Truyện ngắn. Thái
Bá Tân
Xét về mọi phương diện, ông Lộc là người may mắn và thành
đạt. Khi nói về ông, người ta hay bảo: Cái số lão ấy sướng!
Ông mới bước qua tuổi năm mươi và suốt chừng ấy năm, bất
chấp chiến tranh, bất chấp khó khăn chung của đất nước và thời cuộc, đời ông
diễn ra suôn sẻ và quá ư tốt đẹp. Cứ như có thần hộ mệnh luôn bên cạnh để che
chở và lái con đường cuộc đời ông theo hướng may mắn. Nếu có khổ thì cũng chỉ
những năm còn nhỏ, ấy là cái khổ của ăn chưa no lắm, mặc chưa đẹp lắm và một ngày
hai buổi vắt vẻo trên lưng trâu hoặc chơi khăng ngoài đồng cùng bọn trẻ, vì ông
sinh ở nông thôn. Bù lại, nhà ông được xếp vào loại nghèo nhất dù chẳng kém nhà
nào trong làng, nên nghiễm nhiên ông được ưu đãi mọi bề. Không phải thi chuyển
cấp từ cấp hai lên cấp ba, sau đó đúng năm tốt nghiệp phổ thông, năm 1967, thì
có chủ trương không phải thi đại học. Nhờ “thành phần cơ bản”, ông được chọn đi
học nước ngoài, tất nhiên đi nước xịn nhất thời bấy giờ là Liên Xô và học
trường xịn nhất là Lômônôxôp ở ngay thủ đô Matxcơva. Học cái môn ông không thật
giỏi lắm là toán. Thế mà ông được học tiếp thành phó tiến sĩ, rồi tiến sĩ, ngẫu
nhiên chỉ vì lúc ấy ít sinh viên Việt Nam và bạn muốn đào tạo “cán bộ đầu
ngành” cho ta. Lúc ông về nước thì chiến tranh đã kết thúc từ lâu. Trước đấy
ông chỉ tận mắt thấy máy bay Mỹ bay qua làng vài lần, còn bom nổ thì chưa lần
nào.
Với tấm bằng tiến sĩ từ Liên Xô, đương nhiên ông được đặt
vào chức vụ xứng đáng, lúc đầu là tổ trưởng bộ môn toán ở một trường đại học
danh tiếng của thủ đô, sau cứ thế mà tiến - phó khoa, trưởng khoa rồi giáo sư,
còn bây giờ thì ông đang ngấp nghé chức phó hiệu trưởng của chính cái trường
ấy. Một ước mơ trong tầm với, và trước khi về hưu chắc ông phải được ngồi ở ghế
hiệu trưởng ít năm. Ông tin như thế, mọi người cũng tin như thế. Biết đâu ông
chẳng còn tiến xa hơn. Vậy chắc phải giỏi chuyên môn lắm? Không hẳn. Tất nhiên
ông không dốt, vì quá dốt cũng như quá giỏi, ông đã chẳng được như ông ngày
nay.
Các mặt khác, ông cũng may mắn và thành đạt không kém. Bà vợ
xinh đẹp nết na vốn là sinh viên của ông, được chồng nâng đỡ nay đã là trưởng
phòng khoa học. Hai đứa con gái đang học đâu đó bên Âu Mỹ, tất nhiên theo diện
học bổng toàn phần nhờ quan hệ riêng của vợ chồng ông với đồng nghiệp nước
ngoài. Còn kinh tế thì khỏi nói, ngay từ thời khó khăn nhất ông đã được cấp một
căn hộ kép tầng một ngay trong trường. Tiền bạc cứ rủ nhau theo ông vào nhà,
qua các chuyến công tác nước ngoài khá thường xuyên (cái thời đi nước ngoài
được coi là cách làm giàu nhanh và dễ nhất), qua vụ ông vào Miền Nam lập chi
nhánh trường ngày mới giải phóng, khi ra khuân bao nhiêu là đồ, cộng một ngôi
nhà ở quận Hai ông xin được với danh nghĩa cho trường nhưng thực ra là của ông.
