JAMI
Tên đầy đủ là Nuriđin Abđurakhman Jami,
sinh ngày bảy tháng mười hai 1414, ở thành phố Jam, từ đây ông lấy bút danh Jami.
Ông là một trong những nhà thơ lớn của Ba Tư cổ đại, từng hoc ở Samarkand và
rất say mê khoa học. Sau đó ông dành trọn cuộc đời mình cho khoa học và thơ,
nhiều lần khước từ lời mời vào cung làm quan. Ông đặc biệt được ưa chuộng trong
tầng lớp thị dân nghèo và trí thức đương thời, là bạn thân, học trò của nhà thơ
Navôi vĩ đại. Jami mất ở Herat ngày 9 tháng mười hai năm 1492, để lại hơn một
trăm tác phẩm lớn về khoa học và thi ca.
THƠ LẺ
* * *
Mời các bạn vào kho thơ Jami.
Vâng, hình như không thiếu một thứ gì.
Thích thì đọc, mỗi người theo một ý
Toàn điều hay, không có điều nhảm nhí.
* * *
Thằng đê tiện vẫn suốt đời đê tiện,
Cả khi ngồi trên ngai vàng, cung điện.
Như ếch nhái dù cố nhảy lên cao,
Thì cuối cùng vẫn rơi xuống bờ ao.
* * *
Kẻ bất tài suốt đời vẫn bất tài.
Đừng cố dạy làm gì thêm mệt,
Như xưa nay ta vẫn thấy - không ai
Chăm, tưới nước cho bụi cây đã chết.
* * *
Hãy nhìn kia, các quan lớn xứ này
Đang cắn nhau như thú dữ đêm ngày.
Chúng vờ tốt bề ngoài, nhưng thực chất
Luôn gầm ghè từng miếng mồi nhỏ nhất.
* * *
Vua đừng quên dân chúng của nước ngài
Là kho báu. Còn các quan không ai
Không tranh thủ bới đào kho báu ấy.
Vua là vua, sao đang tâm để vậy?
* * *
Tôi xin có lời này khuyên bạn trẻ:
Đừng vì lợi mà khen quân tồi tệ.
Cái lợi kia sẽ nhanh chóng bốc hơi,
Còn tiếng xấu thì ở lại suốt đời.
* * *
Này thằng ngốc, đừng khoe bố thông minh.
Đừng làm bẩn mái tóc bạc bố mình.
Cành đã mục thì đừng mong xanh lại,
Dù cây mẹ xum xuê, đầy hoa trái.
* * *
Đừng làm bạn với người dốt hơn mình.
Hãy tìm cách ở gần người thông minh.
Nhưng cũng nhớ đừng chóng làm họ chán -
Họ cũng tìm người thông minh làm bạn.
* * *
Tôi thất vọng, không thấy người tử tế.
Cả ban ngày, cả trong mơ cũng thế.
Tôi thấy nắng là vào nhà, than ôi,
Không vì nắng, mà vì sợ bóng tôi.
* * *
Có nhiều người muốn bay cao, thật cao,
Không lượng sức, không biết mình thế
nào.
Đời trần tục vâng thì buồn, thì khổ,
Nhưng vẫn có cái gì hay trong đó.
* * *
Anh cầu đức Alla, vì em làm anh đau.
Anh gào thét, kêu la, vì em làm anh đau.
Anh quằn quại ngày đêm, đến xé quần, xé
áo.
Giờ anh thành bóng ma, vì em làm anh
đau.
* * *
Anh yêu em, như chim sa vào bẫy,
Vào chiếc lồng tình yêu em, ở đấy
Em trói anh bằng những sợi tơ tình.
Thế mà anh thích ở trong lồng ấy.
* * *
“Để ta yên! - tôi bảo trái tim tôi. -
Đường còn xa, ta đã mệt lắm rồi.
Hãy cứng rắn với người con gái ấy,
Người ta yêu mà lừa ta, than ôi!”
* * *
Anh nâng cốc uống một mình, thiếu em.
Uống cả rượu, cả nỗi đau, say mèm.
Em ra đi, làm đời anh cay đắng
Và chuỗi ngày anh sống biến thành đêm.
* * *
Mùa xuân đến, khi trời xanh, bao la,
Cả thiên nhiên đang sống lại, hiền hòa,
Tôi lặng lẽ thăm mộ nàng, hy vọng
Nàng hiện về dưới dạng một nhành hoa.
* * *
Mở mắt, anh thấy em.
Nhắm mắt - cũng thấy em.
Cả khi mơ, khi tỉnh
Lúc nào cũng thấy em.
* * *
Dùng móng tay cào thủng đá hoa cương,
Dùng hàm răng ngoạm song sắt trên tường.
Lao xuống vực thăm thẳm sâu đầy đá,
Hay ngâm mình dưới đáy hồ băng giá.
Chất hàng hóa của trăm con lạc đà
Lên lưng mình để đi xa, thật xa...
Những việc trên tôi sẵn sàng làm hết
Hơn cúi đầu trước bọn người đáng ghét.
CHUYỆN HAI CON ĐẠI BÀNG
Có một con đại bàng con lần nọ
Nói với con đại bàng già, bố nó:
“Không hiểu sao ta phải ở nơi này,
Nơi khô cằn, buồn tẻ, đá và mây.
Chắc tốt hơn, nếu ta đi đâu đấy,
Đi thật xa, tới hoàng cung lộng lẫy,
Sống bên vua, đậu trên cánh tay ngài.
Luôn no đủ và không còn sợ ai...”
Chim bố nghe, liền chau mày đáp lại:
“Con còn trẻ, chưa biết điều phải trái.
Là đại bàng, được sinh ra ở đây,
Giữa khô cằn, buồn tẻ đá và mây,
Nhưng là nhà, và là nơi tốt nhất,
Nơi tự do và bầu trời xanh ngắt.
Ta ở đây, thà ăn xác lạc đà,
Chịu gió mưa trên sa mạc bao la,
Hơn khoe mẽ trên tay vua nhơ bẩn,
Và ngửi mùi chiếc nhẫn vàng của hắn!
CHUYỆN VỢ CHỒNG ÔNG CHỦ VÀ CÂN THỊT
Một ông nọ mang về cân thịt cáo,
Đưa cho vợ nấu bữa trưa, và bảo:
“Đúng một cân, thịt còn mới và tươi.
Bà luộc lên, thừa ăn cho hai người”.
Bà kia luộc, thấy ngon ăn hết cả,
Khi chồng hỏi liền kêu lên: “Tiếc quá,
Tôi luộc chín, định đưa lên mời ông,
Nhưng con mèo đến tha mất, láo không!”
Ông kia
nghe, bắt mèo cân - khá nhẹ.
Trước nó
nặng thế nào, giờ vẫn thế.
Ông bực lắm,
giơ hai tay lên cao
Rồi bảo vợ:
“Tôi chẳng hiểu thế nào.
Con mèo nặng
đúng một cân, như thịt.
Bà nói dối,
hay coi tôi con nít?
Sao lại thế,
bà hãy nói tôi xem,
Ăn thịt xong
mà mèo chẳng nặng thêm.
Hay cân thịt
biến thành mèo, hay ngược lại?
Tôi chẳng
hiểu. Hay bà ăn? Đừng cãi!
LẠC ĐÀ VÀ CÁO
Già, ốm yếu, con lạc đà lần nọ
Ra uống nước bên một dòng suối nhỏ,
Như cái bóng vật vờ, trông thật thương,
Lông rụng hết, chỉ còn da bọc xương,
Đến mức quạ cứ bay theo, còn sói
Không thèm bắt, dẫu nhiều ngày nhịn đói.
Chỉ con cáo thấy thê, bảo lạc đà:
"Anh, con tàu của sa mạc gần xa,
Từng khỏe đẹp, từng cao sang nhường ấy,
Nông nỗi nào khiến anh tiều tụy vậy?
Anh không nỡ dẫm lên kiến xưa nay.
Ai dẫm anh như dẫm kiến thế này?"
Lạc đà đáp: "Cái số tôi phận bạc,
Gặp ông chủ vừa tham vừa độc ác.
Hắn bắt tôi thồ muối nặng, mỗi lần
Tôi đi chậm là hắn đánh vào chân,
Đánh túi bụi, làm đau không chịu nổi.
Nhất là khi các vết thương thấm muối.
Tôi kêu trời mà trời cứ làm ngơ,
Vậy hỏi tôi biết kêu ai bây giờ?"
Cáo nghe xong, tỏ lòng thương, liền nói:
"Đúng đời anh khổ trăm bề, thật
tội.
Nhưng đừng buồn, tôi có kế rất hay
Để giúp anh thoát khỏi cảnh buồn này.
Anh biết đấy, có một dòng suối nhỏ
Từ cảng muối, trên đường về thành phố.
Vậy ngày mai, khi qua suối, bất ngờ
Anh nằm xuống cùng bao muối đang thồ.
Muối gặp nước sẽ tan ngay, vì thế
Hàng từ nặng mà trở thành rất nhẹ."
Lạc đà nghe cáo nói, bụng mừng thầm,
Nghĩ lần này sẽ có cách chơi khăm.
Nhưng ông chủ hôm sau, qua ánh mắt
Thầm đoán hiểu mọi mưu mô, sự thật,
Nên thay vì các bao muối, ông ta
Đem bông xốp chất lên lưng lạc đà.
Còn lạc đà, vốn xưa nay ngu muội,
Như cáo dặn, vội vàng nằm xuống suối.
Thế là bị một phen nặng gấp đôi.
Kể ra đấy là bài học không tồi.
CHUYỆN CON CHIM KHÔN NGOAN
VÀ CON CÁ NGỐC NGHẾCH
Ở Ôman, xưa có con chim nọ
Sống bằng nghề bắt cá ăn, và nó
Rất tinh thông, điêu luyện với nghề này,
Khiến các loài tôm cá sợ xưa nay.
Thế mà muốn hay không, tuổi tác
Cũng làm nó già đi và đổi khác.
Rồi một hôm, sức kiệt hẳn, mắt mờ,
Nó chỉ biết ngồi một chỗ hàng giờ
Nghe sóng biển, nhìn cá đùa trên nước,
Muốn tới bắt mà không sao tới được.
Và đúng khi sắp chết đói, bất ngờ
Có chú cá từ xa bơi vào bờ.
Nó lên tiếng trêu con chim khốn khổ,
Vì biết chim không làm gì được nó:
"Này lão chim, sao ngồi buồn như
vậy?
Sao chậm chạp và yếu già mức ấy?
Lão ngày xưa nổi tiếng lắm cơ mà.
Hay bây giờ không còn muốn bắt ta?"
Con chim đáp: "Vâng, quả tình đúng
thế.
Anh thấy đấy, ta đã không còn trẻ,
Lại ốm đau, nhưng thanh thản lúc này.
Ta hối hận về việc làm xưa nay.
Ta xấu hổ vì trót ăn thịt cá.
Nay ta chỉ ăn lá cây, hoa quả.
Giờ thực tình ta muốn bạn với anh
Để chuộc lại chút lỗi lầm của mình.
Nào đừng sợ, lại đây, anh bạn nhỏ.
Mà nếu sợ thì kia kìa, sợi cỏ,
Đem lại đây trói mỏ lại, và anh
Sẽ tự do tâm sự chuyện đời mình."
Con cá nhỏ thơ ngây nghe, tưởng thật
Ngậm sợi cỏ lại gần, trong nháy mắt
Bị con chim nuốt vào bụng bất ngờ,
Cứ như nó chưa tồn tại bao giờ.
CHUYỆN
IBN SINA CHỮA BỆNH
CHO
NGƯỜI TÂM THẦN
Vào cái thời Ibn Sina còn sống
Và danh tiếng đang vang xa, lan rộng,
Có một người, giàu, trẻ, lắm người thân
Nhưng không may mắc chứng bệnh tâm thần.
Không đau yếu, nhưng anh ta một mực
Luôn miệng nói: "Tôi là con bó đực.
Hãy nhìn đây, tôi to lớn, béo tròn,
Đem lên hầm, chắc chắn sẽ rất ngon.
Hãy nhanh chóng đưa tôi đi giết thịt.
Gọi đồ tể tới đây, tôi muốn chết!"
Và cứ thế, suốt đêm ngày anh ta
Bắt chước bò, luôn miệng rống vang nhà,
Không uống thuốc, không chịu ăn, thức
trắng
Nên bệnh nặng lại càng ngày thêm nặng.
Các thầy thuốc đành nhìn nhau bó tay:
Phải nhờ đến Ibn Sina lần này!
Ibn Sina nghe kể xong, liền dặn:
"Hãy về nói với bệnh nhân: Chắc
chắn
Sáng ngày mai đồ tể sẽ đến nhà
Và thế nào cũng làm thịt anh ta".
Người bị bệnh, nghe tin mình bị giết
Thì vui mừng không để đâu cho hết.
Sáng hôm sau Sina đến, và ông
Liền hỏi to khi mới bước vào phòng:
"Bò đực đâu?" "Đây, tôi
là bò đực! -
Người bệnh đáp. - Giết tôi ngay lập
tức!"
Ông dùng dây trói thật chặt anh ta,
Bắt vươn cổ, nằm ngay giữa sàn nhà,
Rồi luôn tay mài dao, ông lặng lẽ
Sờ và ngắm như một anh đồ tể.
