NGUYỄN TRUNG NGẠN
Tác giả:
Sinh năm 1289, mất 1370, tự Bang Trực, hiệu Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng,
huyện Ân Thi, tỉnh Hải Dương; đậu Hoàng Giáp năm 1314, làm quan đến chức Đại
học sĩ trụ quốc khai huyện bá. Từng đi sứ nhà Nguyên.
Trên sông Tương 1) tiễn biệt
Chia tay, nâng chén rượu bên đình.
Bác lên ngựa quí, vội phi nhanh.
Tôi trở lại thuyền ngồi lặng lẽ.
Màu trời hòa lẫn màu sông xanh.
(1) Mét con s«ng ë
Trung Quèc, bµi nµy t¸c gi¶ viÕt khi ®i sø.
Muốn về nhà
Tằm đang lên kén, lá dâu già.
Cua đồng đã béo, lúa đâm hoa.
Giang Nam đất khách giàu, vui thật,
Vẫn mong nhanh chóng trở về nhà
Đêm đỗ thuyền ở bến Lăng
Thành
Người ở trên thuyền, trăng dưới sông.
Động Đình thu hứng trải mênh mông.
Chẳng quản đường dài, đêm đang ngủ,
Hồn trở về nhà theo gió đông.
ĐỖ CẬN
Tác giả:
Sinh 1433, năm mất không rõ, tự Hữu Khác, người Phổ Yên, Thái Nguyên, đỗ tiến
sĩ năm 1478 đời Lê Thánh Tông. Bài này ông làm khi đi sứ nhà Minh.
Chiều tối, đậu thuyền ở bến
Thái Thạch 1)
Lý Bạch rời trần lên cõi tiên.
Khách xa gối lẻ thức bên đèn.
Phong vị người xưa còn phảng phất.
Vò rượu làm tan nỗi cảm phiền.
(1) BÕn nưíc ë bªn nói Ch©u Ngư trªn s«ng Trưêng Giang, n¬i nghe ®ån Lý B¹ch ngåi
uèng rưîu ng¾m tr¨ng, say ngã xuèng s«ng chÕt ®uèi. Ch÷
"k×nh" trong nguyªn b¶n lµ chØ Lý B¹ch. ¤ng cßn cã biÖt hiÖu
"H¶i thưîng kþ k×nh
kh¸ch". Tư¬ng truyÒn «ng ®ã ®ưîc mét con c¸ k×nh ®ưa lªn trêi.
HOÀNG ĐỨC LƯƠNG
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, người làng Ngọ Kiều, Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay là
nội thành Hà Nội, làm quan đến chức Tham nghị, từng đi sứ Trung Quốc. Ông có
công sưu tập thơ từ đời Trần đến đời Lê.
Suy nghĩ trên đường
Người đời đi bất tận,
Không kết thúc, bắt đầu.
Người nay đi chưa nghỉ.
Người xưa đang ở đâu?
Cảnh nông thôn
Tằm đang ngủ trên nong.
Mái nhà én làm tổ.
Lão nông mệt, ngừng cày.
Tu hú kêu chính ngọ.
PHÙ THÚC HOÀNH
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, người làng Phú Xá, huyện Kim Hoa, nay thuộc Sóc
Sơn, Hà Nội. Ông có học vấn uyên thâm nhưng không đi thi, được làm Hàn lâm học
sĩ, dạy Kinh Dịch ở Quốc Tử Giám.
Đi trên đường núi
Mưa tạnh, núi xanh biếc.
Suối trong, cây lòa xòa.
Cầu gãy, rừng vắng vẻ.
Thỉnh thoảng có tiếng gà.
Ý xưa
Lá sen như chiếc lọng.
Hoa hồng như mặt người.
Nhớ chàng, chưa được gặp.
Đi dạo, lòng rối bời.
PHÙNG KHẮC KHOAN
Tác giả:
Sinh năm 1528, mất 1613, tự Hoằng Phu, hiệu Nghị Toai, người huyện Thạch Thất,
tỉnh Hà Tây; đậu Hoàng Giáp năm 1580, đi sứ Trung Quốc năm 1597. Trong thời
gian đi sứ sáng tác nhiều thơ, xướng hoạ và ứng đối rất giỏi, được các sứ thần
nước ngoài thán phục. Làm quan đến chức Hộ bộ thượng thư, tước Mai Quận công.
Viết trả lời người mang rượu
đến xin thơ
Còn hơn cả rượu, hứng thơ say.
Ngang vò rượu quý bài thơ này,
Thơ đã làm xong, rượu uống hết.
Trùm thơ, trùm rượu là ta đây!
Ở công quán, làm thơ tức sự
Đêm về bầy quạ lượn bay quanh.
Sáo ai não ruột thổi đầu thành.
Trời Nam ngong ngóng, tìm Nam Đẩu, 1)
Nhớ nhà, trằn trọc suốt năm canh.
(1) Tªn mét chßm sao
s¸u ng«i phÝa Nam, ë ®©y chØ vua nưíc Nam. Bµi nµy viÕt khi t¸c gi¶ ®i sø sang Trung Quèc.
Qua rừng lim
Rừng lim cao khỏe, đỡ chống trời,
Cứng cỏi, coi thường sương tuyết rơi.
Giữa lúc nước nhà cần trụ cột,
Sao ở nơi sâu, xa lánh đời?
Thơ tức sự ở công quán
Tuổi già, đi sứ đến Yên Kinh. 1)
Đế đô cảnh vật thật thanh bình.
Gió thổi qua cây như tiếng suối.
Trong vườn, xuyên lá, nắng lung linh.
(1) Tøc B¾c Kinh ngµy
nay.
Thơ tức sự ở công quán
Bầy quạ bay quanh ngọn liễu già.
Sáo Lỗ ai người thổi xót xa.
Ngoái nhìn Thiên Tân 1), tìm Nam Đẩu,
Không ngủ suốt đêm bởi nhớ nhà.
(1) Mét tØnh ë phÝa B¾c
Trung Quèc.
Bến Bành Thành
Viết ở sông Tuy Thủy, huyện Bành Thành, Từ
Châu, vốn là chỗ đóng đô của Hạng Vũ, có đài Hý Mã và đền Bành Tử.
Hý Mã đài xưa dấu vẫn còn.
Nhà khách bên đường, rặng liễu non.
Tuy Thủy, Bành Thành nguyên như cũ,
Công danh Hán Sở đã phai mòn.
Tự thuật
Viết năm Quý mão (1543), lúc 16 tuổi.
Tự biết mình non, tuổi học hành,
Đêm ngày phải học để thành danh.
Quý nhất trong nhà là quyển sách.
Chiếc cày là bút vẽ nên tranh.
Sự nghiệp phải đi đường ngay thẳng.
Làm người phải biết trọng thanh danh.
Làm con trước hết thờ cha mẹ,
Rồi sau mới nghĩ chuyện tung hoành.
Ngày đầu xuân
Viết năm Mậu Thân, lúc 21 tuổi.
Vua mới ban cho lịch Mậu Thân.
Vậy là lần nữa lại mùa xuân.
Lộc nhú, hoa tươi, gì cũng mới.
Lá biếc, non xanh, mây trắng ngần.
Năm mới, mọi người thay cái cũ.
Đất trời vạn vật rất quen thân.
Xuân đến, điều lành mong sẽ đến.
Cần chi cắt lụa giống đời Tần 1).
(1) Tôc lÊy lôa ®em c¾t
®Ó trang hoµng nhµ cöa lóc ®ãn xu©n ®êi nhµ TÇn, Trung Quèc.
Nguyên đán
Viết
năm Bính Thìn, lúc 29 tuổi.
Xuân đi, xuân đến tự xoay vần.
Lòng người háo hức với mùa xuân.
Núi sông cảnh đẹp như tranh vẽ.
Cỏ cây thay sắc đã bao lần.
Say đất, say trời, ta uống rượu.
Ngồi nhàn quán trọ viết thơ văn.
Cưỡi ngựa ngắm hoa là thú thích,
Hơn nhiều gà chọi ở Tràng An.
Từ xa gửi cho bạn
Từ khi xa bác đến bây giờ,
Chẳng viết thư nhiều, chỉ viết thơ.
Muốn bẻ cành mai 1), mai chửa mọc,
Bạn bè gặp mặt chỉ trong mơ.
Giang sơn xa cách tuy nghìn dặm,
Tấm lòng trung nghĩa chẳng thờ ơ.
Tài lớn cần dùng vào việc lớn.
Kẻ sĩ sao cam mãi đợi chờ?
(1) Ngµy xưa ë Trung Quèc ngưêi ta thưêng bÎ cµnh mai ®Ó tÆng lóc chia tay,
hoÆc tá lßng thư¬ng nhí nhau.
Đêm ba mươi tết
Đêm ba mươi tết, thức làm thơ.
Không ngủ suốt đêm, cứ thẫn thờ.
Trong thành đây đó đèn thắp sáng.
Ngoài ngõ nơi nơi rợp bóng cờ.
Nửa đêm khí lạnh còn chưa hết.
Canh ba trời bỗng ấm bất ngờ.
Mai nở bên thềm như báo lịch.
Quả rằng Thiệu Tử giỏi thiên cơ 1).
(1) Tøc ThiÖu Khang
TiÕt, mét ng¬ưêi th«ng minh næi tiÕng
®êi Tèng, viÕt cuèn "Hoa mai dÞch sè" ®o¸n vÒ sù biÕn ®æi cña vËn sè.
Đêm thu hoài cảm
Bài
một
Đồng hồ chảy chậm, mới canh ba.
Nỗi lòng ai hiểu thấu cho ta.
Đầu tháng thuyền trăng treo trước cửa.
Cuối năm gió lạnh thổi sau nhà.
Lo nghĩ giúp đời không ngủ được,
Hết ngồi đọc sách lại nhìn hoa.
Cái chí làm trai lo việc lớn,
Chứ đâu vui thú với đàn bà.
Đêm thu hoài cảm
Bài
hai
Lòng lo trăm mối cả ban ngày,
Huống gì đêm vắng giống đêm nay.
Lo hết sự đời, dân với nước,
Lo tình phụ mẫu báo sao đây.
Ôm gối Ôn Công 1) lo học tập,
Trong đầu chao nhẹ cánh chim bay.
Cái chí làm trai luôn vẫn vậy,
Phải lo gây nghiệp lớn sau này.
(1) Tøc Tư¬ng Mã Quang, cã chiÕc gèi trßn ®ªm dïng ®Ó gèi ®Çu, nÕu ngñ quªn, gèi
l¨n ®i ®Ó ®¸nh thøc dËy tiÕp tôc häc.
Đêm thu hoài cảm
Bài
ba
Gặp hứng, bất ngờ một ý văn
Lớn lên, theo bút cứ tuôn dần.
Đọc sách thấy người xưa xuất hiện.
Ngồi ngắm trăng tàn, nhớ bạn thân.
Sách mở mà rồi toan gập lại.
Duỗi chân, ngại rét, lại co chân.
Giá có được tài như tạo hóa,
Xua hết mùa đông để đón xuân.
Leo núi buổi sớm
Sáng sớm vào rừng leo núi chơi.
Bình minh nhuốm đỏ phía chân trời.
Lau lách xếp hàng, đầu khẽ cúi.
Hoa nở, chim ca đợi đón người.
Cây cỏ thân quen như bạn cũ.
Mây gió gợi tình, phút thảnh thơi.
Nào quản hang sâu, khe đá hiểm,
Ta quyết leo cao, đứng giữa trời.
Nghe sáo thổi giữa hoàng hôn
Nắng chiều nhuốm đỏ núi, chim bay.
Bất ngờ nghe sáo thổi đâu đây.
Du dương trong gió, khoan rồi nhặt,
Thổi "Lạc mai hoa" báo hết ngày.
Tiếng sáo làm vui lòng tráng sĩ,
Xua tan cái mệt của dân cày.