Thời mở cửa thì ông mở lớp dạy thêm, rồi mở trung tâm luyện thi đại học. Đấy là
chưa nói ông trúng đậm mấy quả kinh doanh bất động sản, cả những năm 93 - 94 và
mới vừa rồi. Tóm lại, hiện giờ ông là người giàu, rất giàu, đến mức nhiều khi
chính ông cũng không tin mình có thể giàu đến mức ấy...
Vậy
quả đúng ông Lộc là người may mắn và thành đạt mọi bề. Ông hài lòng với mình,
với cuộc sống đang có. Sự hài lòng ấy thể hiện qua tạng người béo tốt, cử chỉ
tự tin và qua cả nụ cười bao dung, dễ dãi. “Cái số lão ấy sướng!” ông thường
nghe người ta nói sau lưng như vậy, không phải không chút ghen tị, nhưng ông
chả giận vì đang tràn trề hạnh phúc, do vậy đứng cao hơn sự chấp nhặt của người
đời. Ông thành thật tin những gì ông đạt được là nhờ đầu óc thông minh và lao
động chân chính của mình. Nghĩ thế cũng đúng, vì công bằng mà nói, ông thuộc
loại người tử tế và chưa làm điều gì thất đức để lương tâm phải cắn rứt.
“Chẳng
có số phận nào hết. Tất cả đều do nỗ lực bản thân,” ông hãnh diện nói với mình
và với người khác, rồi tự lúc nào không biết ông bắt đầu có cái nhìn như kiểu
từ trên nhìn xuống với những người nghèo và kém thành đạt hơn. Thậm chí ông còn
động lòng thương hại họ.
*
-
Lúc nãy giáo sư nói thế chưa hẳn đúng hoàn toàn.
Ông
Lộc quay sang nhìn. Đang thong thả bước bên ông là một ông già bé nhỏ ăn mặc
lịch sự tuy hơi cổ lỗ, đặc biệt chiếc mũ phớt nhăn nhúm trên đầu dù đang mùa
hè, và chiếc khăn trắng dắt lé một cách kiểu cách trên túi áo vét.
-
Xin lỗi, nhưng tôi đã nói gì cơ ạ?
-
Về chuyện có hay không có số phận ấy mà. Và về cả cái lập luận “nỗ lực cá nhân”
của giáo sư nữa.
Ông
Lộc khẽ à một tiếng. Chả là lúc nãy, như thường lệ vào các chiều chủ nhật, ông
cùng mấy người bạn ngồi uống bia, chuyện gẫu với nhau suốt buổi ở đầu phố Tông
Đảng. Ông mới tập uống bia vài năm nay, và tự cho phép mình mỗi tuần một lần
được thư giản theo cách ấy. Nhân hôm qua truyền hình chiếu những cảnh thương
tâm về các nạn nhân chất độc màu da cam, lần này họ sôi nổi nói đề tài ấy. Là
những trí thức tâm huyết với đời, ai cũng tỏ vẻ xúc động chân thành, không tiếc
lời lên án bọn Mỹ vô nhân đạo và vô trách nhiệm. “Âu cũng là cái số mà họ phải
chịu!” một người chép miệng. Thế là đề tài câu chuyện quay sang số phận. Như
thường lệ, ông Lộc hăng hái bảo vệ quan
điểm “nỗ lực cá nhân” của mình, theo kiểu anh lười, tức là không chịu lao động,
học hành tử tế thì không thể thành đạt, cũng như người không chú ý nhìn đường
thì có thể dễ dàng rơi xuống hố. Về buổi truyền hình hôm qua, theo ông, người
ta có thể chủ động tránh được phần nào những cảnh đau lòng ấy. Thí dụ, những ai
sống và chiến đấu ở vùng bị rải chất độc đáng lẽ phải đi khám bác sĩ xem có bị
nhiễm không, nếu có thì phải tìm cách giải độc. Y học hiện đại chắc làm được
điều ấy. Hoặc nếu đã trót sinh đứa con dị tật thì đừng sinh tiếp những đứa dị
tật khác. Thậm chí cả khi lâm vào cảnh ấy, “nếu cố gắng, hết sức cố gắng, người
ta cũng có thể vượt qua số phận. Khối người bệnh tật hiểm nghèo mà vẫn trở
thành nổi tiếng đấy sao?” Đại khái ông
nói như vậy, và người khác, dẫu không tán thành nhưng cũng không bác bẻ được.
