Monday, February 23, 2015

CÁC TRUYỆN VÀ TÍCH PHẬT - 3



PHÉP HUYỀN DIỆU

Phật ở thành Vương Xá,
Nghỉ trong rừng Trúc Lâm.
Một đêm hè mát mẻ,
Lại đúng ngày trăng rằm.

Đêm ấy, trong vườn vắng
Xá Lợi Phất ngồi thiền.
Cái đầu trọc vừa cạo
Soi vành trăng mới lên.

Từ phương Bắc bay xuống,
Hai hung thần bật cười
Thấy cái đầu bóng loáng
Dưới ánh trăng sáng ngời.

Một hung thần liền nói:
“Lão hòa thượng này hay.
Ta muốn búng một phát
Lên đầu trọc lão này.”

Hung thần kia can bạn:
“Ấy chết, không được đâu.
Đại sư này có phép
Thần thông và nhiệm màu.”

Bất chấp lời can gián,
Hung thần thích đùa dai
Lao xuống, búng một cái
Lên đầu trọc của ngài.

Cú búng ấy rất mạnh,
Có thể giết cả voi,
Làm cả rừng cây ngã,
Hay làm núi nứt đôi.

Thế mà Xá Lợi Phất
Vẫn tiếp tục ngồi yên.
Chiếc đầu trọc bất động
Trong tư thế định thiền.

Trong khi thần hung ác
Vừa chạm vào người ngài,
Liền bất ngờ bốc cháy,
Thành vệt lửa kéo dài.

Đang ở một nơi khác,
Đại đức Mục Kiền Liên,
Người có tài thiên nhãn
Và biết trước nhân duyên,

Đã nhìn thấy tất cả,
Liền bay đến: “Thưa ông,
Ông vẫn khỏe đấy chứ?
Cú đánh có đau không?”

“Cảm ơn, tôi vẫn khỏe.
Chỉ hơi chút nhức đầu.”
“Pháp lực ông thật lớn,
Uy đức thật thâm sâu.

Từ xa tôi nhìn thấy
Một hung thần đánh ông.
Một cú đánh khủng khiếp,
Làm vỡ núi, tắc sông.

Thế mà ông vẫn khỏe,
Vẫn tiếp tục ngồi thiền.
Chỉ đầu hơi nhức nhức.
Pháp lực thật vô biên.”

Đức Phật khi hay chuyện,
Bèn nói với mọi người:
“Ai trong lòng tĩnh lặng,
Không vương vấn bụi đời,

Sẽ vững như núi đá,
Sẽ chiến thắng cái đau.
Gặp vui không xúc động.
Gặp rủi không buồn rầu.


CHẾT, ĐẦU THAI THÀNH TRÂU

Hai anh em nhà nọ,
Bố mẹ chết, và rồi
Gia sản lớn để lại
Được hai người chia đôi.

Vốn tham lam, keo kiệt,
Kể từ đấy, người em
Buôn bán, tìm mọi cách
Để giàu càng giàu thêm.

Người anh thì ngược lại,
Bản chất vốn nhân từ,
Đem tiền làm việc thiện,
Cúng Tam Bảo, cúng sư.

Người em giàu thấy thế,
Luôn cười chê anh trai.
Người anh khuyên can cậu,
Nhưng không ai chịu ai.

Về sau, người anh cả
Đã qui y xuất gia.
Đến sống trong Tịnh Xá
Gần Đức Phật Thích Ca.

Nhờ phúc đức kiếp trước,
Nhờ học pháp hàng ngày,
Ông chứng A La Hán,
Luôn đi gió về mây.

Người em thì thật tiếc,
Cả núi tiền, rất giàu,
Nhưng chết, xuống địa ngục,
Đầu thai thành con trâu.

Trâu làm việc vất vả,
Còn bị đánh, thật thương.
Bị bỏ đói, bỏ khát
Cũng là chuyện bình thường.

Anh nó, A La Hán,
Nhờ thiên nhãn thần thông,
Đã nhìn thấy, cám cảnh,
Thương em, không cầm lòng.

Ông vội vàng bay đến,
Bỏ tiền mua con trâu,
Nhân tiện kể câu chuyện
Về người em tham giàu.

Chủ con trâu hốt hoảng,
Lo sợ chuyện nhân duyên.
Quì trước vị La Hán,
Nhất định không lấy tiền.

Ông còn xin được dẫn
Tới gặp Phật Thích Ca.
Phật thấy ông thành thật,
Đồng ý cho xuất gia.

Lại nói con trâu nọ,
Được La Hán, người anh,
Cho qui y Tam Bảo,
Dạy niệm Phật, tụng kinh.

Không lâu sau, nó chết,
Vãng sanh lên Cõi Trời.
Và sau hàng vạn kiếp,
Được đầu thai thành người.


CHIẾC NHẪN KIM CƯƠNG

Phật Thích Ca từng dạy:
Bố thí giúp chúng sinh,
Tức là ta gây dựng
Một gia sản cho mình.

Chính nó là ân phước
Cho chúng ta sau này.
Không phải xuống địa ngục
Để chịu cảnh đọa đầy.

Ngược lại, giờ may mắn
Ta hạnh phúc hơn người,
Là do các kiếp trước
Ta bố thí giúp đời.

*
Ở Ấn Độ thời ấy
Có một bà rất giàu.
Một bà hoàng xinh đẹp
Với hàng nghìn người hầu.

Bà là người mộ đạo,
Một lòng thờ Thích Ca.
Bà ăn ở phúc đức.
Mọi người yêu mến bà.

Một hôm bà đi dạo
Trong vườn uyển với chồng,
Một ông vua vĩ đại,
Nổi tiếng khắp Tây Đông.

Thấy bà ngời hạnh phúc,
Kim cương đeo đầy người,
Chồng bà nói: “Hoàng hậu
Quả sung sướng nhất đời.

Thiết nghĩ nàng cũng biết,
Rằng nàng được thế này
Là nhờ ta ân sủng
Và nâng đỡ lâu nay.”

Bà đáp: “Tâu bệ hạ,
Thiếp rất biết ơn ngài.
Ngài là chồng của thiếp,
Một đức vua hiền tài.

Nhưng việc thiếp hạnh phúc
Và mãn nguyện hôm nay,
Là do phúc đức thiếp
Đã gieo trồng trước đây.”

Vua nghe, chỉ im lặng,
Dù khó chịu trong lòng.
“Thật vô ơn! Hãy đợi,
Xem điều ấy đúng không.”

Đêm hôm ấy, lặng lẽ
Chờ hoàng hậu ngủ say,
Vua tháo chiếc nhẫn quí
Bà vẫn đeo hàng ngày.

Chiếc nhẫn kim cương lớn,
Quà một vua Phương Đông.
Không một chút do dự,
Vua ném nó xuống sông.

Sáng hôm sau tỉnh dậy,
Thấy mất nhẫn kim cương,
Bà hỏi chồng. Vua đáp:
“Chiếc nhẫn ấy bình thường.

Mất có gì đáng tiếc.
Sao nàng lại hỏi ta?
Nếu nàng có “phúc đức”,
Sẽ tìm thấy thôi mà.”

Bà hiểu ý châm chọc.
Ngay trước mặt chồng mình,
Liền phát nguyện, rồi khấn:
“Xin Đức Phật anh linh

Và chư tăng chứng giám,
Rằng các kiếp trước đây
Con ăn ở phúc đức,
Nên được như ngày nay.

Và rằng nếu đúng vậy,
Nếu phước lộc đang còn,
Thì chiếc nhẫn đã mất
Sẽ quay về với con!”

Vừa dứt lời, cửa mở.
Anh đầu bếp đi vào,
Tay cầm chiếc nhẫn quí
Lấp lánh như ngôi sao.

“Bẩm vua và hoàng hậu,
Con thấy chiếc nhẫn này
Trong bụng một con cá
Gia nhân mua sáng nay.”