Nếu sáo đủ tài lui được giặc,
Chắc rằng vua sẽ thưởng cho ngay.
Sáng sớm qua Tây Đô 1)
Đô thành, trời rạng, sáng xa xa.
Cảm hứng dạt dào khi ghé qua.
Tường đá rêu xanh luôn ẩm mốc.
Lung linh suối nước, liễu la đà.
Năm tháng trôi đi, còn vết cũ.
Cảm hứng non sông vẫn mặn mà.
Cha con họ Hồ giờ không thấy,
Chỉ thấy gió vờn trên mặt ta.
(1) §« thµnh do Hå Quý
Ly x©y dùng, ë An T«n, VÜnh Léc, Thanh Hóa.
Tự thuật
Thẹn mình tài đức chẳng bằng ai,
Mà lộc cha ông cứ hưởng hoài.
Đầy hòm sách quí, hơn vàng bạc.
Ba đời đạo sáng, chẳng mờ phai.
Vận nước hết suy rồi lại thịnh.
Đời người giờ khổ, sướng ngày mai.
Xưa nay vẫn thế - người có học.
Làm nên khanh tướng, bậc hiền tài.
Thương đời loạn
Đời dẫu đổi thay, nhưng Đạo không.
Thịnh suy, suy thịnh, cứ xoay vòng.
Chợ họp rồi tan, đâu họp mãi.
Hết kỳ xuân hạ, đến thu đông.
Kẻ ác vô vàn, không giết hết.
Người ngay ôm hận để trong lòng.
Nhưng bậc thánh nhân còn trở lại,
Giúp Đời hưng thịnh, Đạo thành công.
Khuyên người đi học
Chăm lo việc học phải do mình.
Trời không can dự việc nho kinh.
Người giỏi, dạy con thường đã khó,
Dễ gì đọc sách lúc đao binh.
Học rộng, lòng thông như suối chảy.
Cái tham tự bớt, sống yên bình.
Khi ít đam mê, lòng sẽ nhẹ,
Cần gì bổng lộc với quang vinh?
Hiếu
Hiếu là đạo lớn khắp gần xa,
Trăm điều đức hạnh đó mà ra.
Cái đạo làm con là báo hiếu,
Phụng dưỡng, tôn thờ bậc mẹ cha.
Chu Công, Ngưu Thuấn là gương tốt.
Đại hiếu, đại trung, nước lẫn nhà.
Còn ta, thật tiếc dù tâm niệm,
Chưa thể làm tròn đạo của ta.
Đi qua chỗ nước xiết ở Quảng
Bình 1)
Vâng mệnh nhà vua đi việc công,
Gặp nơi nước xiết chẳng sờn lòng.
Muôn dặm đường xa không ngại khổ.
Trèo đèo vượt suối cứ như không.
Gánh vác trên vai là việc nước.
Treo đầu ngọn bút núi và sông.
Khi nước thái bình, mong hậu thế,
Lưu lại công danh được mấy dòng.
Ở nhà trọ gặp mưa, chờ tạnh
Định lên đường sớm, lúc tinh mơ,
Bỗng đâu mưa lớn, phải ngồi chờ.
Mưa tạnh, trong rừng chim líu ríu.
Ngoài đồng bò gặm cỏ non tơ.
Mây vương đầu núi, trời trong vắt.
Chân ngựa quen đường, bước nhởn nhơ.
Trời sáng thế này, điềm tốt đẹp,
Báo thời Nho thịnh, phát văn thơ.
Năm mới
Được mất ở đời, đều tại thiên.
Nuôi dưỡng lúc nhàn khí hạo nhiên.
Ngâm vịnh khác xưa, năm mới đến.
Bất ngờ mai nở trắng ngoài hiên.
Hương hỏa ba sinh duyên kiếp trước
Muôn quyển Thi Thư, ấy bạn hiền.
Mừng thời vận tốt, mừng năm mới,
Thêm một tuổi xuân, một tuổi tiên.
Tháng Ba
Bốn mùa thay đổi, đến rồi qua,
Nhưng đẹp hơn nhiều là tháng Ba.
Mưa rụng hoa vàng, hồng hạnh đỏ.
Liễu xanh, huệ nở trắng sau nhà.
Dưới chân đàn Vũ 1) lòng thư thái.
Trước đình Tu Hệ 2), lễ bày ra.
Cây xanh đổ bóng, trưa râm mát.
Ve sầu bất chợt khúc ngân nga.
(1) §µn Vò ®ưîc lËp ®Ó cÇu mưa. T¨ng §iÒm, häc trß Khæng Tö, tõng
nãi «ng muèn thanh nhµn, cuèi xu©n (th¸ng Ba) ®i t¾m ë s«ng Nghi vµ lªn hãng
m¸t ë ®µn Vò.
2) Tu HÖ, lÔ cuèi th¸ng
Ba nh»m trõ yªu tµ vµ ®iÒm xÊu.
Cây chuối
Mọc trên đất tốt sát bờ hiên,
Hàng chuối thật yêu và thật hiền.
Như châu lộp độp, mưa trên lá.
Đung đưa cánh quạt, xóa ưu phiền.
Công danh, bổng lộc không tơ tưởng,
Nuôi chí trong lòng, đức với duyên.
Lại thấm ân trời và lộc đất,
Hàng đàn con cháu cứ vươn lên.
Tự xướng, tự họa
Kinh Thi chưa kịp đọc nhiều lần,
Đi sứ bất tài, thật khó khăn.
Nhưng được vua giao, dù tuổi tác,
Lên đường, không gợn chút băn khoăn.
Thành đô ngoái lại nhìn lưu luyến,
Thẹn mình chưa hiểu hết thơ văn.
Cố đem trung nghĩa làm nên việc,
Để có hòa bình, đỡ khổ dân.
Đêm đông ở công quán
Thu qua, đông đến, luật xoay vòng.
Đêm vắng lầu cao chợt chạnh lòng.
Tình nghĩa, dẫu xa, trăng vẫn dọi.
Chuông chùa làm tỉnh mộng đêm đông.
Phương Bắc tuyết tan, xuân sắp đến.
Trời Nam mây trắng ngoái về trông.
Ân vua như biển chưa đền đáp,
Thầm hô "vạn tuế" tỏ lòng trung.
Qua hồ Bà Dương 1)
Lư Sơn trùng điệp, núi nhấp nhô.
Bá Dương hồ rộng, sóng lô xô.
Trời nước mênh mông trong nắng nhạt.
Soi bóng hoa sen, những chiếc đò.
Họ Lã 2) qua đây trên cánh hạc.
Ông già họ Phạm 3) mái chèo to.
Ai lòng nông cạn, nhìn không rộng,
Không biết say mê cảnh núi hồ.
(1) Hå ë huyÖn Hå KhÈn,
tØnh Giang T©y, Trung Quèc.
(2) ChØ Lã §éng T©n ngưêi ®êi §ưêng, tu tiªn ®¾c ®¹o thưêng cưìi h¹c ®i ch¬i c¸c hå lín.
(3) ChØ Ph¹m Lãi, ngư¬êi ®ã gióp ViÖt Vư¬ng C©u TiÔn diÖt nhµ Ng«.
Xong viÖc, «ng tõ quan, chÌo thuyÒn ®i chu du Ngò Hå.
Mừng năm Bính Tuất
Vâng chiếu nhà vua đi sứ xa.
Nay đúng mùa xuân, trở lại nhà.
Theo gót anh tài đi đây đó,
Mở mày, mở mặt với người ta.
Mới biết mùa đông, tùng khí phách,
Và mai đẹp nhất các loài hoa.
Nay việc đã xong, chào thiên tử,
Ta lại trở về nước Nam ta.
NGUYỄN TIẾN SÁCH
Tác giả:
Sinh 1638, mất không rõ năm nào, người huyện Bạch Hạc, Phú Thọ, đỗ tiến sĩ năm
1670. Làm phó sứ trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1690; hai bài thơ này làm
trong thời gian ấy.
Đi trong cảnh tuyết rơi ở An
Túc
Ngựa đi, kiếm vỗ, tiếng lanh canh.
Tuyết rơi, cảnh đẹp tựa trong tranh.
Bốn phía là đồng, như sóng biển.
Xa xa núi xõa mái đầu xanh.
Tức sự ngày lập xuân
Vất vả bao ngày cảnh gió sương.
Bất chợt đón xuân, vui dọc đường.
Nhớ ơn đức vua và cha mẹ,
Cúi đầu quỳ lạy, vái quê hương.
KHUYẾT DANH
Cảnh Tây Hồ 1)
Một khóm dương vàng, mấy khóm hoa.
Trong quán người say, trẻ lẫn già.
Đất Việt cái vui không giống vậy -
Xuân về khắp chốn rộn lời ca.
(1) Theo Lª Quý §«n
trong "KiÕn v¨n tiÓu lôc" th× ®©y lµ bµi th¬ cña mét sø thÇn Giao ChØ
lµm khi tíi T©y Hå. Cã ng¬ưêi xÕp bµi th¬ nµy vµo thêi TrÇn.
LÊ QUANG VIÊN
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, bài thơ này được viết khi đi sứ sang triều Thanh
năm 1773. Tác phẩm: "Hoa trình ngẫu bút lục".
Cảm nghĩ trên sông Tây Ninh
Châu Thành thuyền ghé bến ban trưa.
Đối diện lầu cao, buồn bâng quơ.
Tổ quốc thì xa, đường heo hút,
Đã thế ban đêm trời lại mưa.
ĐOÀN NGUYỄN TUẤN
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, hiệu Hải Ông, người làng Hải An, nay thuộc huyện
Quỳnh Phụ, Thái Bình; làm quan thời Tây Sơn. Sau chiến thắng Đống Đa 1789, ông
được cử đi sứ Trung Quốc. Hai bài thơ này của ông viết trong thời gian ấy. Tác
phẩm: "Hải Ông thi tập".
Lá thu
Cây lá, thu về, gặp gió sương,
Héo khô, rơi xuống sát bên giường.
Đất Nam khác hẳn, mùa thu đến
Vạn vật xanh rờn, vẫn ngát hương,
Phòng thu
Gió thu níu áo, nước đang đông.
Cô đơn, lạnh lẽo chốn khuê phòng.
Chữ gấm dệt xong 1), tin cá vắng 2)
Đêm bói đèn hoa, đỡ nhớ chồng.
(1) Ch÷ gÊm: nh¾c
chuyÖn nµng T« HuÖ, dÖt th¬ trªn gÊm råi d©ng vua xin cho chång ®i thó n¬i xa ®ưîc vÒ.
(2) Mưîn ch÷ trong cæ thi: Hå ®ång phanh lý
ưng, trung h÷u xÝch tè
thư, (B¶o trÎ mæ c¸ chÐp,
trong cã bøc thư dµi) - c¶ c©u nµy ý
nãi ngưêi vî mong nhí chång.
NGÔ THÌ NHẬM
Tác giả:
Sinh năm 1746 trong một gia đình đại quý tộc ở Thăng Long, mất 1803; từng giữ
nhiều chức vụ quan trọng trong triều Trịnh - Nguyễn, về sau theo và trở thành người
trợ lực chính của vua Quang Trung. Tác phẩm: hơn 600 bài thơ và 15 tác phẩm
khác.
Bốn bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài một
Chức Nữ, Ngưu Lang không nhỏ lệ,
Chỉ màng nước mỏng nhẹ như không.
Ra trời cũng hiểu buồn ly biệt,
Không bắt phòng khuê vợ nhớ chồng.
Bốn bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài hai
Sau mưa, màu núi lại càng xanh.
Líu ríu chim kêu, rộn lá cành.
Nhìn chim bay nhảy sao mà nhẹ,
Thẹn lòng còn nặng những hư danh.
Bốn bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài bốn
Non xanh nước biếc, lại non xanh.
Thăm thẳm trời thu, ngọn gió lành.
