Tuesday, February 24, 2015

THƠ CHỮ HÁN VIỆT NAM - LÊ THÁNH TÔNG



Tác giả: Sinh năm 1442, mất 1497, tên thật là Lê Tư Thành, hiệu Thiên Nam Động chủ, con trai thứ tư của vua Lê Thái Tông. Ông là nhà vua - thi sĩ, có công lớn với đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá. Tác phẩm: hàng trăm bài thơ chữ Hán, mấy chục bài thơ Nôm và một số bài phú nổi tiếng.

Đạo trung thần

Đức của người phò tá
Là giữ đạo trung thần.
Cái điều cao đẹp ấy
Xa lạ với tiểu nhân.

Thảnh thơi

Du Lượng 1) thôi chức lớn,
Chỉ lên lầu ngồi chơi.
Khi không màng danh vọng,
Tự nhiên lòng thảnh thơi.

(1) Tên tự là Nguyễn Qui, đời Tấn, từng từ chức Tể tướng về sống ẩn dật ở Vũ Xương.

Đình Ngư Phủ

Khuất Nguyên 1) bị đuổi, lòng day dứt,
Mang nặng buồn lo vận nước nhà.
Bài thơ ngư phủ chưa ngâm trọn,
Đã tự gieo mình xuống Mịch La.

(1) Nhà thơ vĩ đại Trung Quốc, thấy vận nước sắp nguy, can vua Sở không được, đã nhẩy xuống sông Mịch La tự tử.

Bài thơ mừng lúa tốt 1)

Một màu xanh biếc trải mênh mông.
Nuôi dân phải nhớ trọng nghề nông.
"Năm nay lúa tốt hơn năm ngoái!"
Mấy lão nông phu đứng ngắm đồng.

(1 Bài này Lê Thánh Tông viết khi đi qua một cánh đồng lúa tốt ở làng Động Bàng, Thanh Hóa.

Dừng chân ở núi Cổ Quý 1)

Gió thổi, cờ bay giữa nắng tà.
Lá đỏ còn hơn hoa tháng Ba.
Đời người nhìn lại, không như trước.
Vui buồn trăm mối, rối lòng ta.

(1) Tên một ngọn núi ở tỉnh Kiến An cũ, nay thuộc Hải Phòng.

Đi tuần phía đông, dừng lại ở Đồng Cảng 1)

Vùng biển, gạo như ngọc.
Cá rẻ như cho không.
Thấp thoáng chim về tổ.
Hoàng hôn, mặt trời hồng.

(1 Chưa rõ ở đâu.

Đậu thuyền dưới chân chùa Quang Khánh 1)

Ngoài vườn chim hót, gió hây hây,
Trời xế, mặt đường phủ bóng cây.
Sẵn rượu làm sao không cạn chén -
Ai sống ở đời thoát cái say?

(3) Tên một ngôi chùa ở xã Dương Mông, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.

Qua bến Phù Tang 1)

Trên bến Phù Tang mưa lắt lay.
Tiết xuân, trời đất ấm từng ngày.
Chỉ thương những kẻ ham danh lợi,
Quên đời trôi thoáng tựa làn mây.

(1) Chưa rõ ở đâu.

Qua đền Hưng Đạo vương 1)

Lá đỏ trên cây khẽ xạc xào.
Trời đầy mây trắng, nắng xôn xao.
Tượng đá, chùa đây, người chẳng thấy,
Chỉ thấy bên ngoài rặng núi cao.

(1) Ở sơn phận xã Vạn Yên, nay là xã Vạn Kiếp, huyện Chí Linh, Hải Dương.

Dừng lại ở Xương Giang 1)

Nắng chiều, nửa núi xạm dần đen.
Hai bờ như có khói bay lên.
Sách xưa đọc mãi mà không hết,
Dù đã mười năm đọc trước đèn.

(1) Tức sông Thương, chảy qua thị xã Bắc Ninh, gần sông có thành Xương Giang do giặc Minh xây đắp, nay không còn nữa.

Bến cảng Vân Đồn 1)

Nắng chiều óng ả, bến bình yên.
Con thuyền lướt nhẹ, nước đang lên.
Gái trai bên biển cười vui vẻ,
Át cả gió reo trước mũi thuyền.

