Các kiếp trước của thầy
Có duyên gì để cậu
Xây nhiều tháp thế này?”

Ngài lại kể câu chuyện,
Rằng thời Phật Phất Sa,
Vô lượng kiếp về trước,
Có một ông vua già.

Ông là vua nước lớn,
Có tên Ba Tắc Kỳ,
Hàng ngày cúng dàng Phật
Không thiếu một thứ gì.

Một hôm vua chợt nghĩ
Phật không riêng của ai,
Nhưng dân các nước nhỏ
Lại không được thấy Ngài.

Nghĩ thế, vua quyết định
Mời thợ vẽ vào cung
Vẽ thật nhiều tranh Phật,
Phân phát cho các vùng.

Thợ vẽ được gặp Phật
Để vẽ lại hình Ngài,
Nhưng vẽ mãi không được,
Ít hoặc nhiều đều sai.

Cuối cùng Phật tự vẽ
Một chân dung của mình.
Các thợ vẽ sau đấy
Sao chép lại thành tranh.

Tám vạn bốn ngàn chiếc
Được vua gửi tận nơi.
Tám vạn bốn ngàn nước.
Phật đến với mọi người.

Chúng sinh mang lễ vật
Thờ cúng trước bức tranh.
Dẫu không phải Phật thật,
Nhưng mang điều tốt lành.

*
Kể xong, Đức Phật nói:
“Này con, A Nan Đà,
Ba Tắc Kỳ ngày ấy
Là tiền kiếp của ta.

Nhờ vẽ các tranh Phật
Mà ta có nhân duyên
Được làm Phật cõi tục
Và Đế Chúa cõi thiên.

Kiếp này đến kiếp khác,
Mỗi lần ta đầu thai,
Đều tám mươi vẻ đẹp
Và tướng tốt - băm hai.

Sau khi ta viên tịch
Để nhập cõi Niết Bàn,
Ta được xây nhiều tháp,
Đúng tám vạn bốn ngàn.

Mọi người nghe, hoan hỉ,
Ca ngợi thầy Thích Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.


34
BẢY HŨ VÀNG

Tôi may mắn chứng kiến
Chuyện này của Thích Ca
Khi Ngài đang tá túc
Trong vườn cây Kỳ Đà.

Lần an cư năm ấy
Phật Thích Ca Mâu Ni
Cho tỳ kheo lựa chọn
Muốn đi đâu thì đi.

Ba tháng sau quay lại,
Tất cả tri ân Ngài.
Phật hỏi thăm chu đáo.
Ai cũng vui như ai.

Ân phước Phật to lớn
Như trời cao, đất dày.
Nhưng trong lời Ngài nói
Tôi nhận thấy hôm nay

Có cái gì khang khác,
Hơi khiêm kính thế nào.
Lấy làm lạ, lễ phép,
Tôi hỏi Ngài vì sao.

*
Ngài kể một câu chuyện,
Rằng cách đây nhiều đời,
Ở nước Ba La Nại
Lặng lẽ sống một người.

Người này rất keo kiệt,
Ăn uống chẳng dám ăn,
Chi tiêu càng không dám,
Cứ tích cóp dần dần.

Cuối cùng ông ta có
Cả một hũ vàng đầy.
Sau khi nhìn thỏa mắt,
Ông chôn dưới gốc cây.

Mấy chục năm sau đó,
Vẫn bóp miệng, ky bo,
Ông có không chỉ một
Mà bảy hũ vàng to.

Không may ông ốm chết,
Chẳng được tiêu một đồng
Trong bảy hũ vàng ấy,
Nên tiếc và đau lòng,

Ông biến thành con rắn
Quanh quẩn bên gốc cây.
Rắn chết thành rắn nữa,
Canh giữ kho báu này.

Cuối cùng nó chợt nghĩ
Chẳng ai cần đến vàng.
Vàng dưới đất, thành đất.
Hay là đem cúng dàng?

Nó ra đường, đón bắt
Một người đi ngang qua,
Kể ý định bố thí
Rồi mời ông vào nhà.

