Tác giả:
Còn gọi là Sái Thuận, nhà thơ lớn thời Hậu Lê, sinh năm 1440, ngày mất không
rõ. Đỗ tiến sĩ 1475, quê ở Siêu Loại, Bắc Ninh, được Lê Thánh Tông đặc cách ban
phong “Tao Đàn Phó nguyên súy” (tức chỉ sau vua trong câu lạc bộ thơ nổi tiếng
thời bấy giờ). Ông tổ của dòng họ Thái Bá ở Nghệ An về sau, mà dịch giả Thái Bá
Tân của tập thơ này là một hậu duệ. Tác phẩm có “Lã Đường di cảo thi tập”, được
dịch in ở miền Nam trước giải phóng, năm 1972, và ở miền bắc năm 1974 và 1990.
Thơ Thái Thuận tinh tế, tao nhã, rất được người đương thời ca tụng. Trong tập
Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ có hẳn một truyện nói về ông.
Bến Hoàng Giang
Hoàng Giang, thuyền ghé bến.
Nhà tranh khói bập bồng.
Trẻ con, ba bốn đứa
Tìm bắt cáy ven sông.
Tiễn biệt
Sớm - oanh hót vườn cấm.
Chiều - yến bay gần xa.
Đầu hè chơi thỏa thích,
Chợt muốn về vườn nhà.
Đêm xuân
Trăng chiếu qua rèm, trắng lẫn đen.
Không người dệt gấm để hàn huyên.
Chợt tỉnh, như nghe ai khẽ gọi.
Sau bụi cúc vàng, tiếng đỗ quyên.
Oán mùa xuân ở Tây Hồ
Đêm đêm thấm lạnh ánh trăng tà.
Không thuộc nhà nào, xuân cứ qua.
Cuộc vui đã hết, buồn ngơ ngác,
Buồn không ai đến hỏi mua hoa.
Nhìn khói xuân buổi sáng sớm
Nguyệt lặn, xa xa hửng sáng dần.
Hoa lồng bóng nguyệt múa ngoài sân.
Theo mặt trời lên, trăng xạm tối,
Trao hàng liễu biếc cái sầu xuân.
Làng ven núi
Mưa tạnh, đường làng ngập xác hoa.
Nhao nhác quạ bay giữa nắng tà.
Ông lão bạc đầu hờ hững quét
Cánh đỏ cánh vàng chẳng xót xa.
Chiều muộn bên sông
Bãi sông, mưa, nước ngập,
Nhà nông tranh thủ cày,
Giục trâu đi, cò trắng
Giật mình, nháo nhác bay.
Đêm thu
Như nước, trời xanh ngỡ rất gần.
Ngô đồng không gió, rụng đầy sân.
Một mình ngồi ngắm cầu ô thước,
Thuyền thơ cập bến giữa sông Ngân.
Buổi sáng, xuất phát sớm từ
làng ven sông
Xóm chài gà gáy rộn đâu đây.
Trăng mờ khói nước phía trời tây.
Gió thổi bờ lau, thu vạn dặm.
Mờ mờ bãi cát cánh chim bay.
Đi thuyền trên sông La, ngẫu
nhiên làm thơ
Trên sông trăng gió gọi xa xa.
Chong đèn bên sách thức mình ta.
Chim cuốc từ đâu kêu da diết.
Muốn ngủ nằm mơ thấy ở nhà.
Xóm nhỏ ven sông
Trên sông triều rút, lộ cát lầy.
Từng đàn chim trắng rủ nhau bay.
Một chiếc áo tơi che khói lạnh.
Trên trời gió thổi, cuốn sông mây.
Trên đường Bồn Man lúc đi
chinh tây
Xuống lên, đường núi một màu xanh.
Hoàn toàn tĩnh lặng bốn xung quanh.
Chỉ tiếng mùa thu đang lặng lẽ
Rơi theo từng nhịp trống quân hành.
Trào lộng
Giữ mình, luôn đóng cửa phòng the.
Kín đáo rèm châu phủ bốn bề.
Nhưng sao giữ được trăng và gió
Lọt vào tình tự lúc đêm khuya?
Đầu xuân
Năm cũ hết rồi, sương mới tan.
Đào chưa ra nụ, liễu úa tàn.