(1) Tên một thương cảng ở lộ An Bàng thời Lý - Trần, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh.

Bãi Đông Ngạc 1)

Thơ làm xong, đi ngủ.
Trăng nhú nơi chân trời.
Hoa rụng bao tình ý,
Khẽ chạm vào áo người.

(1) Có lẽ là bãi sông Hồng, nay thuộc vùng Chèm Vẽ, Hà Nội.

Đêm cắm thuyền ở bãi Trung Giang 1)

Không gió, không sương, đêm tĩnh yên.
Ngồi đợi bình minh trước mũi thuyền.
Sắp sáng, hé nhìn qua cửa sổ,
Dòng sông phẳng lặng, nước triều lên.

(1 Chưa rõ ở đâu.

Qua núi Điệp Sơn 1)

Triều dâng, sông đỏ gặp sông vàng. 2)
Liễu thêm xanh biếc lúc xuân sang.
Thuyền ghé, khách thơ bèn ướm hỏi
Chuyện xưa, tên núi lẫn tên làng.

(1 Tức núi Tam Điệp, nằm giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình ngày nay.
(2 Chỉ chỗ sông Hồng và sông Thanh Hóa gặp nhau.

Thác nước

Từ trên đổ xuống, nước như mây,
Âm vang trắng xóa suốt đêm ngày.
Cảnh xuân bị cuốn trôi theo nước.
Mấy ai để ý thấy điều này.

Con trai, con gái ở Lỵ Nhân 1)

Trên đê trời lạnh, sắp sang xuân.
Đẹp như mỹ nữ nước Yên, Tần,
Ở đây con gái xinh, hiền dịu.
Xấu hổ con trai, chẳng dám gần.

(1) Nay là huyện Lý Nhân, Hà Nam.

Ngày xuân, mới ốm dậy

Chỉ một mình, ốm yếu,
Dạo nhiều vòng quanh sân.
Oanh hót vang, xin hỏi:
“Cho ai chim gọi xuân?”

Ốm dậy, cảm hoài

Hôm nay có vẻ bệnh thuyên dần.
Suốt ngày thư thái dạo quanh sân.
Nhờ thuốc, nên vui vì khỏi bệnh,
Tiếc chẳng có gì níu tuổi xuân.

Thơ đề trên quạt

Nam Huân gác tía giữa ban ngày,
Nhẹ nhàng quạt lụa phẩy trên tay.
Gió mát hiu hiu, trưa ngủ thiếp,
Không biết mồ hôi của dân cày.

Đề nơi chốn mây nước của đạo sĩ
Bài một

Tuổi già ẩn dật chốn thâm u,
Trút bỏ áo quan, chiếc áo tù.
Lấy sự vô tâm làm tâm đắc,
An nhàn tiếp bạn, tiếp nhà tu.

Đề nơi chốn mây nước của đạo sĩ
Bài hai

Non sông tít tắp một màu xanh.
Mây chiều ráng đỏ, nước long lanh.
Chỉ tiếc không tài như tạo hóa,
Đưa hết cảnh này vào bức tranh.

Đề nơi chốn mây nước của đạo sĩ
Bài ba

Thấp thoáng ngôi nhà giữa núi mây.
Chắc am ẩn sĩ ở nơi này.
Chiều xế, trời quang, cơn gió thổi.
Ráng trời soi nước, bóng chim bay.

Đề nơi chốn mây nước của đạo sĩ
Bài bốn

Thuyền trong tán lá, cánh chim hồng.
Gác chèo, gió nhẹ, nước mênh mông.
Mây trắng chợt rơi vào cốc rượu.
Ráng chiều như máu nửa dòng sông.

Đề nơi chốn mây nước của đạo sĩ
Bài năm

Mấy gian nhà nứa gối hồ sen.
Không vướng bụi trần, lòng tĩnh yên.
Đời sau chắc chẳng mong hơn thế,
Khi đến nơi này, nơi cõi tiên.

Đề nơi chốn mây nước của đạo sĩ
Bài mười bảy

Bóng tre râm mát, nắng lung linh.
Ve kêu ngày hạ thật vô tình.
Vừa mới thiu thiu thì chợt tỉnh.
Sen nở làm chim khẽ giật mình.