Theo yêu cầu của rắn,
Ông đưa nó cùng đi
Với bảy hũ vàng lớn
Đem cúng trước tăng ni.

Nó nhờ ông làm lễ
Dâng cúng các sư tăng.
Nó thì nhìn lặng lẽ,
Nước mặt trào, lâng lâng.

Bảy hũ vàng của rắn
Được cúng làm việc công,
Dâng lên ngôi Tam Bảo.
Thế là nó yên lòng.

Về sau, con rắn ấy
Được siêu thoát, giải oan,
Lên cõi trời Đại Lợi,
Vĩnh viễn chốn Niết Bàn.

*
Kể đến đây, Đức Phật,
Bảo tôi, A Nan Đà:
“Người giúp rắn ngày trước
Là tiền kiếp của ta.

Ta đã bị rắn trách
Khi đưa nó lên chùa,
Vì lặng im không nói
Trước những lời trêu đùa.

Giờ ngẫm thấy nó đúng.
Loài vật đáng yêu thay.
Lúc nãy ta khiêm kính
Vì nhớ lại chuyện này.

Còn ông Xá Lợi Phất
Là một trong vô vàn
Kiếp của con rắn ấy,
Nay ở trên Niết Bàn.”

Chúng tôi nghe, thấu hiểu,
Ca ngợi thầy Thích Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.


35
SAI MA

Chính tôi được chứng kiến,
Phật Thích Ca Mâu Ni
Khi ở rừng Lâm Trúc,
Thuộc nước La Duyệt Kỳ.

Bấy giờ có người nọ
Thuộc dòng Bà La Môn,
Chăm làm nhưng nghèo kiết,
Không nuôi nổi vợ con.

Chợt anh nghe người nói
Phật có bốn đại hiền,
Là Tôn giả Ca Diếp,
Tôn giả Mục Kiền Liên,

Tôn giả Xá Lợi Phất,
Cuối cùng, người thứ tư -
Tôn giả A Na Luật,
Đại bi và đại từ.

Anh nghe nói các vị
Hay giúp đỡ người nghèo,
Làm đời họ thay đổi,
Ban phước lộc rất nhiều.

Anh chàng này mừng lắm,
Quyết làm thuê kiếm tiền,
Mua các thứ trai, lễ
Dâng cúng bốn đại hiền.

Anh gặp được bốn vị,
Kính trọng nói lời mời.
Dẫu cao sang, thần phép,
Các vị đã nhận lời.

Thọ trai xong, các vị
Liền giảng pháp tại nhà
Cho anh chồng và vợ
Có tên là Sai Ma.

Giảng về ngôi Tam Bảo,
Về thọ trì Tam Quy,
Về Bát Quan Trai Giới
Và bác ái, từ bi.

Vợ chồng nghe, xin hứa
Sẽ nhất mực tuân theo.
Còn bốn đại tôn giả
Trở về với tỳ kheo.

Lại nói vua nước ấy,
Có tên là Bình Sa,
Một hôm đi săn thú,
Trên đường trở về nhà

Thấy một tên tội phạm
Bị trói, treo bên đường.
Hắn đói, xin bố thí,
Vua thấy, động lòng thương,

Hứa cho bánh và nước.
Thế mà ngài lại quên,
Về đến nhà mới nhớ,
Thì trời đã tối đen.

Vua sai lính đưa bánh.
Chúng sợ không dám liều.
Vì nghe nói chỗ ấy
Ma quỉ có rất nhiều.

Cuối cùng vua hứa thưởng
Một nghìn đồng tiền vàng
Cho ai đưa bánh, nước
Giúp người kia trong rừng.

Vợ của người nghèo đói,
Tức là cô Sai Ma
Đã nhận lời đưa bánh
Và nước cho anh ta.

Quả đúng nhiều thú dữ
Và ma quỉ hiện lên.
Nhờ Bát Quan Trai Giới
Nên cô vẫn bình yên.