Bỗng ông nói: "Con bò này quá gầy,
Nên phải chờ, không thể giết hôm nay.
Phải cho ăn thật nhiều và thật bổ
Mới đủ béo để cho vào lò mổ."
Ông sai người cởi dây trói bệnh nhân
Rồi ra lệnh mang vào nhiều thức ăn.
Thật kỳ lạ là anh ta ăn hết,
Ăn cả thuốc lẫn vào mà không biết.
Chẳng bao lâu anh ta khỏe, béo to,
Và không còn nghĩ mình là con bò.
CHUYỆN ANH CHÀNG CÓ BỘ QUẦN ÁO ĐẸP
Có chàng trai con nhà giàu, chủ nhật
Diện bộ cánh tự cho là đẹp nhất,
Thăm một người nổi tiếng giỏi chiêm tinh,
Một ông già tóc bạc, rất thông minh.
Ông già nghĩ: "Một con công sặc sỡ!
Chắc con quan, và đến không vô cớ."
Ông chào khách, kê gối cao mời ngồi.
Khách cảm ơn rất đúng lễ, và rồi,
Để chứng tỏ không chỉ quần áo đẹp,
Mà anh ta cũng biết điều, lễ phép,
Một hồi lâu anh ta nói, cố tình
Nói những điều rất thâm thúy, thông
minh.
Nhưng khốn nỗi, ý và từ lẫn lộn,
Thành một chuỗi các âm thanh hổ lốn.
Rồi cuối cùng, khách ngồi im. Chủ nhà
Rất thân tình, đã khuyên bảo anh ta:
"Phải công nhận là áo quần anh đẹp,
Và có lẽ anh là người lễ phép.
Nhưng khả năng ăn nói quả rất tồi.
Trong đầu anh toàn xám xịt, theo tôi,
Hoặc là anh lo tu thân học hỏi
Cho đầu óc đỡ bớt phần tăm tối.
Không thì thay bộ áo đẹp này đi,
Nó không che được cái dốt, ích gì?"
CHUYỆN QUAN TÒA SUÝT BỊ CẮT TAI
Có một người rất thông minh, học rộng,
Nhưng luôn nghèo, gia tài không, túi
rỗng
Nên cuối cùng phải bỏ ra nước ngoài,
Và ở đấy, cũng vì do có tài,
Ông được vua mời vào cung, sau đó,
Giao trọng trách làm quan tòa thành phố.
Là quan tòa, ông xử rất công minh.
Chính vì thế mà chuốc vạ vào mình.
Người ghen tị, người chỉ do nhàn rỗi,
Họ vu khống cho quan tòa đủ tội.
Vua tức giận, sai lính phá nhà ông,
Tiền và vàng đem nhập quĩ, sung công.
Quan tể tướng ghé tai vua nói nhỏ.
Vua ra lệnh cắt tai ông cho chó!
Rất hãi hùng, con người ấy không may,
Nghe lệnh vua, đã đáp lại thế này:
"Vua là người yêu công bằng, sự
thật,
Vậy để yên đôi tai, không được cắt.
Chúng một phần xương thịt mẹ sinh ra,
Có rất lâu trước khi làm quan tòa.
Nếu tôi sai, cứ lấy đi tất cả
Cái tôi có khi sang hầu bệ hạ.
Xin bệ hạ làm quan tòa công minh
Mà đừng lấy cái không phải của
mình!"
Vua nghe thế, khẽ mỉm cười, nguôi giận,
Rồi tha ông, với đôi tai lành lặn.
CHUYỆN ANH
NÔNG DÂN THẬT THÀ
VÀ CON LỪA QUÈ
Ở làng nọ có một anh nhà quê,
Sống chất phác với một con lừa què.
Con lừa ấy yếu gầy, trông thật tội,
Lại
già, xấu, đứng còn không đứng nổi.
Số phận nó, quả đúng thật bất công,
Luôn bị đánh, không ngày nào là không.
Nên rỗi việc là nằm yên một chỗ,
Nó than trách cuộc đời mình khốn khổ.
Anh nhà quê cũng chán nó, một hôm
Quyết định đem con lừa xấu, gầy nhom
Ra chợ bán, được vài đồng cũng đỡ.
Theo cái lệ có xưa nay ở chợ,
Anh ta nhờ ông lái bán giùm cho.
Và ông này, ngay lập tức nói to:
"Nào lại đây mua ngay không chậm
trễ,
Một con lừa thông minh, nhanh và khỏe.
Không phải lừa, có thể nói không ngoa,
Khỏe như ngựa, hay cùng lắm, như la.
Nó mà phóng, còn nhanh hơn tên bắn.
Nào lại mua, kẻo không rồi hối
hận!"
Khách đứng quanh chỉ nhìn nhau phì cười,
Thế mà anh nhà quê, thật dở người,
Thật thà tin những gì ông kia nói,
Không hề biết phường buôn chuyên nói
dối.
"Không, không bán, con lừa này của
tôi.
Nó quả đúng là con vật không tồi.
Nó tốt giống, rất chăm làm, mạnh khỏe.
Chính tôi cần một con lừa như thế!"
Rồi vội vàng, rất hăng hái, anh ta
Dắt con vật khốn khổ kia về nhà.
CHUYỆN VUA PARVIS VÀ CON CÁ KỲ LẠ
Vua Parvis cùng hoàng hậu Shirin
Đang ngồi chơi thì có người báo tin:
Một ông chài bắt được con cá lạ,
Muốn dâng vua như món quà biển cả.
Vâng, quả nó là con cá khác thường:
Da màu hồng, vẩy lấp lánh kim cương.
Trong bụng cá - chùm trứng to óng ánh,
Những quả trứng bằng vàng ròng lấp lánh!
Vua xem xong rất thích, vỗ vào tay.
Ông quan già coi ngân khố ra ngay.
Vua ra lệnh thưởng cho người đánh cá
Nghìn đồng bạc còn mới nguyên, sáng lóa.
Nghìn đồng bạc! Nhưng Shirin nghe xong
Liền lặng lẽ nói nhỏ sát tai chồng:
"Quả hào phóng không ai bằng bệ hạ,
Nhưng nghìn đồng thì thiếp e nhiều quá.
Vì từ nay, bệ hạ thưởng cho ai,
Họ cũng cho là ít, sẽ kêu nài,
Rằng bệ hạ không còn yêu mến họ,
Trước nghìn đồng cho một con cá nhỏ,
Còn nay thì..." "Giờ thiếp bảo
làm sao? -
Vua gãi tai. - Biết lấy lại cách
nào?"
"Thì cứ hỏi ông già kia khờ dại:
Đây cá đực hay là con cá cái?
Lão nói gì, bệ hạ cũng đáp ngay
Rằng rất tiếc, không thể ăn cá này.
Vậy hãy mang con cá đi nơi khác,
Và trả lại cho ta nghìn đồng bạc."
Ông đánh cá được gọi vào. Ông ta
Không khờ dại, mà nhanh trí đoán ra
Rằng vua trót thưởng nhiều tiền, vì thế
Muốn đòi lại, cố gây điều khó dễ.
"Tâu bệ hạ, con cá này của con,
Như ngài thấy, không dài, cũng không
tròn.
Đực hay cái? Con phải thưa rằng nó
Là giống trung, tức nửa này nửa
nọ."
Vua nghe xong, khoái trí cười, và rồi
Tăng tiền thưởng cho ông già gấp đôi!
Ông lão kia nhận thêm tiền, vội vã
Định bỏ đi, nhưng cũng do vội quá
Mà từ túi, một đồng xu rơi ra,
Đồng xu nhỏ nằm ngay chính giữa nhà.
Ông nhặt lên, cho vào bao cẩn thận.
Shirin quát: "Một lão già keo bẩn!
Hai nghìn đồng tiền thưởng ít hay sao,
Còn tham lam vơ vét cả đồng hào?
Tâu bệ hạ, cái tội này lếu láo
Cần phải trị. Lấy lại tiền của
lão!"
Nghe lời vợ, vua liền trách ông già.
Ông cúi đầu cung kính đáp: "Thực ra
Con nhặt nó không phải vì keo kiệt.
Trên đồng xu có hình vua, con biết,
Nên tất nhiên con không muốn cho ai
Được hỗn láo dẫm chân lên hình
ngài."
Vua nghe thế, liền cười to vui sướng
Và ra lệnh tăng gấp ba tiền thưởng.
CHUYỆN VUA
ISKANĐAR TỚI THÀNH PHỐ
NHỮNG NGƯỜI
ĐẠO ĐỨC TRONG SẠCH
Iskanđar Đại đế 1) tự chính mình
Luôn dẫn đầu cả đoàn quân viễn chinh
Đi chinh phục đất đai toàn thế giới
Và nhân thể tìm cái hay, cái mới.
Như vũ bảo, quân ngài đi đến đâu,
Là ở đấy phải khuất phục, cúi đầu.
Một lần kia, khi chiếm xong thành phố,
Ngài tò mò, rất ngạc nhiên về nó.
Thành phố này, thật kỳ lạ, khắp nơi
Đều sạch đẹp, đều no ấm mọi người.
Công việc họ rất nhẹ nhàng, thú vị,
Theo sở thích và nghỉ ngơi tùy ý.
Kỳ lạ hơn, ở thành phố lạ này
Không người giàu, cũng không có ăn mày,
Không lừa đảo, không giết người, cướp
bóc.
Cửa không khóa, không ai nghe tiếng
khóc.
Còn xã hội thì bình đẳng, người ta
Sống hòa thuận như anh em một nhà.
Không khái niệm quan hay dân, thậm chí
Không cả vua, thật là điều thú vị.
Bao đời nay thành phố sống yên bình,
Chưa một lần từng biết đến chiến tranh.
Kỳ lạ nữa, trước mỗi nhà đều có
Một nhà mộ, thường trống không và nhỏ.
"Sao lại thế? - đức vua hỏi, tò mò.
-
Còn đang sống mà đã xây nhà mồ?"
Người ta đáp: "Để nhắc cho người
sống
Rằng đời ngắn, nên phải lo lao động
Để sống sao cho có ích với đời,
Để xứng đáng với tên gọi con
người."
Vua lại hỏi: "Ta thấy đây không có
Vua, triều đình và các quan văn võ.
Vậy lấy ai cai trị nước? Người nào
Thu sưu thuế? Lúc tai biến thì
sao?"
Đáp: "Ở đây mọi người luôn tự giác
Lo việc chung, không ai làm việc ác.
Việc của nước là việc của toàn dân,
Cần gì vua? Quan lại càng không
cần."
"Ta không thấy cả người giàu, danh
giá.
Sao lại thế? Quả điều này rất lạ."
"Không khó hiểu, thưa vua, dân nước
này
Sống ôn hòa và giản dị xưa nay.
Giàu làm gì? Giàu với ai? Thử hỏi,
Vàng mang lại cái gì ngoài tội
lỗi?"
Thấy và nghe những điều trên lạ kỳ,
Vua suy ngẫm, rồi cho quân rút đi,
Để nguyên vẹn cả dân và thành phố,
Không thay đổi một chút gì trong đó.
1).
Tức vua Alexandre xứ Macedonia thời Hy Lạp cổ đại, Ông sinh năm 356 và mất năm
323 trước CN. Trong thơ cổ Ba Tư, ông là hình tượng của vị vua anh minh, dũng
cảm và công bằng.
CHUYỆN VỀ SÔCRAT
Sôcrat 1), triết gia xưa vĩ đại.
Mong tư tưởng của ông luôn sống mãi.
Ông trong sạch suốt từ đầu đến chân,
Cả vinh quang lẫn tiền bạc không cần.
Như cây cỏ, rất tự nhiên, giản dị,
Ông chỉ sống với những điều mình nghĩ.
Gia tài ông - vẻn vẹn chiếc chum to,
Sứt trên miệng, đáy đôi chỗ bị rò.
Không đựng nước, nên không hề quan
trọng,
Nó là nhà, nơi nhiều năm ông sống.
Đêm ông chui vào ngủ, mặt trời lên
Lại chui ra, ngồi sưởi nắng kề bên,
Một mình ông, lim dim trên bãi cỏ,
Người trần truồng, vì áo quần không có.
Bỗng một hôm, vua đi ngang, thấy ông,
Trong tư thế đang sưởi nắng, tồng ngồng.
Vua xuống ngựa, cúi đầu chào rất thấp:
"Thưa hiền triết, đã lâu không được
gặp.
Ông, một người được kính trọng xưa nay,
Sao né tránh, sao ẩn dật thế này?
Sao lâu lắm không vào cung đàm đạo?
Mà sao ông trần truồng, không quần
áo?"
Sôcrat đáp: "Vua xem, ta già rồi,
Mặc áo quần chỉ thêm nặng mà thôi.
Vì với ta, riêng tuổi đời đã nặng.
Giờ hạnh phúc là được ngồi sưởi
nắng."
"Ngươi có thể xin bất cứ điều gi.
Ta sẽ cho, đừng e ngại, nói đi!"
Sôcrat không ngẩng đầu, nói nhỏ:
"Cảm ơn vua đã thương tình chiếu
cố.
Vậy tôi xin, chỉ một điều, ít thôi:
Ngài tránh ra, đừng che nắng của
tôi!"