TRUYỆN CÔ GÁI NGHÈO CÚNG MỘT ĐỒNG TIỀN

Xưa, có cô gái nọ
Sống bằng nghề ăn xin.
Một lần, đứng trước cửa
Ngôi chùa ở làng bên.

Qua cánh cổng, cô thấy
Các sư ngồi trong sân,
Chia những thứ ít ỏi
Mới xin được cùng ăn.

Dẫu là người hành khất,
Nhịn suốt ngày là thường,
Cô vẫn thấy ái ngại,
Và chợt muốn cúng dường.

Cô sờ túi, thất vọng,
Tiền chỉ đúng một đồng.
Biết mua gì vào cúng,
Ai được ăn, ai không?

Cuối cùng cô quyết định
Mua một bát muối đầy,
Các sư ăn sẽ đủ,
Thậm chí được mấy ngày.

Sư trụ trì biết chuyện,
Liền mời cô vào chùa,
Tiếp rước như Bồ Tát,
Dùng cả lọng tua rua.

Nhờ sự cúng dường ấy,
Cô gái này về sau
Trở thành vợ hoàng tử,
Cao quí và rất giàu.

Một hôm, cô cho chở
Cả một xe vàng đầy
Vào dâng ngôi chùa ấy.
Thế mà rồi lần này

Sư trụ trì đón tiếp
Không khác khách bình thường,
Bất chấp sự giàu có,
Địa vị người cúng dường.

Cô hỏi thì ngài đáp:
Bát muối đầy ngày xưa
Là những gì cô có,
Thành tâm dâng nhà chùa.

Còn bạc vàng, châu báu
Cô dâng cúng hôm nay,
Tất nhiên chùa đa tạ,
Nhưng tiền cúng lần này

Là tiền của nhà nước,
Tức là tiền của dân.
Cô chỉ thay mặt họ
Để cúng dường cầu thân.


MỘT NGÀY XUẤT GIA

Thời Đức Phật tại thế,
Trong thành có một người,
Một hoàng tử giàu có,
Nổi tiếng dân làng chơi.

Cậy giàu, cậy thế lực,
Cậu tiêu cả núi tiền
Vào các cuộc trác táng
Và tiệc tùng triền miên.

Trong thành, ai cũng biết.
Xì xào tiếng cười chê.
Không ít người nhắc nhở,
Nhưng chàng vẫn không nghe.

Một sáng nọ, Đức Phật
Nói với A Nan Đà:
“Ta thương con người ấy,
Một hoàng tử tài ba,

Mà ăn chơi vô độ.
Chết sẽ bị đọa đày
Trong lửa thiêu địa ngục.
Thật thương thay, thương thay.

Con đến gặp hoàng tử,
Và nói rằng anh ta
Bảy ngày nữa sẽ chết,
Nên hãy sớm xuất gia.”

Tôn giả gặp hoàng tử,
Chuyển lời của Như Lai.
Hoàng tử lo sợ lắm,
Nhưng vẫn cố van nài

Xin được tiếp tục sống
Theo cách cũ, năm ngày.
Bước sang ngày thứ sáu
Sẽ xuất gia theo thầy.

Vậy là hoàng tử ấy
Chỉ một ngày xuất gia.
Chàng sống trong tịnh xá,
Thụ Pháp của Thích Ca.

Bước sang ngày thứ bảy,
Như Phật nói, tiếc thay,
Chàng đổ bệnh rồi chết,
Làm tỳ kheo một ngày.

Hôm sau, trong giờ nghỉ,
Tôn giả A Nan Đà
Hỏi về chàng hoàng tử,
Và được Phật Thích Ca

Nói giờ con người ấy
Ở cõi trời Tứ Vương,
Đầu thai làm hoàng tử
Tỳ Xa Môn Thiên Vương.

Chàng sẽ đầu thai tiếp
Sau đúng năm trăm năm
Lên cõi trời Đạo Lợi,
Hưởng thọ một nghìn năm.

Rồi hai nghìn năm tiếp
Ở cõi trời Dạ Ma,
Hưởng hết mọi phúc lộc,
Quay lại cõi Ta Bà.

Một lần nữa hoàng tử
Được đầu thai làm người,
Xuất gia, thành La Hán,
Mãn nguyện một cuộc đời.

*
Câu chuyện này được kể
Trong rất nhiều cuốn Kinh.
Một câu chuyện có thật,
Để nhắc nhở chúng sinh

Rằng muốn tránh tội lỗi
Và bể khổ đời này,
Phải xuất gia theo Phật,
Dù chỉ trong một ngày.


PHẬT DI LẶC                                                        

1
Theo Kinh Phật, Di Lặc
Cùng thời với Thích Ca,
Sinh ở Nam Ấn Độ,
Hiệu là A Dật Đa.

Ngài xuất thân quí tộc,
Đẳng cấp Bà La Môn,
Bỏ nhà tìm chân lý,                         
Diệt khổ và trường tồn.

Di Lặc là tiếng Phạn,
Tức là lòng thương người.
Một ông già to béo
Với nụ cười rất tươi.    

Di Lặc sẽ thành Phật,
Tức là Phật thứ năm
Kế tiếp Thích Ca Phật,
Sau ba mươi nghìn năm.

Trong khi chờ thành Phật,
Ngài ngụ ở cung trời
Có tên là Đâu Suất,
Hóa kiếp đi khắp nơi.  

Dẫu mới là Bồ Tát,
Người dân nước Trung Hoa
Luôn coi ngài là Phật.
Cũng thế ở nước ta.

Ngài được thờ rất sớm,
Ngay từ thời Tây Tần
Đã có tranh Di Lặc
Ngồi chống cằm, tréo chân.

Hoặc hình Ngài đang bước,
Mũ lá đội trên đầu,
Tay cầm chiếc bình nước,
Cằm nhẵn nhụi không râu.

Về sau phổ biến nhất
Là hình Ngài đang ngồi
Với cái bụng rất phệ
Và nụ cười trên môi.

Dân gian gọi “Tiếu Phật”,
Tức là ông Phật cười,
“Di Lặc Phật bụng phệ”
Hoan hỷ với mọi người.

Một hình ảnh quen thuộc,
Thật đáng yêu ông già,
Người mang lại tiền bạc
Niềm vui cho mọi nhà.

2       
Di Lặc có nhiều kiếp.
Vào thế kỷ thứ mười
Là Bố Đại hòa thượng,
Với chiếc túi trên người.

Bố đại là túi vải.
Ngài đi khắp đó đây,
Truyền đạo, làm việc thiện
Với chiếc túi vải này.

Ngài người thấp, to béo,
Cái bụng phệ khác thường.
Quần áo rất tùy tiện,
Ăn và ngủ dọc đường.

Ngài thích đùa vua vẻ,
Trẻ con theo rất đông.
Nhiều đứa bá lên cổ
Hay nhảy tót vào lòng.

Khi Ngài đi khất thực,
Hễ ai cho cái gì
Là Ngài nhét vào túi,
Cười hề hề rồi đi.

Ngài mở túi khi đói,
Lấy ra ăn kỳ no. 
Nếu có người đứng cạnh
Muốn ăn, Ngài cũng cho.

Ngài là thần may mắn.
Các quán trọ tranh nhau
Mời Ngài vào ăn nghỉ,
Hy vọng sẽ phát giàu.

Lần nọ, Ngài nghỉ lại
Nhà một bác nông dân.
Trong bữa ăn, bà vợ
Cứ luôn miệng cằn nhằn,

Rằng mùa thì đói kém
Mà phải nuôi báo cô
Ông sư này dở tính
Ăn nhiều vì bụng to.

Ngài nghe xong đứng dậy,
Đổ cơm vào gốc cây.
Tự nhiên nồi nhà ấy
Đang vơi lại thành đầy.

Hai vợ chồng kinh ngạc,
Chạy theo xin lỗi Ngài,
Nhưng Ngài không thèm đáp,
Phanh bụng phệ ra ngoài.