Đa tình đám cỏ ngoài sân vắng
Đã kịp xanh rờn, chạy trước xuân.
Ngày hè
Công danh, phú quí chẳng bền lâu.
Rượu ngon hãy uống để xua sầu.
Chín chục ngày hè râm mát lạ.
Gió trời ai thổi, đến từ đâu ?
Đêm thứ năm tại nhà trực Kim
Phong
Tiếng chày đập vải phía xa xa.
Bên hiên chênh chếch mảnh trăng tà.
Gối lạnh đêm khuya không ngủ được.
Vạn Xuân, man mác nỗi nhớ nhà.
Lui triều
Chuông lầu Ngũ Phượng vọng về đây.
Nhà ngọc, chầu tan, đợi suốt ngày.
Mùa đông giá lạnh, mây sà thấp.
Xế chiều gió thổi, cánh mai bay.
Nhớ nhà
Phía đông, sông Nhị đợi người về.
Quán trọ một mình, buồn ủ ê.
Thêm một mùa xuân đành lỗi hẹn,
Phụ tình chim cuốc gọi về quê.
Buổi chiều ở Tân Yên, nhìn ra
xa
Mờ mờ nắng tắt phía trời tây.
Điếm canh như thấp, khác thường ngày.
Đất khách cái buồn còn trĩu nặng,
Thêm buồn trăng gió kéo vào đây.
Ngắm cảnh xuân ở Thuận An
Như gấm, khói giăng bụi trúc già.
Cây cam, khóm mía mọc bên nhà.
Ngắm cảnh thái bình vui mắt thật.
Một làn gió thổi, nở muôn hoa.
Trên đường Thái Nguyên
Thưa thớt dân cư, cỏ mọc dày.
Đất cằn, gió nóng sém rừng cây.
Ngày trước tai nghe, nay mắt thấy,
Làm gì để giúp đất này đây ?
Ngày thu lên chùa trên núi ở
Đông Triều
Mưa tạnh, mây tan, nắng xế tà.
Mái chùa thấp thoáng phía xa xa.
Vài tiếng chim kêu, rừng tịch mịch.
Thu về, cây quế đã ra hoa.
Đêm thu ở thành Thanh Hoa
Đêm vắng một mình bên góc sân
Ngắm cầu Ô Thước bắc sông Ngân.
Một vành trăng sáng soi thiên hạ.
Chày vải đêm thu rộn cõi trần.
Ngày đông ở Chí Linh
Xế chiều, mai nở trắng khắp nơi.
Rượu nhạt mà ngon, uống ấm người.
Sương giá mùa đông chưa kịp tới,
Bốn bề cây cối vẫn xanh tươi.
Tạm đậu thuyền ở Bình Hà
Tháng Tám, trời trong, rộn tiếng gà.
Thuyền thơ núp tạm bóng cây đa.
Ruộng lúa, bãi dừa, ăm ắp nước.
Triều dâng, trời hửng phía xa xa.
Đến bến đò Đại Than
Cây đa soi bóng nước xanh trong.
Bâng khuâng đi hết quãng đường đồng.
Tù túng mười năm ngồi một chỗ,
Bây giờ có dịp ngắm non sông.
Đề thơ ở đình Bến Chiền
Bụi đời chưa sạch, sáng hôm nay
Nhàn, buộc thuyền thơ ở bến này.
Núi sông cảnh đẹp lên thăm thú.
Chắc gì có dịp lại về đây!
Thơ để lại ở quan phủ Hải
Dương
Chiều bến Bình Than, tiếng sáo thuyền.
Đêm chùa Phả Lại, Phật chong đèn.
Quan khách tới đây, thăm với viếng,
“Lo trước vui sau” mấy bậc hiền?
Thơ đề am Vân Tiên
Xuyên rừng, đường nhỏ uốn quanh quanh.
Lơ lửng trên cao, sáng một vành.
Gặp sư muốn hỏi mà không hỏi -
Ngại làm xáo động chốn rừng xanh.
Thơ đề tức cảnh chùa Tùng
Nghiêm
Chuông chiều, trong núi quạ kêu ran.
Trùng điệp núi xanh, cây bạt ngàn.
Nhà chùa thanh đạm, không tơ trúc,
Chỉ tiếng thông reo tựa tiếng đàn.