Vua nghe thế, né sang bên, lặng lẽ
Cởi chiếc áo trên người ngài đẹp đẽ
Khoác lên lưng nhà hiền triết. Ông này
Vua đi khỏi, liền treo nó lên cây,
Và tiếp tục lại trần truồng sưởi nắng,
Một mình ông bên chiếc chum, im lặng.
*
Trong hàng chục học trò của ông,
Sôcrat yêu thương nhất Platông 2),
Người được thầy dành thời gian, nhẫn nại
Dạy, và thành một triết gia vĩ đại.
Ông thường nói: "Tâm hồn con bao
la,
Hãy cởi trói để bay cao, bay xa,
Để thoát khỏi cuộc đời này ngu muội,
Để bóng nó không làm con tăm tối.
Nếu chúng ta không độc ác, lòng lành,
Thế giới này đã không có chiến tranh.
Đời trần tục biết bao nhiêu cạm bẫy,
Sáu loại người hãy tránh xa, nhớ lấy:
Loại thứ nhất là những người nhỏ nhen,
Ai hơn mình, không hơn mình, cũng ghen.
Họ hậm hực đến mất ăn, mất ngủ,
Luôn lồng lộn, gầm ghè như con thú.
Loại thứ hai là những kẻ có quyền,
Là cái chúng sử dụng để kiếm tiền.
Quyền biến chúng thành những tên độc ác,
Thành vô ơn, vô tình và bội bạc.
Đáng ghét nhất chính là loại người này.
Chúng gây nhiều, nhiều đau khổ xưa nay.
Loại thứ ba là ham mê quá độ
Để có được cái gì mình chưa có.
Họ tham lam, ích kỷ, chỉ biết mình,
Mà không hề để ý đến xung quanh.
Loại thứ tư là những người keo kiệt.
Những người sợ tiêu tiền hơn sợ chết.
Suốt đời mình, họ khổ sở, lo âu
Họ rất nghèo, dù thực ra rất giàu.
Loại thứ năm là những người đê tiện,
Lo nịnh bợ, âm mưu nhằm thăng tiến.
Đối với họ, được thăng quan hơn người,
Là nghĩa sống, là mục đích cả đời.
Còn ngu dốt là loại người thứ sáu.
Loại người này không hẳn toàn người xấu.
Vì ngu dốt, không hiểu người, hiểu mình,
Nên họ làm nhiều việc xấu, đáng khinh.
2). Platông, triết gia cổ Hy Lạp, sinh năm 428,
mất năm 347 trước CN, người có
ảnh hưởng rất lớn đến triết hoc phương Tây sau này.
CHUYỆN NGƯỜI THỢ GIẶT VÀ CON BỒ NÔNG
Ở Bátđa có một chàng trai nọ
Sống bằng nghề giặt thuê, nghèo khổ.
Ngày lại ngày, ra giặt ở bờ sông,
Anh thường thấy có con chim bồ nông
Đang dò dẫm mò cua hay bắt tép.
Cổ và chân cao kều, trông chẳng đẹp.
Vốn khiêm tốn, hơi ngu đần, cô đơn,
Dường như nó cũng không mong gì hơn,
Ngoài việc lội trên bãi lầy ngập nước,
Ních đầy bụng những gì may kiếm được.
Thế mà rồi, một hôm không hiểu sao,
Ăn no nê, chợt hứng, ngước lên cao,
Nó nhìn thấy con đại bàng to lớn
Dang rộng cánh, giữa trời xanh bay lượn.
Là chúa tể các loài chim, đại bàng
Có phong thái giống hệt một ông hoàng.
Ngoài vô số những điều hay ho khác,
Nó luôn chừa thức ăn cho kẻ khác.
(Vâng, người tốt, người cao quí bao giờ
Cũng chừa lại chút thức ăn dư thừa
Cho những kẻ yếu hơn mình, bé nhỏ!)
Con bồ nông đứng nhìn, đầy ngưỡng mộ,
Cái cổ dài càng dài thêm, đôi chân
Dướn lên cao trong tư thế bần thần:
"Mình thức sự còn to hơn, có lẽ
Còn đẹp hơn cả đại bàng oai vệ.
Vậy mà mình, thật xấu hổ, xưa nay
Chỉ ăn toàn ếch nhái lẫn bùn dây.
Tại sao mình không bắt chim ăn thịt,
Ăn và chừa cho đàn em một ít?
Được, từ nay mình sẽ giống đại bàng,
Sẽ cao quí, hào phóng như ông
hoàng!"
Con bồ nông ngu ngốc kia nghĩ vậy
Rồi hùng dũng bay lên cao. Ở đấy,
Nó chưa kịp biết mình oai thế nào,
Thì bất chợt từ đâu đó trên cao
Một con chim kền kền to xuất hiện.
Thật tội nghiệp con bồ nông hãnh tiến:
Mấy phút sau, dù không chết, tiếc thay,
Nó bị thương, rơi tõm xuống bãi lầy,
Cánh dính bùn, chiếc mỏ to đầy đât.
Tối thì lên bàn ăn anh thợ giặt.
Đây, bài học rất hay và thông minh
Cho những ai không biết lượng sức mình.
CHUYỆN CON LẠC ĐÀ CÓ CÁNH
Một ông vua, ngồi không, lâu cũng chán,
Mở tiệc lớn mời cận thần, bè bạn.
Và vừa ăn, vua yêu cầu mỗi người
Lần lượt kể những chuyện lạ trên đời,
Với điều kiện chính mình nhìn tận mắt,
Phải hấp dẫn, và tất nhiên phải thật.
Một người kể: "Nghề tôi hay phải
đi,
Và lần nọ tôi thấy ở châu Phi,
Một quái vật, nói thế nào được nhỉ,
Giống lạc đà, nhưng vô cùng kỳ dị,
Loại lạc đà một bướu, béo, không gầy.
Có hai cánh, nhưng không hề biết bay.
Không chở hàng, không phải làm gì cả,
Cứ suốt ngày thẩn thơ chơi, nhàn
nhạ..."
Mọi người nghe, phá lên cười: "Thôi
đi!
Ông kể chuyện nhảm nhí ấy làm gì?
Chúng tôi đây cũng đi nhiều không kém,
Cũng từng gặp nhiều chuyện hay và hiếm,
Nhưng lạc đà có cánh thì ôi, ôi!
Đừng phịa chuyện, đừng hòng lừa chúng
tôi!"
Và rốt cục, mặc dù thề có thật,
Không ai tin, bị một phen bẽ mặt,
Ông kể chuyện đành hậm hực ra về
Trong ồn ào tiếng la mắng, cười chê.
Sáng hôm sau, còn chưa nguôi hậm hực,
Ông vội vã lên đường ngay lập tức
Tới châu Phi, rồi từ đó về nhà
Với một con đà điểu lớn và già.
Ông đem nó vào gặp vua, và hỏi
Có phải đúng là con ông đã nói.
Vua xem kỹ rồi bỗng phá lên cười:
"Vâng, đúng nó. Giờ ta tin nhà
ngươi.
Một con vật lạ kỳ, cao, dũng mãnh!
Ngươi đáng thưởng! Đúng, lạc đà có
cánh!"
Tối hôm ấy vua lại mở tiệc to,
Lại mời quan đến ăn uống, chuyện trò.
Tiệc đang vui, vua vẫy tay ra hiệu,
Rồi mọi người vây quanh con đà điểu,
Một con vật rất mới lạ, giống gà,
Nhưng vua bắt cứ phải gọi lạc đà,
Loại lạc đà không bay nhưng có cánh.
Ai gọi khác sẽ bị vua đem đánh.
_____________
NASIR
KHUSRAW
Abu Muni Nasir Khusraw sinh năm 1004 ở làng Kabađian,
thuộc Tatgikistan ngày nay. Ông được hưởng thụ một nền học vấn cao và toàn diện
từ nhỏ, từng được bổ làm các chức quan khác nhau, nhưng ông cũng sớm đam mê văn
học và tranh thủ làm thơ lúc rảnh rỗi. Ông nhiều lần tới Ấn Độ và châu Phi, là
điều giúp nhà thơ mở rộng tầm nhìn và tiếp thu nhiều tư tưởng tiến bộ. Vì thế cuối
đời ông bị chính quyền truy bức, phải về sống ẩn ở Umran và mất ở đó năm 1088
trong cảnh bần hàn.
Ông là tác giả một khối lượng lớn những bài thơ trữ
tình hazel và các bộ
trường ca dài mang tính sử thi và giáo huấn.
* * *
Anh không biết thì lặng im mà nghe,
Đừng nhận xét, kẻo mọi người cười chê.
* * *
Nếu không muốn phải nghe lời độc ác,
Thì trước hết đừng gièm pha người khác.
* * *
Ai huênh hoang khoe mình hơn người,
Sẽ có lúc phải hối hận suốt đời.
* * *
Ai thời trẻ ham chơi, lười học,
Sau có cái để buồn và khóc.
* * *
Nói và làm phải đi với nhau.
Đừng cái kiểu vàng mạ, đồng thau.
* * *
Người ta ác, mình không ác lại.
Bác cái sai chỉ bằng lẽ phải.
* * *
Trong thông minh đã có sự giàu.
Nhưng ngược lại thì không, còn lâu.
* * *
Kiến thức hơn áo đẹp, tất nhiên,
Chí ít vì áo mua bằng tiền.
* * *
Người thực tốt trong lòng luôn sáng.
Đừng để ý vẻ ngoài bóng nhoáng.
* * *
Một người ngu, cái gì cũng hài lòng,
Có thể gọi là hạnh phúc được không?
* * *
Nếu được sinh làm người, đừng làm sói.
Người cao cả không làm điều tội lỗi.
* * *
Lời của anh như vàng, cân thật kỹ.
Đừng bạ đâu cũng nói lời nhảm nhí.
* * *
Ai biết nghe lẽ phải, thông minh,
Sẽ tìm thấy hạnh phúc của mình.
* * *
Việc khó mấy, học rồi cũng làm xong.
Khó là ngồi đọc sách, không nản lòng.
* * *
Đánh giá người qua lòng đức độ,
Chứ không qua áo quần của họ.
* * *
Chỉ có nhờ học vấn mà anh
Cao hơn hẳn người ngồi xung quanh.
* * *
Hãy cúi đầu học người thông minh.
Anh hạ mình là để nâng mình.
* * *
Đời, thực chất là công trường lao động.
Anh vô công, nghĩa là là anh chưa sống.
* * *
Thiếu học vấn và thiếu óc thông minh,
Thì dù giàu, vẫn là thằng cùng đinh.
* * *
Anh ngu dốt, nghĩa là trời bắt tội.
Không thể nói: Tôi không hề có lỗi!
Không thể nói: Tôi không hề có lỗi!
* * *
Học nói hay không khó, miễn là anh
Học im lặng để nghe người xung quanh.
* * *
Điều nghe được chưa hẳn đáng tin
Bằng những cái tự mắt ta nhìn.
* * *
Các giáo sĩ
ngày ăn chay, tung kinh,
Nhưng tối đến
lại rượu thịt linh đình
Và trở thành
các muffi vĩ đại
Nhờ cái tài
đạo đức giả đáng khinh.
* * *
Từ bục giảng,
trước đám đông ngô nghê,
Họ thuyết
giảng về thiên đường no nê.
Nên đám đông
đồng thanh kêu - cừu đói
Biết được ăn,
thường vẫn kêu be be.
* * *
Đời là biển,
và anh là con ốc.
Nếu anh biết
nâng mình bằng sự học,
Tâm hồn anh,
như hạt cát nhỏ nhoi,
Sẽ có lúc tự
biến thành hạt ngọc.
* * *
Nếu anh muốn
mọc thành cây tươi xanh,
Thì hãy chăm
hạt giống có trong anh.
Hãy tưới nó
hàng ngày bằng sự học -
Giống, thiếu
nước, không đâm chồi, mọc cành.
ĐÔI ĐIỀU VỀ
VUA VÀ QUAN
Xin nói qua
đôi điều ai cũng biết,
Về vua quan
chúng ta, toàn đang ghét.
Mỗi khi vua mở
tiệc lớn, tất nhiên,
Dân trong
nước lại è cổ đóng tiền.
Khi dự tiệc,
các quan to oai vệ
Trước mặt vua
xun xoe như nô lệ.
Kẻ khom lưng
khúm núm, mặt cầu tài.
Kẻ cúi đầu,
rụt cổ, cụp hai tai.
Nếu sáng dậy
bỗng dưng vua khó ở,
Cả triều đình
mặt tái xanh vì sợ.
Bản thân vua,
tên bạo chúa, ngu đần,
Không biết gì
ngoài cướp bóc thần dân.
Nếu đức chúa
Giê-su mà sống lại,
Vua cũng sai
đóng đinh không ngần ngại.
Nhưng con lừa
của đức chúa thì không,
Vua cần thịt,
nên ôm nó vào lòng.
THỢ THỦ CÔNG
Không ai sướng
như người thợ thủ công.
Sống tự do,
tự mình thấy hài lòng.
Không chủ nô,
mà cũng không nô lệ.
Ngày làm
việc, tối về nhà vui vẻ.
Dẫu không
phải lúc nào cũng đủ ăn,
Nhưng họ vui,
làm cái mọi người cần.
Họ kéo tơ,
nung bình, rèn, may vá...
Và không
muốn, không làm điều xảo trá.
