Monday, February 23, 2015

ĐIỀN VIÊN TỨ TUYỆT (105 bài thơ bốn câu)


 
1
Trên đường từ cầu Chương Dương
đến làng gốm Bát Tràng
Bài một  
                  
Đê xanh, nước đục, mặt trời hồng,
Cô gái chèo thuyền dọc mép sông.
Giờ thổi cơm chiều, than chưa cháy,
Thuyền đi, khói đứng lặng trên không.

2
Trên đường từ cầu Chương Dương
đến làng gốm Bát Tràng
Bài hai
               
Bến cũ vương khói lạnh,
Lưa thưa cây bãi sông.
Mặt trời chiều mây phủ,
Chỉ thấy một khối hồng.

3
Trên đường từ cầu Chương Dương
đến làng gốm Bát Tràng
Bài ba
                           
Xuân mà như đang đông.
Cây đa cụt giữa đồng.
Gió thổi qua tay áo.
Một chấm thuyền trên sông.

4
Tiễn bạn

Mưa phùn trên ngọn tre.
Đi không hẹn ngày về,
Bàn tay anh thật lánh
Mây nặng sà sát đê.

5
Dọn đến nhà mới

Giống người từ quan lên núi ở ẩn, tôi xin nghỉ việc, dọn ra sống ở ngoại ô bên sông Hồng, hầu như không đi đâu, không gặp ai, hàng ngày chỉ đọc sách, ngắm hoa và làm thơ. Một người bạn cũ đến thăm, hỏi sống thế nào. Tôi chỉ cười, không đáp, nhưng trong đầu thì nghĩ thế này:

Dẫu chưa đạt mức thiền,
Nhưng cũng được để yên,
Ngủ không cần báo thức,
Thích, ra sông đếm thuyền.

6
Chiều ngoại thành

Mặt trời khuất sau làng,
Chim bay dàn hàng ngang.
Sách trên bàn không đọc,
Gió thổi, tự lật trang.

7
Mồng chín tháng Giêng năm Mậu Dần, được phó tiến sĩ Nguyễn Sĩ Đại, phóng viên thường trú báo Nhân Dân ở Nghệ An ra thủ đô ăn tết, đến thăm.

Mấy khi rời phố đông
Được đi dạo giữa đồng,
Đãi bác, nghèo, chỉ có
Mây, gió và khúc sông.

8
Buổi sáng đầu xuân, mưa nhỏ,
đi dạo một mình ở Ngọc Thụy

Sang sáng một vòng chếch phía đông,
Hình như có người cấy giữa đồng.
Không kính, nhưng nhìn lâu cũng thấy
Ba bốn chấm thuyền, nửa giòng sông.

9
Gửi phó tiến sĩ Nguyễn Sĩ Đại

Vệt nắng lạnh ngang đồi
Quệt vào tay, vào môi.
Tự nhiên thấy nhớ bác.
Bao giờ về thăm tôi?

10
Đêm khuya, 13 tháng Giêng âm lịch, ngồi ngắm hoa, nghĩ thơ một mình trong vườn.

Mờ ảo ánh trăng tà,
Tiếng gà gáy xa xa.
Lại nhích chân lần nữa
Để không dẫm bóng hoa.

11
Tự nhắc mình

Tuổi đã quá ngũ tuần
Còn đeo đuổi thơ văn,
Nghĩa là còn vương vấn
Một chút ít bụi trần.

12
Người ăn mày ở chùa Quán Sứ

Mù, ngồi xin suốt ngày
Không ai cho - còn may
Thỉnh thoảng hoa đại rụng
Rơi lên lòng bàn tay.

13
Thăm lại ngôi nhà tổ tiên
ở quê cũ  Diễn Châu
Bài một
                                   
Nửa bờ dậu đổ xiêu
Đỡ nặng mặt trời chiều.
Lối đi rêu không mọc
Càng thêm vẻ tiêu điều.

14
Thăm lại ngôi nhà tổ tiên
ở quê cũ Diễn Châu
Bài hai
                                      
Giọng vẫn chưa thay đổi,
Nhiều người còn nhận ra.
Thế mà vẫn thấy lạ
Ở ngay tại quê nhà.