Lần khác, Ngài thích thú
Đang tắm mát dưới sông.
Lũ trẻ trộm quần áo,    
Thế là Ngài tồng ngồng

Vừa đuổi theo vừa mắng.
Mấy bà nhìn, cười thầm,
Thấy chim Ngài bé tí
Như chim trẻ lên năm.

Nhưng rồi họ sụp lạy
Khi thấy trên lưng Ngài
Bốn con mắt tỏa sáng
To như mắt con nai.

Không ít người tinh nghịch,
Thấy Ngài hiền, nhiều khi
Cướp chiếc túi bỏ chạy.
Ngài chỉ cười khì khì.

Nhưng lát sau, thật lạ,
Chiếc túi vải của Ngài,
Như không hề bị cướp,
Lại lủng lẳng trên vai.

Khi đi tới làng nọ,
Ngài thấy một anh chàng
Đang mài dao chuẩn bị
Giết thịt con bò vàng.

Ngài dừng lại và nói:
“Anh biết kiếp luân hồi.
Nó là người kiếp trước.”
Anh chàng kia liền thôi.

Cuối cùng Ngài nhập diệt
Gần ngôi chùa Nhạc Lâm,
Trên một bàn thạch lớn,        
Tư thế thảnh thơi nằm.          

Nhưng đó chỉ một kiếp.
Ngài còn sống quanh ta
Chờ ba vạn năm nữa
Thành Phật, sau Thích ca.

Người ta xây ngôi tháp
Thờ Ngài ở Phong Sơn.
Kể từ ngày có tháp
Cây cối bỗng xanh rờn.

Lạ nữa, ở núi ấy
Vốn là chỗ cằn khô,
Bống có nhiều mạch nước,
Nước tích đọng thành hồ.    


TRUYỆN CHÀNG ĐĂNG CHỈ

1
Ngày xưa ở Vương Xá
Có gia đình phú ông,
Rất giàu, gì cũng có,
Nhưng con cái lại không.      

Cuối cùng cầu tự mãi,
Họ sinh đứa con trai,
Bình thường, nhưng thật lạ,
Các ngón tay rất dài.

Hơn thế, các ngón ấy
Tỏa sáng như ban ngày,
Vì thế gọi Đăng Chỉ,
Tức “Ngọn đèn trên tay”.

Tướng mạo cậu rất đẹp.
Các thầy tướng nhiều lần
Khẳng định cậu chắc chắn
Sẽ trở thành thánh nhân.

Phú ông nghe, thích lắm,
Mở lễ trai bảy ngày,
Bố thí khắp thiên hạ,
Mong hưởng ân sau này.

Năm tròn hai mươi tuổi,
Chàng lấy vợ, một nàng
Vừa môn đăng hộ đối,
Lại xinh đẹp, dịu dàng.

Cậy bố mẹ giàu có,
Chàng sống thật vô lo,
Tiêu tiền hơn cỏ rác,
Bày vẻ đủ các trò.

Nhưng khi bố mẹ mất,
Do trước không học hành,
Không biết quản gia sản,
Nên tiền bạc hao nhanh.

Lại thêm bọn ăn bám,
Cả trong lẫn ngoài nhà,
Cùng hăng hái vơ vét
Tài sản của ông cha,

Nên một hôm, dễ hiểu,
Chàng thấy mình trắng tay.
Vợ bỏ về đằng ngoại,
Nhà rác rưởi vứt đầy.

Bọn đầy tớ trốn hết.
Bè bạn và người thân
Tự nhiên biến đâu mất
Đúng lúc chàng rất cần.

Thế mà mấy tháng trước,
Ấy là khi còn tiền,
Chúng bám như đỉa đói,
Ai cũng muốn làm quen.

2
Ngày nào còn công tử,
Con phú ông cực giàu,
Thế mà giờ nghèo đói,
Không cả mũ trên đầu.

Các ngón tay, thật lạ,
Trở lại như bình thường.
Chúng không hề tỏa sáng,
Lại còn gầy trơ xương.

Thế là chàng Đăng Chỉ
Vác bị đi ăn mày.
Nhưng ăn mày cũng khó,
Nên cuối cùng, một ngày,

Chàng phải làm cái việc
Mà mọi ngưới tránh xa,
Là vác tử thi mướn.
Thật ê chề, xót xa.

Lần nọ, chàng phải vác
Xác chết ra nghĩa trang.
Đến nơi, cái xác ấy
Không chịu buông cổ chàng.

Chàng gỡ mấy cũng chịu.
Nó cứ bám không tha.
Không còn cách nào khác,
Chàng phải cõng về nhà.

Vừa tới cửa, lập tức
Cái xác rời khỏi chàng.
Chàng cúi nhìn, chợt thấy
Tay nó cầm cục vàng.

Chàng lấy cục vàng ấy,
Thì lập tức, trong tay
Lại có thêm cục khác.
Cứ thế, đúng nửa ngày,

Chàng có cả một đống
Những cục vàng rất to.
Cuối cùng, chàng ngồi thở,
Cả vừa mừng, vừa lo.

Tất nhiên mừng là chính.
Chàng đem số tiền này
Xây lại nhà tráng lệ,
Giàu hơn cả trước đây.

Có tiền rồi, lập tức,
Mọi người đến rất đông.
Cả người thân bè bạn,
Cả cô vợ bỏ chồng.

Cuộc đời là thế đấy,
Chàng lắc đầu xót xa.
Không một chút do dự,
Chàng đuổi hết khỏi nhà.

Có bao nhiêu tiền bạc
Chàng cho hết người nghèo,
Mở lễ trai, cúng Phật,
Nuôi hàng nghìn tỳ kheo.

Chàng đã ngộ ngũ dục,
Ngộ cả Tham, Sân, Si,
Chẳng bao lâu xuống tóc      
Nhập thiền rồi qui y.

Chàng tu luyện chăm chỉ,
Với trí tuệ hơn người.
Chứng quả A La Hán,
Nguyện ra tay giúp đời.

Các ngón tay lần nữa
Phát sáng như ban ngày.
Chàng lại thành Đăng Chỉ,
Với “Ngọn đèn trên tay”.

3
Thấy cuộc đời Đăng Chỉ
Rất kỳ lạ, người ta                
Không ít lần tìm đến
Hỏi Đức Phật Thich Ca.

Ngài nói: Bố Đăng Chỉ
Kiếp trước giàu như vua.
Cậu rất hay đi lễ.
Nhà lại cạnh ngôi chùa.         

Một hôm thấy tượng Phật
Có ngón tay gãy ngang,
Cậu liền thay ngón khác
Được đúc toàn bằng vàng.

Vì thế ngón tay cậu
Khi được sinh kiếp này
Phát ra những tia sáng
Rực rỡ như ban ngày.

Có người hỏi sao cậu
Phải khổ một thời gian.
Phật đáp lúc còn nhỏ
Cậu làm việc quấy càn.

Số là một lần nọ
Cậu chơi khuya, về nhà,
Sốt ruột chờ cửa mở,
Cậu nói hỗn với cha.

Nói hỗn với cha mẹ
Là cái ác nhất đời.
Gieo ác phải gặt ác.
Đó là luật làm người.


NÓI NHIỀU CÓ HẠI

Lúc ấy ở Xá Vệ,
Trong vườn Cô Độc Kỳ,
Đức Phật đang trò chuyện
Cùng tăng sư, tăng ni.

Có nhà sư vừa chết,
Mới làm lễ hỏa thiêu.
Phật nói: Ông ấy chết
Một phần do nói nhiều.

Các kiếp trước cũng vậy,
Ông phải chết nhiều lần
Cũng vì cái tật nói
Quá nhiều và không cần.

Rồi Ngài kể câu chuyện
Tiền kiếp của sư này.
Không phải không có ý
Nhắc nhở sư ngày nay.

*
Nghìn vạn kiếp về trước,
Khi Phạm Ma Đạt Đa
Làm vua Ba La Nại,
Đất nước rộng bao la,

Có một vị Bồ Tát
Giáng sinh thành con trai
Một đại thần thế lực
Trong vương quốc của ngài.