Xuất phát từ Đại Than,
làm thơ lưu biệt các bạn ở
Hải Dương
Kinh đô phía trước, vệt mờ xa.
Thuyền con một chiếc, chẳng nề hà.
Thân thiết như nhau, nam với bắc.
Nước ở Đại Than giống Nhị Hà.
Đầu xuân
Năm cũ qua rồi, thôi giá lạnh.
Hoa đào hé nụ, liễu chưa xanh.
Đám cỏ ngoài vườn, xuân mới đến,
Mà đã xanh tươi, thật hữu tình.
Sáng sớm, đi Đông Triều
Gà còn chưa báo sáng,
Thuyền đã đi, lúc này
Triều đang lên, nước đục,
Nhợt nhạt mảnh trăng gầy.
Gió lạnh thổi ngoài bãi.
Bến cá chìm trong mây.
Khúc Thương Lang ai hát,
Chim giật mình trên cây.
Thương xuân
Mặt trời lặng lẽ chạy về tây.
Chín chục thiều quang còn mấy ngày.
Oanh sầu, yến thảm thôn Hoa Rụng.
Bến đò, bãi cỏ phủ đầy mây.
Giấc mộng Nam Hoa 1) thường dễ mắc.
Ai như Bắc Hải 2) ở đời này?
Mờ mịt khói sông, trời chạng vạng.
Ngoái lại nhìn đời, buồn lắm thay.
1. Nam Hoa là tên sách của Trang Chu. Trong
sách có chuyện Trang Chu mộng thấy mình hóa thành bướm bay nhởn nhơ rất thích,
khi tỉnh ngỡ ngàng không biết mình hóa thành bướm hay ngược lại.
2. Bắc Hải
là hiệu của Khổng Dung, người đời hậu Hán, hào hoa phong nhã, trong nhà
lúc nào cũng có khách, chén rượu không mấy lúc trống không.
Chiều xuân
Bèo nổi thân này, nghĩ xót xa.
Xuân đến, xuân đi, ai chẳng già.
Dưới cầu nước chảy, buông tơ liễu,
Trên sông não ruột tiếng đa đa.
Vô cớ, tán cây lồng bóng nguyệt.
Gió quyện hương thơm vẫn mặn mà.
Thiều quang chín chục không còn nữa.
Thẹn lòng hiếu thảo kẻ đi xa.
Đi sớm
Ra đi trời chưa sáng,
Trăng gặp người trên sông.
Ảo mờ như trong mộng.
Mây là là trên đồng.
Trước hoa đỗ quyên hót.
Đo đỏ đèn bãi nông.
Đi qua hết chợ cũ
Mới nghe chuông chùa Bồng.
Đầu xuân
Ba tháng đông qua, xuân lại về.
Khí trời chuyển ấm, gió se se.
Giá lạnh còn vương trên mặt nước,
Sắc xuân trên lá đã tràn trề.
Liễu lại xanh tươi, oanh chửa hót.
Chớm nụ hoa đào, vắng tiếng ve.
Hoàng hôn, ngoái lại nhìn quê cũ,
Du tử bùi ngùi những tái tê.
Đêm thu ở Tràng An
Tiếng chày đập vải vọng từ đâu.
Một mình quán trọ giữa thu thâu.
Khí mát đầy sân, cơn gió thổi.
Lạnh lẽo trăng soi nửa gác lầu.
Tù và rền rĩ trên thành vắng.
Dế khóc buồn buồn ngoài bãi dâu.
Trăm mối cảm thương không nén được.
Chỉ sợ sáng mai bạc trắng đầu.
Chiều xuân ở Tràng An
Tự biết tài hèn, chẳng dám khoe.
Tràng An 1) sống uổng, phí đam mê.
Nhà quan buồn vắng như nhà sãi.
Mùa đông vất vả giống mùa hè.
Thương con bướm múa nơi vườn uyển,
Phụ lòng chim cuốc gọi về quê.
Mua rượu, trong lưng tiền chẳng có.
Vợ con cơm cháo khổ trăm bề.
1. Còn gọi Trường An, tên đất thuộc tỉnh Thiểm
Tây, Trung Quốc. Bắt đầu từ đời Hán các vua Trung Hoa đều đóng đô ở Tràng An.