Ông
Lộc tò mò nhìn ông già lạ mặt. Chắc ông ta cũng có mặt ở quán bia lúc ấy và đã
nghe hết câu chuyện của họ. Tính ông không thích bắt chuyện với người lạ, nhưng
lúc này ông đang vui, đang hưởng cái thú được đi bộ về ngôi biệt thự cổ xinh
xắn của mình ở xóm Hạ Hồi. Một quãng đường xa nhưng ông thích đi bộ hơn ô-tô
(ông có ô-tô riêng, thuê hẳn một người lái trực 24 trên 24). Đi bộ là cách thư
giãn mà chỉ những người thật giàu như ông mới kham nổi.
-
Nghĩa là... - ông ngập ngừng không biết nên xưng hô thế nào, ông hay bác . -
Nghĩa là bác cũng tin vào số phận?
- Cả có mà cũng
cả không. - Ông kia đáp. - Theo kiểu nói dân gian thì là số phận, nhưng dưới
góc độ khoa học, có thể gọi theo cách khác.
-
Theo bác thì gọi là gì ? - Ông Lộc hỏi, cảm thấy ông già kỳ quặc này có thể là
người nói chuyện thú vị.
-
Tôi cùng đường với giáo sư.
“Cùng
đường với mình? Ông ta biết mình đi đâu mà bảo cùng đường?” Ông Lộc thầm ngạc
nhiên nhưng không nói gì.
-
Tôi có việc tới ga Hàng Cỏ. - Ông già nói tiếp. - Nếu giáo sư không phản đối,
ta vừa đi vừa nói chuyện. Hôm nay quả là một ngày đẹp trời.
Ông già nheo
nheo mắt sau cặp kính tròn bé tí treo trên đầu mũi, kiểu kính các trí thức cũ
Hà Nội ưa dùng cách đây năm, sáu chục năm.
-
Cái mà chúng ta vẫn gọi là số phận ấy mà, theo tôi đơn giản chỉ là trò đùa ngẫu
nhiên. Sự ngẫu nhiên, ở các mức độ khác nhau, chi phối mọi cái trên đời này, cả
ở cấp vĩ mô là vũ trụ, lịch sử thế giới, lẫn cấp vi mô là cuộc sống của từng
con người chúng ta. Như giáo sư biết, nếu trái đất không bị thiên thạch ngẫu nhiên
va đập mạnh cách đây sáu mươi lăm triệu năm, ắt loài khủng long đã không tuyệt
chủng, mặt đất không bị băng hà xâm chiếm, và sự phát triển của sự sống hành
tinh chúng ta có thể đã đi theo một hướng khác. Pascal từng nói một câu nổi
tiếng: “Tướng Cromwell sắp tàn phá cộng đồng Cơ Đốc giáo. Hoàng gia Anh đã sụp
đổ và dòng họ Cromwell sẽ đời đời hùng mạnh nếu không vì một hạt sạn nhỏ nằm
trong đường tiết niệu của ông. Ngay cả nhà thờ La Mã cũng khiếp sợ trước ông,
nhưng chỉ vì hạt sạn bé nhỏ ấy mà ông qua đời, dòng họ Cromwell cũng suy sụp
theo. Mọi việc lại tiếp diễn theo cách cũ của mình, và một vị vua mới lại lên
ngôi.” Giáo sư thấy đấy, tất cả chỉ vì một hạt sạn ngẫu nhiên. Lại nữa, ai biết
được lịch sử châu Âu cận đại sẽ thế nào nếu khi còn là một sĩ quan pháo binh
trẻ tuổi ở đảo Corse, Napoleon không được một người đàn bà bình thường ngẫu
nhiên cứu khỏi cái chết trong gang tấc? Điều này có nói đến trong tác phẩm của
Maupassant, chắc giáo sư đã đọc?