Người ở Giang Nam, lòng đất Bắc,
Thả hồn theo gió với chim oanh.
Lên thuyền
Cảnh đời thay đổi cứ trôi qua.
Nhìn Yên, nhớ Việt 1)những xót xa.
Trường Giang mây phủ, buồn man mác.
Một mái chèo xua nỗi nhớ nhà.
(1) Yªn - Yªn Kinh, chØ
Trung Quèc, ViÖt - ViÖt Nam
Cuối xuân
Hoa nở bên hang, nhụy trắng ngần.
Gió chiều, ai dạo khúc Nam Huân.
Xuân hết, nhiều loài hoa vẫn đẹp,
Vẫn thầm ấp ủ những mầm xuân.
Nước mùa thu
Sau mưa, trời nước sáng long lanh.
Cảnh này thật khó vẽ nên tranh.
Vất vả bao năm buồn trắng tóc,
Mấy lần thả bộ ngắm non xanh?
Hoa cúc mùa thu
So với muôn loài, cúc khác xa,
Trang điểm mùa thu giữa nắng tà.
Ngày này năm ngoái bên hoa cúc
Uống rượu một mình, nhắm cánh hoa.
Đêm thu
Đêm thu rét ngọt, gió se se.
Sương buông, trăng sáng chếch bên hè.
Lạnh lẽo tiếng chuông phòng quán trọ.
Người buồn, bận nghĩ, chắc không nghe.
Tiếng đập vải mùa thu
Tiếng chày đập vải lách qua sương,
Vang vọng kinh đô, khắp phố phường.
Chắc chẳng đến tai người lính thú,
Chỉ làm khách sứ 1) nhớ quê hương.
(1) Ng« Th× NhËm ®i sø
phư¬ng B¾c, ®ang n»m ë
qu¸n kh¸ch dµnh cho sø thÇn ë B¾c Kinh.
Trăng thu
Bên song, uống rượu, ngắm hoàng hôn.
Lung linh dưới nước mặt trăng tròn.
Định lên cầu đá Lư Câu dạo,
Lầu bên sáo vọng, khiến bồn chồn.
Phòng khuê mùa thu
Lạnh lẽo phòng thu, tình khó quên.
Tự tô phấn nhạt, tự làm duyên.
Bao năm mong ngóng chồng chinh chiến,
Đêm đêm lặng lẽ bói hoa đèn.
Cuối thu, vào chùa tham thiền 1)
Tính đốt, xa nhà đã mấy niên.
Nay đến chùa làng ngồi tĩnh yên.
Cánh vàng hoa cúc vừa bung nở.
Lá bối 2) lần xem, thấy vi thiền.
Nam Kha 3) giấc mộng đời bươn chải.
Trúc Lâu 4) mơ ước cũ còn nguyên.
Chùa thiêng tĩnh lặng, lòng thanh thản.
Sau chùa, ao nhỏ thoảng mùi sen.
1). Vào chù ngồi tĩnh tại để tham cứu chân lý.
Nhà chùa gọi là “tham thiền nhập định”
2). Lá cây bối-đa-đa ở Ấn Độ, dùng để viết
kinh Phật.
3). Điển tích nổi tiếng trong văn học cổ Trung
Quốc, nói về sự chóng vánh, bèo bọt của cuộc đời.
4). Ý nói nhân duyên với Phật.
Bày tỏ nỗi lòng
Như chim thảng thốt vút lên không.
Như cá ngu ngơ lội giữa dòng.
Ngày đếm thuyền câu trên bến cảng.
Đêm cùng con trẻ ngắm trăng trong.
Tàu chuối mưa rơi, buồn đất khách.
Gió động cành dương, tỉnh giấc nồng.
Mừng có giỏ cua ngon nhắm rượu.
Áo cộc trên người như lão nông.
Thăm thư đường Vân Động
Vân Động xa xa, nhẹ cánh thuyền.
Gió mát lòng người, thuyền lướt lên.
Xóm nhỏ ven sông, cây đưa đón.
Bến bồi chim nhạn lượn hai bên.
Sáu bảy ông say qua cầu gỗ.
Dăm ba trẻ nhỏ thổi sáo, kèn.
Thư đường liễu phủ, về Chu, Khổng 1),
Các vị túc nho luận trước đèn.
1). Chu Công và Khổng Tử.
Đi dạo dưới nắng quanh ngôi
chùa bên sông
Mùa thu cúc nở, trời xanh trong.
Đi dạo quanh chùa bên mép sông.
Nắng nhạt ban mai, đường sạch sẽ.
Gác thượng, lầu chuông dọi bóng hồng.
Phiêu bat mấy năm, giờ thanh thản
Với vị cao tăng giải nỗi lòng.
Mải chuốt vần thơ, quên đóng cửa.
Vái chào cung kính, biệt sư ông.
Qua hai làng Mỗ, hoài cổ
Tiểu dẫn
của tác giả: Vũ Đế nhà Hán đặt tên quận này là Từ Liêm, đến đời Ngô, Tấn đổi
thành Ô Diên, ở địa phận hai xã Tây Mỗ và Thiên Mỗ ngày nay 1). Triệu Việt
vương Quang Phục giữ thành này, chống nhau với Dương Sán, tướng của Trần Bá
Tiên, sau chiếm được thành, xưng vương được 30 năm. Lý Nam Đế chiếm cứ thượng
lưu sông Thao, sai con là Nhã Lang lấy con gái Quang Phục là Ngốc Nương làm vợ,
lấy vùng thượng hạ Cát làm ranh giới. Sau đó Lý Nam Đế chiếm cả đất của Triệu
Quang Phục, giữ thành Ô Diên được 40 năm. Triệu Quang Phục chạy vào cửa biển
Nghệ An, đâm đầu xuống nước tự tử. Ngốc Nương oán Nhã Lang, thắt cổ chết trong
thành. Nhã Lang thương xót Ngốc Nương, chết theo vợ, chôn ở cánh đồng làng
Thiên Mỗ, nay chỗ có bia đá, đó là di trủng, đời trước có đền thờ Nhã Lang, nay
không còn, dân làng tương truyền gọi là bia mộ Phục Vương; lại còn ngoa truyền
rằng ban đêm nghe có tiếng đàn. Bia đã mòn hết chữ, nay không còn tra khảo
được.2)
Thành cũ Ô Diên nay chẳng thấy.
Bia phủ rêu xanh, cỏ lấp đường.
Nghẹn ngào khe nước, hồn Quang Phục.
Mưa gió dập vùi mộ Ngốc Nương.
Thế cuộc đổi thay theo cảnh vật.
Lang quê cấy, dệt vẫn bình thường.
Lão nông, không biết trò hưng phế,
Nói vẫn thường nghe đàn Phục vương.
1). Tức là vùng Đại Mỗ, Hà Nội ngày nay.
2). Theo bản dịch nghĩa trong Tuyển tập Thơ Văn Ngô Thì Nhậm, quyển
1, NXB Khoa Hoc Xã Hội, Hà Nội, 1978.
Thăm miếu Chu Văn Trinh 1),
cảm hoài
Miếu cổ, gò cao, đầm nước đầy.
Quang cảnh hữu tình, chẳng đổi thay.
Nhà dân thanh đạm, vườn, ao cá.
Thế cuộc thăng trầm, chim bướm bay.
Dũng cảm “mang gươm” 2), đầy khí tiết.
Nhẹ nhàng “treo mũ”, tấm lòng ngay.
Cửa tía, rêu xanh, ngôi miếu cổ,
Liễu phủ hai bên, mát cả ngày.
1). Tức Chu Văn An, lúc chết được phong tên
thụy là Văn Trinh.
2). Chỉ việc Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy
nịnh thần.
3). Chỉ việc ông can vua không nghe, xin treo
mũ từ quan về quê ở ẩn.
Họa thơ với dật sĩ Phạm Thì
Thấu
Khách đến rượu không, tiền cũng không.
Lấy nước gì đây làm say lòng?
Nhà cửa trống trơn nên sáng sủa.
Thanh đạm tâm hồn như suối trong.
Khách say đâu cứ cần mâm cỗ.
Gặp suông, tri kỷ cũng tương đồng.
Càng nghèo, thật lạ, thơ càng hứng.
Dũa ý, gọt thơ, dòng lại dòng.
Buổi chiều, trên lầu Ngũ Vân,
nhìn ra xa
Lòng người tươi sáng giống thiên nhiên.
Xế chiều, hoa đổ bóng hàng hiên.
Cung vương đứng lặng trong mây núi.
Chùa Phật như trôi giữa khói thiền.
Nhao nhác chim bay quanh lũy cũ.
Khe rừng liễu rủ, đứng hai bên.
Tây Bắc thành đô, nhìn chợt thấy
Khí tốt núi Nùng đang bốc lên.
Đình trên núi
Sừng sững trên cao một mái đình.
Giữa trời sáng sớm nắng lung linh.
Muôn vẻ cỏ hoa như dệt gấm.
Bốn mùa gió thổi, thật đa tình.
Mây núi vờn bay ngay sát cửa.
Trước thềm hoa hé nụ xinh xinh.
Du khách tới đây, nhìn ngây ngất.
Phong cảnh nên thơ lại hữu tình.
Đi đường núi
Đường núi quanh co, thêm gió lạnh.
Nơi nào phong cảnh cũng nên thơ.
Hoa rừng lặng lẽ khoe muôn sắc.
Chim hót trên cây, thật bất ngờ.
Mưa sáng, suối đầy, thêm róc rách.
Chiều mây che núi, núi xanh mờ.
Dân chúng ven đường luôn hiếu khách,
Háo hức chạy ra xem lọng, cờ.
Nhàn rỗi, làm thơ bày tỏ lòng
mình
Quán trọ ngồi không, cửa khép hờ,
Giũa, gò tiêu khiển mấy bài thơ.
Tin tức quê nhà thư đã viết.
Đường đời, bói cỏ, đoán thời cơ.
Cửa hầu sâu thẳm, không ai đến.
Lạnh lẽo nhà quan, khách hững hờ.
Tóc nhiều sợ bạc như mai trắng.
Về quê những muốn, liệu bao giờ?
Họa thơ quan thái sử Thử Đình
Hầu
Suy di tính lại mãi bên đèn.
Nghèo đói, nhà nho chí phải bền.
Cuộc sống vui buồn luôn lẫn lộn.
Muốn giàu, danh lợi phải bon chen.
Biết đủ, biết vừa là tốt nhất.
Dẫu chuyện thế nào, tâm phải yên.
Tôi bác quen nhau, tình gắn bó.
Biển loạn, cùng chung một chiếc thuyền.
Tức cảnh
Bài hai
Mờ mờ doi cát, xóm ven sông.
Đá xếp chênh vênh, nước một dòng.
Gác lầu thành dãy trầm ngâm đứng.
Cây cỏ đua nhau mọc kín đồng.
Chim hót mùa xuân thay tiếng nhạc.
Ráng đỏ hoàng hôn làm nến hồng.
Hướng tới nhà tiên nơi mây trắng,
Đời tục ra sao chẳng bận lòng.
Tức cảnh
Bài ba
Thế giới bao la có chỗ này,
Một màu trăng trắng lẫn màu mây.
Dãy núi nhấp nhô xen rừng rậm.
Lòa xòa bến nước mấy hàng cây.
Bên xóm hoa đào, thuyền kéo lưới,
Gió vờn rặng liễu, cánh chim bay.
Mong rũ bụi trần, không nuối tiếc,
Chút đời còn lại sống nơi đây.
Ngắm cảnh trời nước buổi
chiều
Bát ngát sen xanh, sóng bập bồng.
Trùng điệp núi rừng ngút mắt trông.
Vệt nắng ngang đồi đang lụi tắt.
Nước trời hòa một, sắc xanh trong.
Văng vẳng sáo chài đâu đó thổi.
Khói mờ trăng nhú xóm ven sông.