Đứa bé ấy khôn lớn,
Khỏe mạnh và thông minh,
Được phong làm tể tướng,
Đứng đầu trong triều đinh.

Vua cai trị lúc ấy
Dẫu uyên bác, hiền tài,
Nhưng mắc bệnh thích nói.
Nói không nhường phần ai.

Vua là tấm gương sáng
Để muôn dân trông vào.
Tể tướng muốn can gián
Mà chưa biết cách nào.

Thời ấy, trên đỉnh núi
Dãy Hy Ma Lay A
Có một chiếc hồ nhỏ
Và một con rùa già.

Một đôi vịt trời nọ
Đến hồ tìm thức ăn
Gặp rùa, thành quen biết,
Rồi nhanh chóng thành thân.

Một hôm, hai bạn vịt
Rủ rùa đến nhà chơi.
Ở một ngọn núi khác,
Cao lưng chừng giữa trời.

Rùa đáp: “Tôi muốn lắm,
Chỉ tiếc không biết bay.”
“Không lo, đã có cách.
Bác sẽ bay thế này…”

Chúng lấy một đoạn sậy,
Hai con giữ hai đầu.
Con rùa ngậm ở giữa,
Rồi cùng bay với nhau.

“Bác phải giữ im lặng,
Không được nói lời nào!”
Vịt dặn đi dặn lại.
Thế mà rồi lên cao,

Khi bay qua cung điện
Vua Phạm Ma Đạt Đa,
Con rùa không kìm được,
Kêu: “Đẹp quá, ái chà!...”

Lập tức nó rơi xuống.
Thật tội nghiệp con rùa.
Thân vỡ thành nhiều mảnh
Ngay trong sân cung vua.

Vua lấy thế làm lạ.
Lập tức cho mời ngay
Quan tể tướng Bồ Tát
Đến giải thích chuyện này.

Tể tướng nhân dịp ấy
Quyết định can nhà vua
Về cái tật hay nói,
Qua chuyện của con rùa.

Giải thích xong, tể tướng
Liền nói thêm: “Thưa ngài,
Nói thừa, không cần thiết
Là tai họa lâu dài.”

Vua hiểu, và từ đó
Bỏ được thói lắm lời.
Thậm chí rất ít nói,
Chỉ thỉnh thoảng mỉm cười.

*
Con rùa là một kiếp
Của Cổ Cát Ly Ca,
Một vị sư đáng kính
Vừa mới chết hôm qua.

                                         
BÁN MÌNH CÚNG SƯ                      

1
Xưa có một người nọ,
Tên là Kệ Di La,
Sống cực kỳ nghèo khổ
Với bà vợ đã già.

Không đủ ăn, đủ mặc,
Người chẳng ra hình người,
Nhìn thiên hạ no đủ,
Họ chỉ biết than trời.

Bà vợ nói: “Không lẽ
Do các kiếp trước đây
Ta tham lam, keo kiệt
Nên bây giờ thế này?”

Và rồi họ nghĩ bụng,
Để kiếp sau không nghèo,
Bây giờ phải cũng Phật,
Bố thí cho tỳ kheo.

Khốn nỗi, ăn chẳng có,
Muốn cho, biết lấy đâu?
Cuối cùng họ quyết định        
Bán mình cho nhà giàu.

Cả hai làm đầy tớ
Cho một nhà phú thương.
Số tiền họ kiếm được
Lập hội trai cúng dường.       

Hội trai rất hào phóng,
Kéo dài những bảy ngày.
Họ hy vọng số phận
Sẽ đổi thay sau này.    

Ni sư và dân chúng
Đến ăn đông và lâu.
Mọi việc rất tốt đẹp
Trong suốt sáu ngày đầu.

Bước sang ngày thứ bảy,
Thì Đức vua cúng chùa.
Mà theo lệnh, tất cả
Phải nhường chỗ cho vua.     

Nhưng còn một ngày nữa
Lễ trai họ mới xong.
Bỏ giở là hỏng hết.
Kệ Di La quyết không.

Vua ngạc nhiên khi thấy
Có kẻ trái ý mình.
Bèn cho bắt đến hỏi.
Ông kể hết sự tình.

Vua nghe, rất xúc động
Chuyện hai vợ chồng nghèo
Bán mình làm người ở,
Lấy tiền cúng tỳ kheo.

Vốn là người hào phóng,
Ngài ban tặng hai người
Nhiều đất đai, tiền bạc.
Nhờ thế, họ đổi đời.               


QUẢ BÁO CỦA GÃ ĐỒ TỂ        

Có một gã đồ tể
Tục danh là Cun Đà
Sống bằng nghề mổ lợn.
Lò mổ ấy không xa

Nơi Đức Phật đang sống
Trong tịnh xá Trúc Lâm
Cùng các đại đệ tử
Và tỳ kheo nhiều năm.

Hắn mổ lợn bằng cách
Vật con vật xuống nhà,
Dùng gậy đập vào gáy
Rồi banh miệng nó ra

Rót nước sôi vào họng,
Rồi lấy lửa thui lông,
Rồi dùng dao mổ bụng,
Rồi móc lấy bộ lòng.

Nói chung, thật khủng khiếp.
Suốt ngày tiếng lợn kêu
Từ cái lò mổ ấy,
Hết sáng lại đến chiều.

Một hôm gã đồ tể,
Đổ bệnh, kêu váng nhà.
Kêu eng éc như lợn,
Bò vào lại bò ra.

Suốt bảy ngày liên tục
Bò như lợn, tồng ngồng,
Kêu như bị chọc tiết,
Như đốt lửa thui lông.

Người nhà phải nhốt hắn
Như nhốt lợn trong chuồng.
Lấy giẻ nhét vào miệng,
Hắn dãy dụa điên cuồng.

Một tỳ kheo bảo Phật:
“Nhà Cun Đà dạo này
Bỗng dưng giết nhiều lợn,
Liên tục suốt bảy ngày.”

Phật đáp: “Gã sắp chết,
Hiện đang chịu cực hình
Vì phải gánh quả báo
Về việc làm của mình.”


TRUYỆN NÀNG LIÊN HOA SẮC

1           
Xưa có một cô gái,
Đẹp nết, đẹp cả người,
Thế mà phải nếm cảnh
Trớ trêu của cuộc đời.

Nàng ở thành Vương Xá,
Cùng thời với Thích Ca,
Vốn con nhà tử tế,
Có học và nết na.

Như các cô thời ấy,
Mười sáu tuổi, lấy chồng,
Rồi sinh được bé gái,
Đúng như nàng chờ mong.

Chẳng bao lâu bố chết,
Mẹ còn trẻ và xinh,
Nên thằng chồng đồi bại
Quyến rũ bà, vô tình

Nàng trở thành đầy tớ
Của mẹ và thằng chồng.
Một hôm, quá phẫn uất
Nàng bỏ đi, tay không.

Nàng đến Ba La Nại,
Sống cuộc đời nhỡ nhàng.
Mãi sau, một trưởng giả
Yêu và đã cưới nàng.

Họ sống rất hạnh phúc
Suốt cả chục năm trời.
Một hôm ông trưởng giả
Mang về nhà một người.

Đó là một cô gái
Ông bỏ tiền ra mua
Về nhà làm vợ lẽ.
Xinh đẹp, biết thêu thùa.       

Nàng thoạt nhìn, suýt ngất,
Thấy chính là con mình,
Đứa con gái bé nhỏ,
Oan trái một mối tình.

Vậy là đời độc ác,
Giờ lại để chồng sau
Lấy con nàng chồng trước.
Nỗi đau chồng nỗi đau.

Lần nữa nàng lặng lẽ
Bỏ nhà, đi trong đêm.
Trái tim nàng hóa đá,
Trái tim vốn yếu mềm.

Đời với nàng như thế,
Nàng sẽ trả thù đời,
Sẽ trở thành gái điếm,
Thành giang hồ ăn chơi.

Nàng tô son, điểm phấn
Đến thành Tỳ Xá Ly,
Dấn thân vào tội lỗi,
Coi như không chuyện gì.