15
Ngẫu hứng khi dạo trong vườn

Thơ nghĩ mãi không ra,
Vợ gọi cơm trong nhà.
Bụi hồng hoa sắp rụng,
Phải rón rén đi qua.

16
Hoàng hôn sau mưa

Mặt trời lặn, để quên
Chút nắng trên Tản Viên.
Nắng ấm, dính vào núi,
Núi và trời dính liền.

17
Mua khế giống ở Ngọc Thụy

Thằng bé ngủ ngoài sân,
Mặt trời xuống thấp dần.
Với tay níu cành quả,
Nắng rụng đầy dưới chân.

18
Vãn chùa Thuyền Quang

Buồn buồn một ni - cô
Cho cá ăn bên hồ.
Có ai cười khe khẽ
Mà nghe như rất to.

19
Chiều đông

Phòng nửa tối, nửa sáng.
Gió thổi tung nửa mành,
Đưa tận chân chiếc lá
Nửa vàng, nửa còn xanh.

20
Nằm trên đê, chờ đò ở bến Phúc Ninh

Dùng dằng không dứt được,
Để nhỡ chuyến đò ngang.
Giận con bướm bay lượn
Làm rối sợi nắng vàng.

21
Thơ làm khi đi thuyền ở Bích Động

Nắng chiều sót lại nửa dòng sông.
Chiếc miếu cô đơn đứng giữa đồng.
Sau mưa núi đá như bốc khói,
Hoàng hôn lúc tím, lúc như hồng.

22
Đáp khi được hỏi về mơ ước lớn nhất

Hoa, núi, cảnh bình yên.
Dòng sông, một chiếc thuyền.
Lều tranh nằm đọc sách .
Nước lạnh soi lòng thiền

23
Đêm trăng khó ngu đi dạo giữa làng

Mây sà sát ngọn cây,
Sương mù dính vào tay.
Ao lạnh soi trăng đục
Dẫm phải bùn, lấm giày.

24
Sáng xuân

Ngồi ngắm hoa, sưởi nắng,
Không thơ, không buồn lo,
Lòng thảnh thơi, tĩnh lặng
Như nước lặng dưới hồ.

25
Thơ viết khi mới ngủ dậy

Hình như đêm qua say,
Nghĩ được bài thơ hay,
Giờ không sao nhớ nổi
Cứ tiếc mãi điều này.

26
Vô đề

Có thể vì ngây thơ,
Cố ý hoặc tình cờ,
Một lần nói dối bạn,
Hối hận đến bây giờ.

27
Viết trong khi ngồi uống trà và
ngắm hoa cúc cùng bạn cũ là
phó tiến sĩ địa chất Hoàng
Khiển bên bàn đá trong vườn

Thấy tóc bác điểm trắng
Tưởng là bụi thời gian.
Nhưng nhìn kỹ không phải,
Hóa ra là bụi trần.

28
Một thoáng cô đơn

Sách gấp, cổng khép hờ.
Con chó sủa vu vơ.
Trà pha chắc đã ngấm.
Không ai hẹn cũng chờ.

29
Nguyên Tiêu

Đã tắt mấy tuần hương.
Có ai đi ngoài đường.
Mưa rơi lên tàu chuối...
Mai chắc trời nhiều sương.

30
Đêm đông

Gió lạnh thổi qua rèm,
Lá xạc xào trong đêm.
Tưởng ai, ra mở cổng -
Thấy trăng sáng nửa thềm.

31
Trúc sấu lão công khanh

Thơ rượu, nhàn suốt ngày,
Lòng nhẹ tênh như mây.
Chỉ khi nhìn khóm trúc,
Tủi mình không được gầy.

1. Thơ Trần Nguyên Đán: Ông quan già có công, người gầy, gân guốc như cây trúc.

32
Tuổi già

Một lần gặp nhau bên bàn rượu, hàn huyên đủ chuyện, bất chợt một người bạn bảo tôi đã già, tôi hỏi vì sao, bạn tôi đáp, đại khái thế này:

Ngồi uống rượu, ngắm hoa.
Cô gái đẹp đi qua
Mà hình như không thấy -
Nghĩa là bác đã già.