Ngắm cảnh trời chiều, thơ chợt hứng.
Mờ ảo đằng tây nửa ráng hồng.
Chiều tối chơi thuyền trên
sông Nhuệ
Cuộc dạo lần này thật khác xa.
Trời thu, nước lặng, cảnh chiều tà.
Sao thưa mấy chấm, thuyền đơn độc.
Dòng sông như lụa, trải bao la.
Trên cây cổ thụ còn vương nắng,
Ánh lửa bên sông đã lập lòa.
Lâu đài "Bất Dạ" 1) tìm không thấy.
"Linh đài" 2) đức độ sáng trong ta.
(1) BÊt D¹ - kh«ng cã
®ªm, tøc lµ ban ®ªm còng s¸ng như¬ ban gµy. Tư¬ng truyÒn ®Êt §«ng Lai nưíc TÒ ban ®ªm còng cã mÆt trêi mäc. Lai Tö x©y thµnh ë ®ã, gäi lµ
l©u ®µi BÊt D¹.
(2) S¸ch Trang Tö gäi
tr¸i tim lµ Linh ®µi, tøc ®µi thiªng liªng.
Thăm chùa Vân Môn 1)
Xuân đến thăm chùa ở mé sông.
Ngôi chùa đổ nát phủ rêu phong.
Mưa hắt, Phật ngồi nhìn lặng lẽ.
Không khói, không hoa, sư cũng không.
Đây vốn là nơi xưa đệ tử
Chân tu, xua ác, thảnh thơi lòng.
Nay đêm kẻ xấu thường lui tới.
Mắt Phật tinh tường, có thấy không? 2)
(1) Chïa ë huyÖn Vò Thư¬, Th¸i B×nh.
(2) Theo chó thÝch
nguyªn b¶n, chïa nµy bá hoang, l©u nay lµ n¬i tô tËp cña bän trém cưíp.
Miếu cổ
Miếu thờ hoang phế đã lâu nay.
Mái sập, bia mờ vứt đó đây,
Lạnh ngắt, lò hương đầy mạng nhện.
Tường đổ, rêu phong mấy lớp dày.
Đêm trước mưa rơi lên núi lạnh.
Nắng chiều giờ sót lại trên cây.
Muốn hỏi mà không người để hỏi,
Chỉ thấy trên trời mây trắng bay.
Tiếng nước
Vốn thường im lặng, nước trên sông
Sao réo ầm ầm tựa bão dông?
Lúc bị cản đường, sông mới giận,
Còn không, lặng lẽ cứ xuôi dòng.
Điềm tĩnh, bao dung, không hám lợi,
Không chịu cúi đầu trước bất công.
Như tấm gương soi cho kẻ sĩ,
Ngời ngời ánh bạc nước xanh trong.
Chùa cổ
Năm tháng dãi dầu, chùa vẹo xiêu.
Thanh u suối nước, cảnh tiêu điều.
Lạnh lẽo bếp chay, vườn cỏ dại.
Lên thềm mưa hắt, gió heo heo.
Chim thước lượn quanh, tìm chỗ trú.
Thắp hương lặng lẽ vị sư nghèo.
Chùa xưa héo lụi cùng năm tháng,
Hết nắng ban mai lại nắng chiều.
Con ngựa vô tích sự
Gặm cỏ no căng suốt cả ngày.
Tối về chuồng ngủ, sướng thân mày.
Nhàn nhã chỉ nhờ vô tích sự.
Quả đời kỳ cục thế xưa nay.
Nếu là ngựa tốt, phi thiên lý,
Chắc chắn đời mày sẽ đổi thay.
Chẳng trách người tài hay gặp nạn.
Những kẻ ngu đần thường gặp may.
Ngẫu hứng về mảnh ao nhỏ
trước nhà
Một mảnh ao tù, nước lại vơi.
Mấy con cá nhỏ tự do bơi.
Gió thổi mà ao không gợn sóng.
Bốn bề cây chắn, cỏ xanh tươi.
Ai người biết tỉnh, lo công việc?
Ta cũng chưa say bỏ sự đời.
Giá giống ao này, đâu cũng lặng,
Ta sẽ lên thuyền đi khắp nơi.
Bài ngâm đêm trăng
Bóng cây bên cửa ánh trăng lồng.
Tiếng kèn đổi gác vọng tầng không.
Nghìn dặm xa quê không ngủ được.
Khúc ngâm bất chợ xốn xang lòng.
Tham sân 1) kiếp trước chưa trừ hết,
Kiếp này danh lợi lắm long đong.
Mong chóng đến ngày thôi loạn lạc,
Để lại quay về với núi sông.
(1) Danh từ Phật, chỉ sự tham lam, giận dữ.
Thương vợ
Tiếc xưa không nối nghiệp nhà nông.
Cày cấy bên nhau, vợ với chồng.
Nay hám công danh, chồng vất vả.
Dắt con chạy nạn, vợ long đong.
Chức Nữ sông Ngân đành cách biệt.
Hằng Nga tháng Tám ngậm ngùi mong.
Cái đạo phu thê luôn giữ trọn.
Thúc Cơ 1) gương sáng, chẳng thay lòng.
(1) Con gái vua nước Lỗ và là vợ vua nước Kỹ. Vua nước Kỹ bị vua Tề ức hiếp phải chết. Thúc Cơ từ nước Lỗ về nư¬ớc Kỷ để phụng sự tổ
tiên chồng đến trọn đời. Trong kinh Xuân Thu, Khổng Tử chép lại chuyện này và rất ca ngợi nàng.
Mưa dầm ở đảo Huyền Trân
Công chúa Huyền Trân lệ ngắn dài.
Ngoài thành mưa nhỏ ướt cành mai.
Chồng Man xấu số 1) làm nhơ ngọc.
Nước nhà bạc nghĩa, xót lòng ai.
Lễ cưới hai châu 2) vì một nghĩa.
Gãy gánh một đời, khổ gấp hai.
Oán giận triều lên, dâng bốn phía,
Nước mắt như mưa rả rích hoài .
(1) Chỉ Chế Mân, người thuộc bộ tộc man di
theo quan điểm phong kiến thời trước. Chế Mân lấy Huyền Trân được một năm thì
chết, nên gọi là xấu số.
(2) Tức châu Ô và châu Lý đất Chiêm, được Chế
Mân dâng cho nhà Trần làm sinh lễ.
Hoa dâm bụt trong cung vua
Những cánh hoa tươi trước cửa rồng,
Đỏ rực một màu với gió đông.
Không hương nên chẳng ai ghen tỵ,
Không điệu, không kiêu, dẫu má hồng.
Tướng sắc khác thường, hoa của Phật.
Xuân, loài khác rụng, chỉ mình không.
Đỏ rực không vì khoe sắc đẹp,
Mà chỉ dâng vua một tấm lòng.
Đi thuyền trên cửa biển Nhật
Lệ
Chập chiều, thuyền tới cửa Ô Long,
Ngân Hà một dải vắt trên không.
Từ xa chim nhạn bay về ngủ.
Văng vẳng sáo chài ngoài bãi sông.
Sách đầy một tráp, sao chi chít.
Buồm lớn căng dây, gió thổi phồng.
Hai bên đê lớn, thuyền đi tiếp.
Tử Vi sao sáng một khối hồng 1).
(1) Chßm sao ë phư¬ng B¾c, n»m phÝa ®«ng sao B¾c §Èu.
C¸c nhµ thiªn v¨n ngµy xưa coi chßm sao nµy øng víi ng«i vua chóa ë h¹ giíi.
Lên núi Mẫu Tử 1)
Người ngựa lên đường lúc rạng đông.
Vượt mấy tầng cao, lớp lớp chồng.
Hai núi liền nhau, hòn Mẫu Tử.
Bên dòng suối nhỏ nước xanh trong.
Mắt ngước nhìn quanh toàn thấy núi.
Đầu ngẩng tóc xòa trước gió đông.
Núi này được tạo bao giờ nhỉ?
Muốn nhờ Khóa Phủ 1) hỏi Ngu Công 2).
1). Núi này ở Lạng Sơn.
2). Tên một vị thần.
3). Tên một nhân vật trong thần thoại Trung
Quốc quyết tâm dời núi mở đường.
Buổi sớm, từ núi Thanh Sơn 1)
ngắm cảnh xung quanh
Đi sứ, tạm dừng núi Nhị Thanh.
Sáng giục người xe sớm khởi hành.
Thấp thoáng trong sương hình cây cỏ.
Líu lo chim hót rộn trên cành.
Xóm xa giấc ngủ chưa tan hẳn.
Đồn bên trống giục báo năm canh.
Bất chợt mặt trời nhô, đỏ rực,
Xua hết mây mù, lộ núi xanh.
(1) ChØ nói NhÞ Thanh ë
L¹ng S¬n. Ng« Th× NhËm viÕt bµi nµy vµ nh÷ng bµi sau trong thêi gian ®i sø
Trung Quèc.
Ghi lại cảnh đẹp ở Nhạc Dương
Tiểu dẫn
của tác giả:
Tôi từng
nghe các vị tiền bối đi sứ về kể lại cái vui thuận gió khi qua hồ Động Đình.
Lần đi sứ này, cuối xuân đến đất Sở, được chiếu chỉ của Đại Hoàng Đế giục vào
chầu, nên phải vội vàng đi gấp. Lúc đến sông Tương thì gió đông đang mạnh, đi
đường thủy không tiện, phải đi đường bộ. Đến đầu mùa thu trở về, khi tới Hán
Khẩu, định ngược dòng đi lên nhưng nước lũ lớn, chảy mạnh như mũi tên, nên
không thể đi được, lại phải từ Vũ Xương đi đường bộ về đất Việt 1). Thế mới
biết cái vui thuận gió chơi hồ là khó khăn nhường nào.
Lầu Nhạc
Dương 2) ở về phía đông hồ và phía tây
thành Nhạc Châu. Lúc đến Nhạc Châu, tôi cùng các bạn đồng sự lên lầu, buông mắt
nhìn xem phong cảnh, thì thấy hồ quang nước lặng, muôn khoảnh một màu, nhìn hết
tầm mắt không thấy bờ đâu cả. Xa trông núi Quân Sơn vút lên từ trong sóng, thật
là một non thúy La Phù lồng vào nơi nền gấm.
Tôi ngắm nhìn hồi lâu, muốn tìm thuyền ra chơi núi, nhưng mặt trời đã
lặn về tây nên chỉ có thể đứng ở lầu mà vời trông. Tôi đem nguyên ủy của hồ hỏi
người lại mục ở đó thì người ấy nói: “Phía tây hồ giáp với Vân Nam, Quí Châu,
gặp gió thuận thì ba ngày từ bờ đông có thể đến bờ phía tây. Phía tay bắc thông
với Tứ Xuyên, phía đông bắc chảy vào Hán Dương, phía tây nam là các bãi ở Trường Sa, nước sông Tiêu, Tương
chảy qua đổ vào hồ vậy.
Ôi! Hồ
này trở nên rộng lớn như vậy, chẳng phải là do sức nước của nhiều dòng sông tạo
thành sao? Nhiều dòng nước tụ lại thành hồ, đó chẳng phải là cái khéo của tạo
hóa sao? Cái khéo của tạo hóa, vẽ chẳng hết ý, viết chẳng hết lời, người biết
góp nhặt lại mà điểm xuyết ra, há chẳng phải là cách nhìn của người thông đạt
đó sao?
Ta, lòng
trần chưa sạch, thói tục còn mang, tạo hóa tạo ra lắm chốn lạ kỳ mà tiếc mắt ta
nhìn còn chưa được bao quát. Đến như khói mây cảnh vật, ánh nước sắc núi, chim
chóc bay lượn, cá rồng ẩn hiện, lâu đài liên tiếp, tàu thuyền đi về, di tích
thần tiên, cảnh đời hiện tại, thì ta nói ra không khỏi vụng về, chỉ riêng lòng
ta lĩnh hội được mà thôi. Lúc ấy, Hy Sử công xướng lên trước, ta gặp cảnh sinh
tình, chẳng quản theo đòi bèn nối thành bốn vận: 3)
Hồ lạnh chiều thu, nước trắng phau.