Ông
Lộc khẽ gật đầu mặc dù ông ít đọc sách văn học, còn Maupasant thì ông đọc từ
hồi sinh viên, mà cũng chỉ mấy truyện. Cromwell ông cũng biết rất lờ mờ, mang
máng nhớ hình như ông ta là vị tướng lỗi lạc người Anh.
-
Thế còn cấp vi mô? - ông Lộc thực sự thấy câu chuyện trở nên thú vị.
-
Cũng thế cả, có điều ở qui mô nhỏ hơn, chỉ liên quan đến một người hoặc một
nhóm người. Trở lại vấn đề chất độc màu da cam. Việc Mỹ ném nó xuống Việt Nam
và gây hậu quả tai hại là một tất yếu. Chính quyền Mỹ phải chịu hoàn toàn trách
nhiệm về điều đó. Trong chiến tranh, bị thương, chết chóc là sự tất yếu, nhưng
bị thương hoặc bị chết ở đâu, thế nào, lại thuộc phạm trù ngẫu nhiên. Gã con
trai của đô đốc Zumwalt (ông này trực tiếp ra lệnh rải chất độc điôxin xuống
đồng bằng sông Cửu Long năm 1966) ngẫu nhiên được sung vào lực lượng tuần tiễu
dọc các kênh rạch khu vực này nên bị chết. Hàng nghìn nạn nhân Việt Nam khác
như ta thấy hôm qua trên vô tuyến cũng vậy. Ngẫu nhiên có mặt lúc ấy ở thời
điểm ấy nên bị nhiễm. Ngẫu nhiên lấy phải người bị nhiễm, ắt sẽ sinh ra những
đứa trẻ dị tật tội nghiệp. Cả tôi và giáo sư cũng không là ngoại lệ. Nếu hoàn
cảnh đưa đẩy, tức là trò đùa của sự ngẫu nhiên ấy rơi vào chúng ta, tôi và giáo
sư, nhất là giáo sư, đều có thể dễ dàng nhiễm nó. Chúng ta cùng con cái, người
thân chúng ta sẽ bất hạnh như thế, thậm chí còn hơn...
-
Sao bác bảo nhất là tôi? - Ông Lộc tò mò hỏi, thoáng chút khó chịu.
-
Vì xác suất giáo sư gặp cái ngẫu nhiên đó lớn hơn tôi. Lúc ấy giáo sư mới hai
mươi tuổi, tuổi quân dịch, còn tôi đã gần sáu mươi. Vả lại suốt thời gian chiến
tranh tôi sống ở nước ngoài...
“Năm
66 đã sáu mươi, vậy bây giờ hơn một trăm? Lão già này hoặc mất trí, hoặc là một
lão phù thủy.” Ông Lộc nhíu mày, hỏi:
-
Xin lỗi, nhưng bác là ai?
-
Một đồng nghiệp của giáo sư. Người ta cũng gọi tôi là “giáo sư” đấy, mặc dù tôi
chưa bao giờ được chính thức phong tặng danh hiệu cao quí đó. Tôi là một nhà
nghiên cứu, chính xác hơn, một nhà phát minh độc lập. Ông đừng mất công bới lục
trí nhớ để biết tôi là ai. Ông không biết đâu. Vả lại điều ấy chẳng có ý nghĩa
gì. - Rồi nhìn ông Lộc bằng đôi mắt nheo nheo tinh nghich sau cặp kính, ông già
cười nói: - Giáo sư yên tâm. Tôi là người tử tế. Chí ít không có ý định xấu xa
nào. Hơn thế, bằng các phát minh của mình, tôi có thể chứng minh được đôi điều
đã nói. Cả những điều trực tiếp liên quan đến giáo sư, tất nhiên nếu giáo sư
muốn...