Sống chân
thật, thích vui đùa, luôn tay
Họ làm việc
cần cù ngày lại ngày.
Được cả trời
và mọi người mến mộ,
Chính đức vua
cũng cần hàng của họ.
NGƯỜI NÔNG
DÂN
Nhưng cái
nghề thủ công kia rất cần
Cũng vô nghĩa
nếu thiếu người nông dân.
Không nghề
nào quan trọng hơn cày cấy,
Nghề của
chính Ađam xưa, đúng vậy.
Người nông
dân bắt cây cối nở hoa,
Đem cái ăn
cho tất cả mọi nhà.
Họ cày ruộng,
làm vườn, thuần thú vật,
Không cái gì
không làm ra từ đất.
Trên thế
giới, suốt hàng triệu năm nay
Quả không gì
cao quí hơn nghề này.
Và chúng ta,
dù là ai, hãy biết:
Không có
người nông dân, ta sẽ chết.
BỌN CHO VAY NẶNG LÃI
Hãy “thương xót” phường cho vay nặng lãi:
Chúng giàu có mà luôn luôn sợ hãi.
Nhà chúng to, đầy châu báu, bạc vàng
Nhưng thực chất là địa ngục kinh hoàng.
Trước con mắt của những người tử tế
Chúng đáng ghét, không bằng con chó ghẻ.
Chúng xưa nay chỉ biết đến đồng tiền,
Không ngại ngần bóp cổ đám dân đen.
Trời hại chúng - ngay khi thằng bố chết
Là con chúng đem gia tài tiêu hết.
Bố ki cóp, nhặt từng đồng lâu nay
Giờ thằng con tiêu phá chỉ mấy ngày.
Thà chết khát, đừng uống cùng chúng nó.
Mỗi giọt rượu đều nhuốm màu máu đỏ.
Chúng bẩn thỉu, đáng khinh, sống ở đời
Đến thần chết cũng ngại chạm lên người.
Dưới địa ngục, trong lo thiêu lửa cháy,
Chúng bị quỉ bỏ quên, nằm tận đáy.
LÒNG THAM VÀ THÓI XẤU
Bằng lòng tham, anh đang trói chân mình.
Hãy vứt nó, hãy làm người thông minh.
Của người khác, dẫu nhỏ nhoi, bé tí,
Đừng thèm muốn, đừng có nhìn ghen tị.
Cả những ai nổi tiếng, giỏi, hơn người
Cũng vì tham mà hại mình suốt đời.
Ai ghen tị, tham lam, nhìn sẽ biết,
Da và mắt ủng vàng như xác chết.
Chính lòng tham là kẻ thù của anh,
Phải cảnh giác để mình chống lại mình.
Kẻ tham lam không bao giờ hạnh phúc.
Thà nhìn đói hơn tham, mang tiếng nhục.
LỜI NÓI
Cái miệng đẹp trên mặt người, bé nhỏ,
Mọi tai họa đều nảy sinh từ nó.
Lời nói sai hay ác ý buột ra
Có thể gây rất lắm chuyện phiền hà.
Chưa chắc tốt cả khi lời nói thẳng.
Nên tốt nhất ta chỉ nghe, im lặng.
Còn một khi không thể im, xin anh
Hãy cân nhắc, nói những điều tốt lành.
Nhất là nói lời yêu thương, tán thưởng.
Đó là vàng và làm anh cao thượng.
ĐẠI BÀNG VÀ MŨI TÊN LÀM BẰNG LÔNG ĐẠI
BÀNG
Một lần nọ, đại bàng bay tìm mồi,
Dang rộng cánh, bay khắp núi, khắp đồi.
Từ độ cao lâng lâng, nhìn xuống đất,
Nó bỗng thấy lòng xốn xang, ngây ngất.
"Cả thế giới đang nằm dưới chân ta.
Ta là chúa các loài chim gần xa.
Ai sánh nổi cùng ta về sức mạnh,
Về bay xa, bay cao và sải cánh?"
Trong lúc ấy, đang tự mình khoe mình,
Một thợ săn nhìn thấy nó, đừng rình,
Rồi bất chợt một mũi tên nho nhỏ
Lao vút lên, cắm ngay vào người nó.
Từ trên cao rơi xuống đất, sững sờ,
Nó đưa mắt nhìn quanh, chợt bất ngờ
Thấy mũi tên bắn nó rơi, khốn khổ,
Lại được làm bằng chính lông của nó.
Thế mới biết, cũng là chuyện thường
tình,
Rằng chính ta nhiều khi mình hại mình.
DÂY BẦU VÀ CÂY ĐA
Có dây bầu mọc bên gốc cây đa,
Rồi bám thân leo lên mãi, thế là
Chỉ trong vòng hai mươi ngày sau đó
Nó nhoi cao hơn cây đa đồ sộ.
Từ độ cao rất cao kia, dây bầu
Chiêm ngưỡng mình, nhìn bốn phía hồi
lâu.
Nó lên tiếng hỏi cây đa già cỗi:
"Này anh bạn, năm nay bao nhiêu
tuổi?"
"Ta đã sống hai trăm năm có
lẻ."
"Hai trăm năm mà anh sao lùn thế?
Hãy nhìn tôi, mới sống hai mươi ngày
Đã mọc tốt, cao hơn anh thế này!"
Dây bầu nói, nhìn cây đa đắc thắng,
Còn cây đa vẫn thản nhiên im lặng.
Vì nó biết sẽ chẳng còn bao lâu
Mùa đông đến, gặp giá lạnh, dây bầu
Sẽ lụi chết. Và chết theo cùng nó
Là những lời khoe khoang ngu ngốc nọ.
____________________
ATTAR
Attar, tên đầy đủ là Fariđiđin Abu Hamid Muhammad ibn
Abu Bakr Ibrahim ibn Mustafa, sinh khoảng năm 1142 ở thành phố Nishapure, trong
gia đình môt người bán thuốc chữa bệnh. Ông sớm ham mê trường phái sufism, tới thăm nhiều thành phố lớn nổi tiếng
đương thời ở phương đông, cuối cùng trở thành giáo chủ (sheikh), đồng thời là
một thủ lĩnh quan trọng của trường phái sufism. Ông bị quân Mông Cổ giết chế tnăm 1220 khi chúng đánh chiếm thành phố
quê hương ông.
Attar để lại nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng, gồm hai tập
dày thơ trữ tình hazel và một số
trường ca mang tính giáo huấn.
CHUYỆN NHÀ VUA VÀ NHỮNG NGƯƠI TÙ
Chuyện đã lâu, xưa có thành phố nọ
Nhận được lệnh đem những gì mình có
Chưng ra ngoài, chuẩn bị đón vua cha.
Ngay lập tức mọi đường phố, mọi nhà
Bày la liệt thức ăn ngon, vật quí -
Ai cũng muốn được đức vua chú ý.
Duy một chỗ là nhà tù, tiếc thay,
Chẳng có gì để khoe trong dịp này,
Ngoài xiềng xích, những cánh tay bị
chặt,
Những chiếc đầu bị xẻo môi, móc mắt.
Mặc, tù nhân cứ đem chúng phô ra,
Khiến mọi người phải ghê sợ lánh xa.
Thế mà khi xe vua vào thành phố,
Ngài lại thích những đồ kỳ dị đó.
Vua cho gọi các tù nhân gặp ngài,
Thưởng bạc vàng, hứa sẽ thả nay mai.
Quan tể tướng ngạc nhiên: "Tâu bệ
hạ,
Bao châu báu cùng của ngon vật lạ
Ngái chẳng thèm để mắt tới, giờ đây
Sao ngài bỗng quan tâm những thứ
này?"
Vua cười đáp: "Cái bề ngoài đẹp đẽ
Chỉ đáng để mua vui cho lũ trẻ.
Thành phố này ai cũng muốn chiều ta,
Nên giấu hết mọi cái xấu trong nhà.
Chỉ ở đây, các tù nhân khốn khổ
Mới thực sự cho xem gì họ có,
Là cái đau và sai trái của đời
Qua những cánh tay kia bị cắt rời.
Và chính họ đã làm ta sáng mắt
Để nhìn thẳng vào mình, vào sự thật".
_______________
ALISHER NAVÔI
Nizamađin Mir Alisher (sinh năm 1441, mất năm 1501),
nhà thơ, nhà tư tưởng và nhà hoạt động chính trị lớn ở Herat, thuộc Uzbêkistan
hiện nay. Ông từng giữ chức tể tướng dưới triều vua Hussein Baikara, người nổi
tiếng là Mạnh Thường Quân của các nhà thơ và bác học đương thời. Thơ Navôi mang
tính nhân văn sâu sắc và đề cập nhiều khía cạnh cuộc sống.
Đỉnh cao nghệ thuật của ông là tác phẩm đồ sộ
"Năm trường ca" có ảnh hưởng rất
lớn đến nhiều thế hệ các nhà thơ sau này.
CHUYỆN NGƯỜI
NÔ LỆ
Ở nước nọ có
ông vua cao thượng,
Vừa thông
thái, lại cũng vừa độ lượng.
Ngài có tên
nô lệ rất chuyên cần,
Tốt, trung
thành và rất giỏi nấu ăn.
Vua mở tiệc,
một hôm, mời khách quí.
Người nô lệ
luôn tay lo chuẩn bị,
Bê món ăn
cho thực khách đang chờ.
Cũng vì do
hăng hái quá, bất ngờ
Anh ta trót
lỡ tay - nồi canh nóng
Đổ lên vua,
suýt làm ngài bị bỏng.
Mọi người
thấy, thương hại nhìn anh ta,
Nghĩ phen
này vua sẽ giết, không tha.
Thế mà vua
cứ thản nhiên ăn tiếp,
Quyết định
tha cho anh chàng tội nghiệp.
Quan tể
tướng: “Vua hãy nói cho hay,
Sao ngài tha
một tội lớn thế này?”
“Ông cứ thử
nhìn anh ta thì biết:
Mặt tái nhợt
như một người đã chết.
Mà người
chết thì thử hỏi còn ai
Nỡ giết thêm
lần nữa? Thật khôi hài!
Giờ anh ta
biết lỗi mình, hối hận.
Thế là tốt,
chắc lần sau cẩn thận”.
Một ông vua
thật vĩ đại, anh minh,
Lòng vị tha
làm rạng rỡ tên mình.
CHUYỆN KHATAM XỨ TAI
Một người nọ bảo Khatam 1) thế này:
Tôi đi nhiều, biết không ít xưa nay,
Nhưng chưa thấy có người nào tốt bụng
Và hào hiệp như cách ông đang
sống".
Khatam đáp: "Một lần như lệ thường,
Tôi mở tiệc mời khách thập phương,
Để khách ăn, vui từ già đến nhỏ,
Tôi cho thịt cả đàn cừu đang có.
Tiệc giữa chừng, tôi xin phép đi ra,
Để gặp ai sẽ mời họ vào nhà.
Tôi bỗng thấy một ông già vác nặng
Bó củi lớn đang đi trên đường vắng.
Ông rất già, lại gầy yếu, đáng thương,
Nên chốc chốc ngồi xuống nghỉ bên đường.
Tôi xúc động, vội đến gần ông lão
Rất lễ phép, lựa lời âu yếm bảo:
"Vì tuổi tác, cơ thể ông yếu gầy,
Sao vác nổi bó củi lớn thế này?
Chắc vừa đến từ rất xa, vì vậy
Ông không biết ngài Khatam, ông ấy
Đang ở đây, mở tiệc lớn, cho mời
Ai muốn vào, cứ ăn uống, vui chơi.
Vứt củi xuống, theo tôi vào dự tiệc.
Nếu bỏ lỡ, có ngày ông sẽ tiếc."
Ông gìà kia chỉ lặng lẽ lắc đầu
Rồi mỉm cười, khiêm tốn đáp như sau:
"Sống nhục nhã là nhờ người để
sống.
Không cao thượng là người không lao
động.
Hãy tin tôi, hái củi khổ, nhọc nhằn,
Nhưng không bằng cái khổ kẻ tham ăn.
Tôi thà kiếm từng đồng xu vất vả
Hơn ăn bám vào Khatam danh giá!"
Tôi vừa nghe, vừa khâm phục trong lòng,
Rồi cúi đầu rất thấp trước chân ông.
*
Này, Navôi, tấm lòng anh phải rộng.
Với bạn bè, phải vung tay hào phóng.
Chủ quán đâu, rót rượu nữa, rót đầy.
Phải bắt chước Khatam trong việc này.
Khách vào quán, không may tiền chẳng có
Thì cũng phải đem rượu ra mời họ.
1).
Khatam, hay còn gọi là Khatam xứ Tai, một nhân vật có tính huyền thoại trong văn học Ba Tư, nổi
tiếng vì sự hiếu khách và hào phóng của mình.
CHUYỆN
CHÀNG KHIÊM TỐN
VÀ CHÀNG THAM LAM
Vì đói nghèo, xưa hai người bạn thân
Phải lên đường sang Trung Hoa kiếm ăn.
Trong số họ, một người hiền, dễ tính.
Còn người kia, tham lam, luôn cáu kỉnh.
Bỗng một hôm, khi đang vượt qua đèo
Họ nhìn thấy bên sườn núi cheo leo
Một phiến đá chôn sâu, vùi dưới cỏ
Với những dòng chữ to trên đó:
"Ai muốn giàu, đào tảng đá này lên
Sẽ tìm thấy một kho vàng và tiền!