Cảm xúc lâng lâng, đứng tựa lầu.
Núi xanh vời vợi, trăng chưa mọc.
Chân trời một vệt ráng vàng au.
Rồng nằm Động Phủ trong mây trắng.
Chim đến Hành Sơn khoe sắc màu.
Tạo hóa kỳ tài làm sông núi,
Chỗ lồi, chỗ lõm thật đều nhau.
1). Chỉ Quế Lâm, Quảng Tây.
2). Nằm ở phía tây huyện thành Nhạc Dương,
nhìn xuống hồ Động Đình.
3). Bản dịch của Tuyển tập Thơ Văn Ngô Thì
Nhậm, quyển môt, NXB Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1978.
Ngắm cảnh chiều trên sông Lệ
Giang
Hoàng hôn, thật khó nói nên lời
Vẻ đẹp thiên nhiên của đất trời.
Dòng sông hai nửa, xanh và đỏ.
Núi màu đậm nhạt, khác từng nơi.
Chim bay về tổ, rung cây lá.
Cá nhảy, vây vàng chỗ thác rơi.
Lại thêm ý vị: đôi ba tiếng
Chuông chùa thong thả, tựa đang rơi.
Lại qua chùa Thiền Lâm
Chính sự, việc đời luôn đổi thay.
Vẫn nguyên mọi cái ở chùa này.
Cây mục là gương cho kẻ ác.
Vực đá răn đe kẻ hại thầy.
Tượng Phật vàng son luôn tỏa sáng.
Việc đời phải trái tựa mây bay.
Nay qua chốn cũ, buồn trông lại.
Rót chén rượu thiền đuổi gió tây 1).
(1) Vư¬ng §ào ®êi TÊn khi gÆp giã t©y næi
lªn th× lÊy qu¹t che mµ nãi: "C¸i giã nµy cña NguyÔn Quy lµm d¬ bÈn con ngưêi. Quy lµ cËu cña vua Thµnh §Õ nhµ
TÊn, bÞ chª cưêi tham lam, kh«ng ®¹i
nghÜa.
Ghi điều trông thấy ở Nam
Ninh
Nam Ninh, còn gọi Tiểu Nam Kinh.
Nhà nhà sung túc, gái thì xinh.
Bên đường, cửa sổ rèm che nắng.
Lầu soi bến nước, đuốc lung linh.
Nước ngã ba sông trong thấy đáy.
Bảy núi cờ treo, thật hữu tình.
Đời thịnh, quan nhàn, không có việc,
Hết ngắm chim công, lại luận bình.
Nơi Vinh Khải Kỳ mót lúa
Chỉ một mình ông biết
Ba cái vui làm người.
Sống nghèo không lo nghĩ.
Chết già lòng thảnh thơi.
Bên Đông Sơn mót lúa
Vui, hát vang đất trời.
Chuyện xưa người vẫn nhớ.
Tiếng thơm lưu muôn đời.
Nhàn rỗi, làm thơ về cảnh đẹp
Hành Dương
Từng nghe thu đẹp ở Hành Dương,
Khi đến, mưa xuân thấm ướt đường.
Hùng vĩ, chỉ cần xem cảnh vật.
Phồn hoa, nhộn nhịp chuyện công thương.
Sở, Việt, núi xanh soi suối biếc.
Hai dòng uốn lượn, nước Tiêu, Tương.
Thiết nghĩ, thu về, thêm cánh nhạn,
Đâu chỉ Bồng Lai mới thiên đường!
Buổi sớm, lên thuyền đi từ
Tuyền Châu
Trên sóng Trường Giang mấy cánh chim
Chợt vụt bay đi, nháo nhác tìm.
Nước đập vào bờ, sông chảy mạnh.
Bên thuyền sóng vỗ chẳng hề im.
Cuộc đời luân chuyển không vô cớ.
Chẳng dễ lừa đời, dối trái tim.
Sách dăm ba quyển, lòng ta nhẹ,
Như chiếc thuyền không, chẳng sợ chìm. 1)
(1) Trang Tö cã c©u: DÜ
trung tÝn nhi tÕ n¹n, nhưîc thõa hư chu dÜ thiÖp xuyªn", nghÜa lµ "lÊy ®¹o trung tÝn mµ vưît qua dßng s«ng".
Nhàn rỗi, vịnh cảnh sông Lệ
1)
Đê dài, núi đá vút lên cao.
Ven làng khóm trúc phủ bờ ao.
Hàng cây rợp nắng, chim ca hót.
Bến xưa cá quẫy sóng rì rào.
Dưới sông đò lưới nhiều dân Ngạn, 2)
Trên bờ bán củi lắm người Dao.
Sông Lệ nước dâng, thuyền lướt nhẹ,
Như giữa Ngân Hà, dưới ánh sao.
(1) Cßn gäi lµ LÖ Giang
hoÆc T¶ Giang, mét con s«ng ë tØnh Qu¶ng T©y, Trung Quèc.
(2) ë Qu¶ng T©y, ngưêi Miªu vµ ng¬ưêi Dao ë lÉn lén. Ngưêi Trung Quèc gäi ng¬ưêi Miªu lµ ngưêi Ng¹n.
Thơ đề ở am Vạn Niên, theo
vần bài
“Nhất thủy” của Vũ Công Bộ
Thảnh thơi trong bận rộn.
Cõi Phât có mà không.
Vườn thiền động mà tĩnh.
Buồn mà vẫn vui lòng.
Hưởng ân sâu Tứ Đại 1).
Tam Thừa 2) rèn khổ công.
Chưa gặp mặt trò chuyện,
Nhưng đã đọc thơ ông.
1). Chữ nhà Phật, tức địa, thủy, hỏa, phong,
cả bốn nguyên tố hòa hợp thì con người mới tồn tại.
2). Khái niệm nhà Phât, gồm thượng thừa, trung
thừa và hạ thừa.
Mùa thu, đi thuyền trên sông
Ly Giang 1)
Đón ta, sông núi đứng kề nhau.
Cả núi cả sông xanh một màu.
Tháng Tám trời thu vương khói nhẹ.
Đèn khuya, sương ướt đẫm hàng dâu.
Ngái ngủ, thuyền bè nằm dưới bến.
Tỳ bà tiễn khách vọng trên lầu.
Đêm được thả thuyền sông Xích Bích, 2)
Trong lòng ấp ủ đã từ lâu.
(1) Dßng s«ng xuÊt ph¸t
tõ Toµn Ch©u, ch¶y ®Õn Ng« Ch©u (®Òu ë tØnh Qu¶ng T©y) th× hîp víi s«ng TÇm
Giang.
(2) ChØ cuéc ch¬i
thuyÒn ban ®ªm cña T« §«ng Pha ®êi Tèng ë s«ng XÝch BÝch.
Thơ đề đình Tỳ Bà 1)
Bên đình liễu rủ, nước xanh trong,
Nửa mái lầu xanh, giữa ráng hồng.
Trăng còn đẫm lệ quan Tư mã, 2)
Tiếng đàn ngày trước vẳng trên sông.
Cảnh đẹp nơi này lưu sử sách,
Thuyền nhỏ cô đơn, sóng bập bồng.
Tôi ở phương xa, chung cảm xúc,
Bùi ngùi mỗi bận đọc thơ ông.
(1) Đình ở ngoài thành Cửu Giang, tỉnh Giang
Tây, nơi Bạch Cư Dị, thi hào đời Đường, tiễn khách đêm trăng, gặp người chơi đàn
tỳ bà và viết bài Tỳ Bà Hành nổi tiếng.
(2) Tức Bạch Cư Dị, lúc ấy làm quan Tư mã ở
Giang Châu, Giang Tây.
Đêm ấy, lại sang đò cửa sông
Xích Bích
Doi cát bên sông, bãi sậy gầy.
Chèo đò, bài hát thật mê say.
Chiến trận Tôn Tào 1) xưa chẳng thấy,
Chỉ thấy dòng sông nước vẫn đầy.
Dưới bến, cánh buồm no gió thổi.
Trên bờ, đèn lạnh, sáng lung lay.
Ai chơi thuyền nhỏ sau Tô Thức? 1)
Chiếc đò mờ ảo giữa mù mây.
(1) Tức
Tô Đông Pha, thi hào đời Tống.
Chiều thu, dọc đường
Thang Âm 1), ngắm cảnh đồng nội
Sắc thu xen lối cũ.
Khách đi vội trên đường.
Gió heo may se lạnh.
Núi nhuộm ánh tà dương.
Đồng cỏ xanh tít tắp.
Liễu rủ bóng bờ mương.
Nhìn con cò bay lượn,
Chạnh lòng nhớ quê hương.
(1) Tªn mét huyÖn thuéc
tØnh Hµ Nam, Trung Quèc, quª hư¬ng cña Nh¹c Phi ®êi Tèng.
Đêm thu ở quán trọ
Dừng chân quán trọ, khóm mai xanh.
Tiếng thu đã đến báo trên cành.
Ngoài cửa sông trôi như giải lụa.
Trăng nhô phía biển, chiếu qua mành.
Đèn chong trên án, lòng thương nhớ.
Trước lầu tiếng trống giục sang canh.
Xa xa ai hát bài ly biệt.
Khói trắng trên sông, mộng chẳng thành.
Đêm trung thu, ở quán khách
Từ biển vầng trăng mới nhú lên,
Lạnh lùng chiếu sáng mép hàng hiên.
Lo nghĩ việc quan, thu vợi nửa.
Nỗi buồn nhớ nước vẫn còn nguyên.
Tóc bạc, suốt đêm ngồi tựa cửa.
Uống say mong vợi bớt ưu phiền.
Một năm đi sứ dài vất vả,
Thành Xuân, ải Lạng, tới Đài Yên 1).
(1) ChÆng ®ưêng ®i sø tõ thµnh Phó Xu©n qua ¶i
L¹ng S¬n ®Õn Yªn §µi, kinh ®« nhµ Thanh, tøc B¾c Kinh ngµy nay.
Như thử lương dạ hà 1)
Tựa trời, ngồi uống rượu,
Ngắm dòng sông Ngân Hà.
Ngoài sân trăng như sữa.
Nhà bên rộn tiếng ca.
Mùa thu đâu cũng đẹp.
Chỉ tiếc mình đã già.
Ngồi bên ngọn đèn lạnh,
Lại bâng khuâng nhớ nhà.
(1) Bµi "HËu XÝch
BÝch phó" cña T« §«ng Pha cã c©u "NguyÖt b¹ch phong thanh, như thö lư¬ng d¹ hµ", nghÜa lµ "Tr¨ng trong giã m¸t, ®ªm tèt nµy
biÕt lµm g× ®©y". Chó thÝch cña t¸c gi¶: ngµy 13, vµo triÒu lÔ v¹n thä,
cïng c¸c v¨n thÇn nãi chuyÖn, ng©m th¬, mäi ngưêi lÊy c©u "Như thö lư¬ng d¹ hµ" lµm ®Çu ®Ò ®Ó xưíng ho¹.
Ngày giỗ cha tháng Tám
Hiu hiu gió biển lạnh.
Ngồi trong thuyền nhìn ra.
Song Cương, 1) mây che núi.
Như chim, luôn xa nhà.
Thoắt, lại thêm một giỗ.
Theo triều dâng, lệ nhòa.
Làm trai mà vô dụng,
Thà làm phận đàn bà.
(1) Tªn mét ngän nói ë
Giang T©y, Trung Quèc, n¬i t¸ng mé cha mÑ ¢u Dư¬ng Tù, mét v¨n hµo ®êi Tèng. §©y dïng ®Ó chØ n¬i t¸ng mé cha mÑ
cña Ng« Th× NhËm.