-
Liên quan đến tôi? - Ông Lộc buột miệng thốt lên. - Sao lại liên quan đến tôi?
Liên quan cái gì?
-
Cái trò đùa của sự ngẫu nhiên. Chẳng hạn, vì một sự ngẫu nhiên nào đó, nhỏ
thôi, nhỏ như hạt sạn trong đường tiết niệu của tướng Cromwell, cuộc đời của
giáo sư có thể đã thay đổi hoàn toàn. Chính xác là giáo sư tránh được một sự
ngẫu nhiên trong đời mình, nên mới là giáo sư, một người may mắn, thành đạt như
ngày nay. Nếu không thì...
-
Nếu không thì sao?
-
Giáo sư muốn biết à?
-
Vâng. Nhưng làm sao bác chứng minh... Làm sao bác chỉ cho tôi thấy được điều
ấy?
-
Đó là việc của tôi. Tôi là nhà phát minh và có đủ các phương tiện cần thiết để
làm việc ấy. Nếu giáo sư thực tình muốn thì hãy đi theo tôi. Ngay bây giờ càng
tốt vì tôi chẳng còn ở đây lâu nữa. - Thấy ông Lộc có vẻ do dự, ông già nói
thêm: - Đừng lo. Không có chuyện gì đâu, ngoài một cú sốc nhỏ về tinh thần, là
điều có thể có lợi cho giáo sư đấy.
-
Ta ngồi xuống đây nghỉ tí đã. - Ông Lộc chỉ chiếc ghế đá ở vườn hoa nhỏ cạnh
phố Tràng Thi. Ông đang bối rối trước một sự lựa chọn tế nhị. Ông tò mò muốn
biết cuộc đời suôn sẻ của ông mà ông coi như đương nhiên phải thế có thể trở
thành khác như thế nào. Tuy nhiên, vốn thận trọng, ông không thể không tính tới
những hậu quả chưa lường trước. - Tôi chưa thật hiểu lắm. Xin bác nói lại...
*
Khoảng
mười lăm phút sau, ông Lộc theo ông già lạ mặt đi dọc phố Hàng Trống rồi đến
một con hẻm nhỏ mờ tối trông rất lạ. Hình như các đường phố lân cận cũng khang
khác. Ông đưa mắt tìm biển phố nhưng không thấy. Căn phòng họ bước vào ở ngay
tầng một, nằm khuất bên trong. Nó khá rộng, ngổn ngang các dụng cụ thí nghiệm
và một đống sách báo phủ đầy bụi.
-
Tôi ít khi làm việc ở đây nên hơi bừa bộn, giáo sư thông cảm. Sẽ không mất nhiều
thời gian đâu. Thế này nhé, - ông già vừa nói vừa dẫn khách lại gần một chiếc
tủ kim loại hình vuông trong góc phòng. - Đây là phát minh mới nhất của tôi. Nó
có nhiều chức năng, có thể đưa ta trở lại quá khứ hoặc biết trước tương lai.
Hôm nay nó sẽ giúp giáo sư biết thêm một hướng phát triển khác của đời mình...
-
Bằng cách nào?