Ai thờ ơ bỏ đi ngang, người ấy
Cũng có thể sẽ gặp may đâu đấy."
Anh tham lam khi đọc những dòng này,
Vốn lúc nào cũng muốn được giàu ngay,
Liền hăm hở dùng hai tay đào đất,
Quên cả bạn, quên Trung Hoa trước mặt.
Còn anh kia, khiêm tốn, lại hơi lười,
Nghĩ: "Có vàng để ăn uống, vui chơi
Thì cũng thích, nhưng đào vàng không dễ.
Vả lại ta cũng không cần nhiều thế.
Nên một khi trời định giúp ta giàu
Thì chắc rằng ta không phải chờ
lấu."
Anh khiêm tốn nghĩ xong liền cất bước.
Sáng hôm sau thấy xa xa phía trước
Một đô thành tường bao bọc rất cao.
Chàng tới nơi, thấy cổng mở, bước vào
Và ngạc nhìn thấy mọi người chạy tới,
Đứng quanh chàng, miệng hò reo phấn
khởi.
Chàng biết đâu phong tục của nước này
Là mỗi lần vua chết, kéo về đây,
Người ta chờ suốt cả đêm trước đấy.
Ai đầu tiên bước vào thành, người ấy
Sẽ được tôn lên ngôi báu nước nhà.
Thế là chàng khiêm tốn của chúng ta
Trong chốc lát trở thành vua danh giá,
Bạc vàng nhiều mà không hề vất vả.
Còn anh kia đào mãi mấy ngày liền,
Khi cuối cùng tảng đá được đào lên,
Rất thất vọng, chẳng thấy đâu vàng bạc,
Mà chỉ thấy có hai hàng chữ khác:
"Ai tham lam mơ ước bỗng chốc giàu,
Sẽ có ngày rơi xuống vực buồn đau."
Anh không tham trở thành vua giàu có,
Anh tham lam vẫn như xưa, nghèo khổ.
Anh tham lam vẫn như xưa, nghèo khổ.
*
Này Navôi, đừng keo, tiền của anh,
Nếu còn có, hãy chia cho dân lành.
Ê, chủ quán, ta chỉ tham uống rượu,
Rượu rửa sạch lòng tham và cái yếu.
Ta uống rượu, chỉ mong sống ở đời
Được ngự trị trên ngai vàng thảnh thơi.
CHUYỆN HAI NGƯỜI YÊU NHAU
Tôi nghe kể rằng ngày xưa Timua 1),
Vua một thời của tất cả các vua,
Khi đem quân đánh vào vùng Ấn Độ,
Vua lại thắng như nhiều lần trước đó.
Để đề phòng mối hiểm họa về sau,
Vua ra lệnh cho binh lính chém đầu
Tất cả dân của nước này, chém hết!
Thành ra đâu cũng thấy toàn xác chết.
Xác chất cao thành đống, máu thành dòng,
Đến đỏ ngòm tất cả các hồ sông.
Một tên lính của Timua ngày nọ
Gặp một đôi tình nhân người Ấn Độ.
Hai người kia không trốn được, bắt đầu
Giơ cổ mình xin được chết thay nhau.
Cô gái nói: "Giết đi, tôi không
chống,
Nhưng phải để người yêu tôi được
sống!"
Tên lính kia giơ kiếm định chém nàng
Thì bạn tình cô gái vội thét vang:
"Không, hãy chém tôi đây!" Tên
lính nọ
Đang định chém chàng trai. Liền giơ cổ,
Cô gái đòi được chết thay. Cuối cùng
Tên lính kia không chém được, nổi khùng:
"Ta sẽ chém hai đứa mày!" Hắn
nói,
Nhưng cứ bị dùng dằng không chém nổi.
Bỗng bất ngờ có lệnh khẩn vua ban
Cho phép ngừng sự chém giết dã man.
Thế là nhờ tình yêu, đôi bạn trẻ
Đã thoát chết, làm gương cho hậu thế.
*
Ôi, Navôi, cho tình yêu, cả ngươi
Cũng hy sinh hết mọi cái trên đời.
Nào chủ quán, nếu anh là bạn tốt,
Thì hãy mang rượu ra, nào hãy rót.
Vì tình yêu, ta cũng mệt lắm rồi,
Rót nữa vào, làm say lão Navôi!
1). Còn gọi là Tamurlan (1336 - 1405), ông vua Trung Á
nổi tiếng hiếu chiến, thành lập đế chế
của mình với thủ đô là Samarkand thuộc Uzbêkistan ngày nay. Timua từng tổ chức nhiều cuộc chinh phạt tàn bạo tới Iran,
Ấn Độ và nhiều nơi khác.
CHUYỆN VUA HAZI
VÀ BÀ GIÀ
Vào ngày ấy,
khi chiến tranh dai dẳng,
Chỉ một mình
Đức Minh Quân Toàn Thắng
Cùng vài
trăm chiến hữu trẻ, trung thành
Bằng mũi tên
rất chính xác, rất nhanh
Vua đánh bại
mọi kẻ thù lớn nhỏ,
Đem hạnh
phúc thay chiến tranh, đói khổ.
Thánh Alla
đặt ngài ngồi lên ngai.
Vua quyết
tâm làm đất nước của ngài
Giàu, trong
sạch, công bằng và công lý,
Không tội
ác, lòng tham và ích kỷ.
Dưới tay
ngài cai trị rất anh minh,
Mọi người
dân đều chăm lo giữ mình.
Bộ luật cổ Sharia nghiêm khắc
Thành rường
cột luân thường cho xã tắc.
Một ngày nọ,
vua ra thành dạo chơi
Để hiểu thêm
về dân cảnh, sự đời.
Bỗng từ xa
một bà già chạy lại
Túm áo ngài,
nói không hề sợ hãi:
“Tâu đức
vua, ngài có lỗi với tôi!
Ngài, ông
vua yêu công lý, không tồi,
Vậy theo tôi
ra pháp đình, ở đó
Tôi kiện
ngài đã làm tôi đau khổ!”
Vốn là người
rất công tâm, đức vua
Nói: “Được
thôi. Nếu tòa xử ta thua,
Ta sẽ chết,
không kêu ca vì thế.
Luật của vua
không chừa ai ngoại lệ”.
Thế là vua
Hazi và bà già
Như người
khác, cùng dắt nhau ra tòa.
Cả đất nước
bỗng lo âu, nhốn nháo -
Vua của họ
đang trở thành bị cáo!
Bà già nói:
“Thưa quan tòa anh minh,
Khi đất nước
đang còn họa chiến tranh,
Vua chúng
ta, dẫu oai danh lừng lẫy,
Thời kỳ đầu
vẫn thua, thường tháo chạy.
Tôi đơn độc,
chỉ có thằng con trai
Người ta bắt
vào đội quân chống ngài.
Thằng con
tôi, rất cao to, đẹp đẽ,
Niềm tự hào
và cánh tay nuôi mẹ,
Thế mà vua,
trong chiến trận, than ôi,
Vua phũ
phàng vung kiếm giết con tôi.
Nay con
chết, tôi một mình đau khổ.
Thưa quan
tòa, tôi kiện vua điều đó.”
Quan tòa
đáp: “Kết tội vua điều này,
Bà tìm hai
nhân chứng, dẫn ra đây”.
“Vâng, không
khó tìm hai người như vậy”,
Bà gìa đáp,
nhưng đức vua lúc ấy
Nói: “Không
cần, ta nhận tội chính ta
Đã chém chết
người con trai bà già.”
“Vậy theo
luật, tùy vua, - quan tòa nói. -
Máu trả máu,
hay dùng tiền chuộc tội!”
Vua liền
đáp: “Chiểu theo luật Sharia,
Cứ để người
thắng kiện chém đầu ta!”
Sau khi
thưởng rất nhiều tiền, châu báu,
Ngài dướn
cổ, trao cho bà gươm báu:
“Tiền xưa
nay không làm sống lại người.
Bà hãy chém
ta đi, khỏi lắm lời.
Ta đã giết
con bà, nay theo lý,
Ta phải
chết, không có gì suy nghĩ”.
Bà già nghe,
đứng lặng một hồi lâu
Rồi phủ phục
dưới chân vua, lắc đầu:
“Không, con
tôi chống vua nên bị giết
Xin đức vua
tha cho tôi tội chết!”
Vậy là vua,
trước thần dân của mình,
Chứng tỏ
ngài thực sự rất công minh.
Còn bà già,
không nhận tiền vua tặng,
Không báo
thù, chỉ khóc buồn cay đắng.
Vua Hazi,
suốt nhiều năm sau này
Xem bà già
như mẹ mình, đêm ngày
Vua tìm cách
chuộc lại phần thua thiệt
Cho bà mẹ có
con ngài đã giết.
*
Hỡi Navôi,
hãy hướng thẳng mặt trời,
Quên thù hằn,
với người và với đời.
Ê, chủ quán,
đời này còn công lý,
Vậy thì
uống, uống cho say bí tỉ.
Nào, rượu
đâu, chờ gì nữa, rót ra
Ta hãy uống
vì đức vua chúng ta!
CHUYỆN VUA
MUHAMAD XỨ KHÔRESM VÀ NHÀ THÔNG
THÁI FAKHR
RAZI GẶP NHAU TRONG NHÀ TẮM
Đức imam Fakhr Razi thông thái
Vĩ đại nhất
trong những người vĩ đại,
Có một lần
cho dựng trại ở đây,
Xứ Khôresm,
thế mà vua nước này
Đã không đến
viếng thăm ngài, dâng lễ.
Imam giận, không thăm vua vì thế.
Vua hối hận,
bắn tiếng muốn thăm ngài,
Nhưng ngài
vờ không biết, để ngoài tai.
Một sáng nọ,
như lệ thường, trời nóng
Vua đi tắm
nhà tắm hơi công cộng
Đức imam cũng có mặt, người đông,
Ngài và vua
được xếp chung một phòng.
Trong phòng
tắm, trần truồng, mờ hơi nóng,
Vua hỏi
ngài: “Ngài học cao, biết rộng,
Vậy cho tôi
được hỏi: Liệu sau này
Tôi và ngài
xuống địa ngục, gì đây,
Gì xẩy ra
với chúng ta khi chết,
Trước tòa án
Ngày Cuối cùng Phán xét?”
Imam đáp: “Ngài muốn biết, thưa vua,
Vậy thực
lòng, tôi sẽ nói. Xin thưa:
Vào ngày ấy,
vua và anh hành khất
Đều giống
nhau, trần truồng, đầy nước mắt.
Bước vào
phòng phán xét, muốn hay không,
Vua bỏ vương
miện quí, lại tồng ngồng.
Tôi thì đứng
nhìn từ xa, ái ngại,
Trong hào
quang của một nhà thông thái.
Khi còn
sống, vua cao hơn mọi người,
Nhưng dưới
ấy, vua cũng như mọi người.”
CHUYỆN VUA
BAKHRAM
Khi đức vua
Yazi-Jird băng hà,
Bakhtam lên
ngai vàng thay cha.
Nhưng đáng
lẽ chuyên tâm lo việc nước,
Ông vua mới,
khác rất xa vua trước,
Chỉ ngày đêm
lo ca hát, tiệc tùng,
Hiếm khi nào
đỉ ra khỏi hoàng cung
Để tìm hiểu
dân của mình sướng, khổ.
Các lân bang
đã bắt đầu nhòm ngó.
Như ta biết,
vua mà thế, tất nhiên,
Quan của vua
sẽ được dịp moi tiền.
Ngoài biên
giới, kẻ thù nhân dịp hiếm
Đang rình
rập, chờ thời cơ đánh chiếm.
Một ngày nọ,
đi săn ngoài thảo nguyên,
Vua bị lạc,
một mình ngồi trên yên.
Các tùy tùng
tụt đằng sau đâu đấy.
Bỗng phía
trước, một ngôi nhà vua thấy.
Vua xuống
ngựa, đâu đó ở bên trong
Có tiếng ai
than khóc thật não lòng.
Khi vào nhà,
vua mới nhìn thấy rõ
Những khuôn
mặt đói ăn, buồn, đau khổ.
Ông chủ nhà,
không biết vua là ai,
Mang đãi
khách cốc nước trắng, củ khoai.
Vua liền
hỏi: “Sao nhà buồn như vậy?
Có chuyện
gì?” “ Ông đã nhìn, đã thấy.
Trước chúng
tôi cuộc sống khá hơn nhiều,
Cho đến khi
đã xẩy ra cái điều
Ai cũng
biết, là ông vua mới, trẻ
Chỉ ngày đêm
lo tiệc tùng vui vẻ
Nên dân tình
đang gặp nạn, không hay,
Mặc quan
tham lớn nhỏ cứ hàng ngày
Thả sức cướp
của dân lành vô tội.
Đất nước
giàu mà trở nên nghèo đói.
Giờ chúng
tôi thức ăn không, tiền không,
Đang chờ
chết, nghĩ mà thật đau lòng...”
Vua chợt
hiểu, ngài vô cùng hối hận,
Lòng sôi sục
nhưng mím môi nén giận.
Giờ ngài
biết mọi tai họa do đâu
Và quyết tâm
sẽ làm lại từ đầu.
