Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Tám giờ kém mười. Lần nữa chuông rung dài
phía trong Nhà Hát Lớn.
Mấy người đến muộn đang vội vã leo lên
các bậc đá lát để đi qua chiếc cửa sắt nhỏ có bà soát vé to béo đứng cạnh, vừa
xé vé vừa giục họ nhanh lên vì buổi diễn sắp bắt đầu. Đúng tám giờ, chiếc cửa
sắt bị khóa. Bà kia lui sang bên, lơ đãng nhìn ra ngoài.
Cuối cùng, trước nhà hát chẳng còn ai
ngoài mấy người bán hàng rong, một thanh niên mặc quần áo bộ đội vẫn ngồi trên
yên xe đạp, chân chống xuống đất, một cô gái trẻ mặc áo khoác màu sáng luôn
nhìn đồng hồ, đi lại vẻ sốt ruột, và tôi.
Tôi không đi lại, không sốt ruột vì chẳng
chờ ai, chỉ buồn do không mua được vé vào nghe buổi hòa nhạc của một nghệ sĩ
pianô nổi tiếng người Nga mà tôi hâm mộ.
Đang cuối tháng Hai, mới Tết xong và trời
còn khá lạnh. Lại thêm chút mưa phùn lất phất, nhỏ thôi, và chỉ nhận thấy qua
ánh sáng vàng nhạt của mấy cột đèn gần đó.
Anh thanh niên đã đạp xe đi. Cô gái vẫn
nấn ná chờ người nhỡ hẹn. Tôi thì đứng ngay dưới cánh cửa sắt vì còn hy vọng
biết đâu ai đấy vào phút chót có thể thừa vé nhượng lại.
Cô gái không đội mũ. Mái tóc phi-dê cắt
ngắn xới phồng với những giọt nước li ti bám phía trên. Tôi ngạc nhiên thấy
chúng có màu khác nhau. Tế nhị không nhìn lâu, nhưng khi cô đi ngang tôi cũng
kịp nhận thấy một khuôn mặt rất xinh, hơi gầy và thanh thoát, có lẽ nhờ chiếc
mũi thẳng và đôi mắt sâu. Một vẻ đẹp cổ điển, sang trọng của người có văn hóa.
Mấy lần tôi định nhưng không dám hỏi mua lại một trong hai chiếc vé mà tôi tin
chắc nàng đang giữ trong chiếc ví đầm đeo bên hông.
Bất chợt nàng đi lại gần tôi và nói, rất
thản nhiên, giản dị:
“Anh có muốn đi dạo với em một chốc
không?”
Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi, đã tập
tãnh nghề văn và đang yêu. Tôi yêu một ca sĩ, nghiệp dư thôi nhưng đang nổi, ít
ra mấy lần đoạt giải các cuộc thi văn nghệ phong trào. Nàng cũng xinh và chúng
tôi yêu nhau thực sự. Có điều khác hẳn tôi, nàng không thích nhạc cổ điển nên
chẳng bao giờ chúng tôi cùng vào Nhà Hát Lớn, mặc dù chiều nàng, tôi luôn có mặt
ở những đêm ca nhạc tôi chẳng mấy thích thú.
Cô gái hơi lúng túng khi tôi, vì bối rối
chưa biết trả lời thế nào. Tuy nhiên chi mấy phút sau chúng tôi đã sóng đôi đi
dọc theo phố Tràng Tiền rồi vòng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm.
Thành phố ban đêm thật đẹp và yên tĩnh. Ánh
điện hắt lên mặt hồ thành từng vùng tròn như những chiếc trứng tráng trong
chảo. Phía nhà Thủy Tạ có mấy ngọn đèn xanh in ngược xuống nước thành hình những
chiếc cọc, tất nhiên cũng màu xanh và run rẩy như muốn gãy khuỵu dưới sức nặng
của chiếc quán hai tầng trên đó. Có tiếng kèn xắc-xô-phôn buồn buồn vọng lại,
xuyên qua lớp sương mù màu trắng ẩm ướt.
Chúng tôi lặng lẽ đi một đoạn dài không
ai nói gì. Cuối cùng tôi lên tiếng:
“Chị vừa chờ ai nhưng người ấy không
tới?”
“Em
chờ chồng em”, nàng đáp, cũng rất tự nhiên. “Nhưng không sao, em quen với cảnh này rồi”.
“Và để trả thù chồng, chị mời tôi, một
người lạ đi dạo thế này?”