NGUYỄN NHÂN AN
Tác giả:
Năm sinh, năm mất không rõ, người xã Vĩnh Kỳ, huyện Từ Liêm, nay là thôn Vĩnh
Kỳ, xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, Hà Tây. Ông thi đỗ Đệ tam đồng giáp tiến sĩ
xuất thân năm 1556, từng được cử đi sứ và làm quan đến chức Thị lang, tước Phúc
Diễn hầu, khi mất được phong tặng Thượng thư. Tác phẩm chỉ còn hai bài trong
"Toàn Việt thi lục".
Qua Lam Sơn, họa vần thơ
của trạng nguyên Giáp Tiết
Trại
Chín mươi ngọn núi uốn quanh quanh.
Đất trời bốn phía đẹp như tranh.
Nhấp nhô đá xếp như bầy hổ.
Tựa rồng đang cuốn, suối long lanh.
Hoa nở bên đường, sương lấp lánh.
Bờ kênh rặng liễu đứng buông cành.
Thành xưa miếu cổ đang còn đó.
Thông già vẫn bạn với mai xanh.
Họa vần bài trước
Mây chiều che núi, suối bao quanh.
Trong rừng thấp thoáng mấy lều tranh.
Rồng in trên đá còn lưu lại.
Hình voi soi bóng nước long lanh.
Bụi cỏ bên đường đùa với gió.
Dẫu lạnh, hoa mai nở kín cành.
Quân tử tới đây nhiều việc bận,
Chưa ngồi ngâm vịnh dưới cây xanh.
NGUYỄN NĂNG NHƯỢNG
Tác giả:
Sinh 1536, mất không rõ năm nào, người xã Kim Đôi, nay thuộc huyện Quế Võ, Bắc
Ninh. Năm 1562 đời Mạc Phúc Nguyên ông thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân
(Hoàng giáp). Được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc năm 1584, làm quan đến chức
thượng thư, tước Đạo phái hầu. Còn 24 bài trong "Toàn Việt thi lục".
Thơ đề ở Mai Quan 1)
Mai nở trên cành, đậm sắc xuân.
Thông già tỏa bóng, sóng lăn tăn.
Cột đồng, Thành kiến 2) không còn nữa,
Nhưng khí phách xưa cảm thấy gần.
(1) Ải Mai Quan ë nói Dò Linh, n¬i tiÕp
gi¸p hai tØnh Qu¶ng §«ng vµ Qu¶ng T©y. Th¬ viÕt trong khi ®i sø phư¬ng B¾c.
(2) Cét ®ång, thµnh kiÕn
(x©y kiªn cè vµ tinh vi nhu tæ kiÕn, lµ biÓu tưîng cña khÝ ph¸ch hµo hïng ®êi xưa.
Cây mai nở muộn ở Hoành Phố
Trên đường Lĩnh Kiện ghé Mai Quan.
Tháng Hai trời rét, cánh mai tàn.
Chủ khách quý nhau, mời ở lại.
Tiếc rằng gió giục đến Tràng An.
Cảnh chiều ở Thủy Khê
Trời trong, sóng lặng, gió hây hây.
Thuyền đi sáng sớm, nước dâng đầy.
Tháng Hai, cảnh đẹp như tranh vẽ.
Khắp rừng hoa nở, cánh chim bay.
Đêm tạnh trời, đậu thuyền ở
bên Tiêu Than
Thuyền đậu Tiêu Than, chỗ nước nông.
Trời ấm mà sao vẫn lạnh lòng.
Trằn trọc nhớ quê không ngủ được,
Hoa đèn nhìn mãi, mắt chong chong.
Văng vẳng sáo chài từ núi bắc.
Trời nam chấp chới cánh chim hồng.
Vâng mệnh nhà vua, không tiếc sức,
Mong ngày trở lại, việc thành công.
ĐẶNG ĐỀ
Tác giả:
Năm sinh, năm mất không rõ, tự Hồi Khanh, hiệu Tùng Pha, người làng Uông Thượng
nay thuộc tỉnh Hải Dương. Ông thi đỗ tiến sĩ năm 1565, đời Mạc Phúc Nguyên,
được cử đi sứ Trung Quốc năm 1584, lúc về được thăng chức Thượng thư và phong
tước Tùng Linh bá. Ông nổi tiếng học rộng, thơ hay. Tác phẩm có "Tùng Pha
thi tập", bốn quyển hiện còn thất lạc. "Toàn Việt thi lục” có 44 bài.
Trạm Nhân Lý
Qua hết Thượng Cường, giờ tới đây.
Xem núi Mẹ Con ở xứ này.
Dẫu nhớ song thân mà chẳng dám
Ngoái nhìn chốn ấy dưới trời mây. 1)
(1) DÞch Nh©n KiÖt ®êi
§ưêng cã viÖc ph¶i ®i xa,
mçi lÇn nhí cha mÑ ®Òu nh×n vÒ phÝa ®¸m m©y tr¾ng mµ than r»ng: "Nhµ cña
cha mÑ ta ë dưíi ®¸m m©y tr¾ng
kia!"
Tảng sáng xuất phát từ thành
Lạng Sơn
Lên đường sáng sớm, lúc tinh mơ.
Hơi núi, sương đêm thấm ướt cờ.
Không dám ngoái nhìn vì biết rõ
Dưới mây nơi ấy đất thành đô.
Buổi tối nghỉ ở trại Mạc Phủ
Gặp mưa, đi sớm, lại đường xa.
Xe sứ đến đây đã xế tà.
Đêm ngủ, đang mơ về cố quốc,
Nghe gà te tái gáy xa xa.
Đi sứ phương bắc, xuất phát
sớm tại sông Nhị Hà
Sáng sớm ra đi bến Nhị Hà.
Nhiều người đưa tiễn khách đi xa.
Màu áo lẫn màu mây buổi sáng.
Hai bên đường trạm nở đầy hoa.
Đi sứ, áo lông cùng ngựa béo,
Nguyện gắng sức mình giống Tử Hoa 1).
Mong lúc quay về, thời tiết tốt,
Hoa nở, mùa xuân khắp mọi nhà.
(1) Häc trß cña Khæng Tö, th¬ường ®¬ưîc sai ®i sø. Khi ®i sø Tö Hoa hay "thõa phi mấý khinh cÇu" (cưìi ngùa bÐo mÆc, ¸o l«ng cõu). §êi
sau thưêng dïng h×nh tưîng nµy chØ sù ®i sø.
Đêm đậu thuyền ở bến Tiêu
Than
Ngày xuân thuyền đậu bến Tiêu Than.
Hết mưa, sương giá vẫn chưa tan.
Lấp lóe lửa chài soi ánh nước.
Trên bãi, nhao nhao vịt gọi đàn.
Văng vẳng tiếng chuông xen tiếng sóng.
Đồng hồ nước cạn, báo đêm tàn.
Nhớ quê, khách sứ lòng da diết,
Thả hồn theo mộng tới Trường An.
Tiết hàn thực trên đất khách
Xuân muộn, bây giờ đã tháng Ba.
Buồn buồn lòng khách ở nơi xa.
Theo gió, xinh xinh con bướm lượn.
Mưa nhiều, xơ xác những cành hoa.
Thoang thoảng đâu đây mùi cháo hạnh.
Ai kia nhóm lửa, bận trong nhà.
Thời gian luân chuyển, dù xuân muộn,
Cũng uống rượu mừng, ta với ta.
NGUYỄN QUÍ ỨNG
Tác giả:
Chưa rõ năm sinh, năm mất, hiệu Trác Phong, làm quan cuối đời Trần và từng đi
sứ Trung Quốc. Tác phẩm lưu được một bài bốn câu và bài này.
Qua Châu Hoành 1), họa
vần thơ của Vương Bồng Trai 2)
Thuyền buộc mé sông, nắng xế ngày.
Khách bước lên lầu, lòng ngất ngây.
Việc cũ, bè sao trôi theo nước,
Vách tường thành cổ vẫn còn đây.
Lúc đi xuân sớm, thuyền men núi.
Trăng sáng Châu Hoành ngủ tối nay.
Không có thời gian ngồi uống rượu,
Làm tạm bài thơ vịnh cảnh này.
(1) Thuéc phñ Nam Ninh,
tØnh Qu¶ng T©y, Trung Quèc.
(2) Ngư¬êi Trung Quèc, chưa râ lµ ai.
DOÃN ÂN PHỦ
Tác giả:
Chưa rõ năm sinh, năm mất. Chỉ biết ông người tỉnh Hưng Yên ngày nay. Tác phẩm
chỉ có bài này trong Toàn Việt thi lục.
Phụng mệnh đi sứ, từ biệt em
trai
Người lên phương bắc, kẻ về nam.
Xế chiều, dừng ngựa chúc bình an.
Hồng nhạn 1) lẻ loi ngoài ải vắng.
Gọi bạn Tích linh 2) phía cuối ngàn.
Bao đêm mưa gió cùng trò chuyện.
Muôn hộc tình quê chén rượu khan.
Người giữ tiết mao, người gối quạt,
Trung hiếu xưa nay khó vẹn toàn.
1) Loµi chim sèng dưíi nưíc, khi bay thưêng con lín bay trưíc, con bÐ theo sau rÊt trËt tù, v× vËy ngưêi xưa thưêng vÝ loµi chim nµy
víi t×nh anh em trong nhµ.
(2) Mét gièng chim nhạn như
chim Ðn.
TRẦN LÔ
Tác giả:
Sinh 1470, mất 1540, người thôn Bình Vọng, xã Văn Bình, huyện Thường Tín, tỉnh
Hà Tây ngày nay. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ năm 1502, đời vua Lê Hiến
Tông, làm quan đến chức Hiến sát sử. Năm 1505 được cử đi sứ Trung quốc. Tác
phẩm chỉ còn lại vài bài thơ.
Qua cửa ải, bày tỏ nỗi lòng
Vua sai đi sứ, những lo thầm.
Nhưng chẳng chối từ việc khó kham.
Ngày giục ngựa đi lên phía Bắc.
Đêm nằm mơ nhớ cõi trời Nam.
Lòng trung báo nước luôn suy nghĩ.
Mưu kế lợi nhà chẳng để tâm.
Chỉ mong xong việc, khi quay lại,
Nước nhà yên ổn, thịnh nghìn năm.
VŨ CÁN
Tác giả:
Sinh năm 1480, mất năm nào không rõ, tự là Tùng Hiên, người làng Mộ Trạch, nay
thuộc huyện Cẩm Bình, Hải Dương. Vũ Cán là con tiến sĩ Vũ Quỳnh. Ông thi đỗ Đệ
nhị giáp tiến sĩ xuất thân đời Lê Hiến Tông, làm quan với nhà Mạc đến chức
Thượng thư bộ Hình. Từng đi sứ Trung Quốc, nổi tiếng văn tài, xuất khẩu thành
chương. Bảy mươi tuổi, ông về hưu và nghỉ ở quê nhà cho đến lúc qua đời. Tác
phẩm có "Tùng Hiên thi tập" và
"Tứ lục bị lãm".
Cây đa ở khe Đồng Cách
Bên khe Đồng Cách, cạnh bờ đê
Có cây đa lớn lá xum xuê.
Nhờ ơn mưa móc, luôn xanh tốt.
Mọi người được hưởng bóng cây che.
Khách nghỉ đường xa, xua cái mệt.
Đồng vắng con chim có chỗ về.
Vốn thích sông Nghi cùng gió Vũ, 1)
Ta nay chợt hứng, viết thơ đề.
(1) S«ng Nghi - mét con
s«ng ë tØnh S¬n §«ng, Trung Quèc; Giã Vò - giã m¸t ë ®µn cÇu mưa.
Năm mới viết chơi
Quanh năm sách vở chất đầy phòng.