2
Một tối nọ nàng thấy
Khi đang đứng bên đường,
Một nhà sư to lớn
Có dáng vẻ khác thường.

Nhà sư ấy đi lại,
Ân cần nói với nàng:
“Nhìn qua ta đã biết
Con là người cao sang.

Vậy vì sao nên nỗi,
Con phải làm nghề này?
Phải chăng con uất ức,
Đang hận đời gì đây?”

Lúc ấy nàng không biết
Ông là Mục Kiền Liên,
Đại đệ tử Đức Phật,
Có biệt tài nhìn xuyên.

Lời nói của tôn giả
Thân ái và dịu dàng
Như nước cam lồ mát
Rót qua tâm hồn nàng.

Lập tức nàng trở lại
Cô gái ngoan, nhà giàu
Nhưng gặp nhiều bất hạnh.
Nàng tấm tức hồi lâu,

Rồi nói: “Đời ác độc
Và điên loạn, bạch thầy.
Xô con vào tội lỗi.
Con biết làm gì đây?”

“Hãy làm lại tất cả.
Làm lại từ ban đầu,
Và hãy sống thật tốt,
Vượt lên trên buồn đau.

Người thực sự mạnh mẽ
Là người không hận đời,
Vấp ngã rồi đứng dậy
Để tiếp tục làm người.”

Những lời dạy chí lý
Của sư Mục Kiền Liên
Đã làm nàng chợt tỉnh,
Và nàng đã đứng lên.

Nàng xuất gia, nhập Phật,
Nhờ giúp đỡ của ông,
Chứng quả A La Hán,
Thành Ni chúng thần thông.


QUẢ BÁO

Có nhân thì có quả.
Đó là luật của Trời.
Cũng là luật của Phật,
Ứng nghiệm với mọi người

Một lần, khi giảng pháp,
Với tôn giả, sư thầy,
Phật Thích Ca đã kể
Một câu chuyện thế này.

Có một con bò nọ,
Nhân khi vắng người chăn,
Đã xuống ăn ruộng lúa
Của một người nông dân.

Ông này rất độc ác,
Tức giận, mắng con bò:
“Tao vất vả, nhịn đói,
Mà mày thì ăn no.

Mày phải trả giá đắt.
Tao sẽ cắt lưỡi mày,
Để mày phải ghi nhớ
Không ăn lúa từ nay!”

Nói đoạn, ông cắt lưỡi
Con bò này đáng thương.
Nó không hiểu, nghĩ lúa
Là loại cỏ bình thường.

Còn ông nông dân ấy
Sau sinh ba người con,
Tất cả đều khỏe mạnh,
Cả thể xác, tâm hồn.

Có điều cả ba đứa
Không ai hiểu vì sao
Câm, suốt ngày lặng lẽ,
Không nói được tiếng nào.

Các thầy thuốc bất lực.
Ông bố thì buồn lo.
Và rồi ông chợt nhớ
Chuyện xưa cắt lưỡi bò.

Giờ hối thì đã muộn.
Ở lành thì gặp hiền.
Sống ác thì gặp ác.
Mọi cái có nhân duyên.

“Đời là thế, - Phật nói. -
Xưa nay chưa có người
Thoát được luật nhân quả.
Bởi đó là Luật Đời.”


TRUYỆN NGƯỜI ĐÀN BÀ QUÉT RÁC

Thời ấy, ở Xá Vệ
Có một người đàn bà
Làm nghề quét đường phố,
Đất bụi bám đầy da.

Người bà luôn hôi hám,
Mọi người không dám gần,
Thế mà Phật đến gặp,
Nói chuyện như người thân.

Một người ngạc nhiên hỏi:
“Phật luôn dạy xưa nay
Phải cố sống sạch sẽ.
Sao Ngài gần người này?”

Phật đáp: “Sạch hay bẩn
Quan trọng ở tâm hồn.
Bà ấy bẩn vì rác
Khi làm sạch cho con.

Có người bẩn, nhưng sạch.
Trong khi đó nhiều người
Trông thì sạch, nhưng bẩn.
Thường vẫn thế ở đời.”   


THẦN GIÀU CÓ VÀ THẦN NGHÈO ĐÓI

Một người phụ nữ đẹp,
Mặc chiếc áo lụa dài
Bước vào một nhà nọ.
Chủ hỏi: “Bà là ai?”

“Ta là Thần Giàu Có!”
“Xin mời, xin mời bà, -
Ông chủ vui mừng nói. -
Mời bà vào trong nhà!”

Lát sau, một người khác
Cũng vào nhà ông này.
Rách rưới và đói khát
Như một mụ ăn mày.

“Bà là ai?” ông hỏi.
“Thần Đói Nghèo là ta.”   
“Bà không được chào đón.
Xin mời bà đi ra!”

Nữ thần kia rách rưới
Đã đáp lại thế này:
“Đói nghèo và giàu có
Luôn là bạn xưa nay.

Ông không muốn Nghèo Đói
Thì tôi ra khỏi nhà.”
Lát sau ông chủ thấy
Giàu Có cũng đi ra.

Phật dạy Sống và Chết
Luôn đi liền với nhau.
Cũng vậy Tốt và Xấu,
Cũng vậy Nghèo và Giàu.

Chỉ những người thông tuệ
Mới chấp nhận cả hai.
Sống vô lo, bình thản
Vượt nỗi khổ trần ai.


TRUYỆN CẬU BÉ MÙ VÀ CHIẾC ĐÈN ĐÃ TẮT

Đức Phật kể câu chuyện
Về cậu bé đáng thương
Không may mù hai mắt,
Phải chống gậy dò đường.

Một đêm, đến nhà nọ,
Chủ nhà, vốn rất hiền,
Lúc quay về, cẩn thận,
Đưa cho cậu chiếc đèn.

“Dạ thưa, cháu mù mắt,
Thì cần đèn làm gì?”
“Để người ta thấy cháu
Liệu đường mà tránh đi!”

Vậy là trong bóng tối,
Cậu cầm đèn ra về.
Thế mà có ai đó,
Vấp cậu ngã, ẩm ê.

Cậu kêu lên: “Thật lạ,
Tôi cầm đèn cơ mà.”
Người ấy đáp: “Đèn cậu
Tắt từ lâu, xê ra!”

Đức Phật rất thâm ý
Khi kể câu chuyện trên.
Có đèn là quan trọng.
Quan trọng hơn - ánh đèn!


TRUYỆN THÁI TỬ TU ĐẠI NOA

1
Xưa, ở một nước nọ,
Có tên là Diệp Ba.
Vua là ông vua tốt,
Nước giàu, rộng bao la.

Vợ thì nhiều vô kể,
Con chỉ một, buồn sao.
Khỏi nói ông vua ấy
Yêu Thái tử thế nào.     

Cũng khỏi nói cả việc
Chàng xinh đẹp, tài ba.
Sau cái tên Thái Tử,
Chàng là Tu Đại Noa.

Thật may, dù con một,
Nhưng Thái Tử không hư.
Ngược lại, chàng rất tốt,
Lại cực kỳ nhân từ.

Năm tròn mười sáu tuổi,
Vua lấy vợ cho chàng -
Lại khỏi nói xinh đẹp,
Thông minh và dịu dàng.

Thái Tử có tính lạ:
Cái gì cũng muốn cho.
Một hôm chàng xin phép
Đức vua mở các kho

Để chàng ban bố thí
Cho tất cả mọi người.
Thế mà vua đồng ý,
Môt ông vua lạ đời.

Lập tức, người trong nước,
Thậm chí cả nước ngoài,
Kéo đến xin phát chẩn.
Chàng không bỏ sót ai.

2
Ai xin gì cho nấy.
Không ai về tay không.
Tiếng tăm càng vang dội,
Người kéo đến càng đông.    

Hay tin, nước bên cạnh,
Thù địch với nước chàng,
Với ý định đen tối,
Liền cử tám người sang.