33
Suy nghĩ về thơ khi xem tranh
Tề Bạch Thạch

Phóng túng và giản dị,
Không màu mà nhiều màu.
Ít lời mà nhiều ý,
Đọc thoáng mà nhớ lâu.

34
Cảm tác khi đọc câu thơ “Tam vạn quyển thư vô dụng xứ” của Trần Nguyên Đán.
Bài một
                                
Tờ giấy dẫu rất nặng,
Nhưng cái nặng của lời
Nhiều khi còn quá nhẹ
Để thay đổi cuộc đời.

35
Cảm tác khi đọc câu thơ "Tam vạn quyển thư vô dụng xứ" của Trần Nguyên Đán
Bài hai
                           
Sách giúp thành thông thái,
Giúp ta hướng về thiền,
Nhưng nhiều khi cản trở
Con người sống tự nhiên.

36
Về thăm quê, chiều đi dạo trong
làng, cảm tác

Không còn trâu về xóm
Chỉ có chiếc máy cày.
May quê còn giữ được
Chút nắng và chút cây.
37
Bức tranh quê chiều đông
ở Diễn Châu

Hai bà cháu nhặt thóc,
Sưởi nắng quái bên ao.
Ao tù sấu chín rụng,
Không nghe rõ tiếng nào.

38
Từ hiên nhà nghỉ Tam Đảo,
đêm trăng

Hương hoa thấm vào áo.
Trăng lạnh, chiếu lên rêu.
Núi trong đêm mờ ảo.
Con chim gì cứ kêu.

39
Nhà mới ở Gia Lâm
Bài một
                                           
Ngồi buồn, một chiếc lá
Gió thổi, rơi vào tay,
Tự nhiên bỗng biến mất
Mọi phiền muộn trong ngày.

40
Nhà mới ở Gia Lâm
Bài hai
                                            
Về, không nghe tiếng chó,
Lo, chẳng hiểu vì sao.
Thấy khóm tre trước ngõ
Mới yên tâm phần nào.

41
Vãn cảnh chùa ở Cổ Loa, Đông Anh

Giếng lạnh soi bóng mây.
Bàng đang mùa rụng lá.
Cảnh đã buồn thế này,
Lại gặp toàn người lạ.



42
Đọc thơ Vương Duy, cảm tác

Ồn ĩ suốt cả đời,
Tóc trên đầu tự bạc.
May giờ được thảnh thơi
“Dĩ ngộ tịch vi lạc”

43
Chợ trên sông

Buổi sáng, thủy triều còn chưa lên,
Buôn bán ngược xuôi, chợ đông thuyền.                               
Một chiếc, chủ nhân say ngủ thiếp,
Cọc sào quên cắm, vẫn đứng yên.

44
Nói với ông giáo Hán văn Nguyễn Đức Ngọ khi đi dạo quanh chỗ nước nông Hồ Tây ở Quảng Bá.

Dọc súng chao trên nước.
Sen héo, liễu la đà.
Bên hồ, hai tảng đá
Hình như đang chờ ta.

45
Đầu xuân, ngẫu tác

Núi choán hai phần cửa,
Nước trong, trời cũng trong,
Mà bỗng nhiên vô cớ
Vương vấn đục trong lòng.

46
Sau mưa

Nắng ướt chiếu qua rèm.
Hôm qua mưa suốt đêm.
Tự nguyện thay con ở
Quét hoa rụng ngoài thềm.

47
Tiễn bạn

Tiễn anh ra tận sông,
Lúa đang độ đâm bông
Nhìn về phía Hà Nội
Thấy toàn mây bập bồng.

48
Nhà mới ở Gia Lâm

Suốt ngày dạo ngoài đê,
Mải ngắm quên cả về.
Cởi giày đi chân đất,
Trẻ tưởng ông nhà quê.

49
Ngẫu hứng
Bài một
                                               
Hình như ngày một yếu,
Đời nặng, lưng đang còng.
Đỡ lại, may còn có
Thơ, núi và dòng sông.

50
Ngẫu hứng
Bài hai
                                           
Cúi mình soi xuống nước
Xem già đến mức nào.
Chỉ bực con chim nghịch,
Ném quả gì xuống ao.