Thơ đề chốn mây nước của đạo sĩ
Bài hai mươi tư

Hai bờ lau nở, trắng như bông.
Sông vén màn đêm, chảy phía đông.
Nỗi buồn du khách, vành trăng sáng
Như chiếu xuyên qua, thấu nỗi lòng.

Vịnh Mi Ổ

Lòng tham của kẻ ác
Khiến mọi người ngỡ ngàng.
Lửa cháy, thiêu gian tặc
Mà không soi thấy vàng.

1). Mi Ổ, kho vàng của Đổng Trác thời Tam quốc. Với chức ngang Tể tướng, cậy thế chuyên quyền, Đổng Trác vơ vét nhiều vàng bạc châu báu giấu ở Mi Ổ. Sau hắn bị Lã Bố giết chết, thây phơi ngoài chợ. Lính  canh cắm đuốc vào xác Đổng Trác, lửu cháy sáng rực suốt đêm.

Thơ đề bức vẽ chân dung đại học sĩ Vũ Vĩnh Trinh 1)

Hơn sáu chục năm sách với đèn.
Kim Đường 2) nhàn nhã giống như tiên.
Tầm sư học đạo, tôn Nho Giáo.
Nhà rộng, ung dung luận thánh hiền.

1). Vũ Vĩnh Trinh tự Hựu Chi, người huyện Vụ Bản, Nam Định. Không rõ năm sinh, năm mất. Ông đậu khoa Minh Kinh năm Kỷ Dậu (1422), làm chức Giáo Thụ. Đời Lê Thánh Tông làm Hàn lâm Học viện sĩ và Bí thư Giám học sĩ.
2). Kim Mã, Ngọc Đường: các cung điện đời Hán. Ở đây chỉ cung điện nói chung.

Thơ đề ở động Bạch Nha 1)
Năm Quang Thuận thứ 8 (1467)

Lô xô núi biếc giữa nắng tà.
Tiết trời dìu dịu, lá xen hoa.
Mây che cửa động, ngôi chùa cổ.
Xuân về, gió lặng, tiếng chim ca.
Từ thuở hỗn mang trời đã tạo,
Quỉ thần đẽo gọt mãi mà ra.
Chắc Nữ Oa thương, không động đến,
Để ghi công đức của triều ta.

(1) Tên một ngôi động ở dãy núi Thần Phù, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa.

535. Thơ đề trên núi Dục Thúy
Năm Quang Thuận thứ 8 (1464)

Dục Thúy nằm kề ba khúc sông.
Đỉnh cao lạnh lẽo vút lên không.
Leo lên theo gió, bên chùa cổ,
Bia đá xế chiều mới đọc xong.
Xuống hang, cứ tưởng trời không rộng.
Lên cao mới biết đất mênh mông.
Núi sông vẫn thế, không thay đổi.
Như mơ, ngoái lại, thấy anh hùng.

Lên núi Long Đọi 1) đề sau tấm bia
Bảo tháp Sùng Thiện Diêu Linh

Núi cao, chùa cổ đứng chơi vơi.
Đường dốc, leo hoài mới tới nơi.
Giặc Minh phá hết, còn bia đá.
Vua Lý ghi bao chuyện lạ đời.
Đường ít vết chân, rêu phủ kín.
Núi nhiều mưa ẩm, cảnh xinh tươi.
Lên cao, tầm mắt nhìn, vô tận
Cây cỏ xanh xanh đến cuối trời.

(1. Tªn ngän nói phÝa ®«ng nam huyÖn Duy Tiªn, nay thuéc tØnh Ninh B×nh.

Thơ khắc ở cột chùa Tu Mộng

Chùa cổ nghiêng xiêu đã nửa phần.
Sư dắt thăm chùa, nhẹ bước chân.
Chân sư dễ vượt vòng đai giác.
Ta bước đường đời thật khó khăn.
Ngũ viên mạnh mẽ mà không sắc.
Lục độ sáng ngời vẫn có nhân.
Thấy khách cúi đầu như giác ngộ,
Sư thôi không giảng, lặng im dần.