Sau này chữ Tràng An được dùng để chỉ thủ đô, cả ở Trung Quốc lẫn Việt Nam.
Quán khách đêm thu
Nhà tranh che khuất vệt sao mờ.
Tiếng dế kêu hoài, buồn vẩn vơ.
Lá rụng một sân, thu sắp hết.
Nửa gối gió lùa, tỉnh giấc mơ.
Kẻ bắc người nam, nhiều nước mắt.
Trời đất xưa nay luôn hững hờ.
Bao bận tương tư, thi hứng tắt.
Cảm hoài, quán khách chẳng thành thơ.
Thơ đề ở chùa Phổ Lại
Núi đến đây gặp suối.
Núi chạy từ phía đông.
Tiếng chuông xuôi về biển.
Trăng thu soi xuống sông.
Rồng ngậm nước ngoài bãi.
Cò đứng ngủ bên song.
Thỉnh thoảng sư thức giấc
Vì tiếng sáo ngư ông.
Đêm thu tức sự
Mưa tạnh, sân đường hết bụi nhơ.
Đang đêm thu hứng đến bất ngờ.
Ngô đồng lá úa bay theo gió.
Lưa thưa bóng liễu dưới trăng mờ.
Sương lạnh, tiếng trùng như thấm nước.
Không cháy thành tro, cỏ đốt hờ.
Bắt chước người xưa Đào Bành Trạch 1),
Ngắm hoa, uống rượu, hứng - làm thơ.
1. Tức Đào Tiềm (365 - 427), người Đông Tấn,
tự Uyên Minh, biêt hiệu Ngũ Liễu Tiên Sinh, nổi tiếng tài ba lỗi lạc, là nhà
thơ lớn, thích uống rượu ngắm hoa cúc, tính tình phóng đạt.
Núi Vọng Phu
Đầu non hóa đá, ngày lại ngày
Chờ gặp lại chồng, chồng có hay?
Mỏi mắt bao năm nhìn phía trước,
Để hồn lặng lẽ thấm vào mây.
Sương đọng trong hoa như nước mắt.
Như tiếng thở dài, khói trên cây.
Nếu biết có người đau khổ thế,
Tương Phi 1) chắc đến khóc nơi này.
1. Vua Thuấn băng hà, hai bà vợ là Nga Hoàng
và Nữ Anh khóc ở sông Tương, nước mắt rơi xuống làm sông đỏ rực. Người đời sau
gọi hai bà là Tương Phi.
Chinh phụ ngâm
Cỏ đã lại xanh, lúa trĩu bông.
Bao lâu mới hết cảnh chờ chồng?
Một tiếng quyên kêu, rơi nước mắt.
Nửa rèm trăng úa, lạnh đêm đông.
Bóng nhạn cút côi bên ải bắc.
Sông nam xuân héo, nước xuôi dòng.
Mấy bận tương tư trong giấc mộng,
Thiếp đến với chàng, chàng biết không?
Nhìn mây trắng
Lớp lớp quê nhà mây trắng bay.
Động lòng thương nhớ, ngắm từ đây.
Quê hương nghìn dặm, nhìn heo hút.
Trăm năm mẫu tử một tình này.
Gạt lệ, tự tin ngày báo đáp.
Ai người múa áo ngũ sắc đây?
Vẹn tròn trung hiếu xưa nay hiếm.
Trời xanh chứng kiến tấm lòng ngay.
Cây chuối
Cao, với không đến ngọn
Vươn lên trời bao la.
Lớp lớp xanh biếc lá.
Tầng tầng đỏ rực hoa.
Đêm mưa nghe lộp độp.
Sột soạt gió thổi qua.
Đứng sít nhau thành dãy.
Cây non giống cây già.
Tiễn quan vệ úy người phủ
Thiên Trường về quê
Nghe nói Sơn Nam mười mấy phủ,
Thiên Trường - phủ lớn, đẹp xưa nay.
Nhà công bên suối, nhiều tôm cá.
Xóm làng gần núi, trái đầy cây.
Giao Thủy, chuông chùa vương vệt nắng.
Phổ Minh, vạc cũ thấm sương dày.
Bác đi chuyến này vui là chính.
Cánh buồm man mác giữa trời mây.
Lên chùa núi Yên Tử
Hoa đồng, gió núi, mây phiêu diêu.