Tính lười, sống nhạt giống sư ông.
Muốn về ở ẩn mà chưa được,
Chức quan nho nhỏ vẫn đèo bòng.
Nhà chẳng có gì, không sợ trộm.
Hợp đời, hợp đạo dễ thành công.
Ơn vua như núi, tài không có.
Chưa báo đền xong, thẹn với lòng.
Trầu cau
Mở đầu câu chuyện miếng trầu con.
Nước đỏ trên môi, miệng cay dòn.
Đậm nhạt mùi đời từng biết hết.
Nóng lạnh tình ai, vị vẫn còn.
Dẫu đắng và cay, đời vẫn quý.
Tiếng tốt lưu truyền với nước non.
Ở ẩn, làm quan, chung cảnh ngộ,
Trước sau như một tấm lòng son.
Sự thận trọng
Việc mình không nói lộ ai hay.
Đạo Nho vẫn dạy thế xưa nay.
Rằng nên thận trọng, nên im lặng,
Cả khi sống ẩn giữa rừng cây.
Chính nó giúp người làm việc lớn.
Công thành, danh toại cũng từ đây.
Không tự dối lòng, không hấp tấp,
Là người quân tử, đạo người ngay.
NGUYỄN THIỆN
Tác giả:
Sinh 1495, mất 1557, hiệu Cảo Xuyên, quê làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai. Ông
đậu trạng nguyên năm 1532, làm quan triều Mạc tới chức Thượng thư bộ Lại kiêm
đồ ngự sử. Về sau cùng Lê Bá Ly quay lại phò tá nhà Lê, được phong tước Quận
công. Ông là bạn thân với Nguyễn Bỉnh Khiêm, đỗ trước một khóa. Tác phẩm: còn
lại năm bài trong "Toàn Việt thi tập".
Ngày xuân, họa vần thơ Mạc
Đăng Doanh
Mùa xuân nắng dịu, bướm và hoa.
Chúa xuân mang lộc đến muôn nhà.
Khí thuận, gió hòa, trời ấm áp,
Bốn bề chim chóc líu lo ca.
Giữa độ "Tam Dương" 1) thời tiết đẹp.
Muôn loài
hưởng lộc khắp gần xa.
Nước thịnh, vua minh, đang vận tốt,
Dân chúng nơi nơi hưởng thái hòa.
(1) ChØ th¸ng Giªng ©m
lÞch.
Tiễn Đào Nghiễm đi sứ bắc
Trông bác chưa già, khoảng sáu mươi.
Góp sức hai ta gánh việc đời.
Tôi thẹn, trước mình thi nhất bảng.
Giờ bác ra đi sứ nước người.
Gặp nguy, lòng dạ không thay đổi.
Trung hiếu đôi đường vẹn cả đôi.
Việc thành mong bác ngày quay lại,
Lưu truyền tiếng tốt khắp muôn nơi.
LÊ BÁ LÝ
Tác giả:
Sinh 1476, mất 1557, người làng Cự Phạm, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, là võ tường
dưới quyền chỉ huy của Mạc Đăng Dung, sau được phong làm Thái Tế. Do bị Phạm
Quỳnh dèm pha, Mạc Phúc Nguyên định hại ông, nên ông buộc phải chống lại nhà
Mạc và quy phục nhà Lê, rất được trọng dụng. Tác phẩm chỉ còn lại một bức thư
chữ Nôm và bài thơ chữ Hán dưới đây.
Tiễn quan thiếu sự Trần Tiên
Sinh 1) hưu trí
Đức ông như biển rộng bao la.
Cùng tôi gánh vác việc sơn hà.
Trong giúp triều đình, bền xã tắc.
Ngoài lo biên giới được yên hòa.
Công lớn sách ghi, gương còn đó.
Giờ ông bảy chục, sống quê xa.
Hẹn ông có dịp Kỳ Anh hội, 2)
Chống gậy nói cười, ta với ta.
(1) Tøc TrÇn Ph×
(1479-1557), ngưêi huyÖn Chư¬ng §øc, lµm quan triÒu M¹c, tưíc L¹i quËn c«ng.
(2) Héi nh÷ng nh©n sÜ
cao tuæi, thµnh lËp tõ thêi B¾c Tèng, do V¨n Ng¹n B¾c vµ Tương Mã Quang ®øng ®Çu.
BÙI BÁ CHIẾN
Tác giả:
Chưa rõ năm sinh năm mất, giữ chức tri phủ rồi đến chức Doanh tán lý thụ ty
luân ở huyện Giao Thủy triều Mạc, người làng Ôn Khê nay thuộc Lạng Sơn. Tác
phẩm còn năm bài thơ trong "Toàn Việt thi lục"
Tết Nguyên Đán
Sáng hô vạn tuế chúc nhà vua.
Chiều dạo ngắm xuân, vãn cảnh chùa.
Thiếp vàng dâng chúc người thi đỗ, 1)
Mâm đồng ngày tết chỉ tua rua. 2)
Đất nước thanh bình, thời vận tốt.
Muôn loài gợi hứng cứ tranh đua.
Uống chúc mọi người nay mạnh khỏe.
Ai người mai uống rượu đồ tô? 3)
(1) §êi §ưêng, ngưêi thi ®ç tiÕn sÜ thưêng ®ưîc chóc mõng b»ng nh÷ng danh thiÕp in hoa vµng.
(2) Theo tôc cæ, tÕt
Nguyªn §¸n ngưêi ta thưêng dïng chØ hång ®Ó trang trÝ nh÷ng
m©m hoa qu¶ cÇu mong vËn may trong n¨m.
(3) Tªn mét lo¹i rư¬îu quÝ ngµy xưa.
ĐÀO NGHIỄM
Tác giả:
Sinh 1496, mất năm nào không rõ. Tự Nghĩa Xuyên, người làng Thiện Phiến, huyện
Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Năm 28 tuổi thi đỗ Hội nguyên đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân, đời vua Lê Cung Hoàng. Ông làm quan cho nhà Mạc, từng làm chánh sứ
sang Trung Quốc, sau về được phong chức Tả thị lang bộ Binh, kiêm Đông các đại
học sĩ. Tác phẩm có: "Nghĩa Xuyên quan quang". "Toàn Việt thi
lục" có 27 bài.
Thơ đi sứ
Lên đường đi sứ phía thành đông.
Bình minh như nước, trời xanh trong.
Người đi, ngựa hý qua cầu liễu.
Bến đò, gió thổi áo choàng lông.
Bạn bè uống tiễn vài ba chén.
Trời quang, đường rộng thảnh thơi lòng.
Dừng ngựa ngoái nhìn, gần trước mặt,
Tràng An chìm giữa đám mây hồng.
Trên đường qua Lạng Sơn
Bốn bề rừng núi một màu xanh.
Đường dài, trống đã điểm sang canh.
Áo gấm dưới trăng trông lấp lánh.
Ngựa quí xông pha, rẽ lá cành.
Vẫn tự nhắc mình không ngại khổ,
Không quản đường xa, miễn việc thành.
Thầm mừng thấy trúc bên bờ suối
Như báo cho ta điềm tốt lành.
740. Qua Liễu Châu nhớ Liễu Tông Nguyên 1)
Đường qua Ngũ Lĩnh 2) uốn quanh quanh.
Bỗng buồn man mác, núi xanh xanh.
Cây sậy bên khe sương lấp lánh.
Mé rừng quả quýt nắng long lanh.
Đường tới Hà Đông 3) xa tít tắp.
Trên lầu đứt ruột, thức năm canh.
Liễu Tông Nguyên chết, đời buồn hẳn.
Thành hoang, mây nước vẫn nguyên lành.
(1) Tªn mét ch©u ë tØnh
Qu¶ng T©y, Trung Quèc. Tªn nµy cã tõ ®êi §ưêng, ®ưîc gäi theo tªn cña v¨n hµo LiÔu T«ng Nguyªn sau khi «ng bÞ ®µy tíi
®©y.
(2) Tªn n¨m ngän nói ë
®©y.
(3) Quª hư¬ng LiÔu T«ng Nguyªn, tØnh S¬n T©y,
Trung Quèc.
Đi thuyền trên đất Tư Minh
Ngẫu nhiên có việc, ghé Tư Minh.
Thuyền lướt trên sông, thật gợi tình.
Nước trắng một dòng như giải lụa.
Như chiếc trâm cài vệt núi xanh.
Mây nhởn nhơ bay theo cánh nhạn.
Gió đưa tiếng vượn hót bên ghềnh.
Làm trai nghĩa lớn đi đây đó,
Vẫy vùng cho thỏa chí bình sinh.
Nghỉ đêm ở trạm Pha Lũy
Hết núi rồi sông, ngày lại ngày.
Người ngựa dừng chân nghỉ lại đây.
Tiếng suối rì rầm xen giấc ngủ.
Ngoài thềm trăng chiếu, lạnh hàng cây.
Lòng trung với nước xin trời biết.
Không dám kêu ca lạnh xứ này.
Giấc mộng quẩn quanh về cố quốc.
Đến tự nơi nào cơn gió tây?
GIÁP HẢI
Tác giả:
Sinh năm 1507, mất 1581, còn gọi là Giáp Trừng, hiệu Tiết Trai, tự Tiêm Phu,
người xã Định Kế huyện Phượng Nhân nay thuộc huyện Lạng Giang tỉnh Hà Bắc. Năm
32 tuổi đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (trạng nguyên). Từng đi sứ
Trung Quốc, làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại kiêm Đông các đại học sĩ. Ông
là bạn thân của Nguyễn Bỉnh Khiêm, và là một danh sĩ có tài hết lòng phù giúp
cho cơ đồ nhà Mạc. Tác phẩm có "Cổ kim ứng đáp bang giao tập" và
khoảng vài chục bài thơ chữ Hán.
Thăm Lam Sơn 1) ngẫu hứng làm
thơ
Bài
một
Đi đến Lam Sơn, kiệu với thuyền.
Thành quách một bên, làng một bên.
Gặp phường dệt vải đang tìm việc.
Thấy hồ xanh biếc mọc đầy sen.
Cổ kính đất trời, cây hạc đậu.
Ngày dài tháng rộng, phượng bay lên.
Nhìn tấm bia mòn, buồn, tưởng nhớ
Công đức bình Ngô bậc thánh hiền.
(1) Quª hư¬ng Lª Lîi, Thanh Hãa.
Thăm Lam Sơn, ngẫu hứng làm
thơ
Bài
hai
Trở lại thăm quê bậc đế vương.
Người Kinh ở lẫn với Mán Mường.
Miếu cũ oanh kêu, chim nhạn lượn.
Rừng già cây cỏ nức mùi hương.
Sông bồi, núi lở luôn thay đổi,
Đất trời sống mãi với quê hương.
Tìm kiếm cảnh xưa mà chẳng thấy,
Chỉ thấy bông mai nở cạnh đường.
Họa vần đáp lại Trình quốc
công
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bài
một
Giúp vua mưu lược bấy lâu nay,
Như các anh hào Hán trước đây.
Vốn chẳng tham danh cùng phú quý,
Thích cảnh thiên nhiên với cỏ cây.
Thơ xuân bút họa nằm trên án.
Đàn ngọc đêm trăng, chén rượu đầy.
Vời vợi công lao như núi lớn,
Làm gương thiên hạ mãi sau này.
Họa vần đáp lại Trình Quốc
Công
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bài
hai
Vẹn cả ba đường: đức, tuổi, công. 1)
Cúi xuống, nhìn lên chẳng thẹn lòng.
Chí khí oai phong xua kẻ ác.
Văn thơ tài rộng tựa dòng sông.
Sôi kinh nấu sử, thơ hàng tập.
Nhà tre thanh đạm, nguyệt bên song.
Đại lã, Hoàng chung vang vọng mãi, 2)
Muôn thuở lưu danh đức với công.