Nước Diệp Ba hùng mạnh
Là nhờ đoàn tượng binh,
Nhất là con voi trắng,
Từng làm giặc thất kinh.

Biết Thái Tử đã hứa
Ai xin gì, cho ngay,
Mà hứa trước thần, Phật,
Nên chúng sang lần này

Để xin con voi ấy,
Được xem quí hơn vàng.
Thế mà chàng cho chúng,
Kẻ thù của nước chàng.

Làm từ thiện là tốt.
Đem của mình cho người
Cũng là điều không xấu,
Nhưng tùy cái, tùy người.

Cho mất con voi trắng,
Nước Diệp Ba từ nay
Không còn ai bảo vệ.
Rất nghiêm trọng điều này.

Vua biết tin, tức giận,
Cho gọi Thái Tử vào.
Gọi các quan cùng đến.
Việc này xử thế nào?

Về lý - đáng xử trảm.
Về tình - tính sao đây?
Cuối cùng vua quyết định
Chàng phải bị đi đày.            

Đày ở núi Đàn Đặc,
Đúng mười hai năm trời.
Đó là nơi hẻo lánh,
Hoàn toàn không có người.

Chàng chỉ xin ở lại
Bảy ngày trong kinh thành
Để phân phát cho hết
Số tài sản của mình.       

3
Thế là đi Đàn Đặc
Cùng vợ là Mạn Trà
Cùng hai con còn nhỏ
Và một con ngựa già.

Ngày hôm sau, thật tiếc,
Có một bác nông dân,
Buột mồm khen ngựa đẹp
Và là cái bác cần.

Thái Tử không do dự,
Liền tháo ngựa cho ngay.
Rồi chàng thế chỗ nó,
Kéo xe đi suốt ngày.       

Đi thêm một ngày nữa,
Có người xin cái xe.
Chàng cũng đem cho nốt.
Cuối cùng, giữa trời hè

Cả nhà phải đi bộ.
Công chúa bế con em
Thái Tử cõng thằng lớn.
Dân làng kéo đến xem.

Thấy họ nhếch nhác quá,
Chàng cho mấy món đồ.
Áo quần con đang mặc,
Xin chàng, chàng cũng cho.  

Có người cười, thầm nghĩ:
Anh chàng này chắc điên.
Không, chàng rất tỉnh táo.
Đó chỉ là tiền duyên.

Kiếp trước chàng vơ vét,
Giành giật hết của người.
Kiếp này chàng hối cải,
Mà trả lại cho đời.      

Sau mấy tháng đi bộ,
Hết giãi nắng dầm mưa,        
Họ đến được Đàn Đặc,
Đang hè, đúng giữa trưa.

Họ ngạc nhiên khi thấy
Họ vừa đi đến đâu
Là cây mọc đến đấy
Che bóng mát trên đầu.

Thú rừng thì vội vã
Mang cho họ trái cây,
Đứng xung quanh túc trực,
Chờ hầu hạ suốt ngày.

Số là Phật trước đó
Đã thấu hiểu lòng chàng,
Nên sai chúng giúp đỡ
Giữa chốn này hồng hoang.

Hai vợ chồng từ đấy
Vui cuộc sống điền viên
Giữa núi rừng hoang vắng,
Tụng kinh và định thiền.

Một ngày nọ, bất chợt
Có vị Bà La Môn
Tìm đến chơi, trò chuyện,
Xin chàng hai đứa con.

Dẫu lòng đau như cắt,
Chàng đem con cho ông.
Nàng Mạn Trà lúc ấy
Đang bận tắm dưới sông.

Lúc về thì con mất,
Chỉ biết khóc, vì nàng
Trước đây đã trót hứa
Không bao giờ cản chàng.

Một lúc sau lại thấy
Có một người vào nhà.
Sau một lúc trò chuyện,
Ông xin nàng Mạn Đà.

Chàng cúi đầu im lặng,
Rồi nói: “Vâng, xin mời.
Tôi chỉ dám từ chối
Cho bố và mẹ tôi.”

Khi chàng đứng dậy tiễn
Ông khách và vợ mình,
Thì bỗng trời nổi gió:
Đức Phật hiện nguyên hình.

Cùng Ngài là người vợ
Và hai con của chàng.
Cả nhà lại đoàn tụ,
Ôm nhau khóc, ngỡ ngàng.

Đức Phật nói: “Rốt cục,
Con không phụ lòng ta.
Các thử thách đã hết.
Hãy chuẩn bị về nhà.”

Ngày hôm sau chợt thấy
Có xe đến đón chàng.
Về đến nơi, lập tức
Chàng từ chối ngai vàng.

Sau khi phân phát hết,
Chẳng còn gì để cho,
Chàng qui y, tu Phật
Trong hang đá ven hồ.             


ĐỐI THỦ LỚN NHẤT
                                    
1                                             
Xưa có anh chàng nọ
Được trời ban nhiều tài.
Rất thông minh, mẫn tiệp,
Khỏe mạnh và đẹp trai.

Ấy là chưa nói chuyện
Anh học gì cũng nhanh.
Chỉ một thời gian ngắn
Đã hơn hẳn thầy mình.

Rốt cục, tuy còn trẻ,
Văn võ đã toàn tài.
Không môn gì không giỏi,
Chưa bao giờ thua ai.

Chẳng còn gì để học.
Anh ta thôi tìm thầy
Mà đi tìm đối thủ,
Tìm khắp hết đó đây.

Vậy mà tìm chẳng thấy.
Quả người giỏi không nhiều.
Nghĩ mình tài giỏi nhất,
Anh ta bắt đầu kiêu.

Một hôm, giữa đồng vắng,
Anh gặp một ông già
Tay ôm bát khất thực,
Người mặc áo cà-sa.

Thấy ông cụ đạo mạo,
Anh hỏi cụ là ai?
Ông cụ đáp là Phật.
“Là Đức Phật Như Lai?”

Đức Phật đáp: “Đúng thế.”
“Nghe nói Phật thần thông,
Tôi tìm người thách đấu.
Phật có nhận lời không?”

“Bây giờ ta đang bận
Chiến đấu với chính mình.
Đối thủ đang gờm nhất
Chính là bản thân anh.

Khi nào thắng được nó,
Anh hãy đến tìm ta.”
Nói đoạn, Phật đi tiếp.
Biến mất giữa nắng tà.

Anh chàng vô địch ấy
Đứng nhìn theo hồi lâu.
Lời nói của Đức Phật
Âm vang mãi trong đầu.

Đối thủ đang gờm nhất
Chính là bản thân ta.
Bao năm tìm đối thủ,
Thế mà tìm không ra.

Nó là lòng tự phụ,
Mình tưởng mình nhất đời,
Và bao thói xấu khác
Thuộc bản năng con người.

2
Anh chàng này nghe nói,
Sau xuống tóc xuất gia,
                   Sống trong chùa lặng lẽ
Cho đến tận tuổi già.

Một lần có người hỏi:
“Tài nghệ ông rất cao,
Mà sao tôi không thấy
Ông thi đấu lần nào?”

Ông đáp: “Tôi đang bận
Thi đấu với chính mình.
Hy vọng tôi sẽ thắng
Để được hưởng yên bình.”


ĐỨC PHẬT VÀ CON CHÓ

Một sáng nọ, nắng đẹp.
Đầu tỏa ánh hào quang,
Đức Phật khoan thai bước,
Mặc áo cà-sa vàng.

Ngài sống bằng khất thực,
Giờ đến nhà Đế Đô,
Người giàu sang bậc nhất,
Nhưng mắc bệnh ky bo.

Ông chủ hiện đi vắng.
Có con chó giữ nhà.
Nó nhe nanh giận dữ
Rồi sồng sộc lao ra.

Đức Phật giơ tay cản.
Nó phủ phục dưới chân.
Ngài xoa xoa đầu nó
Rồi cất tiếng ân cần:

“Thôi đi bà, bình tĩnh.
Trước cướp của người ta
Như thế đã quá lắm,
Giờ còn sủa váng nhà.