Lối đi cỏ mọc, đá xanh rêu.
Không mộng công danh, sư lánh tục.
Trúc già, vân đẹp tựa hoa thêu.
Đắc đạo, đứng xem dâm bụt nở.
Tĩnh tâm ngồi ngắm áng mây chiều.
Có tiếng người nào đang tiễn khách,
Xen tiếng hổ gầm, tiếng vượn kêu.
Tiễn quan kiểm thảo họ Ngô về
Gia Lâm
Ngựa hý, chồn chân trước cổng thành.
Nắng hửng trên sông, én lượn quanh.
Đỗ quyên cánh đỏ nhờ hoa đỏ.
Cây xanh soi bóng, nước thêm xanh.
Bạn bè cũ mới cùng nâng chén.
Tà áo phất phơ, gió mát lành.
Đừng quên thân phụ đang chờ đợi.
Dặm trường ghềnh thác, nhớ về nhanh.
Trong thuyền, ở Nghệ An
Bầu trời xanh ngắt, khói mây bay.
Chơ vơ, tít tắp cánh buồm gầy.
Ganh đua, sông núi thi nhau chạy.
Buồn buồn sóng biển, gió heo may.
Trời già, luống thẹn thuyền câu nhỏ.
Sóng lặng, tiết trời ít đổi thay.
Vùng biển đông nam nhiều cá nhám,
Ngon như gỏi ngọc ở nơi này.
Chơi núi ở Thanh Giang 1)
Chẳng ngại hùm beo, núi chọc trời,
Sáng ngồi kiệu nhỏ, đến đây chơi.
Lối đi rừng rậm in chân thú.
Đường nhỏ đầy rêu, vắng bóng người.
Từ cao suối đổ, mang hơi lạnh.
Cây khẽ uốn mình, gió lả lơi.
Hành dinh Thánh Tổ cao vòi vọi,
Lưu danh thắng giặc đến muôn đời.
1. Tên cũ huyện Thanh Chương ngày nay ở Nghệ
An.
Ở ẩn
Mỏi mệt, buồn lo, lấm bụi trần,
Chọn rừng lập xóm để nương thân.
Núi sông là cảnh, hoa là khách.
Không người, không ngựa đợi ngoài sân.
Đồng Giang 1) câu cá, quên cung Hán.
Chí Lĩnh 2) cày mây, lánh nạn Tần.
Bắt chước Đào Tiềm, xong việc lớn,
Ngũ Hồ du ngoạn thật nhàn thân.
1. Một con sông phát nguyên từ Tứ Xuyên. Nghiêm
Tử Lang là vị cao hiền đời Hán, không chịu xuất sĩ, hàng ngày ngồi câu cá bên
sông làm vui.
2. Tên núi ở Giang Tây. Giang Vạn Lý đời Tống
bị kẻ nịnh gièm pha phải mất chức, đến núi Chí Lĩnh đào ao, làm vườn, vui sống
ẩn dật.
Dậy sớm
Tam Thiên 1) giấc mộng vẫn còn đây.
Mùi thơm sách cổ vấn vương bay.
Dế khóc ngoài vườn, sương đã tạnh.
Dưới hồ trăng sáng, nước lung lay.
Chủ khách trước đèn lưu luyến mãi.
Hão huyền danh vọng chẳng hề hay.
Xóm, thôn bắc gà đang gáy.
Ngước mắt nhìn sao, đã rạng ngày.
1. Phật gọi vũ trụ là Tam Thiên Thế giới. Ở
đây ý nói vừa chợt giấc, như đang trong mộng.
Tiễn Đỗ Minh Phủ 1)
Áo mỏng, quạt lông, đã mấy lần
Tây Hồ tôi bác dạo chơi xuân.
Đình viện đu tiên, hoa với bướm.
Lâu đài tiếng sáo, tiếng đàn ngân.
Một sớm gió mưa, thành cách biệt.
Đôi ngả hai người sông núi ngăn.
Hôm nay ngoái lại, thầm đau xót:
Đình Châu chỉ có bãi rau tần.
1. Không rõ là ai.
Hoàng Giang 1) tức cảnh
Sóng yên, tĩnh lặng một dòng sông.
Mắt nhìn trời đất rộng mênh mông.