Nàng không đáp. Tôi cũng im, lấy làm tiếc
đã hỏi điều đáng lẽ không nên hỏi. Tôi thấy lạ trước cách cư xử của nàng. Cứ như
ở một nước phương Tây nào đó. Rõ ràng nàng không thuộc loại phụ nữ dễ dãi, chưa
hẳn đã thích phiêu lưu, vì ở nàng tôi thấy có cái gì đó sạch sẽ và nghiêm túc.
Thế thì sao nàng, một người có chồng như đã nói, lại chủ động mời tôi đi dạo?
Có ẩn ý gì chăng? Nàng là ai và cần gì ở tôi?
Vì lúc ấy còn trẻ và đang bị trí tò mò
kích thích, tôi chẳng băn khoăn nhiều với những câu hỏi như thế, chỉ thấy sung
sướng được đi dạo cùng người đẹp trong một đêm Hà Nội mơ mộng.
Chúng tôi vào Thủy Tạ ăn kem, những hai
suất. Nàng để tôi trả tiền không chút kiểu cách. Rồi chúng tôi thong thả đi
thêm một vòng quanh hồ, sau khi quành sang phố Nhà Thờ, phố Hàng Trống và một
đoạn phố Hàng Gai. Khi trở lại Nhà Hát Lớn thì vừa đúng mười giờ rưỡi, cũng là
lúc buổi diễn kết thúc và lác đác đã có vài người đi ra. Tôi đề nghị được đưa
nàng về nhà nhưng nàng lắc đầu.
Nàng chìa bàn tay nhỏ bé của mình cho
tôi. Bàn tay mềm và ấm, lần đầu tôi được chạm vào nó.
“Anh dễ thương thật đấy. Suốt mấy tiếng
đồng hồ không hỏi một câu ngốc nghếch nào. Em thích những người như vậy. Em
cũng thích anh. Nếu anh hay đến nhà hát này thì chắc ta còn nhiều dịp gặp nhau.
Tam biệt và cảm ơn!”
Rồi nàng bỏ đi, đến đứng chếch phía bên
phải nhà hát. Lát sau có chiếc ô tô màu đen đi tới đưa nàng đi. Một cô gái kỳ
lạ mà lúc ấy tôi chưa biết tên và cô cũng chưa biết tên tôi.
Không phải tôi không hỏi câu nào. Theo
yêu cầu của tôi, nàng nói chồng nàng là một quan chức quan trọng, hơn nàng
những hai mươi lăm tuổi. Và rằng nàng đồng ý lấy ông vì bố mẹ bắt thế chứ chẳng
vì tình yêu. Tuy nhiên đó không phải lý do để nàng không quí trọng ông hoặc cảm
thấy bất hạnh. Đơn giản nàng nghĩ một khi đã là vợ chồng thì phải cư xử theo
đúng đạo vợ chồng. Xuất thân từ gia đình gia giáo, nàng nghĩ cần phải thế. Chỉ
tiếc ông không hiểu và không coi trọng nghề nàng. Tôi hỏi nghề gì, nàng chỉ im
lặng mỉm cười. Phần tôi, tôi nói đang yêu và cũng được yêu lại. Một cách xã
giao và hơi kỳ cục, chúng tôi chúc nhau hạnh phúc. Ngoài ra không hỏi gì hơn về
đời tư mỗi người.
Nửa tháng sau tôi lại vào Nhà Hát Lớn để
xem vở ba-lê Giselle do một đạo diễn người Pháp giúp Việt Nam dàn dựng.
Và lại gặp nàng. Không phải trước nhà hát mà trên sàn diễn. Hơn thế, trong vai
chính, tức là nàng Giselle xinh đẹp phải chịu nhiều đau khổ trước khi tìm được
hạnh phúc của mình như ở phần kết hầu hết các vở ba-lê khác.
Xem tờ rơi giới thiệu nội dung, tôi biết
tên nàng là Lệ Trinh, một diễn viên trẻ đầy triển vọng của Nhà hát Nhạc, Vũ
kịch Trung ương, mới tốt nghiệp trường ba-lê danh tiếng nhất Liên Xô, ở chính
thành phố tôi từng học trước đó mấy năm. Với cảm giác ngạc nhiên và hơi chút ít
lâng lâng, suốt buổi diễn tôi chỉ ngắm nhìn một mình nàng trong bộ đồ ba-lê
trắng mỏng tinh khiết. Cả người nàng cũng trắng mỏng tinh khiết. Nàng thoăn
thoắt bước đi trên hai đầu ngón chân bé nhỏ, xen những cú nhảy nhẹ tưởng như
không trọng lượng. Nàng đẹp một cách lộng lẫy. Cái đẹp hoàn thiện, thoát tục,
đến mức trong tôi chỉ còn lại cảm giác ngưỡng mộ như khi người ta ngưỡng mộ một
nữ thần. Thật khó tin mới chỉ mấy ngày trước đó tôi được nữ thần ấy mời đi dạo,
thậm chí được chạm tay nàng.