Sau đó cô nhận thưởng,
Xây ngôi nhà thật to,
Mua ruộng, thuê đầy tớ,
Sống hạnh phúc, vô lo.

Chồng cô, anh nghèo đói
Được vua triệu vào cung,
Cho một chức quan lớn,
Cũng vinh hiển vô cùng.

Vậy là ta đã thấy,
Nhờ một bữa cúng dàng
Mà một nhà nghèo khổ
Được ân phước nghìn vàng.

Một hôm gia đình họ
Sửa lễ trọng cúng trai,
Mời Đức Phật đến dự.
Tôi cũng đi với Ngài.

Cơm xong, Phật thuyết pháp
Về bố thí, sinh thiên,
Về cả phép trì giới,
Và các phép đức, hiền.

Hai vợ chồng chăm chăm chú
Nghe, tâm trí sáng dần,
Như uống nước cam lộ,
Chứng quả Tu Đà Hoàn.

Chúng tôi thấy, hoan hỉ,
Ca ngợi thầy Thích Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.


36
SÀ CA PHÀN

Tôi chứng kiến tận mắt
Cùng rất nhiều tăng ni
Chuyện ở núi Linh Thứu,
Thuộc nước La Duyệt Kỳ.

Hôm ấy Đức Phật kể
Cho tôi và nhiều người
Một câu chuyện kỳ lạ,
Loại hiếm có trên đời.

Chuyện kể xưa, nước nọ,
Có một người rất giàu,
Được vua tám vạn nước
Quí trọng như công hầu.

Tiếc là ông có tuổi
Mà chưa có con trai.
Hơn mười năm cầu nguyện,
Bà vợ ông có thai.

Bà sinh được quí tử
Da óng vàng, mắt xanh,
Trán cao, chiếc mũi thẳng,
Đôi mắt sáng long lanh.

Bố mẹ cậu mừng lắm,
Đặt tên Sà Ca Phàn.
Cậu sống trong nhung lụa
Cùng tiếng sáo, tiếng đàn.

Lớn lên, chàng ham học
Lại rất đỗi thông minh,
Học đến đâu, nhớ đấy,
Thuộc lòng mười tám kinh.

Một hôm chàng xin phép
Bố mẹ cho đi chơi,
Về nông thôn thăm thú,
Xem cuộc sống mọi người.

Bố mẹ chàng đồng ý,
Bèn sai sửa lại đường,
Sai dọn dẹp, tẩy uế,
Cắm cờ và thắp hương.

Chàng, cùng đội kèn trống,
Cưỡi đại voi đi đầu.
Một nghìn người cưỡi ngựa
Và cưỡi voi theo sau.

Trông chàng như thiên sứ,
Dân kéo đến rất đông.
Trầm trồ khen, thán phục,
Cả vòng ngoài, vòng trong.

Đi một chốc, chàng thấy
Có mấy người ăn mày,
Rách rưởi và bẩn thỉu,
Chiếc bát nhỏ trên tay.

Hỏi thì chúng liền đáp,
Do thua lỗ, nợ nần,
Đau ốm và đói khổ,
Chúng phải đi xin ăn.

Lần đầu thấy cảnh ấy,
Chàng ngạc nhiên, đăm chiêu,
Không ngờ trong cuộc sống
Người đói khổ còn nhiều.

Lát sau, chàng lại thấy
Năm sáu bác nhà nông
Đang cày cuốc vất vả
Dưới nắng gắt oi nồng.

Giun dế bị xới lật,
Liền bị ếch nhái ăn.
Chim chóc ăn ếch nhái.
Cứ thế rất nhiều lần.

Gần như cùng lúc ấy,
Trong một khu rừng dày
Có nhiều thợ săn bắn
Bắt những con chim này.

Hỏi, thì họ cho biết
Săn bắn là một nghề
Đã giúp nuôi sống họ,
Dẫu vất vả, nặng nề.

Trên một dòng sông rộng
Chàng thấy nhiều dân chài
Đang giăng lưới bắt cá,
Cả tôm tép, ốc trai.