Thơ đề ở chùa Sài Sơn 1)

Đứng bên vách núi, xốn xang lòng.
Theo mây, chân nhẹ bước lên không.
Hoa nở lặng im bên cửa động,
Chào người, chim hót dưới rừng thông.
Tay ngắt vì sao trời thứ nhất.
Ba nghìn thế giới cõi mênh mông,
Quét rêu, nguệch ngoạc thơ lên đá,
Ngọn bút làm rung cả núi sông.

1. Tøc chïa ThÇy ë huyÖn Quèc Oai, S¬n T©y.

Thơ đề núi Chiếu Bạch 1)

Nước trời hòa nhập, sóng mông mênh.
Núi già soi bóng xuống sông xanh.
Cổ thụ như xưa, nhô phía trước.
Hoa nở đua nhau điểm trắng cành.
Ý thơ lai láng, ngâm nga mãi.
Tâm hồn thanh bạch, dạo loanh quanh.
Đang xuân, trong động nhiều hoang thú.
Bao đời phong cảnh đẹp như tranh.

(1) Tªn ngän nói ë huyÖn Nga S¬n, Thanh Ho¸.

Thơ đề động Hồ Công 1)

Quỷ thần đẽo gọt mới làm ra
Thành hang đá rộng, giống ngôi nhà.
Công danh thế tục đều như mộng.
Trong quả bầu tiên sống nhởn nha 2).
Như tự cõi trời rơi ngọc trắng,
Hoa Dương 3) rồng hóa giống châu sa.
Những muốn cưỡi mây lên đỉnh núi
Để nhìn đất nước giữa bao la.

1) Tên một động đẹp ở núi Xuân Đà, phía tây huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.
2) Thi Tồn người nước Sở học được phép tiên, có một trái bầu chứa toàn bộ vũ trụ, có đủ trăng sao trời đất. Đêm ông vào ngủ trong quả bầu ấy, tự đặt hiệu là Hồ Thiên, người đời gọi ông là Hồ Công.
3) Tên một ngọn núi ở An Huy, Trung Quốc, Hồ Công gặp Phí Trường Phòng. Phòng xin về thăm nhà, Hồ Công đưa cho cây gậy trúc bảo Phòng cuỡi lên. Cây gậy hóa thành rồng.

Thơ đề động Long Quang 1)

Dừng chân ngắm cảnh núi xanh tươi.
Leo lên càng thấy rộng đất trời.
Như thể bất ngờ lên Ngọc Kiểm, 2)
Tưởng mình đang lạc chốn Thiên Thai.
Mây vương đầy đất không ai quét.
Hang động vươn cao lấp mặt trời.
Cảnh đẹp, đẹp từ rừng đến suối,
Tình ý như mời vua đến chơi.

(1) Tên một động đẹp ở huyện Đông Sơn, Thanh Hoá.
(2) Tên ngọn núi gần vùng Lam Sơn, Thanh Hóa.

Đi trên sông

Bến sông tiếng trống giục vang xa.
Thuyền rồng lướt sóng chạy ngang qua.
Bát ngát ruộng nương xanh nghìn khoảnh.
Lác đác kề sông mấy nóc nhà.
Như thể sắp mưa, trời rất thấp,
Dẫu biển đằng Đông nắng chói lòa.
Buổi sớm, núi xanh như trịnh trọng
Mời vua qua cửa biển Hà Hoa.

Hồng Đức năm thứ nhất, ngày 11 tháng 12.
Đóng quân tại cửa bể Hà Hoa 1), đêm khuya
ngồi nghe tiếng mưa, sinh lòng thương cảm

Tựa mui thuyền vắng, nghĩ lan man.
Đêm mưa, hơi lạnh thấm qua màn.
Như cánh ve sầu, màn rất mỏng.
Đầy trời mưa gió, ngủ không an.
Sông nước mênh mang nhìn hút mắt.
Lặng trôi ngày tháng, tiếc thời gian.
Nghĩ thương binh sĩ chân dầm đất,
Ngã chết, không tiền mua áo quan.

(1) Tức cửa Khẩu, thôn Hải Khẩu, xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh.