Làng quê đây đó đèn le lói.
Hai phía triều dâng ngập lút đồng.
Bãi lau trăng chiếu, thuyền đơn độc.
Bến đò tiếng sáo nhẹ như không.
Lữ khách ngả lưng, vừa chợp mắt,
Canh ba giấc mộng đã say nồng.
1. Tên khúc sông Hồng ở địa phận Hà Nam.
Cầu Mặc Động 1)
Khe sâu, cầu ván bắc ngang qua,
Gần con đường nhỏ chạy bên nhà.
Trên núi trăng lên, tre đổ bóng.
Trong làng gió vẳng tiếng đàn ca.
Như thể bờ đi, thuyền đứng lặng.
Nước trong như muối, chảy hiền hòa.
Con cáy dưới cầu đang nghịch cát,
Dút dát, thấy người, vội lánh xa.
1. Chưa rõ nơi nào.
Sáng sớm, qua cửa biển Trầm
Hào
Côi cút ngọn đèn ở bến sông.
Gió yên, mây đứng lặng trên không.
Sóng gợn lăn tăn, cây khói nhạt.
Như mưa, mờ mịt cỏ trên đồng.
Khua nhẹ mái chèo, tôm cá quẫy.
Đàn cò quần tụ cạnh ngư ông.
Đầu thuyền uống rượu, quên không rót,
Ngồi xem nước cuộn, chảy về đông.
Thành Thuận Hóa 1) tức sự
Thuyền thuyền cập bến những miền xa.
Cửa sông cầu mống bắc ngang qua.
Mùi thơm sóng biển hòa trong gió.
Núi núi liền nhau giữa nắng tà.
Chợ chiều đông khách, quần áo đẹp.
Sáo vẳng thuyền đêm, tiếng mượt mà.
Dẫu không biết chuyện Giang Nam hận,
Người thổi thổi bài Lạc Mai Ba 2).
1. Thuộc tỉnh Thừa Thiên hiện nay.
2. Tên một khúc hát buồn. Lý Bạch có thơ:
Hoàng Hạc lầu trung xuy ngọc địch/ Giang thành ngũ nguyệt Lạc Mai Ba. Hai câu
cuối bai này ngụ ý chê bọn vong quốc chỉ biết hưởng thụ trước mắt mà quên hận
nước nhà.
Buổi chiều đến Triều Tân, xúc
cảm thành thơ
Chiều buông, gió lạnh thổi trên không.
Ở đây lắm chuyện ngẫm đau lòng.
Mất mùa, dân đói, làng xơ xác.
Lâu ngày nắng hạn, đất khô cong.
Mây bay từng tụm như lông phượng.
Ruộng hoang khói bốc, giống râu rồng.
Gặp ta, ba bốn ông già hỏi:
Ngày nào trở lại đất Thăng Long?
Hoa cúc
Thu muộn, một mình với gió sương,
Mấy bông cúc đẹp nở bên đường.
Bãi cỏ đêm đêm đom đóm lượn.
Thập thò bụi trúc giống chồn hương.
Hoa đẹp thường không quen giá lạnh.
Một lòng hoa cúc đợi Trùng Dương 1).
Ngắm hoa, chợt nhớ Đào Bành Trạch,
Tự nhiên thanh thản thật khác thường.
1. Tết Trùng Dương ngày chín tháng Chín âm
lịch.
Sáo chài
Không màng phú quí lẫn công danh,
Chỉ cần ống sáo giữa đêm thanh.
Ba khúc thổi lên, thu héo lá.
Một tiếng du dương, xuân thắm cành.
Tha hương, chim nhạn về bến cũ.
Nhớ quê người đứng, nắng xuyên mành.
Không biết về đâu, thi hứng hết.
Nước vẫn xuôi dòng, núi vẫn xanh.
Cảm xúc mùa xuân
Giận mình từ thuở mới sinh ra
Chưa thể làm gì giúp mẹ cha.
Mười mấy tầng lầu xây mộng ảo.
Ba ngàn thế giới úa tàn hoa.
Gió ấm không tan sương trắng tóc.
Đêm mưa đôi mắt lệ thêm nhòa.
Không lẽ thân này như thế mãi?
Chiếc thuyền vô định giữa sông xa.