Ít ra cũng tích đức
Cho ông con bây giờ.
Bà hãy giúp ông ấy
Tránh được cái đang chờ.”

Con chó nghe, gục mặt.
Đức Phật lại ra đi.
Nó nhìn theo, thểu não,
Nhìn mà chẳng thấy gì.

Từ đấy nó khác hẳn.
Bỏ ăn, nằm co ro.
Chủ nó và con nó,
Tức là lão Đế Đô

Hỏi, mới biết vì Phật,
Liền chạy đến tìm Ngài,
Buông cả lời thóa mạ,
Nhưng Phật bỏ ngoài tai.

Khi được Ngài cho biết
Con chó là mẹ mình,
Lão không tin, giận dữ
Bắt Ngài phải chứng minh.

“Vậy thì về đào xới
Chỗ con chó thường nằm.
Có một hòm châu báu
Nó giữ suốt nhiều năm.

Mẹ ngươi đã chôn nó,
Nhưng không kịp mang đi.
Hãy đào lên mà lấy,
Còn đứng đây làm gì!”

Đế Đô về, quả thật,
Tìm được rất nhiều vàng.
Thế mà lão lại khóc,
Ôm chó khóc muộn màng.

Giờ thì lão đã hiểu
Quả báo và luật đời.
Đức Phật bèn khuyên lão
Hãy bố thí giúp người.

Đúng khi lão phát hết
Gia tài lão khổng lồ,
Con chó bỗng nhiên chết,
Chỉ còn lại dúm tro.


KHÚC GỖ VÀ CON RÙA MÙ

1
Xưa có một người nọ,
Gặp chuyện buồn trong lòng,
Bực mình, vứt khúc gỗ
Xuống biển sóng mênh mông.

Khúc gỗ ấy khá lớn,
Có một lỗ hổng to.
Nước và cá có thể
Chui qua rất tự do.

Mà biển thì nhiều gió.
Lúc từ Đông sang Tây,
Lúc thì Nam sang Bắc,
Lúc ngược lại suốt ngày.

Thành ra, tội khúc gỗ,
Không lúc nào được yên.
Luôn nay đây mai đó
Giữa biển cả vô biên.

Có con rùa trong biển.
Nó mù, một trăm năm
Mới ngoi lên mặt nước
Một lần, lúc trăng rằm…

Phật đang kể câu chuyện,
Nổi tiếng và rất hay,
Chắc nhiều người đã biết.
Rồi Phật hỏi thế này:

Vậy bao lâu có thể
Ngẫu nhiên con rùa già
Gặp được khúc gỗ ấy,
Thấy lỗ rồi chui qua?

Chắc phải lâu, lâu lắm.
Có thể chẳng bao giờ.
Phật nói: “Người cũng vậy,
Khi rơi xuống bùn nhơ

Thì trở lại chính đại
Sẽ vô cùng khó khăn,
Hệt như con rùa ấy
Một trăm năm một lần

Mới ngoi lên mặt biển,
Ngẫu nhiên gặp khúc cây
Rồi chui qua cái lỗ,
Thì quả khó lắm thay.            

Ấy là nói người ấy
Không chịu khó chân tu,
Cam tâm sống dưới đáy
Hệt như con rùa mù.


MỸ NHÂN KẾ HẠI PHẬT

Ngày ấy, khi Đức Phật
Ở Tịnh xá Kỳ Viên
Cùng tăng đoàn đông đúc,
Uy tín Ngài đang lên.

Người khắp nơi kéo đến
Nghe giảng sáng và chiều.
Họ còn dâng lễ vật
Hào phóng và rất nhiều.

Các giáo phái ngoại đạo
Thấy thế ghen với Ngài.
Trước họ được cúng lễ,
Nay không ai đoái hoài.

Cuối cùng họ tìm cách
Hãm hại Phật Thích Ca,
Lại bằng mỹ nhân kế,
Tức là dùng đàn bà.      

Họ mướn nữ sĩ nọ
Tên là Du Đà Ly,
Một người có nhan sắc
Và khôn khéo cực kỳ.   

Chiều chiều cô gái ấy
Bôi son phấn lên da.
Ai hỏi đi đâu đấy,
Bảo đến nhà Thích Ca.

Hôm sau người ta hỏi:
Cô vừa đi đâu về?
Cô đáp: Tôi vừa ngủ
Ở chỗ Thích Ca về.

Cứ thế, một tuần lễ.
Rồi cô bị người ta
Giết chết và vứt xác
Cạnh Tịnh xá Thích Ca.

Người của các ngoại đạo
Cho phao tin trong dân
Tôn Đà Ly mất tích.
Vua sai tìm nguyên nhân.

Bọn chúng đến khai báo,
Cô đi đâu, gặp ai.
Vua cho lính tìm kiếm,
Thấy xác cạnh nhà Ngài.

Chúng bảo vua, chắc chắn
Các đệ tử, môn sinh
Làm điều này, cốt để
Bảo vệ sư thầy mình.

Cả thành phố sôi sục,
Nguyền rủa Phật Thích Ca.
Trong khi vua lẳng lặng
Cho người đi điều tra.

Và rồi, rất nhanh chóng,
Các thám tử của vua
Tìm được bọn giết mướn
Đang nhậu nhẹt sau chùa.

Sợ bị vua xử trảm,
Chúng thành thật khai ra
Tên những người thuê giết,
Minh oan cho Thích Ca.

Sau vụ hiểu lầm ấy
Trong thành phố ai ai
Cũng tin vào Đức Phật
Và càng yêu quí Ngài.         


BÀI HỌC VỀ SỰ NHẪN NHỤC

1
Ngày nọ, đang thuyết pháp,
Đức Phật bị một ông
Nhổ vào mặt. Ngài hỏi:
“Có còn gì nữa không?’

Ông kia rất kinh ngạc,
Lần đầu tiên thấy người
Bị xúc phạm đến thế,
Vẫn ôn tồn mỉm cười.

Các đệ tử tức giận,
Muốn trừng trị ông ta,
Phật ra hiệu ngăn lại.
Ngài bảo A Nan Đà:

“Con người này có thể
Biết ta qua lời đồn,
Hiểu nhầm nên làm vậy,
Không đáng trách đâu con.

Do vậy, ta mới hỏi
Có còn gì nữa không.
Chắc ông ta đang có
Đôi ấm ức trong lòng.

Thực ra, ông ta nhổ
Là tự nhổ vào mình.
Vậy ông ta mới đúng
Là một người đáng khinh.”

Còn ông kia bối rối,       
Chẳng biết nói năng gì.
Hôm sau đến xin lỗi
Phật Thích Ca Mâu Ni.

Ngài nói: “Rất nhiều nước
Dòng sông Hằng chảy qua
Trong một ngày. Cũng thế,
Giờ ta khác hôm qua.

Con người, tốt lẫn xấu,
Luôn thay đổi hàng ngày.
Người hôm qua phỉ nhổ,
Không là ông hôm nay.

Hôm qua ông giận dữ.
Hôm nay ông lạy quỳ.
Người nhổ và bị nhổ
Theo thời gian trôi đi.

Vậy xin ông đứng dậy.
Từ nay chỉ mong ông.            
Hãy nên dùng lời nói                                 
Để diễn tả nỗi lòng.”
                                                        

 

THÁI TỬ NHẪN NHỤC KHẢI      

1
Trong “Thiền Bí Yếu Pháp”
Tôn giả A Nan Đà      
Có thuật lại một chuyện
Về Đức Phật Thích Ca.

Chuyện kể rằng ngày nọ,
Ngài ngồi cùng môn sinh
Trong vườn Cấp Cô Độc,
Đang đàm đạo, giảng kinh,

Thì tôn giả Ca Diếp
Vào ra mắt Thích Ca.
Cùng ông có đệ tử
Là A Kỳ Đạt Đa.         

Ca Diếp nhờ Đức Phật
Giúp anh học trò này.
Ngài bèn kể câu chuyện
Rất thú vị sau đây.