51
Ngẫu hứng
         Bài ba
                                                        
Kể từ ngày từ quan
Sống ẩn dật, an nhàn,
Hàng xóm nghi: thất sủng!
Vợ phẩy tay: ông gàn!

52
Đến nhà một người bạn cũ, không gặp

Ao lạnh soi cỏ héo,
Thềm lốm đốm xác hoa.
Cửa đóng, cô hàng xóm
Đon đả mời vào nhà.

53
Vô đề

Vườn tối, trăng chưa lên,
Lười không dậy thắp đèn.
Buồn giở sách ngồi đọc
Nhờ ánh sáng nhà bên.

54
Trăng đầu tháng
Bài một
                                       
Ngõ sâu trăng mờ mờ.
Ngồi suy nghĩ bâng quơ.
Ngoài đường ai bước mạnh,
Làm rụng mất ý thơ.

55
Trăng đầu tháng
Bài hai
                                          
Đường vắng, cây động đậy.
Bỗng nghe có tiếng cười,
Ngoái lại nhìn chỉ thấy
Bóng đổ dài hơn người.

56
Bí thơ

Nắng xuyên qua liếp cửa
Thành tia bụi mờ mờ.
Một mình với con chó,
Xung quanh toàn sách thơ.

57
Đêm trăng trong vườn

Hương hoa nhài nhè nhẹ
Thấm lạnh nửa gấu quần.
Ánh trăng như sữa loãng
Chảy dinh dính dưới chân.

58
Gửi P. V. V

Vật lộn với cái rét,
Hoa đã nhú trên cành.
Nâng chén rượu định uống,
Chợt bùi ngùi nhớ anh.

59
Đồng Mô 
Bài một    
                                               
Hồ nửa mưa, nửa nắng
Ngắm không chán cả ngày.
Chắc những người luôn vội
Chỉ thấy nước và mây.

60 
Đồng Mô
Bài hai  
                                           
Hồ trong, mưa vừa tạnh.
Rừng lá đỏ, lá vàng.
Trời cao xanh, mây lạnh.
Đàn vịt bay thành hàng.

61
Trung du, nhìn từ cửa sổ
nhà một người quen

Con đường mòn màu gạch
Chạy men theo chân đồi.
Sau mưa, làn mây rách
Không gió, tự mình trôi.

62
Tiễn phó tiến sĩ địa chất
Hoàng Khiển về quê Nghệ An
thăm vợ

Tiễn anh về, ướt áo,
Lại ngồi ngắm sông Hồng.
Năm nay mưa nhiếu thế,
Sông Lam có đục không?

63
Tam Đảo

Suối nông, không ngập đá.
Lá đỏ nhiều hơn xanh.
Dưới khe, cô gái lạ
Cười, còn chào bằng anh.

64
Đáp khi được hỏi sống thế nào
từ ngày thôi việc

Tự hòa vào cây cỏ,
Từ quan, không từ đời.
Tự do như ngọn gió,
Thích, suốt ngày đi chơi.

65
Đêm trăng ở Nghi Tàm

Hình như ai chèo thuyền
Làm xao động lá sen.
Hay chỉ tiếng giặt áo
Của cô gái nhà bên?

66
Buổi sáng đầu xuân
Bài một           
                                        
Bầy gà con mới ấp
Xốp như bông, tròn tròn,
Xúm vào nhau. Đếm mãi
Vẫn không biết mấy con.

67
Buổi sáng đầu xuân
Bài hai         
                                  
Con mèo duỗi chân ngáp.
Một góc thềm đẫm sương.
Vợ mang cà phê đến.
Nắng mỏng dính lên tường.

68
Đầu thu, đêm mưa, ngồi một mình
Bài một        
                               
Nửa đêm, thuyền trên sông
Le lói đốm lửa hồng.
Hình như ai đang khóc,
Cũng có thể là không.

69
Đầu thu, đêm mưa, ngồi một mình
Bài hai    
                        
Gió lạnh, trời sắp sáng,
Mưa rả rích suốt đêm.
Chốc chốc khế chín rụng
Làm nước té lên thềm.