Chiều xuân
Cây đứng so le, khói biếc lồng.
Bóng chiều bảng lảng, có mà không.
Trong tiếng sáo đàn, mưa lất phất.
Hoa rụng ngoài vườn theo gió đông.
Sách vở làm ta say giống rượu.
Thời gian khiến tóc rối tơ mòng.
Nghĩa lớn mẹ cha chưa báo được,
Từ quê chợt thấy cánh chim hồng.
Cảnh mùa đông
Ba tháng mùa đông mưa, tuyết bay.
Phòng khách âm u mở suốt ngày.
Chị Hằng lạnh lẽo soi hương án,
Dì Gió hững hờ xua lá cây.
Hoa mai nở sát pho Kinh Dịch,
Lá trúc xùm xòa chạm cánh tay.
Dung hòa mọi lẽ, ngồi im lặng.
Lư hương sợi khói vật vờ bay.
Phòng khuê đêm thu
Canh năm chuông điểm, ánh trăng mờ.
Mưa gió xen vào cả giấc mơ.
Gối lẻ, đèn tàn, thu lạnh lẽo,
Cái buồn ly biệt gửi vào thơ
Không dám lên lầu trông mỏi mắt.
Phong thư đã viết vẫn nằm chờ.
Ngàn vạn đóa hoa tươi, lại héo.
Gió lạnh sen tàn, cọng xác xơ.
Mừng mưa
Nhờ vua cầu khẩn bấy lâu nay,
Trời đổ cơn mưa, nước chảy đầy.
Ruộng dưới, nương trên tràn ngập nước.
Cái nóng không còn, vui sướng thay.
Cây cối, con người đều nhẹ nhõm,
Hỉ hả nhà nông lại cấy cày.
Xúc động, khách thơ lòng cả thẹn,
Góp vui, ngẫu hứng mấy câu này.
Con người thông đạt
Không tính được thua sống ở đời,
Tuân theo số mệnh, hợp ý trời.
Rượu ngon một chén xua sầu muộn.
Sách hay dăm quyển đọc mà chơi.
Không để tên mình nhơ sử sách.
Cố sống làm sao giống mọi người.
Nhàn nhã, trăng hoa cùng mây gió.
Hứng, sai mang cáng cáng đi chơi.
Thơ đề trên vách nhà ở phường
Toản Viên 1)
Kinh đô xe ngựa chạy đêm ngày.
Như nhà ẩn sĩ ngôi nhà này.
Không màng cửa Bắc 2) lo danh lợi.
Cho thơ đã có sóng Hồ Tây.
Chìm nổi kiếp đời ta sống tạm,
Thành người lánh ẩn ở nơi đây
Những muốn hẹn cùng Trần xử sĩ.
Xuân về, hoa nở, bướm ong bay.
1. Tên một phường ở Hà Nội xưa.
2. Ý nói cửa quan.
Tự thuật ở Toản Viên
Mười năm giấc mộng đất Thăng Long,
Lỗi hẹn lời thề với núi sông.
Sáng dậy theo chuông kêu Cửa Bắc,
Chiều ngóng Hồ Tây ráng rực hồng.
Tin quê thường đọc, khuya chong nến.
Hàng ngày mây lượn sát bên song.
Chạnh nhớ những lần chơi bãi liễu.
Chắc giờ hoa nở, lựu đâm bông.
Tiếng cuốc kêu
Nước Thục mất từ lâu
Mà lòng vẫn còn đau.
Cuối tháng Ba, hoa rụng,
Tiếng cuốc kêu gợi sầu.
Khách nghe, không ngủ được,
Trằn trọc mãi hồi lâu.
Cuốc kêu, nhớ quê cũ,
Không dám bước lên lầu.
Đêm đậu thuyền ở Đông Triều
Đuốc hồng, gió lặng, sóng bình yên.
Bếp lửa hiu hiu phía mũi thuyền.
Tiệc vãn, ba lần cùng cạn chén.
Thuyền đi, chèo rẽ sóng hai bên.
Nhìn núi, biết trăng đang hé mọc.
Đêm nằm nghe nước, đoán triều lên.
Bên sông bên biển, tình lưu luyến,
Thêm nữa, sáng mai xa bạn hiền.
Tiếng dế đêm thu
Sương thu lạnh lẽo, sắp sang đông.