(1) Theo M¹nh Tö, ba
®iÒu ®¸ng quý nhÊt lµ ®øc ®é, tuæi t¸c vµ c«ng lao.
(2) §¹i lã, tªn mét nh¹c luËt ®êi cæ. Hoµng
chung - luËt thø nhÊt trong 12 nh¹c luËt cæ, thanh ®iÖu oai phong, hïng tr¸ng.
Qua Lam Sơn, ngẫu hứng làm
thơ
Leo núi Lam Sơn, tay gạt mây.
Thu trong tầm mắt cảnh miền tây.
Phía trước lâu đài như phượng múa.
Sông hồ bên phải tựa rồng bay.
Bốn mùa xuân sắc, mưa xanh liễu.
Phảng phất hương sen suốt cả ngày.
Ngẫm việc hôm qua thi hứng gợi,
Bần thần ngắm cảnh, tựa thân cây.
VŨ CẨN
Tác giả:
Sinh năm 1522, mất năm nào không rõ, tự Đôn Phu, người làng Lương Xá, huyện
Lương Tài tỉnh Bắc Ninh. Ông là em trạng nguyên Vũ Kính, đỗ tiến sĩ năm 1556
triều Mạc Phúc Nguyên. Từng đi sứ Trung Quốc, sau về được phong chức Thượng
thư, tước Xuân Giang hầu. Tác phẩm có "Tinh thiều kỷ hoành" và 100
bài thơ trong "Toàn Việt thi lục".
Trạm Pha Lũy
Sắp qua Pha Lũy, ngựa phi nhanh.
Để lại dấu chân các cổng thành.
Suối chảy hai dòng, vang tiếng ngọc.
Vạn trùng núi biếc một màu xanh.
Sáng gà gáy giục đoàn đi tiếp.
Chưa gặp người xe, chim lượn quanh.
Mừng thấy đường thông, mong trở lại,
Mang được tin vui, việc tốt lành.
Trạm Minh Giang
Tư Minh, thị trấn ở Bắc Yên.
Ra đi, tính đã mấy ngày liền.
Uốn khúc, dòng sông như dát bạc.
Non cao, núi đẹp tựa thần tiên.
Dân cư trù phú, nhà đông đúc.
Tấp nập người xe khắp mọi miền.
Mới ngủ một đêm nơi quán khách,
Sáng mai vội vã lại lên thuyền.
Trạm Đà Sài
Khi tới đây, mặt trời đang chiếu sáng, gió
nhẹ thổi từ phía Tây Bắc, bỗng nghe tiếng nước chảy từ xa vẳng tới, bèn ngẫu
hứng làm bài thơ này.
Đi qua Đà Phác, đến Đà Sài.
Sương mù dày đặc buổi ban mai.
Ánh nắng mùa đông vàng, yếu ớt.
Gió mùa Tây Bắc lạnh lòng ai.
Vòng quanh, suối chảy xuôi về núi,
Như đàn thanh thót vẳng bên tai
Làm khách đường xa thơ chợt hứng,
Rót rượu bâng khuâng đứng thở dài.
Trạm Phủ Môn ở Tầm Dương
Phủ Môn, trạm nhỏ ở Tầm Dương.
Bốn phía bao quanh những lớp tường.
Dưới sông chèo gỗ khua nhè nhẹ,
Trong làng mờ ảo bóng hàng dương.
Chợ sớm đông người, nhiều gấm vóc.
Xe ngựa chen nhau những nẻo đường.
Để lại đời sau gương thánh đạo,
Còn lưu bia đá miếu Quân Tường.
Chùa Phi Lai
Trên đỉnh núi có chùa Sư Tử đá, bên phải
chùa có suối Định Tâm, đá tạc thành miệng rồng đang phun nước. Đình Âp Tuyền có
biển đề thơ Tô Đông Pha. Nhiều khách sứ thần Nam Bắc cũng đề thơ ở vách núi
này.
Chùa cổ Phi Lai thật tĩnh yên.
Bụi trần không vướng, lạ mà quen.
Núi đỏ, nước xanh nơi thượng giới.
Rêu xám, sơn son chốn cửa thiền.
Lặng lẽ con rồng phun nước lạnh.
Quanh chùa đá tựa hổ chồm lên.
Bên tên Tô Thức đề trên vách,
Nhiều người qua lại cũng đề tên.
Trạm Hoàng Thạch Ky
Buổi sáng lên thuyền đi dọc sông.
Vạt áo khách xa gió thổi phồng.
Nước cạn soi gương, không thấy cá.
Núi cao vắng nhạn, trời xanh trong.
Phía hang Dương Cốc 1) bình minh mọc.
Bên núi Thái Hàng 2) mây bập bồng.
Tấm lòng tận tụy trời soi xét.
Mong ngày trở lại, việc thành công.
(1) Theo thÇn tho¹i
Trung Quèc, phư¬ng §«ng cã hang Dư¬¬ng Cèc lµ n¬i mÆt trêi mäc.
(2) §Þch Nh©n KiÖt ®êi
nhµ §ưêng ®i lµm quan phư¬ng xa, tr«ng lµn m©y tr¾ng trªn nói
Th¸i Hµng, ch¹nh lßng nhí cha mÑ mµ buét miÖng than r»ng: "Song th©n cña
ta ë dưíi ®¸m m©y kia!"
Qua Lĩnh Trung, cảm tác
Trạm có biển đề "Dũ Lĩnh phân
xuân", nghĩa là núi Dũ Lĩnh chia mùa xuân thành hai. Dọc đường đi có nhiều
thông, trước Mai Quan có chùa Quải Giác và đình Tức Kiên.
Nơi núi chia xuân là Lĩnh Trung. 1)
Từ xưa đã thuộc phủ Nam Hùng.
Mai Quan dấu ngựa in trên tuyết.
Lối nhỏ nắng xiên rợp bóng tùng.
Tức Kiên đình cổ hây hây gió.
Quải Giác chùa cao mây trập trùng.
Ngoái trông đất Việt xa nghìn dặm,
Chỉ thấy bâng khuâng một áng hồng.
(1) Mét trong nh÷ng dãy nói ë Dò LÜnh, n»m ë ranh giíi Qu¶ng
§«ng vµ Qu¶ng T©y, cã rõng mai nªn cßn gäi lµ Mai LÜnh. PhÝa B¾c khÝ hËu l¹nh
mai në muén. PhÝa Nam trêi Êm, mai në sím h¬n, v× vËy ®ưîc gäi lµ nói chia xu©n.
Trạm Tiểu Khê
Nhìn xuống bờ khe rợp bóng cây,
Cả thành Bách Tính chìm trong mây.
Bướm hồng, rêu xám, nhà đông đúc.
Chim oanh hót giữa tán cây dày.
Dưới sông nước lặng, thuyền san sát.
Ùn ùn mây kéo phía trời tây.
Xe vừa tới trạm nhưng nhỡ chuyến,
Đành ở lại đây thêm nửa ngày.
Trạm Kim Xuyên
Bờ sông bên hữu đối diện với trạm là thành
Tân Kim. Mé đông thành có nhà đọc sách của Đào Khản với tấm bia đá còn lưu lại.
Đường từ Ngọc Giáp đến Kim Xuyên,
Xuân về, cảnh đẹp tựa thần tiên.
Biển đồng còn đó nhà quan huyện,
Tấn thư bia đá vẫn lưu truyền.
Sáo chài văng vẳng đêm trăng sáng.
Vạn dặm sông xuân nhẹ lướt thuyền.
Mong được bình an, xong việc lớn,
Trở về, dân chúng sống bình yên.
Trạm Triết Giang
Từ Hội Giang thuyền đi Triết Giang.
Ruộng xanh tít tắp, nước mênh mang.
Buồm căng, gió thổi thuyền trôi nhẹ.
Bên ngoài, triều lớn sóng âm vang.
Trên núi chuông chùa lay bóng nguyệt.
Dưới sông phơi lưới, nắng ươm vàng.
Buông chèo, nhìn phía Hàng Châu phố.
Mười dặm hương sen thoảng nhẹ nhàng.
Trạm Cô Tô
Phía tây có chùa Hàn Sơn, phía nam có hồ
Thái Hồ thuộc đất Đông Ngô xưa.
Hùng vĩ núi đồi đứng nhấp nhô.
Ba sông vững mạnh dựng cơ đồ.
Lan can khảm ngọc, cầu như vẽ.
Gác phượng lầu son đẹp đất Ngô.
Nửa đêm chuông ngọc Hàn Sơn điểm 1)
Quyện với trăng khuya nước Thái Hồ.
Danh thắng Bắc Yên về mọi mặt,
Đầu tiên phải kể đến Cô Tô.
(1) ChØ thư viÖn cña bÒ t«i nhµ TÊn.
NGUYỄN THỨC
Tác giả:
Sinh năm 1555, mất 1637, hiệu Tiết Trai, tự Phác Phù, người làng Vân Điềm, nay
thuộc Đông Anh, Hà Nội. Ông thi đỗ đình nguyên năm 1595, giữ chức Đô cấp sự Hộ
khoa, rồi Hồng lô tự khanh. Năm 1606 làm chánh sứ thứ hai sang Trung quốc. Lúc
về được thăng Tả thị lang bộ Lễ, tước Phượng lan hầu. Năm 1617 làm thượng thư
bộ Hình kiêm Hàn lâm thị độc. Năm 1367 được tôn làm Quốc lão tham dự triều
chính. Theo Phan Huy Chú, ông là người tiết độ, trong sạch, xứng đáng danh
thần. Tác phẩm có 17 bài trong "Toàn Việt thi lục".
Ngắm cảnh chiều giữa sông
Thuyền qua bến Tứ, 1) cảnh thần tiên.
Trời nước xanh trong một giải liền.
Chim xếp thành hàng bay lặng lẽ.
Phao chài trên sóng, nước bình yên.
Nguyên Long 2) chí lớn như sông biển,
Tư Mã 3) chu du khắp mọi miền.
Sắp đến kinh thành, ai đang hát,
Khách nghe xao xuyến, phải dừng thuyền.
(1) Tªn mét bÕn ë s«ng
Tø Hµ, ch¶y qua lµng Khóc Phô, quª cña Khæng Tö.
(2) Tªn hiÖu cña TrÇn
§¨ng thêi §«ng H¸n, mét ngưêi cã chÝ khÝ lín.
(3) Tøc Tư Mã Thiªn, sö gia næi tiÕng thêi H¸n, vèn chu du rÊt nhiÒu ®Ó quan s¸t
vµ thu thËp tµi liÖu viÕt sö.
NGUYỄN DANH THẾ
Tác giả:
Sinh 1572, mất 1645, người làng Xuân Hội huyện Chương Đức, nay thuộc tỉnh Hà
Tây, thi đỗ tiến sĩ năm 1595, lúc mới 24 tuổi. Nhà Mạc mời mấy lần nhưng ông
không chịu ra làm quan. Sau làm Hiến sát sứ Sơn Tây cho Trịnh Tùng, rồi được
thăng làm Đô cấp sự trung trong phủ chúa. Năm 1606 đi sứ Trung Quốc, về được
thăng Hữu thị lang bộ Lại, rồi Thượng thư bộ Công và cuối cùng là Đường quận
công. Tác phẩm còn 4 bài trong "Toàn Việt thi lục".
Tự thuật lúc lên đường đi sứ
phương Bắc,
họa vần thơ của chánh sử
Nguyễn Phác Phủ
Đời thịnh, thi tài đậu đại khoa,
Lại được vua cho đi sứ xa.
Cưỡi ngựa đường Chu, phong cảnh đẹp.
Dong thuyền sông Hán, nước lồng hoa.
Ngựa béo, người no, lòng phấn chấn.
Gắng sức cùng lo việc nước nhà.
Chữ hiếu, chữ trung mong giữ trọn,
Nhọc nhằn, nguy hiểm chẳng kêu ca.
No comments:
Post a Comment