Giờ thì chàng đã hiểu,
Rằng để tự nuôi mình,
Con người phải làm ác,
Sinh linh giết sinh linh.

Đau lòng và thất vọng,
Chàng vội vã quay về,
Nghĩ cách cứu dân chúng
Khỏi số phận nặng nề.

Đến nơi, chàng lập tức
Quì gối, khóc, xin cha
Cho mở các kho thóc
Để phát chẩn gần xa.

Chiều con, ông trưởng giả
Cuối cùng cũng bằng lòng.
Tiếc là thóc chóng hết,
Vì người xin rất đông.

Chàng lại buồn, chợt nghĩ
Rằng chàng phải tự mình
Làm một việc gì đó
Để cứu giúp chúng sinh.

Chàng nghe nói ngoài biển,
Trong vương quốc Long Vương,
Có rất nhiều châu báu
Và vật hiếm khác thường.

Chỉ cần chàng lấy được
Một phần nhỏ mang về
Là đủ để nuôi sống
Toàn dân Diêm Phủ Đề.

Lần nữa chàng cúi lạy
Xin phép được đi xa.
Bố mẹ chàng không chịu,
Chàng nằm ngay giữa nhà,

Một tuần không động đậy,
Cũng chẳng ăn uống gì.
Cuối cùng, sợ con chết,
Họ phải để chàng đi.

Chàng cho đóng thuyền lớn.
Năm trăm người đi theo.
Rồi đồng lòng, xuất phát,
Bất chấp mọi hiểm nghèo.

Mấy ngày sau thì gặp
Một bãi cát mênh mông,
Họ ghé nghỉ, bất chợt
Một toán cướp rất đông

Liền kéo đến cướp phá,
Chẳng chừa lại cái gì.
Hôm sau, với thuyền rỗng,
Đoàn người lại ra đi.

Họ đến một hòn đảo
Xinh đẹp và rất giàu.
Ở đấy có trưởng giả
Thuộc vào hàng công hầu.

Ông có cô con gái
Ngoan và đẹp tuyệt trần.
Hơn tám vạn vương tử
Đã đến quì dưới chân.

Nàng vẫn không đồng ý.
Thế mà vừa thấy chàng,
Đã đem lòng yêu mến
Rồi thưa với cha nàng.

Ông trưởng giả vui vẻ
Hào phóng cho chàng vay
Ba vạn lạng vàng tốt
Và thức ăn nhiều ngày.

Với điều kiện chàng hứa
Lúc quay về, thành công,
Chàng sẽ trả món nợ
Và cưới con gái ông.

Chàng đồng ý, lập tức
Cho đóng thêm nhiều thuyền,
Bảy lớp dày, vững chắc,
Sẵn sàng đợi triều lên.

Nhờ thuyền tốt, gió thuận,
Thuyền lướt nhanh, nhẹ nhàng.
Họ đến một hòn đảo
Đầy ngọc quí, bạc vàng.

Đó là một kho báu
Đầy ắp và vắng người.
Không biết ai là chủ,
Đã tồn tại bao đời.

Các thủy thủ thỏa thích
Chất lên thuyền của mình
Nhiều bao tải vàng bạc
Và kim cương lung linh.

Khi mọi người chuẩn bị
Lên thuyền trở về quê
Thì bất ngờ chàng nói
Chàng ở lại không về.

Vì chàng muốn nhân tiện
Tìm cách gặp Long Vương
Để xin nhẫn Như Ý
Có phép lạ phi thường.

Các thủy thủ phản đối,
Nhưng chẳng biết làm gì.
Cuối cùng chàng ở lại,
Thuyền giăng buồm, quay đi.

Chàng chắp tay niệm Phật,
Cúi đầu lạy bốn phương,
Cầu xin Phật phù trợ
Giúp tìm được Long Vương.

Và nhờ phép mầu nhiệm
Của Đức Phật toàn năng,
Chàng bước đi trên nước
Như đi giữa đất bằng.