Tiếng dế trong đêm thật não lòng.
Lúc kêu ri rỉ thềm trăng sáng,
Lúc rên ai oán sát khuê phòng.
Quán trọ, khách xa, buồn tỉnh dậy,
Ngẫm đời đơn độc, kiếp long đong.
Chạnh nhớ Âu Dương 1) xưa cảm xúc,
Chờ sao Ngọc Thắng xuống bên song 2).
1). Âu Dương Tu, nhà thơ lớn đời Tống, tác giả
bài Thu Thanh (Tiếng mùa thu) rất nổi tiếng.
2). Tên một chòm sao ở phương Bắc, khi gần
sáng xuống thấp tận chân trời.
Dậy sớm ở Tân Minh
Thủy triều đang xuống, nước bao la.
Te tác đó đây mấy tiếng gà.
Từ đảo Bồng Lai thuyền cập bến,
Trăng chiếu trên cao, biển sáng lòa.
Đàm đạo, thẹn mình thua Lý Bạch,
Chẳng kém Hy Văn việc nước nhà.
Chỉ mấy bông mai nơi phố huyện
Mà sương và gió quyện mùi hoa.
Bến đò Chiền 1)
Bến đò rậm rạp hướng về đông.
Gió thổi áo bay giữa ráng hồng.
Nhà thuyền căng chiếu thay buồm vải.
Gáo dừa múc rượu, quán bên sông.
Sông biển thông nhau nên nước mặn.
Lũ quạ tranh ăn, kêu giữa đồng.
Nhân nhắc chuyện xưa mà chợt nhớ
Tham chính Phạm, Bùi, cả hai ông.
1. Bến đò thuộc vùng giáp ranh giữa Kinh Bắc
và Hải Dương. gần triền sông Lục Bầu.
Cảnh chiều ở Lão Nhạn 1)
Triều biển đang lên, sông nước đầy.
Chiều thu, tiếng sáo thổi đâu đây.
Chim trắng, ráng hồng, thơ với rượu.
Nước xanh, thuyền khách lướt như bay.
Chim sáng rủ nhau sang Phạo Xá.
Chiều về Suối Chiện 2), vượt đò mây.
Có tiền muốn đến Dương Châu ngắm.
Chắc gì Dương Châu đã hơn đây?
1. Tức vụng Lão Nhạn, sau goi Triều Dương, gần
bến đò Chiền, nay thuộc huyện Chí Linh.
2. Phạo Xá, Suối Chiện - tên địa danh gần đấy.
3. Tên một châu nổi tiếng phồn hoa nhiều cảnh
đẹp ở Giang Tô Trung Quốc ngày xưa.
Đêm đậu thuyền, ngủ lại ở Lão
Nhạn
Triều dâng, trời rét, nước tràn trề.
Lưng tựa mui thuyền, ngắm thỏa thuê.
Mây phủ núi xanh, cây đứng lặng,
Thuyền trăng, sương trắng, bến đò quê.
Trăm năm còn nhớ Hồng Đô khách 1),
Nửa đời Xích Bích 2) vẫn còn mê.
Tiếng sáo đâu đây đang vọng lại,
Xao xuyến vang xa đến Thủy Tề.
1. Khách Hồng Đô, tức Vương Bột, nhà thơ lớn
đời Đường, thời trẻ dự tiệc ở Đằng Vương các tại đất Hồng Đô, viết bài Đằng
Vương Các Tự được lưu truyền mãi về sau.
2. Tô Đông Pha đời Tống có viết bài Phú Xích
Bích nổi tiếng khi thả thuyền chơi trên sông. Ở đây Thái Thuận mượn tích này
nói mình muốn được phóng khoáng, thư nhàn như Tô Đông Pha.
Ngủ đêm ở xã Hạo Xã, huyện
Chân Phúc
Ánh lửa đồng sâu tiễn nắng tà.
Trên giậu co ro mấy chú gà.
Sóng biển âm vang ngay sát gối.
Mờ mờ trên núi ả Hằng Nga.
Kính cẩn xông hương vua mới tặng.
Luôn tay rót rượu khách chơi nhà.
Đêm khuya tỉnh giấc, trời như nước.
Mây trời năm sắc phía đằng xa.
No comments:
Post a Comment