Sau buổi diễn, đứng khuất phía xa trước
nhà hát, tôi nhìn thấy nàng, vẫn chiếc
áo khoác hôm nọ, đang cùng một người đàn ông cao to mặc com-lê đen âu yếm dẫn
nàng đến chiếc ô tô màu đen đợi sẵn. Chiếc ô tô chở nàng lần trước. Trong vở
diễn nàng được chàng hoàng tử nâng trên đôi tay khỏe mạnh của mình, còn ngoài
đời, nâng đỡ nàng là chiếc ô tô của chồng, chức vụ và có lẽ cả đôi tay cũng rất
khỏe của ông ta. Tôi thở dài, thầm mỉm cười với sự so sánh ngồ ngộ ấy.
Tôi thờ thẩn bước đi giữa phố, đúng lộ
trình tôi và nàng đã đi lần trước. Lần này trời quang đãng và đầy sao. Những
ngôi sao khá lớn chen chúc trên mặt nước hồ Hoàn Kiếm. Tôi đứng hồi lâu trên
cầu Thê Húc, tay vịn vào thành cầu đẫm hơi sương nhưng không hiểu sao lám nhám
những hạt cát nhỏ. Tôi lờ mờ thấy mình đang yêu. Đúng, yêu nàng, nhưng là thứ
tình yêu khác hẳn với tình yêu đối với cô ca sĩ nghiệp dư đang nổi. Một tình
yêu trừu tượng, vô vọng và pha chút mặc cảm tội lỗi vì nàng đã có chồng.
Xưa nay ngoài sách, nhạc cổ điển là đam
mê lớn nhất của tôi, nên hầu như tôi không bỏ sót buổi hòa nhạc nào loại này ở Hà
Nội. Thậm chí thời sinh viên tôi từng mơ ước trở thành nhạc sĩ hoặc chỉ huy dàn
nhạc giao hưởng.
Mấy hôm sau tôi lại có mặt ở Nhà Hát Lớn
để nghe một chương trình nhạc Beethoven, gồm các bản giao hưởng số Một, số Sáu
và khúc dạo đầu (ouverture) Coriolant. Lần này may tôi mua được vé, tất nhiên
chỉ đi một mình.
Nàng xuất hiện đúng lúc tôi sắp bước vào
nhà hát, mặc quần jeans, đi giày da và khoác trên người chiếc áo len rộng màu
xanh nhạt. Tôi có cảm giác mặt nàng đỏ ửng, hơi thở gấp, có lẽ do trước đó phải
chạy một quãng.
“Chào Lệ Trinh,” tôi lên tiếng trước, cố
giấu vẻ hồi hộp. “Hôm nay chồng chị lại nhỡ hẹn nữa à?”
Nàng không ngạc nhiên khi tôi gọi đúng
tên.
“Không. Em đi một mình. Em đến đây vì
anh,” nàng đáp, cũng tự nhiên và giản dị như lần trước. “Anh có sẵn sàng bỏ
buổi hòa nhạc để đi dạo với em không?”
Chúng tôi lại đi theo các phố cũ, có ghé
vào Thủy Tạ nhưng không ăn kem mà uống cà phê, vừa uống vừa ngắm mặt hồ ban đêm
và ôn chuyện Liên Xô. Dường như đề tài này làm hai người tự nhiên, thân mật
hơn. Tịnh không một lời về đời riêng của nhau. Sau đó như lần trước, tôi đưa
nàng trở lại nhà hát chỉ mấy phút trước khi ông chồng đánh ô tô đến đón nàng
về.
Những tháng tiếp theo tôi còn mấy lần
được nàng rủ đi chơi như thế. Mấy lần thấy ông chồng cùng nàng vào nhà hát. Tuy
nhiên nàng chẳng tỏ ra thân mật hơn trước, ngoài việc tôi có thể giữ tay nàng
lâu hơn, thậm chí một lần còn nâng lên hôn mà không bị rút lại. Thỉnh thoảng
như vô tình, nàng hỏi chuyện tình yêu của tôi với cô kia, và tôi nói mọi chuyện
vẫn bình thường.
“Phải chăng nàng cũng yêu tôi, hay chẳng
qua đó chỉ là trò đùa của những người xinh đẹp, giàu có và rất hiểu rõ địa vị
mình?” Câu hỏi ấy cứ làm tôi băn khoăn mãi. Vốn hay mặc cảm và không muốn rơi
vào thế lố bịch, dẫu rất yêu, tôi vẫn luôn tỏ ra kiềm chế, vì dẫu sao nàng cũng
đã có chồng.