-
Rất đơn giản. Phát minh ra chiếc máy này mới phức tạp chứ sử dụng nó thì đơn
giản lắm. Giáo sư chỉ việc ngồi lên chiếc ghế trong đó. Máy ly tâm sẽ quay với
vận tốc cực lớn và đưa ông sang một thế giới khác, trong trường hợp này là một
mảng đời khác có thể xẩy ra với ông. Giáo sư không cần ra ngoài, điều ấy có thể
nguy hiểm, chỉ cần nhìn qua tấm kính nhỏ là đủ. Đừng sợ, không ai nhìn thấy ông
đâu, không đau đớn hoặc nguy hiểm chút nào. Chiếc ghế được thiết kế đặc biệt để
không bị tác động bởi vòng quay máy ly tâm. Mười lăm phút sau hoặc lâu hơn nếu
giáo sư muốn, nhưng tôi nghĩ chừng ấy là đủ, nó sẽ đưa ông trở lại trạng thái
bình thường như bây giờ. Lúc ấy chúng ta sẽ nói chuyện tiếp, nếu cần, tôi sẽ
giải thích thêm đôi điều. Thế nào, ta thử chứ?
Ông
Lộc bối rối nhìn ông già vẻ dò xét, nhưng không thấy dấu hiệu mờ ám nào ở con
người kỳ cục này. Ông khẽ gật đầu rồi chui vào chiếc tủ sắt, ngồi xuống chiếc
ghế xoay có lưng tựa và hai tay vịn. Ông hít thở sâu và từ từ nhắm mắt...
Có tiếng gì đó
bắt đầu xoay êm êm. Ông Lộc lặng người, cảm thấy mình bị đưa đi đâu đó rất xa,
chẳng hiểu xa về thời gian hay khoảng cách. Ông không dám mở mắt, và biết có mở
cũng chẳng thấy gì ngoài một màu tối đen. Cuối cùng là im lặng. Sự im lặng
tuyệt đối. Không chuyển động. Không một âm thanh nhỏ. Mãi lúc sau ông mới mở
mắt nhìn vào ô kính trước mặt nhưng chẳng thấy gì ngoài một mảng nhờ nhờ. Tuy
nhiên, nhìn kỹ, mảng nhờ nhờ ấy bắt đầu tan dần và ông nhìn thấy cảnh một gia
đình nghèo, chắc là nông dân vì có hai chiếc hái gặt lúa treo trên tường. Tường
nhà bằng phên tre trát bùn, nhiều chỗ đã thủng. Nhà tuềnh toàng và nghèo đến
mức khó tin. Mấy chiếc xoong bẩn vứt ngổn ngang đầy ruồi bâu. Cả nhà chỉ có một
chiếc giường gỗ tạp mòn sứt, bừa bộn chăn màn, quần áo cũ. Lẫn giữa đống giẻ ấy
là một đứa bé oặt ẹo, dị dạng, vì thế ông không biết bao nhiêu tuổi, có thể
mười mà cũng có thể ba mươi. Cái đầu to quá cỡ với đôi mắt đần độn vô hồn. Đôi
chân khoèo bé tí, chắc không đi được nên phải nằm trên giường. Nó chỉ có một
tay, thỉnh thoảng lại giơ lên bắt những con ruồi bạo dạn trước mặt rồi cho vào
mồm, không bắt được cũng cho vào mồm. Rồi nhai, vẻ ngon lành. Tiếp đến, bước
vào nhà là một ông già mặc quần đùi, chân đất, da đen nhẻm, đầu tóc bù xù bạc
trắng. Chắc ông ta vừa đi làm hay đâu đó về, nét mặt quàu quạu, đau khổ và
tuyệt vọng.