70
Làng gốm Bát Tràng
Bài một         
                            
Bóng hoa trên cửa sổ.
Núi mờ mờ xa xa.
Lúa trổ bông, theo gió
Hương bay đến tận nhà.

71
Làng gốm Bát Tràng
Bài hai            
                           
Đồng không, chiều man mác.
Mặt trời đã lên cao.
Không có cây để biết
Gió đang thổi hướng nào.

72
Làng gốm Bát Tràng
Bài ba         
                                   
Mỉm cười với cây cỏ,
Nghĩ thơ, nói thành lời.
Người đi ngang liếc trộm,
Tưởng ông già dở hơi.


73
Làng gốm Bát Tràng
Bài bốn         
                                  
Bóng hoa đào run rẩy
Nằm dưới vũng nước nông.
Dưới trăng cúi nhìn kỹ -
Hình như bóng màu hồng.

74
Làng gốm Bát Tràng
Bài năm   
                                  
Xóm nhỏ nghèo ven đê.
Sau cơn giông đầu hè
Khói lam chiều, gió lặng,
Vương mãi trên bờ đê.

75
Làng gốm Bát Tràng
Bài sáu         
                               
Gió hây hây, trăng sáng.
Mải làm thơ, ngắm hoa,
Suýt quên không mở cửa
Cho gió xuân vào nhà.

76
Làng gốm Bát Tràng
Bài bảy        
                               
Đào mới trồng, chưa nở,
Nhỡ mất một mùa xuân.
Trăng mọc, cây đổ bóng,
Dính cả vào ống quần.

77
Làng gốm Bát Tràng
Bài tám 
                                    
Ít khi rời thành phố,
Dạo thơ thẩn bên sông.
Chút nắng vương trên tóc
Đêm sáng mãi trong phòng.


78
Bờ đê Sông Hồng, ban đêm

Mờ mờ mấy chấm đèn.
Phía Ngọc Thụy trăng lên.
Chó sủa sâu trong ngõ.
Nhạc buồn buồn nhà bên.

79
Tranh thủy mặc
Bài một       
                                       
Trời như nền giấy trắng.
Một vệt sông mờ mờ.
Mấy chấm thuyền im lặng.
Một cành liễu lơ thơ.

80
Tranh thủy mặc
Bài hai     
                                          
Trăng to tròn, rất gần.
Vệt núi xa rất mảnh.
Con cò đứng một chân.
Cỏ lau trong đầm lạnh.

81
Tranh thủy mặc
Bài ba          
                                     
Liễu lòa xòa, ao nhỏ.
Bậc đá rửa khập khênh.
Nhện đuổi nhau trên nước.
Lá sen úa bập bềnh.

82
Chuyện vặt trong nhà

Con gái vừa mới lớn
Tập đánh phấn trong phòng.
Thấy bố vào xấu hổ,
Chưa đánh, má đã hồng.

83
Thầm nói chuyện với
họa sĩ Lê Đại Chúc

Càng già càng lập dị,
Hý hoáy vẽ hàng giờ.
Trời không cho tài vẽ,
Đành học vẽ bằng thơ.

84
Bến đò Hoàng Mai,
tiết hàn thử năm Mậu Dần

Con đường mòn uốn khúc.
Gió lặng, nước đang lên.
Thuyền ai cột dưới bến.
Bóng cây che nửa thuyền.

85
Lâu ngày đến chơi nhà ông Lê Phương ở cống Xuân Quan, Bát Tràng

Chén này, thêm chén nữa,
Mải uống, quên cả về,
Để trăng buồn, lặng lẽ
Đợi một mình ngoài đê.

86
Đêm mồng chín tháng Hai Mậu
Dần, bỗng nhớ quê cũ Diễn Châu

Tiếng con mọt đục sách
Nghe rất rõ trong phòng.
Có lẽ đêm sắp hết.
Trăng sáng ngoài bãi sông.

         87
Mưa phùn trên sông

Bến sông, mưa lất phất.
Đò ai quên cột dây.
Vô tình hay hữu ý,
Cành liễu chạm vào tay.