Chàng một mình, cứ bước,
Gặp rất nhiều gian nguy.
Cảm hóa nhiều thú dữ
Chàng gặp dọc đường đi.

Rồi chàng được vua quỉ
Có pháp thuật phi thường
Đưa đi trong nháy mắt
Đến lâu đài Long Vương.

Lần nữa chàng cảm hóa
Đôi rồng canh lâu đài,
Vào sâu trong cung cấm,
Nơi vua ngồi trên ngai.

Vua Long Vương mừng rỡ,
Đón chàng rất thân tình.
Ngài còn hào phóng hứa
Cho viên ngọc của mình.

Tuy nhiên, trong một tháng
Chàng phải giảng ngài nghe
Về giáo lý đạo Phật
Và chuyện Diêm Phủ Đề.

Ngoài ra, ngài còn muốn
Thành đệ tử sau này
Khi chàng trở thành Phật,
Để theo chàng đêm ngày.

Chàng vui vẻ đồng ý.
Rồi một tháng trôi qua,
Viên ngọc thần Như Ý
Giúp chàng trở về nhà.

Nhớ lời hẹn ngày trước,
Trên đường bay trở về,
Chàng ghé xuống hòn đảo
Của ông Ca Tỳ Lê.

Ông nhận lại tiền nợ,
Trao con gái cho chàng
Cùng năm trăm trinh nữ
Đi theo để hầu nàng.

Và rồi, trong nháy mắt,
Chàng về đến quê nhà,
Bố mẹ chàng đau khổ,
Khóc con, thành mù lòa.

Nhờ ngọc thần Như Ý,
Đôi mắt của hai người
Lại sáng, còn hơn trước,
Nhìn rõ tận chân trời.

Đúng bảy ngày sau đó,
Chàng dâng ngọc, đăng đàn,
Cầu mưa hòa gió thuận
Và quốc thái, dân an.

Chàng rũ tóc, phát nguyện:
“Nếu đúng là ngọc thần,
Xin hãy mưa lương thực
Và vàng bạc cho dân!”

Dứt lời, trời chao đảo,
Sấm dọc rồi chớp ngang.
Từ trên trời rơi xuống
Một trận mưa bạc vàng.

Mưa một ngày chưa dứt.
Toàn dân Diêm Phủ Đề
Cứ ra nhặt thỏa thích
Rồi gồng gánh mang về.

Từ đó họ no đủ,
Không còn lo cái ăn.
Không còn làm điều ác,
Chỉ tu dưỡng tinh thần.

*
Kể xong, Đức Phật nói
Với tôi, A Nan Đà:
“Chàng trai đi tìm ngọc
Là tiền thân của ta.

Còn ông Xá Lợi Phất
Chính là vua Long Vương,
Một con người nhân đức
Và trung tín lạ thường.

Chúng tôi nghe, hoan hỉ,
Ca ngợi thầy Thích Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.


37
TRÍ NHỚ CỦA A NAN ĐÀ

Hồi ấy ở Xá Vệ,
Trong vườn cây Kỳ Đà,
Chúng tôi cùng tá túc
Với Đức Phật Thích Ca.

Các chư tăng, đệ tử
Thường cho tôi là người
Có trí nhớ rất tốt,
Nên ngợi khen hết lời.

Họ bèn hỏi Đức Phật,
Kiếp trước tôi làm gì
Mà giờ thông minh thế,
Uyên bác chẳng ai bì.

Đức Phật kể câu chuyện,
Rằng ngày xưa, lâu rồi
Có một nhà sư nọ
Nuôi chú tiểu không tồi.

Nhưng ông này nghiêm khắc,
Bắt tụng kinh hàng ngày
Đúng giờ, đúng thời lượng,
Không, sẽ bị ông rầy.

Cái khó là chú tiểu
Phải khất thực hàng ngày.
Có hôm được, về sớm.
Cũng có hôm trắng tay.

Nên nhiều hôm chú đói,
Vì phải về đúng giờ.
Không về sẽ bị mắng,
Chú khóc, buồn ủ ê.