Ông Lộc giật
thót mình khi nhận ra con người ấy chính là ông. Ông dụi mắt không tin và nhìn
kỹ lần nữa. Đúng. Ông. Khác lắm, nhưng chính là ông. Con người ta có thể thay
đổi nhiều nhưng những nét chính vẫn nhận ra được, nhất là bản thân mình. Ông
già kia kêu to cái gì đấy nhưng ông Lộc không nghe rõ. Ngồi ở đây ông chỉ nhìn
chứ không nghe được. Liền sau đó, một ông già khác đi vào. Cũng có thể đó là
một người còn trẻ, cũng dị tật nên không thể biết tuổi. Người này cổ ngẹo một
bên, miệng méo sang bên khác, hai tay lành lặn nhưng một chân teo nên phải
chống nạng. Khuôn mặt mang đầy đủ dấu hiệu của sự chậm phát triển trí tuệ. “Con
mình đấy. Cả đứa nằm trên giường cũng con mình!” Ông Lộc ôm mặt không dám nhìn
tiếp. Khi ông mở mắt thì thấy hai phụ nữ, một trẻ một già, ăn mặc tươm tất và
hoàn toàn bình thường, đang vừa nói gì đó vừa lễ phép chìa ra một chiếc phong
bì. Ông kia đỡ lấy nó bằng cả hai tay, miệng mấp máy rối rít, vẻ cảm động lắm.
Đúng lúc ấy thì
ông Lộc lại nghe có tiếng máy ly tâm quay, rồi ông đang bay ngược trở lại. Bất
giác ông thở phào nhẹ nhỏm, muốn trở về với cuộc sống thật hiện tại của mình
càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, ông vẫn kịp nhìn thấy thằng bé-ông già con ông rút ra từ chiếc phong bì một tờ giấy bạc
năm mươi nghìn đồng còn mới. Mắt nó long lanh. Nó cười sung sướng. Một nụ cười
méo trên khuôn mặt đần độn. Còn ông, tức là ông già chân đất kia thì đứng cạnh,
không hiểu sao lại khóc...
*
-
Thưa giáo sư, ông thấy thế nào? Chắc ngạc nhiên lắm phải không? - Ông già bác
học hỏi với giọng thông cảm, nhưng nếu tinh, vẫn nhận thấy có chút diễu cợt
trong đó.
Ông
Lộc ngồi im, hai tay ôm mái đầu đã lốm đốm bạc. Ông ngồi như thế kể từ lúc trở
lại, mồ hôi vã đầy trán. Ông vẫn chưa hết bàng hoàng trước những gì mới tận mắt
chứng kiến.
-
Bây giờ giáo sư đang ở đây an toàn, chốc nữa sẽ lại có mặt trong căn biệt thự
cổ ở xóm Hạ Hồi với bà vợ xinh đẹp và những vật quen thân của mình. Thì tôi đã
nói trước rằng sẽ bị sốc chút ít. Tôi rất hiểu tình cảm giáo sư lúc này. Tôi
cũng biết giáo sư đang thắc mắc vì sao có thể như thế được. Đơn giản thôi mà.
Tất cả chỉ vì một sự cố ngẫu nhiên nhỏ, rất nhỏ. Có thể giáo sư còn nhớ, nhưng
tôi cứ nhắc lại. Cuối tháng Bảy năm 1967, chính xác là vào ngày 28, giáo sư,
lúc ấy mới tốt nghiệp phổ thông, nhận được giấy báo đi học nước ngoài. Tuy
nhiên, trước đó năm ngày, điều này chắc chắn giáo sư không biết, cậu Thịnh,
nhân viên bưu điện huyện Diễn Châu đã nhận từ Huyện Đội ba giấy gọi nhập ngũ
mang về xã Diễn Lộc, trong đấy có một giấy ghi tên giáo sư. Tiếc thay, cũng có
thể gọi may thay, đến Chợ Hôm cậu ấy bị một chiếc xe tải quệt phải, nhẹ thôi
nhưng phải nằm viện một tuần, khi đưa được giấy tới xã thì giáo sư đã ra tới Hà
Nội và đang chuẩn bị lên tàu liên vận đi Matxcơva. Cái ngã ba đường đời quan
trọng của giáo sư được bắt đầu từ Chợ Hôm, nơi cậu Thịnh ngẫu nhiên bị quẹt xe.
Vậy là thay cho ra chiến trường, giáo sư đi học nước ngoài và trở thành như
ngày nay. Giáo sư không phải băn khoăn điều ấy. Lương tâm giáo sư trong sạch.