88
Sống nhàn ở Gia Lâm

Suốt ngày nhìn bóng nắng
Chầm chậm bò lên thềm.
Đọc sách nhờ gió lật,
Đợi quỳnh nở suốt đêm.

89
Viết khi qua cầu Chương Dương

Nước xuống, sương dày đặc.
Sông lấm chấm ánh đèn
Đêm nay trời rét thế,
Chắc gì trăng đã lên.

90
Ngẫu tác

Bỏ đại ngôn, triết lý
Tập làm thơ điền viên.
Bỗng thấy đời giản dị,
Mình cũng thêm chút thiền.

91
Nước lên

Đêm, ngoài sông nước lên
Trong phòng nghe rất rõ.
Có điện nhưng thắp đèn.
Chắc trời đang lặng gió.

92
Chiều, ngắm cảnh Hồ Tây,
bâng quơ nghĩ về những năm
tháng đã sống

Đời, như nắng trên nước,
Chỗ tối, chỗ lung linh.
Sai đúng tự mình biết,
Buồn vui cũng tự mình.

93
Bức tranh quê
Bài một    
                                              
Bầy trẻ tắm dưới ao.
Con nghé cọ bờ rào.
Ông lão ê a hát,
Say, gặp ai cũng chào.

94
Bức tranh quê
Bài hai 
                                                    
Như nét chì vẽ vụng,
Chiếc cầu vắt qua sông.
Trẻ chăn trâu bên cạnh.
Mấy bà cấy giữa đồng.

95
Bức tranh quê
Bài ba 
                                                 
Ven sông, vườn đất ẩm
In rõ từng dấu chân.
Chắc mai mưa, lại mất
Sương ướt hai gấu quần.

96
Tiễn bạn
Bài một      
                                           
Tiễn anh về, khép cổng,
Ngồi uống rượu, đọc thơ,
Không biết mặt trời lặn
Rồi trăng mọc bao giờ.

97
Tiễn bạn
Bài hai    
                                       
Quán thơm mùi hoa sữa.
Mưa mãi không ướt đường.
Uống thêm chén này nữa –
Ngại gì trời nhiều sương?

98
Lập xuân

Đêm không trăng, trời tối.
Tiếng gọi đò ngoài sông.
Nhà bên chó bỗng sủa -
Chắc ai dậy ra đồng.

99
Gửi bạn thơ

Không có người thưởng thức,
Thơ nay rẻ như bèo.
Cho mình, ta cứ viết -
Sống đọc, chết mang theo.

100
Đầu xuân mưa nhỏ
Bài một              
                            
Gà lên chuồng, cổng khép.
Ếch nhái gọi ngoài ao
Đường làng sâu và hẹp.
Gió thổi xiêu bờ rào.

101
Đầu xuân mưa nhỏ
Bài hai   
                                 
Sắp tối, thuyền mờ những chấm đen.
Quán rượu bên sông đã thắp đèn.
Ai lách thuyền câu qua bãi sậy,
Vịt trời thấy động vụt bay lên.

102
Khó ngủ

Trăng chếch bên thềm, hoa đẫm sương.
Đêm thu, ao nhỏ thấm mùi hương.
Bến sông đò muộn người đang gọi,
Lá rụng ngoài sân, lạnh nửa giường.

103
Dạo chơi ngoài đồng, gặp mưa,
chợt nhớ quê

Có thể xế chiều, hoặc mới trưa,
Trú tạm đình làng đợi ngớt mưa.
Áo ướt, lo quê đang gặp hạn,
Lúa muộn đồng Chùa trổ hết chưa?

104
Đêm 14 tháng Ba năm Mậu Dần,
trời mưa, khó ngủ

Bức mành ngái ngủ, tự lung lay.
Cái buồn, cái ẩm dính vào tay.
Mưa rơi lộp bộp trên tàu chuối.
Chum nước ngoài sân chắc đã đầy.

105
Ngẫu hứng, tặng Trần Lệ An

Được bác đến chơi, vợ vắng nhà.
Rượu suông, trà nhạt chỉ mình ta.
Đàm đạo văn chương trong vườn nhỏ,
Bác về, tay áo dính đầy hoa.

          Hết Điền viên tứ tuyệt

No comments:

Post a Comment