Trước mũi
kiếm ngài đã thề long trọng
Rằng chừng
nào mà ngài đang còn sống,
Ngài ra tay
giết hết bọn cường quyền,
Cai trị nước
như xưa các vua hiền.
Bỗng lúc ấy
có một người hớt hải,
Vẻ vui sướng
đang từ xa chạy lại,
Báo tin vui:
Tự nhiên suối nước đầy!
Chủ nhà nói:
“Đây rõ ràng điềm may
Rằng đức vua
của chúng ta thay đổi.
Trời cho
nước, tức sẽ không còn đói!”
Vua Bakhtam
hào phóng tặng người dân
Cả ruộng
đất, cả tiền bạc, áo quần.
Bản thân vua
thôi hát ca, yến tiệc,
Thay vào đó,
chăm cho dân mọi việc.
Ngài thẳng
tay giết hết bọn tham quan,
Đất nước
ngài lại giàu có, bình an,
Và được xem
thiên đường trên trái đất,
Nơi mọi
người sống yên vui, dư dật.
*
Thật vĩ đại,
vua Bakhram của tôi.
Xin hãy nhận
lời chúc của Navôi.
Nào chủ
quán, cùng ta say túy lúy.
Ta phải uống
vì đức vua yêu quí.
Phải nói
rằng, chỉ có rượu quán ông
Mới làm ta
vợi bớt nỗi phiền lòng.
________________
PHIĐÔUXI
Tên đầy đủ là Abukhankasima Phiđôuxi, nhà
thơ Ba Tư vĩ đại, tiểu sử không rõ và thường được bao bọc bởi nhiều huyền
thoại. Ông sinh ở một làng nhỏ gần thành phố Tus, khoảng từ năm 932 đến 935.,
trong gia đình một chủ đất người Iran
không giàu có lắm. Người ta hoàn toàn không biết gì về tuổi thơ và tuổi
trưởng thành của ông, nhưng có lẽ ông được học ở những trường tốt nhất thời đó.
Ông am hiểu văn hoc Ả Rập và Ba Tư, đặc biệt quan tâm đến lịch sử nước nhà,
điều sau này giúp ông viết tác phẩm vĩ đại nhất của mình và cũng là của cả nền
thơ ca đất nước - Truyện các vua" (Shah Nameh), một bộ sử bằng thơ hàng
nghìn trang về các đời vua Ba Tư trong nhiều trăm năm. Ông dành 30 năm để viết
nó. Tương truyên vua Mahmud hứa sẽ hậu thưởng cho ông khi viết xong, nhưng vua
đã nuốt lời, chỉ cho ông một túi bạc. Ông chia đôi số bạc này cho người hầu của
vua và tên đầy tớ của mình rồi trở về quê hương và chết ở đấy trong cảnh nghèo
nàn và ít người biết tới. Sau này người ta dựng tượng và lăng thờ cúng ông ở
thành phố Tus.
NHỮNG LỜI KIM CƯƠNG
Ai có học sẽ thành người mạnh mẽ.
Nhờ có học mà người già thành trẻ.
Ai một làn nếm trí thức, suốt đời
Sẽ thấy mình hạnh phúc, muốn làm người.
Phải tôn trọng bình yên và sự thật.
Đã là người, đừng trở thành súc vật.
Anh được gọi là người, xin chớ quên
Đó là danh hiệu quí, dẫu sang hèn.
Trong vạn vật, con người là tuyệt mỹ,
Chính vì người có lương tâm, biết nghĩ.
Ai bất nhân, gây điều ác cho đời,
Dẫu là người nhưng vẫn chưa là người.
Ai tăm tối, trong lòng luôn vẩn đục,
Sống suốt đời không bao giờ hạnh phúc.
Ai tham lam, luôn mưu lợi làm giàu,
Tưởng mình giàu nhưng thực ra không
giàu.
Hãy giúp đỡ khi có người gặp nạn,
Giúp bằng việc mình làm, không phải
phán.
Đừng dẫm bẹp con kiến dưới chân mình.
Nó ham sống cũng chẳng kém gì anh.
Ham quyền lực, anh quyết tâm phấn đấu,
Rồi tay anh sẽ có ngày dính máu.
Anh bị giết, hoặc anh giết người ta -
Chẳng hay gì việc ấy, hãy tránh xa.
Bản thân tôi, quí tình người, tình bạn,
Luôn cố sống trong hòa bình, thanh thản.
* * *
Con cái chính là món quà quí nhất.
Quí hơn cả những gì ta quí nhất.
Không có gì gần gũi bằng con -
Là niềm vui, là chỗ dựa tâm hồn.
Chết là cái dành chung cho tất cả -
Nghèo hay giàu, thấp hèn hay danh giá.
Ta được đưa vào đời trong một giây,
Và cũng thế ta ra khỏi đời này.
Khi thần chết đã công bằng nhường ấy,
Thì sao ta phải khóc buồn như vây?
Sớm hoặc muộn, ai cũng phải ra đi,
Nhưng quan trọng - ta để lại cái gì?
Những điều tốt, tiếng thơm anh để lại
Muôn đời sau sẽ vẫn còn mãi mãi.
* * *
Khi còn trẻ phải bắt mình lao động -
Cái làm người thông minh, yêu cuộc sống.
Không có gì chóng hủy hoại cuộc đời
Bằng nhàn rỗi và bản thân cái lười.
Hãy lao động, hãy nếm mùi nặng nhọc.
Hãy cười vui, và nếu cần, hãy khóc.
Phải có đích, phải biết mình muốn gì.
Cứ thẳng đường đã chọn, bước chân đi.
Không được tự biến mình thành củi mục
Để cơn gió rất dễ dàng bẻ gục.
Sống ở đời, ai dũng cảm, thông minh
Dẫu khó khăn, vẫn làm chủ đời mình.
Cả những lúc hiểm nguy hay bất hạnh
Cũng rút được những điều mình nên tránh.
* * *
Suy cho cùng, cái quí nhất trên đời
Là trung thực và nói lời giữ lời.
Anh thực sự chẳng có gì lo lắng
Nếu anh sáng với tấm lòng ngay thẳng.
Vì con đường giả dối trước hoặc sau
Sẽ dẫn anh tới nước mắt, buồn đau.
Khi cái tốt, điều hay anh học hỏi,
Nghĩa là anh đang tránh xa tội lỗi.
Đừng làm đau những người thân của anh.
Đừng gây ác với những người hiền lành.
Anh làm bẩn dòng suối trong, chắc chắn
Tâm hồn anh cũng trở thành vấy bẩn.
Anh đào hố chôn người, rồi có ngày
Bản thân anh sẽ rơi vào hố này.
Tôi thành thật không mong anh điều ấy.
Với người khác anh cũng nên làm vậy
* * *
Muốn thanh thản, muốn thành người thông
minh,
Không được để lòng tham chi phối mình.
Ai ham muốn không nhiều, không hiếu
thắng,
Người ấy ít buồn lo, căng thẳng.
Chính lòng tham gây tai họa cho người.
Ai không hiểu, coi như chưa hiểu đời.
Kiếm được tiền rất khó khăn, hẳn thế,
Nhưng tiêu tiền thông minh không phải
dễ.
Cứ nhìn quanh, anh sẽ thấy: nhiều tiền
Gây tai họa chẳng kém gì nghèo hèn.
Khi sung sướng hoặc khi giàu có nhất,
Cũng đừng kiêu, khinh đời hay vênh mặt.
Anh có tiền, tất nhiên, xin cứ tiêu,
Nhưng phải dành chút ít giúp người
nghèo.
* * *
Hãy cứ sống chính như anh đang có,
Đừng quá vui, đừng quá buồn, đau khổ.
Đang khỏe mạnh có thể thành ốm đau,
Buồn rồi vui, vui rồi buồn thay nhau.
Chẳng ai khổ suốt đời và ngược lại,
Cũng chẳng ai được sướng vui mãi mãi.
Buồn hoặc vui đều nhanh chóng trôi qua,
Vậy nghĩ lắm làm gì cho thêm già?
Đã có mắt, chẳng phải cần ai dạy.
Cứ nhìn quanh rồi tự mình sẽ thấy
Rằng cuộc đời rất tráo trở xưa nay,
Rằng để sống hạnh phúc ở đời này
Ta chỉ cần trời ban cho sức khỏe
Và tâm hồn luôn thảnh thơi, tươi trẻ.
* * *
Hãy thử thách người anh coi là bạn
Cả khi vui cũng như khi hoạn nạn.
Người thông minh sẽ không bạn với người
Không nhất quán giữa ý nghĩ và lời.
Dẫu là bạn, nhưng một khi ngu dốt,
Thì đừng chờ ở anh ta điều tốt.
Anh, đàn ông, cần được thử thách nhiều
Qua khó khăn, công việc hoặc tình yêu.
Lấy vợ tốt, anh là người hạnh phúc.
Vợ anh xấu, đời anh là địa ngục.
Không ngẫu nhiên có lá rách, lá lành.
Vợ thế nào còn phụ thuộc vào anh.
Con thừa hưởng ở người cha tất cả -
Từ ý chí đến tình thương, danh giá.
Con đi chệch đường tốt của cha ông
Là con hư, khiến cha mẹ đau lòng.
Anh giàu sang, nhưng cuối cùng để lại
Cái quí nhất không gì bằng con cái.
Đã là con, anh phải yêu như nhau -
Gái hay trai, con út hoặc con đầu.
Không ngẫu nhiên, con thông minh, tài
giỏi
Thường xuất thân từ gia đình dòng dõi.
* * *
Hãy luôn gieo những hạt giống thông minh
Vào lời nói, vào việc làm của mình.
Sự thông minh giúp anh không phạm lỗi.
Còn trí thức giúp anh không nghèo đói.
Nếu phải học một cái gì suốt đời,
Thì phải học tri thức để làm người.
Nếu số phận ban cho anh trí thức,
Anh sẽ làm chỉ những điều vừa sức.
Phải liệu cơm gắp mắm, chớ tham lam,
Đừng luyến tiếc những gì không thể làm.
* * *
Đừng mong chờ điều lành từ kẻ xấu.
Đừng hy vọng nấu thành cơm từ trấu.
Kẻ gian thề, đừng có tin, về sau
Hắn sẽ quên và nuốt lời rất mau.
Kẻ gian dối đến nhà, mau đóng cửa
Nếu không muốn bị lừa thêm lần nữa.
Có ai nhờ sư tử đói chăn dê?
Chỉ có ngốc mới tin thằng ngốc thề.
Kẻ thù ác nhưng thông minh, có học
Nhiều khi hơn bạn hiền mà ngu ngốc.
Người nuôi hổ bị hổ vồ có ngày -
Chính con hổ từng bế ẵm trên tay.
Người thông minh không đeo gông vào cổ,
Không tự đặt đầu mình vào miệng hổ.
Mạng sống anh là quà tặng của trời.
Anh phí phạm là có lỗi với đời.
Thi với hổ không phải việc anh hùng,
Mà đơn giản anh chỉ là thằng khùng.
Gặp khó khăn đừng bao giờ dao động,
Đừng vội vàng chịu buồn đau, thất vọng.
Anh chẳng làm được gì khi vội vàng.
Biết kiên nhẫn, rắn cũng bò khỏi hang.
Thường chiến thắng là những người kiên
nhẵn.
Hãy bình tĩnh, đừng vội vàng tức giận.
Nhưng khi cần phải hành động, không chờ,
Vì nếu chậm là để nhỡ thời cơ.
Đừng để nhỡ việc mình vì biếng nhác -
Rất có thể không còn cơ hội khác.
Hãy hái hoa khi hoa đẹp, nếu không
Hoa sẽ tàn, có tiếc cũng bằng không.
* * *
Khi tức giận phải kiềm mình, suy nghĩ.
Đừng để bị cuốn theo, thành mất trí.
Mất kiềm chế chỉ thêm khổ cho anh.
Biết kiềm chế việc gì làm cũng thành.
Khi tức giận, ai nói gì không phải,
Đừng nổi nóng mà ôn tồn đáp lại.
Ai gieo gì sẽ gặt nấy, tất nhiên,
Anh ở hiền chắc sẽ được gặp hiền.
Người thông minh không nghe lời xúi bẩy.
Bản thân họ cũng không làm việc ấy.
Lời anh nói, dẫu là lời kim cương,
Nhưng nói nhiều thành hạt cát bình
thường.
Trước khi nói phải lựa lời thật kỹ,
Càng phải biết lắng nghe người tế nhị.
Bỏ ngoài tai những lời nói thấp hèn,
Tức là anh tăng giá trị anh lên.
* * *
Đã là vua, điều đầu tiên cần nhớ
Là không được làm cho dân lo sợ.
Phải cai trị bằng công lý, tình thương.
Lời dân kêu quyết không được xem thường.
Vua hay quan, cai trị dân, nhất thiết
Phải là người luôn công tâm, liêm khiết.
Khi xét xử phải sáng suốt, thông minh.
Phải yêu dân như yêu chính con mình.
Với dân thường, phải chăm lo giúp đỡ.
Không bao giờ được giết người vô cớ.
Đừng vội vàng khi quyết định, xưa nay
Hơn ai hết, vua phải hiểu điều này.
Vua không biết kiềm mình, hay bồng bột
Thì không thể gọi là ông vua tốt.