Trước đó, như mọi học sinh khác trong lớp, giáo sư đã viết đơn tình nguyện ra
chiến trường. Tất cả đều do ngẫu nhiên. Những gì giáo sư vừa nhìn thấy là một
đường rẽ khác của cuộc đời, nếu không có cú quệt xe ngẫu nhiên kia. Bây giờ thì
chắc giáo sư dễ đoán những gì xẩy ra sau đó. Giáo sư đi bộ đội, vào Nam, bị
nhiễm chất độc màu da cam đâu đó chính giáo sư cũng không biết. Rồi hòa bình
trở về nhà làm anh nông dân, lấy vợ và sinh ra đứa con dị dạng. Hai vợ chồng
giáo sư đau buồn, năm năm sau cố đẻ thêm đứa nữa để bù đắp cho đứa kia. Không
ngờ đứa này còn dị dạng hơn. Vợ giáo sư quá đau buồn đổ bệnh rồi chết, chỉ
trách trời oan nghiệt chứ bà ấy, cả giáo sư nữa, lúc đó không có chút khái niệm
nào về hậu quả của thứ chất độc kia. Thời ấy người ta không nói đến nó nhiều
như bây giờ. Thành ra giáo sư phải một mình nuôi hai thằng con tật nguyền trong
cảnh đói nghèo và tuyệt vọng cùng cực về tinh thần. Vừa rồi giáo sư được tận
mắt chứng kiến điều ấy. Hôm nay ngẫu nhiên đúng ngày thương binh liệt sĩ nên
giáo sư mới thấy hai bà cán bộ xã kia đến thăm và cho tiền.
-
Bác biết trước như thế sao còn bắt tôi xem những cảnh đau lòng ấy? - Cuối cùng
ông Lộc lên tiếng nói, giọng yếu ớt.
-
Xin lỗi nếu tôi có làm giáo sư buồn, nhưng quả thực tôi đâu có bắt. Chính giáo
sư tò mò muốn biết đấy thôi. Mà tôi thì muốn chứng minh cho cái thuyết “ngẫu
nhiên” của tôi, như giáo sư từng nhiều lần hùng hồn chứng minh cho thuyết “nỗ
lực cá nhân” của mình.
-
Chắc bác muốn dạy tôi một bài học?
-
Ấy chết, đâu dám. Đúng như giáo sư vừa nói, đó là những cảnh thật đau lòng.
Biết bao con người ở đất nước này đang phải chịu cái đau ấy, không phải một
ngày, một tháng mà nhiều năm ròng, suốt đời. Cả xã hội, trong đó có giáo sư và
tôi đều thông cảm với họ, thương họ, quyên góp tiền giúp họ. Oái oăm thay, cái
đau ấy có thể rơi vào bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào và không một “nỗ lực cá nhân”
nào có thể giúp né tránh, vì đơn giản đó là kết quả của trò chơi ngẫu nhiên.
Lâm vào hoàn cảnh ấy, tôi nghĩ, chắc chúng ta sẽ có một cái nhìn khác, chân
thành và ưu ái hơn với đồng loại.
-
Bác là phù thuỷ?
Không
có tiếng đáp. Khi ông Lộc ngước lên nhìn thì không thấy ông kia đâu nữa. Không
thấy cả chiếc tủ sắt đáng sợ.
*
Nghe
nói sau đó, giáo sư Lộc, con người may mắn và thành đạt ấy, đã ốm nặng phải nằm
viện một tháng mới khỏi. Ông bỏ thói quen uống bia vào các chiều chủ nhật, bỏ
cả thói quen đi bộ, và dường như ông quan tâm tới các sách triết lý cổ nhiều
hơn việc làm sao được ngồi vào chiếc ghế hiệu trưởng suốt đời ông mong ước.
Hà Nội, 2002
No comments:
Post a Comment