Ngồi ngắm trăng, bày tỏ nỗi lòng

Quan sơn nghìn dặm, lộ trình xa.
Mây trôi, biển sóng, ánh trăng tà.
Trăng sát bên thuyền, không ngủ được,
Như vành ngọc sáng giữa bao la.
Muốn hiểu biết thêm, cần học hỏi,
Trau dồi kiến thức của ông cha.
Kéo lại mặt trời, trai chí lớn,
Không buồn năm tháng vụt trôi qua.

Nghỉ lại ở cửa Bể Du 1)

Một dòng cuồn cuộn chảy ra khơi,
Sông lớn mênh mông nước với trời.
Nguyệt Áng 2) đêm trăng soi bóng nước.
Xuân ấm Chu Bàn 3) sóng bốc hơi.
Rải rác trên bờ phơi lưới cá.
Thuyền buôn cập bến tự muôn nơi.
Sông nước giữa chiều đưa mắt ngắm,
Như thấy Bông Lai phía mặt trời.

(1) Cßn cã tªn lµ Du Xuyªn, cöa B¹ch, ë huyÖn Ngäc S¬n, Thanh Ho¸.
(2) (3) Tªn ®Þa phư¬ng ë cöa BÓ.

Đạo làm vua

Nhớ lời các bậc đế vương răn:
Trên chăm thần thánh, dưới chăm dân,
Lo xây dựng nước, lo đời thịnh,
Với mình luôn nhớ phải tu thân.
Chiêu hiền đãi sĩ, lo văn đức,
Trọng tài tướng lĩnh, giỏi nuôi quân.
Đạo lớn làm vua là sáng suốt,
Mọi người Kinh, Thượng được ban ân.

Nghỉ lại ở cửa biển Hà Hoa

Trời mưa suốt sáng khắp Hà Hoa.
Đất trời bốn phía rộng bao la.
Vách núi xanh xanh mây quấn quýt.
Sóng triều dồn dập vỗ xa xa.
Đầm nước Thủy Tiên  1) mây vẫn thế.
Quanh đồn Chế Thắng 2) tiếng chim ca.
Tựa thuyền, say rượu, thơ lai láng.
Thơ mang nỗi nhớ khách xa nhà.

(1) Tªn ®Çm c¹nh nói Bµn §é gÇn cöa biÓn.
(2) §Òn thê nµng NguyÔn BÝch Ch©n, cung nh©n vua TrÇn DuÖ T«ng, t×nh nguyÖn hy sinh th©n m×nh cho thñy thÇn ®Ó gióp vua Nam Chinh.

Động Lục Vân

Vách núi xanh mờ, động Lục Vân, 1)
Ở chốn bao la thoát bụi trần.
Nắng xế bờ khe, hoa chớm nụ.
Chim chuyền rặng liễu, báo mùa xuân.
Nước suối rửa tai, lòng tĩnh lặng.
Công việc đời thường chẳng vướng chân.
Nhà tối thắp đèn, đời chẳng mộng.
Bầu tiên ngày tháng sống thanh bần.

(1) Theo nguyªn chó th× ®éng nµy thuéc xã ChÝnh §¹i, huyÖn Tèng S¬n, nay lµ Nga S¬n, Thanh Hóa

Đi trên sông, ngẫu nhiên thành thơ

Hạnh phúc đời ta được mấy giờ?
Thành công, thất bại giống chơi cờ.
Bao la đất rộng, trời xanh biếc,
Bốn mùa cảnh đẹp gợi hồn thơ.
Xin làm con nhạn nơi sông núi,
Hơn trong lăng miếu tượng thờ ơ.
Chẳng theo Duy Hàn 1) mài nghiên sắt,
Sông nước vẫy vùng, thỏa ước mơ.

(1) Theo truyÒn thuyÕt, Di Hµn thi trư¬ît tiÕn sÜ, cã ngưêi khuyªn «ng ®eo ®uæi hưíng kh¸c. Hµn ®óc mét chiÕc nghiªn b»ng s¾t vµ nãi víi mäi ngưêi: "Nghiªn háng th× söa chø kh«ng ®æi hưíng kh¸c". Cuèi cïng «ng ®ç tiÕn sÜ.

Đi tuần phía đông, qua An Lão 1)

Con đường nghìn dặm chạy quanh quanh.
Gió thổi, nâng thuyền khẽ lướt nhanh.
Chiều xế, mặt trời soi bóng nước.
Theo áng mây hồng, lòng nhẹ tênh.
Sương muối rơi nhiều, cây úa lá.
Bãi dâu khói nhạt, cảnh yên lành.
Núi biển mờ mờ như nhập một,
Kéo dài thành vệt biếc màu xanh.