Vua ý nghĩ mà tối đen trong đầu
Thì thế nào cũng chuốc họa về sau.
* * *
Cái mùi vị của chiến tranh rất đắng,
Thậm chí cả khi quân vua chiến thắng.
Khi quân giặc đến cầu hòa, làm thân
Thì hãy nên chấp nhận, đừng xuất quân.
Trước khi đánh hãy cố thử hòa bình,
Xem cách nào tránh được họa chiến tranh.
Nhưng khi giặc đem quân xâm lược
Thì thà chết không làm dân mất nước.
Khi đánh nhau phải chú ý coi chừng
Kẻo kẻ thù đánh tập hậu sau lưng.
Tướng cầm quân mà thông minh, tài giỏi
Thì không có kẻ thù nào đánh nổi.
Lính phải cần dũng cảm, tất nhiên,
Vì với lính, không gì nhục bằng hèn.
Người xưa nói: Phải đánh đâu thắng đấy,
Nhưng đừng đuổi khi giặc thua bỏ chạy.
Điều quan trọng là khi vừa thắng xong,
Với quân địch, phải hết sức đề phòng.
Vì quân địch, dẫu thua và yếu thật,
Nhưng có thể gây điều tai hại nhất.
Với kẻ thù, chỉ giết lúc giao tranh,
Khi kẻ thù có vũ khí như anh.
Với tù binh, hàng binh, đừng giết họ -
Anh có thể sẽ cùng chung cảnh ngộ.
Đạo làm vua - phải cho lính đủ ăn,
Vì nếu không, lính sẽ cướp của dân.
Không được giết người dân thường vô tội
-
Dân của địch, nhưng họ không có lỗi.
Anh cướp phá hay đốt nhà dân lành,
Nghĩa là anh đang đốt phá nhà anh.
Vua tử tế là vua không phá hoại
Những di tích do người xưa để lại.
* * *
Không trí khôn, đầu chỉ là quả dưa.
Xác khỏe mạnh, không hồn cũng bằng thừa.
Công thầy dạy lớn hơn công bố mẹ.
Anh em tồi thua láng giềng tử tế.
Khi chưa bắt được gà ngoài sân
Thì tốt hơn chưa mời khách đến ăn.
Nghe là tốt, nhưng tốt hơn - được thấy.
Tốt hơn nữa - tự mình làm việc ấy.
Thường vẫn thế, nơi nào có mặt trời
Thì trăng sao không khoe mình hơn người.
Anh tài giỏi, anh làm gì cũng được,
Nhưng không thể bắt dòng sông chảy
ngược.
Anh có thể thông minh hơn người,
Nhưng không thể thông minh hơn trời.
Với người già, đừng nên mời uống rượu -
Riêng cái già cũng đã làm họ yếu.
Ai đã già thì nên cam phận già.
Đâu phải rắn mà mong còn lột da?
Già mà luôn tỏ ra mình đang trẻ
Thì chẳng gì đáng cười hơn, quả thế.
* * *
Đời bất công, kẻ độc ác hại người
Lại được sống trong sung sướng suốt đời.
Còn người tốt, luôn suốt đời ngay thẳng
Lại phải sống trong đói nghèo, cay đắng.
Đời là thế, có người nghèo, người giàu,
Người hạnh phúc, người phải luôn buồn
đau.
Nhưng tráo trở cũng là đời, cẩn thận.
Sướng hay khổ, chưa có gì chắc chắn.
TRUYỆN CÁC VUA (Shah-Nameh)
ZOHAK GIẾT CHA
Ở vùng đất có tên "Chàng Kỵ
Sĩ"
Xưa có một ông vua đầy nghĩa khí.
Ông trị dân theo lẽ phải, ý trời,
Vừa chuyên lo việc nước, lại thương
người.
Ông vua ấy tên gọi là Mađát,
Nhiều gia súc và ruộng đồng bát ngát.
Trời cho ông có được cậu con trai
Tên Zohak, rất dũng cảm, nhiều tài.
Chàng thông minh, yêu đời, luôn hiếu
động,
Nhưng nhẹ dạ, thơ ngây trong cuộc sống.
Một sáng nọ, đang cưỡi ngựa đi chơi
Ở chỗ vắng, chàng bỗng gặp một người
Rất xinh đẹp, hào hoa và tế nhị.
Nhưng người ấy, than ôi, là con quỷ.
Nó hiện thân để dụ dỗ, lừa chàng
Bằng lời nói, bằng cử chỉ đàng hoàng,
Đưa chàng trai vào con đường tội lỗi,
Sau một lúc chuyện trò, con quỷ nói:
"Này Zohak, muốn thành đạt, đi xa,
Anh phải thề sẽ làm đúng lời ta!"
Vốn chân thật, lại tin ngay bạn quỷ,
Zohak thề mà không cần suy nghĩ:
"Tôi xin thề là sống chết từ nay,
Dù ở đâu, ban đêm hay ban ngày,
Sẽ làm theo đúng như lời anh nói,
Nếu vi phạm sẽ bị trời bắt tội!"
Con quỷ cười: "Tốt lắm, hãy nghe ta.
Cha của anh luôn ốm yếu, lại già,
Vậy hãy giết ông ta đi, đừng ngại.
Anh sẽ được lên làm vua mãi mãi".
Zoha nghe, tái mặt, sợ hết hồn.
Dẫu sao chàng vẫn biết đạo làm con.
"Ta không thể làm điều này! - chàng
nói.-
Đừng khuyên ta làm điều gian, tội lỗi!"
Con quỷ đáp: "Anh định phá lời thề?
Hay anh muốn bị trừng phạt nặng nề?
Anh phải chết, phải suốt đời nhục nhã,
Cũng sẽ chết cả nhà anh danh giá."
Vậy là chỉ một chốc thôi, anh ta
Đã bị đưa vào bẫy quỷ ma tà.
"Vâng, tôi xin nghe theo ông, đành
vậy.
Nhưng tôi biết làm sao đây điều
ấy?"
Con quỷ đáp: "Đừng lo. Ta giúp anh.
Khi được ta giúp đỡ, việc ắt
thành."
Trong cung điện của đức vua Mađát
Có khu vườn nhiều cây to bóng mát.
Vua thường hay vào đấy dạo ban đêm,
Dưới ánh trăng mờ ảo, cảnh êm đềm.
Biết điều ấy, con vua, do quỷ báo,
Đào chiếc hố trên đường vua đi dạo.
Thế là vua ngã xuống hố chết ngay,
Mà không biết con mình làm việc này.
Còn Zohak lên ngôi vua từ đó
Với cái nhục suốt đời - con giết bố!
QUỈ LÀM ĐẦU BẾP CHO VUA ZOHAK
Vừa mới xui con giết cha, độc ác,
Quỷ lần nữa lăm le làm việc khác.
Nó biến thành chàng trai trẻ khôi ngô,
Ăn nói hay, nhanh nhẹn, biết nhiều trò.
Gặp Zohak mới lên ngôi, nó nói:
"Tôi là người chuyên nấu ăn rất
giỏi,
Xin được ngài cho hầu hạ trong cung,
Nấu những món ngon và lạ vô cùng".
Vua đồng ý. Thế là bằng phù phép
Quỷ được nhận vào cung làm đầu bếp.
Vào thời ấy thức ăn khác ngày nay,
Vua cũng ăn toàn hoa quả, lá cây.
Các món thịt hầu thì như chưa có,
Lại càng hiếm những thức ăn béo bổ.
Quỷ quyết định cho vua ăn lần này
Những gì ngài chưa được biết xưa nay.
Món đầu tiên là trứng chim rán mỡ.
Zohak ăn, thấy rất ngon, mừng rỡ.
Món tiếp theo con quỷ dọn hôm sau
Là thịt gà, còn ngon hơn món đầu.
Rồi tiếp đến, món bò thui, tiếp nữa,
Món ngon nhất, là cháo hầm lợn sữa.
Zohak khen, cảm ơn quỷ, mỉm cười:
"Ngươi muốn gì, ta sẽ thưởng cho
ngươi!"
Con quỷ đáp: "Với tôi quan trọng
nhất
Là thấy vua ăn ngon và đủ chất.
Nếu thực tình, ngài muốn thưởng cho tôi,
Thì xin ngài hãy để tôi đặt môi
Hôn lần lượt đôi vai ngài khỏe mạnh."
Vua đồng ý. Con quỷ cười ranh mãnh,
Rồi khẽ hôn lên vai vua. Lạ thay,
Nó biến mất. Từ vai vua lúc này
Bỗng nhú lên đôi rắn đen dữ tợn.
Vua hoảng sợ liền kêu to đau đớn.
Vua sai người chém đứt rắn, than ôi,
Hai con khác mọc lên, lớn gấp đôi.
Nhiều danh y từ khắp nơi trong nước
Được triệu đến, nhưng chẳng làm gì đươc.
Con quỷ ấy lần nữa lại ra tay.
Nó biến thành thầy thuốc, bảo thế này:
"Không một ai cưỡng được đòn số
phận.
Vua không giết, mà phải nuôi đôi rắn.
Nuôi bằng óc hai người mỗi ngày đêm.
Không làm thế, vua sẽ chết, rồi
xem!"
Thế là vua lại gây thêm tội ác
Ở một nước vốn nghèo nàn, loạn lạc
NGUỒN GỐC NGƯỜI KURDS
Người đẩu tiên bị rắn thần ăn thịt
Là hai cô con quan Tamahit.
Hai nàng đẹp, thật dịu dàng, trắng trong,
Như sao mai, như lỉễu cạnh bờ sông.
Cô chị cả có tên Shariaz.
Còn nàng kia, cô em - Arnavaz.
Theo lệnh vua, họ được dẫn vào cung,
Người run lên vì lo sợ vô cùng.
Thế là họ bị làm mồi cho rắn,
Một trò chơi rất ranh ma, tàn nhẫn.
Và cứ thế, đất nước nhiều năm trời
Cứ một đêm lại ít đi hai người.
Họ đều trẻ, cả con dân nghèo đói,
Cả con quan và con nhà dòng dõi.
Họ bị trao cho đầu bếp, tên này
Moi óc họ cho rắn ăn hàng ngày.
Tiếng ca thán ngày một lan trong nước,
Nhưng ca thán mà không làm gì được.
Một ngày nọ, có hai người gặp nhau.
Họ còn trẻ, có học, con nhà giàu.
Tên của một trong hai người - Camanac.
Còn người kia, trẻ hơn, Aramac.
Họ gặp nhau, nói đủ chuyện, cuối cùng
Lại nhắc đến đôi rắn ở hoàng cung,
Chuyện nhà vua quá tham lam, tàn nhẫn,
Và cả chuyện các nạn nhân của hắn.
Hai anh bạn quyết định lúc chia tay:
Phải tìm cách giúp đỡ những người này.
Họ cải trang thành những đầu bếp giỏi -
Nhờ hối lộ, và cũng nhờ ăn nói,
Họ được vào làm đầu bếp trong cung,
Làm cái việc nuôi rắn kia hãi hùng.
Những hôm đầu họ phải đành nuốt giận
Giết mỗi ngày hai người nuôi đôi rắn.
Nhưng rồi sau, họ khéo léo dùng mưu
Óc một người họ thay bằng óc cừu
Cuối cùng họ hằng ngày nuôi rắn độc
Chỉ bằng cách mổ bầy cừu lấy óc.
Vậy là họ, cứ thế ngày tiếp ngày
Cứu nhiều người thoát chết bằng cách
này.
Họ bí mật được đưa đi khai phá
Một vùng đất thật xa và mới lạ
Sau lập nên vương quốc Kurdistan
Mà nghe đồn giàu đẹp nhất trần gian.
GIẤC MƠ CỦA ZOHAK
Dành quyền lực bằng âm mưu, cái ác,
Đúng nghìn năm trị vì vua Zohak.
Dưới bàn tay cai trị của vua này,
Cả thế giới phải rên xiết đêm ngày.
Việc làm tốt bị chìm trong bóng tối
Để nhường chỗ cho bất công, tội lỗi.
Không còn chỗ cho người giỏi, thông
minh.
Đâu cũng đầy bọn lừa đảo, chiêm tinh.
Không dám nói, nhưng mọi người đều thấy
Chính quỉ Div gây nên tai họa ấy.
... Vua Zohak có một trò bất lương
Là phá trinh các cô gái dân thường.
Hắn đưa họ vào thâm cung làm nhục,
Khinh đạo lý, phép trời và địa ngục,
Cứ đều đều tiếp diễn bấy lâu nay.
Ta hãy xem trời trị hắn tội này.
Một tối nọ, theo lệ thường, Arnavas
Lên giường ngủ với đức vua Zohak.
Đêm đã khuya, cung điện lặng như tờ,
Vua hãi hùng khi chợt thấy trong mơ
Ba chiến binh rất cao to, khỏe mạnh,
Mặc giáp trụ dát bạc vàng lấp lánh.
Người đứng giữa, như một bậc đế vương,
Trẻ, thanh cao, khuôn mặt đẹp khác
thường.
Trên thắt lưng là một viên ngọc quí,
Một tay chàng cầm chiếc chùy dũng sĩ.
Chàng thúc ngựa vụt lao lên, và rồi
Tung thòng lọng vào cổ vua, than ôi,
Kéo Zohak lê thê trên mặt đất,
Về phía núi Đêmavend cao ngất...