2
Xưa, nước Ba La Nại,
Vua là Phạm Ma Da,
Có con Nhẫn Nhục Khải,
Một thái tử tài ba.

Chàng không mong kế vị,
Tu Thập Thiện, thực hành
Sáu pháp Ba La Mật
Bằng cả tấm lòng thành.
                             
Có một ông trưởng giả
Tên là Nhật Nguyệt Âm,
Rất giàu sang, phú quí,
Đầy tớ đến hàng trăm.

Thế mà ông, thật tội,
Có người con trai hiền,
Bỗng dưng lại đổ bệnh,
Bệnh nặng rồi phát điên.

Thương con, ông cầu nguyện
Phát lộc chốn đền đài,
Hứa ai giúp chữa khỏi,
Ông tặng hết gia tài.

Thái tử Nhẫn Nhục Khải
Một hôm đang dạo chơi,
Hay tin, thương trưởng giả,
Chàng ngửa mặt khấn trời.

Trời nghe thấu lời khấn,       
Hiện xuống, nói với chàng,
Rằng muốn cứu người bệnh,
Ai đó phải sẵn sàng

Cho máu và tủy sống,
Người bệnh xoa vào người.
Lúc ấy bệnh mới khỏi,
Mà khỏi hẳn, suốt đời.

Tuy nhiên, người cho tủy
Phải là người thiện tâm,
Đức hạnh và cao quí,
Từng tu hành nhiều năm.      

Thấy trưởng giả lo lắng,
Thái tử liền cầm dao,
Chẻ xương mình lấy tủy,
Cắt thịt lấy máu đào.

Người bệnh uống tủy sống,
Lấy máu xoa khắp người.
Ngay lập tức khỏi bệnh,
Quì lạy, tạ ân trời.

Vua trời là Đế Thích,
Và rất nhiều thiên thần
Cùng bay xuống khen ngợi
Nhẫn Nhục Khải lòng nhân.

Vì tấm gương nhân ái
Hiến xương máu cứu người,
Đế Thích cho chàng chọn
Được lên sống trên trời.

Nhưng Thái tử chỉ muốn
Tiếp tục ở trần gian
Để lo đường tu đức,
Mong được lên Niết Bàn.

Đế Thích cho như nguyện.
Ngay lập tức người chàng
Lại lành lặn như cũ,
Vừa vui, vừa ngỡ ngàng.

Bao của cải có được
Nhờ ra tay cứu người
Thái tử Nhẫn Nhục Khải
Phát hết cho mọi người.

3
Phật nói: “Ở kiếp trước
Người bệnh là Đạt Đa,
Trưởng giả là Ca Diếp,
Nhẫn Nhục Khải là ta.”


          TÌM PHẬT

Xưa có anh chàng nọ
Nghe nói Phật là người
Ba mươi hai tướng tốt
Và vẻ đẹp - tám mươi.

Và rằng ai gặp Phật
Sẽ may mắn lâu dài.
Anh ta xin phép mẹ
Lên đường đi tìm Ngài.

Suốt ba năm ròng rã,
Chịu mưa nắng dãi dầu,
Anh ta tìm khắp chốn
Mà không thấy Phật đâu.

Người băm hai tướng tốt
Và vẻ đẹp - tám mươi
Quả tìm mãi không thấy,
Dù tìm ba năm trời.

Cuối cùng anh ta gặp
Một vị sư rất già,
Đem sự tình kể hết.
Vị sư nói: “Thích Ca

Hiện đang còn tại thế.
Ngài có mặt khắp nơi,
Nhưng ẩn thân, dưới dạng
Bình thường như mọi người.

Do vậy phải nhìn kỹ,
Phải kiên nhẫn lâu dài,
Và thiện tâm, cầu thị
Mới hy vọng gặp Ngài.          

Tuy vậy, ta có cách
Giúp con gặp Thích Ca:
Bây giờ con quay lại,
Theo đường cũ về nhà.

Hãy chú ý quan sát,
Để ý thấy chân ai
Vô tình đi lộn dép,
Thì người đó là Ngài.

Anh chàng kia hăm hở
Quay về nhà, dọc đường
Buồn vì thấy tất cả
Đi đúng dép, bình thường.

Đến làng mình, bà mẹ,
Nghe nói con trai về,
Vội vã chạy ra đón,
Nước mắt chảy dầm dề.

Anh chàng không hề biết
Rằng hàng ngày mẹ già
Luôn tụng kinh, niệm Phật
Mong anh sớm về nhà.

Bà nghe tin, vui quá,
Vui và vội, quáng quàng
Xỏ đôi dép, xỏ lộn,
Ra đón con đầu làng.      

Anh con đã sụp lạy,
Gặp được Phật Thích Ca
Khi bất ngờ nhìn thấy
Đôi dép dưới chân bà.


PHẬT NGỌC ĐỔ MỒ HÔI

Xưa có một chú tiểu
Rất mẫn tiệp, thông minh,
Được vị đại hòa thượng
Xem như người kế mình.       

Ngày nọ ông bảo chú
Đi ra ngoài hóa duyên.
Bị cảnh trần mê hoặc,
Chú quên hết cõi thiền.

Chú hoàn tục, từ đó
Sống cuộc đời người trần,
Được thỏa sức ăn uống,
Chơi bời với bạn thân.

Bỗng một hôm tư lự
Bên cửa sổ nhà mình,
Thấy mây trôi, nước chảy,
Bất giác chú giật mình.

Lần nữa lại xuống tóc,
Quay trở về ngôi chùa
Quỳ trước đại hòa thượng,    
Chú hối lỗi, xin chừa.      

Lão Hòa thượng không nói,
Bắt chú quỳ rất lâu.
Cuối cùng, chỉ bức tượng,
Ông lặng lẽ gật đầu:

“Được, ta sẽ tha thứ
Cho con tội vừa rồi
Khi bức tượng Phật Ngọc
Bắt đầu đổ mồ hôi.”

Chú tiểu hiểu: Sư phụ
Sẽ không tha, suốt đời.
Làm sao tượng có thể
Đổ mồ hôi như người?

Thế mà ngay tối đó,
Bức tượng ngọc, lạ thay,
Đổ mồ hôi như tắm,
Dù khô hanh suốt ngày.

Cuối cùng chú tiểu hiểu
Rằng Đức Phật Thích Ca
Rất nhân từ, độ lượng,
Mọi lỗi lầm đều tha.

Và rằng trong cuộc sống
Phạm lỗi là bình thường.
Trừng phạt là chuyện dễ.
Khó - trải lòng yêu thương.


CHUYỆN NHÀ SƯ ĂN CẮP

Có một thiền sư nọ
Mở tuần lễ định thiền.
Chư tăng và phật tử
Kéo đến từ mọi miền.

Bỗng người ta phát hiện
Một đệ tử gần đây
Có hành động ăn cắp.
Thật nhục nhã điều này.

Mọi người ngay lập tức
Đòi phải đuổi anh ta,
Nhưng thiền sư bình thản
Như không gì xẩy ra.

Một thời gian sau đó,
Anh chàng hư hỏng này
Lại ăn cắp lần nữa.
Lần này thì rất gay.     

Mọi người đòi dứt khoát
Phải đuổi ngay tức thì.
Nếu thiền sư không đuổi,
Tất cả sẽ ra đi.

Thế mà thiền sư ấy
Vẫn không đuổi anh chàng.
Hơn thế, còn gần gũi
Và tỏ lòng cưu mang.

Ngài nói với đệ tử:
“Các con vốn thông minh,
Biết gì sai, gì đúng,
Với người anh em mình

Đừng nên quá khe khắt.
Anh chàng ngu dốt này
Ăn cắp vì ngu dốt
Vậy thì liệu ai đây

Giúp thành người thông tuệ,
Nếu không phải là ta?
Ta không có ý giữ,
Ai muốn, cứ về nhà.”

Nghe thế, người ăn cắp
Hai mắt lệ ứa tràn,
Từ đấy thói ăn cắp
Anh bỏ hẳn hoàn toàn.

No comments:

Post a Comment