(1) Tªn mét huyÖn thuéc thµnh phè H¶i Phßng ngµy nay.

Qua bến Phù Thạch 1)

Triều dâng, nước lạnh chảy về đông.
Mấy mỏm đá nhô chính giữa dòng.
Mây như mũ trắng treo đầu núi.
Ráng in trên nước giống tơ hồng.
Rồng không ẩn mãi nơi sâu thẳm,
Khi lửa mặt trời bốc lên không.
Nay lúc việc văn hơn việc võ,
Ân vua phải tưới khắp non sông.

Đừng lại ở núi Cổ Quý 1)

Tâm hồn như ngọc sáng bao la.
Ngoài sông mờ ảo ánh trăng nhòa.
Xưa nay đời tục thành hay bại,
Vui buồn cũng chỉ giấc mơ qua.
Là vua, đọc hết năm xe sách,
Làm ba việc lớn giống ông cha.
Dẫu đời bèo bọt, đừng lo nghĩ,
Vì đời tất cả ở lòng ta.

(1) Tªn mét ngän nói thuéc KiÕn An.

Qua sông Bạch Đằng

Thuyền như tranh vẽ lướt trên sông.
Bạch Đằng con nước cứ mênh mông.
Chợt nhớ cái ngày Toa Đô chết,
Nhớ thời Hưng Đạo lập chiến công.
Xã tắc nhà Trần ngày ấy mạnh,
Giang sơn đất Việt vững như đồng.
Hư danh, ảo mộng thời xưa ấy,
Nay giống làn mây trắng bập bồng.

Đêm đậu thuyền ở bến Bình Than

Như ngọc, trăng lên sáng một vành.
Bãi bồi tít tắp một màu xanh.
Rau tần trắng bãi, heo may lạnh.
Sau mưa lá đỏ kín trên cành.
Trên thuyền khách thấy như lơ lửng.
Bên trời, bên nước sáng long lanh.
Lòng đạo tuy già còn cứng cỏi,
Hơn cả đàn tiêu cung Thái Thành.

Cảm xúc ở Xương Giang

Dừng chân bên bến, ngắm dòng sông.
Chớm mọc xa xa vệt ráng hồng.
Cảnh đẹp gợi nên tâm ý cũ,
Xua tan bao thói dục trong lòng.
Xao xuyến tai nghe chày đập vải.
Mắt nhìn trăng sáng giữa tầng không.
Vạn vật như xưa không đổi khác.
Cái buồn như nước, vẫn mênh mông.

Uống rượu với khách

Khách mới ngồi dự tiệc,
Mà như say nửa phần.
Thơ cứ ra lai láng,
Cười nói giống cổ nhân.
Hết ngâm rồi bình luận,
Kẻ xướng, người họa vần.
Khi khách chào tạm biệt,
Trăng chỉ còn góc sân.

Tiễn thượng thư bộ lễ
Lê Hạo Nhiên đi sứ phương bắc

Cái chí làm trai đi bốn phương.
Làm thơ tiễn sứ lúc lên đường.
Bên đình bẻ liễu, xuân đang rộ.
Hoa nhiều trong trạm, ngát mùi hương.
Non sông quan sứ từng đi hết,
Việc nước, việc nhà giỏi đảm đương.
Khi về mạnh khỏe, thơ đầy túi,
Đầy thuyền trăng sáng lẫn hơi sương.

Ra cửa biển Bạch Đằng, đi tuần ở An Bang 1)

Mười hai cửa biển nước mênh mông.
Đường đi vời vợi, trời xanh trong.
Chí lớn làm nên đài chiến thắng.
Sinh khí mùa xuân khắp ruộng đồng.
Xưa nay hưng phế là giấc mộng.
Con người sống mãi với non sông.
Chợt buồn, làm thơ cho khuây khỏa,
Sao vẫn buồn khi thơ viết xong?

(1) Tªn vïng ®t nay thuéc tØnh Qu¶ng Ninh.

No comments:

Post a Comment