Vua Zohak, vừa kinh ngạc, vừa lo,
Đang giữa đêm kêu một tiếng rất to,
To đến mức cột nhà rung, muốn đổ.
Rồi tất cả lại lặng yên sau đó.
Các cung nữ, nghe tiếng ấy thất kinh:
“Gì xẩy ra với đức vua của mình?”
Arnavas: “Thưa vua, chuyện gì vậy?
Nói em nghe những điều ngài mơ thấy.
Vua đang ở trong cung điện của ngài,
Sao giật mình, ngài hoảng sợ, sợ ai?
Không đúng ư, ngài là vua bảy xứ? 1)
Vua của người, chim muông và thú dữ?”
“Giấc mơ này rất kinh hãi của ta, -
Zohak đáp, - ta không thể nói ra.
1.
Người Ba Tư
cổ đại cho rằng thế giới được chia thành bảy phần.
Không cần hỏi, ngươi chỉ cần được biết,
Rằng chắc chắn sắp tới đây ta chết!”
Arnavas hỏi đức vua: “Thưa ngài,
Xin cho biết, ngài sợ gì, sợ ai?
Xin cho biết, ngài sợ gì, sợ ai?
Rất có thể, được mọi người góp ý,
Vua thoát khỏi giấc mơ này kinh dị”.
Zohak nghe, đem kể hết với nàng.
Arnavas liền đáp lại dịu dàng:
“Ngài là vua của muôn vua hùng mạnh,
Tỏa ánh sáng như mặt trời lấp lánh.
Sống ở đời, để thoát khỏi hiểm nguy
Thì trước hết phải biết nó là gì.
Hãy cho mời các quân sư, thầy bói,
Nhà chiêm tinh, mời những người thật
giỏi.
Họ giúp ngài giải ý nghĩa giấc mơ,
Giải cặn kẽ cho ngài nghe, bấy giờ
Ngài sẽ biết kẻ thù đang giấu mặt
Là thú dữ, quỉ, người hay trời đất.
Và một khi biết rõ kẻ thù mình,
Ngài liệu bề đối phó thật thông minh.”
Zohak nghe những lời kia chí lý
Liền làm theo mà không cần suy nghĩ.
CÁC THẦY TẾ GIẢI THÍCH Ý NGHĨA GIẤC MƠ
CỦA ZOHAK
Như lông quạ, bầu trời đen xa xa,
Mặt trời ló sau rặng cây xùm xòa.
Nhưng mặt trời, viên ngọc hồng, bất chợt
Biến mất khỏi bầu trời cao, xanh nhợt.
Các thầy tế và những ai thông minh
Từ đất nước rất rộng lớn của mình
Đều được lệnh phải vào cung. Ở đó
Vua kể lại giấc mơ kia cho họ.
“Phải nói rõ, quyết không được nói sai!
-
Vua ra lệnh. - Con người kia là ai?
Ai thay ta lên ngôi khi ta chết?
Phải nói thật, không thì ta sẽ giết!”
Mặt tái nhợt, các thầy tế cúi đầu
Rồi thì thầm chia nỗi sợ cùng nhau:
“Nói thật ư? Nói với vua tất cả?
Khó giữ mạng, mà mạng người quí giá.
Còn nếu biết mà giấu vua, than ôi,
Thì thế nào cũng phải chết mà thôi!”
Đã ba ngày trôi qua, vua lại vội.
Rất lo sợ, không người nào dám nói.
Ngày thứ tư, vua quát: “Bọn chúng mày
Hoặc là chết, hoặc phải nói ra ngay!”
Các thầy tế lại cúi đầu sợ sệt
Khi lần nữa phải nghe về cái chết.
Trong số họ, có một người thông minh,
Tên Zirak, rất biết người, biết mình.
Vốn dũng cảm, uyên thâm hơn người khác,
Ông đứng dậy, nói với vua Zohak:
“Tâu đức vua, đức vua buồn làm gì
Việc chúng ta, sớm muộn cũng ra đi.
Trước bệ hạ từng nhiều vua tài giỏi,
Nhiều của cải, nhiều chiến công chói
lọi,
Thế mà rồi họ cũng chết. Sau này
Bệ hạ chết, người khác sẽ lên thay.
Qui luật ấy không thể nào khác được,
Như tường sắt không thể ngăn dòng nước.
Người thay vua, tâu bệ hạ, có tên
Fariddun, ngôi sao mới sắp lên.
Hiện giờ hắn còn chưa sinh, do vậy
Vua có tìm cũng không bao giờ thấy.
Mẹ của hắn thuộc dòng dõi đế vương.
Như cây thông, cân đối, đẹp khác thường,
Hắn khỏe mạnh, bằng chiếc chùy rất nặng,
Sẽ chiếm được ngai vàng nhờ chiến thắng.
Chiếc chùy ấy, loại có một không hai,
Một ngày kia sẽ giáng xuống đầu ngài”.
Vua Zohak ôm đầu, run lẩy bẩy:
“Nhưng vì sao hắn ghét ta như vậy?”
“Việc làm nào cũng phải có nguyên nhân,
-
Zirak nói. - Chính đức vua có lần
Đã giết chết cha tên này, giờ hắn
Quyết phải giết đức vua cho hả giận.
Thêm vào đó, có con bò Purmai
Được sinh ra để nuôi kẻ thù ngài.
Nó sẽ chết dưới tay vua, tuy vậy,
Fariđun sẽ trả thù điều ấy.”
Zohak nghe, quá sợ hãi, bất ngờ
Từ ngai vàng hắn ngã xuống, nằm đơ.
Hắn chết ngất hồi lâu, khi tỉnh lại,
Liền bỏ đi trong lo âu, sợ hãi.
Hắn ra lệnh: Bằng mọi cách, mọi nơi
Tìm dấu vết Fariddun trên đời.
Hắn lo sợ, đến quên ăn, quên ngủ
Trời nắng đẹp thành âm u, ủ rũ.
Và cứ thế, thời gian trôi rất nhanh,
Tên vua rắn chờ cái chết của mình.
RUSTAM VÀ SUKHRAB
Giờ tôi kể các bạn nghe chuyện này,
Một chuyện thật được lưu truyền lâu nay
Về Rustam, và cả về Sukhrab -
Hai cha con, vì cảnh đời phức tạp,
Vì hiểu nhầm mà cầm giáo đâm nhau.
Chuyện thật buồn, lòng người kể thật
đau.
SUKHRAB TẤN CÔNG LÂU ĐÀI TRẮNG
Sát biên giới Iran, nơi hoang vắng,
Người ta dựng một lâu đài màu trắng.
Tướng trông giữ lâu đài là Khatgi,
Rất khỏe mạnh, can trường và phương phi.
Vua Iran gửi tới đây cai trị
Một vị quan đã già, giàu mưu trí.
Tên người này là al Gutđakham,
Không nhân từ, nhưng cũng chẳng tham
lam.
Còn cô con thì tuy rằng đẹp thật,
Nhưng tính khí lại khác thường bậc nhất.
Khi Sukhrab dẫn đầu quân Turan
Đến đánh chiếm thành này của Iran
Thì Khatgi liền vội vàng xuất hiên,
Mặc áo giáp, lên yên ra nghênh chiến.
Phi trên con tuấn mã phóng như bay,
Giơ cao gươm, liền quát to thế này:
"Hỡi bọn người Turan kia, ai dám,
Ai có đủ sức tài và can đảm,
Hãy ra đây một chọi một với ta.
Không thì nên nhanh chóng rút về
nhà!"
Tướng Turan liền xông lên hăng hái,
Nhưng lần lượt bị Khatgi đánh bại.
Sukhrab thấy thế, giận vô cùng,
Liền quyết định ra thử sức anh hùng.
Chàng thúc ngựa, vút lao lên dũng mãnh,
Bụi bốc cao, giáp và gươm lấp lánh.
"Ngươi là ai? - chàng quát bảo
Khatgi. -
Phải chăng ngươi không biết sợ là gì?
Ngươi dám chống lại ta, không sợ chết?
Vậy thì coi như đời ngươi đã hết!"
Khátgi đáp: "Thằng bé kia lắm lời,
Ngươi mà dám chống lại ta, là người
Sư tử gặp phải cúp đuôi bỏ chạy.
Ta - Khátgi, luôn đánh đâu thắng
đấy!"
Sukhrab nghe xong chỉ cười to,
Tay giơ gươm, lính hai phía reo hò.
Hai dũng sĩ lao vào nhau quyết chiến.
Bóng của họ trong bụi mù ẩn hiện.
Sukhrab dọc ngang như mũi tên,
Như tia chớp giữa bầu trời đêm đen.
Bỗng Khatgi quay người, đâm thật mạnh.
Sukhrab kịp cúi mình né tránh.
Và rồi chàng, không để nhỡ thời cơ,
Nhằm đối thủ đâm một nhát bất ngờ.
Khatgi ngã, còn chưa tin là thật,
Cứ như bị gió thần xô xuống đất.
Sukhrab xuống ngựa, rút dao ra
Đang định giết thì Khátgi xin tha.
Vốn cao thượng, và cũng hay xúc động,
Chàng đã tha cho kẻ thù được sống.
SUKHRAB VÀ GUĐAPHARIT
Con chủ thành, nàng Guđapharit
Đẹp và giỏi binh đao như ta biết.
Thích đánh nhau, võ nghệ rất cao cường,
Dẫu bề ngoài là cô gái dễ thương.
Thấy bố mình thua nhanh và nhục nhã,
Nàng tức giận đến đỏ bừng đôi má.
Nàng mặc ngay giáp sắt, mũ che đầu,
Mái tóc dài cuộn ngược giấu đằng sau,
Rồi phóng ngựa lao ra, ai dám nghĩ
Trong áo giáp là tiểu thư quyền quí?
Nàng quát to với binh tướng Turan:
"Các ngươi ai có đủ tài, đủ gan,
Hãy ra đây quyết một phen sống chết!
Ai thủ lĩnh các ngươi, ta muốn
biết?"
Các viên tướng của Turan, than ôi,
Chẳng người nào dám ra đấu tay đôi.
Sukhrab nhìn từ xa, nghĩ bụng:
"Thêm một thằng nhãi con không muốn
sống!"
Chàng lại mặc giáp sắt, lại lên yên.
Người và ngựa phóng đi như mũi tên.
Cũng lúc ấy nàng Guđapharit
Dương cung bắn một mũi tên bay tít.
Lúc đi săn nàng bắn mũi tên này
Luôn trúng đích chim đại bàng đang bay.
Nhưng bây giờ, dẫu thật nhanh và mạnh,
Nó vẫn bị kẻ thù nàng né tránh.
Sukhrab quát to: "Vứt cung đi.
Đừng chơi trò con trẻ ấy làm gì.
Hãy cầm giáo đánh nhau như hiệp sĩ.
Hãy đỡ lấy cú đòn này. Chuẩn bị!"
Chàng phóng lại gần nàng hơn, và rồi
Đâm mũi giáo làm khiên nàng nứt đôi.
Nàng suýt ngã, nhưng một tay bám chặt
Vào yên cương. Tay kia, nhanh như cắt
Rút thanh gươm chém đứt giáo của chàng,
Rồi lần nữa ngồi trên yên vững vàng,
Nàng phóng đi, không một giây sợ sệt,
Dễ dàng thoát khỏi bàn tay thần chết.
Sukhrab đuổi theo, từ phía sau,
Chàng với tay giật chiếc mũ trên đầu,
Làm sổ tung mái tóc dài phụ nữ.
Vừa ngạc nhiên, và cũng vừa giận dữ,
Chàng ném dây, cuốn thật chặt người nàng
Rồi giật mạnh, kéo nàng ngã trước chàng.
"Hỡi người đẹp, giờ thì cô đã thấy!
-
Chàng xuống ngựa. - Đừng hoài công bỏ
chạy.
Ta từng bắt nhiều tù binh xưa nay,
Chưa thấy ai xinh đẹp, trẻ thế này."
Thấy muốn thoát cũng không sao thoát
nổi,
Nữ tù binh Iran nghiêm mặt nói:
"Không nhất thiết phải nhiều lời
làm gì.
Chàng muốn giết thì cứ việc giết đi.
Nhưng đừng quên: từ hai bên binh sĩ
Đang nhìn ta. Sau này, chàng thử nghĩ,
Họ sẽ đồn đủ các chuyện không hay,
Rằng Sukhrab vào ngày nọ, tháng này
Đã đánh nhau và rồi đang tâm giết
Một phụ nữ đã xin chàng tha chết.
Không, tốt hơn nên làm khác. Xin chàng
Hãy tha chết cho em. Cả kho vàng,
Cả binh lính, cả lâu đài, thành lũy,
Tự tay em sẽ trao cho hiệp sĩ!"
Thấy mặt nàng xinh và tươi như hoa,
Lại rất giỏi binh đao, dẫu đàn bà,
Sukhrab lòng tự nhiên bối rối.
Chàng do dự một hồi lâu rồi nói:
"Được, ta tha, nhưng hãy nhớ điều
này:
Nếu trở mặt thì liệu hồn, rồi đây
Cả thành nàng sẽ bị ta hủy diệt,
Và tất cả không một ai thoát chết!"
Rồi chàng tha cho cô gái vào thành,
Mà không biết cái gì đang đợi mình.
No comments:
Post a Comment