Lần nọ, một trưởng giả
Hỏi chú có chuyện gì
Mà buồn rầu, phải khóc.
Ta sẽ giúp, nói đi.

Chú đem chuyện ấy nói.
Ông bảo chú thế này:
“Tụng kinh phải đúng lúc.
Ta giúp chú - từ nay

Không phải lo ăn uống,
Để lo việc tụng kinh
Đúng giờ, đúng thời lượng.
Sư cụ khỏi bực mình.”

Và thế là từ đấy
Chú tiểu cứ đều đều
Tụng kinh rất chăm chỉ,
Được sư già thương yêu.

*
Kể đến đây, Phật nói:
“Sư là Phật Định Quang.
Còn ta là chú tiểu.
Ông trưởng giả cúng dàng,

Người biết lo chu đáo,
Chính là A Nan Đà.
Ông là người thông tuệ,
Nhớ hết lời của ta”

Chúng tôi nghe, hoan hỉ,
Ca ngợi thầy Thích Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.


38
CÁ TRĂM ĐẦU

Chính tôi được chứng kiến
Chuyện này của Thích Ca
Khi Ngài ở Vườn Trúc
Của nước Ma Kiệt Đà.

Đức Thế Tôn ngày nọ,
Cùng đệ tử ra đi
Khất thực tận một nước
Có tên Tỳ Xá Ly.

Trên bờ sông Lê Việt,
Ngài ngồi cùng tỳ kheo,
Thưởng thức chút hơi mát
Giữa nắng nóng buổi chiều.

Quanh chúng tôi lúc ấy
Năm trăm người chăn trâu,
Năm trăm người đánh cá,
Đang kéo lưới bên cầu.

Năm trăm người kéo lưới,
Kéo mãi vẫn không lên.
Họ phải nhờ mấy bác
Đang chăn trâu kề bên.

Cuối cùng họ kéo được
Một con cá khổng lồ
Có trăm cái đầu thú
Như hổ, lợn, trâu, bò…

Mọi người thấy cá lạ,
Tranh nhau xem, ồn ào.
Phật dẫn các đệ tử
Đến xem thử thế nào.

Khi thấy con cá ấy,
Trăm chiếc đầu, Thích Ca
Bèn lên tiếng hỏi nó:
“Ca Tỳ Lê đấy à?”

“Thưa vâng,” con cá đáp.
“Kiếp sau ngươi làm gì?”
“Kiếp sau con phải sống
Dưới địa ngục A Tỳ.”

Nghe cá đáp, thấy lạ,
Chính tôi, A Nan Đà,
Muốn biết rõ sự việc,
Bèn hỏi Phật Thích Ca.

Phật nói, nhiều kiếp trước,
Có ông Bà La Môn,
Thời Đức Phật Ca Diếp.
Ông này có anh con

Khá thông minh, tài giỏi,
Nhưng ngạo mạn, hợm mình.
Tranh luận với người khác,
Thường tỏ ý coi khinh.

Không ít lần hỗn láo,
Cậu gọi các sa-môn
Bằng tên các loài vật,
Đủ các loài, các con.

Đến đây, Đức Phật nói:
“Các đệ tử lắng nghe.
Con người phạm thượng ấy
Chính là Ca Tỳ Lê.

Vì sự hỗn láo đó
Mà nhiều kiếp xưa nay
Anh ta bị nghiệp chướng
Thành con cá thế này.”

Tiếp đến, Ngài giảng pháp.
Năm trăm người chăn trâu,
Năm trăm người đánh cá,
Nghe, sáng láng trong đầu.

Rồi cả nghìn người ấy
Quì trước Phật Thích Ca,
Muốn qui y theo Phật,
Mong sớm được xuất gia.

Đức Phật rất hoan hỉ,
Nói: “Tỳ Kheo Thiện Lai!”
Lập tức thành phật tử,
Họ cùng đi theo Ngài.

No comments:

Post a Comment