Một lần tôi còn chuẩn bị sẵn một bông
hồng giấu trong cặp định tặng nàng, nhưng khi gặp lại không đủ can đảm trao
nàng bông hồng ấy.
Sau đó, một thời gian rất lâu tôi không
thấy nàng xuất hiện, cả trên sàn diễn lẫn trước cửa Nhà Hát Lớn. Linh tính báo
có chuyện khác thường. Tôi nhờ người dò hỏi và được biết chồng nàng bị bắt cách
đấy không lâu (vì lý do gì không rõ), đang bị giam đâu đó tận Tây Nguyên, và
nàng đã bỏ hẳn vào đấy để chăm sóc ông.
*
Từ đó tôi chẳng biết gì thêm về Lệ Trinh. Rồi mọi cái cũng qua đi, kể cả
tình yêu của tôi với nàng, còn lại trong tôi chỉ là sự luyến tiếc mơ hồ như
luyến tiếc một kỷ niệm đẹp. Tôi lấy vợ, có con, không phải lấy cô ca sĩ xinh
đẹp không yêu nhạc cổ điển, cũng không phải vài người nữa tôi yêu sau đó. Cuộc
đời dần dần đi vào nếp ổn định. Tôi lấy thế làm hài lòng và chẳng có gì phải than
phiền. Tôi vẫn đều đặn vào Nhà Hát Lớn nghe hòa nhạc hoặc xem ba-lê. Chỉ những
lúc ấy tôi mới nhớ đến Lệ Trinh, đặc biệt hôm đầu tiên thấy nàng trên sàn diễn
trong vai cô gái Giselle xinh đẹp, tinh khiết và dường như không trọng lượng.
Tôi cũng nhớ cả những đêm được đi dạo bên nàng hoặc phải lang thang một mình
giữa các phố Hà Nội cho đến tận sáng như mọi chàng trai si tình khác. Rồi tôi
thương cho nàng đáng lẽ được ông chồng to khỏe, đạo mạo, đầy chức quyền kia
nâng trên tay đi hết cuộc đời, thì lại phải vào tận chốn rừng núi hoang vu miền
Nam để nuôi ông, nâng cái cơ thể to khỏe kia của ông bằng chính đôi tay bé nhỏ
của nàng, trên đôi chân đi những bước nhỏ bằng ngón kiểu ba-lê của nàng. Bây
giờ nàng thế nào và đang ở đâu?
*
Một hôm, bất ngờ tôi nhận được bức thư từ
Mỹ. Thư của Lệ Trinh.
“Chắc
anh không còn nhớ em và đang ngạc nhiên? Em là Lệ Trinh, người cùng anh mấy lần
đi dạo quanh hồ Hoàn Kiếm cách đây đã nhiều năm.”
Nàng viết, vẫn bằng giọng tự nhiên, chân
thành như xưa.
“Bây
giờ, ở khoảng cách an toàn, rất xa cả về địa lý lẫn thời gian, em mới dám nói
với anh điều này. Em yêu anh! Em đã rất yêu anh những ngày được gặp và không
được gặp anh thời ấy. Anh không biết, hay đúng hơn, em không cho anh biết điều
đó, vì em đã có chồng, còn anh thì đang yêu người khác. Dẫu mãnh liệt, tình cảm
của em đối với anh đã không thắng được ý thức đạo nghĩa vợ chồng trong em. Vả
lại em cũng không thể cho phép mình cướp đi hạnh phúc của cô gái anh yêu và yêu
anh. Đối với em đó là những ngày hạnh phúc nhất, đáng sống nhất. Còn sau đó chỉ
là một sự tồn tại, thuần túy một sự tồn tại theo các khuôn phép đạo đức do xã
hội qui định.
Dù
không yêu, em đã hết lòng tận tụy với chồng cho đến khi ông ấy chết bệnh trong
tù. Sau đó em theo mấy người bạn vượt biên và hiện đang sống ở Mỹ. Em đã có
chồng, có con, dường như có tất cả, chỉ trừ tình yêu. Anh là tình yêu duy nhất
của em. Lẽ ra em đã có thể đến với anh nếu em đủ dũng cảm thoát khỏi những ràng
buộc của qui ước xã hội.
Viết
thư này, em không có mong muốn nào khác ngoài được bộc lộ với anh những suy
nghĩ thầm kín của mình. Em những muốn, và đã cố, không bao giờ nói ra, nhưng
không được.
Hãy
tha thứ cho em.
Lệ
Trinh.
PS.
Xin anh đừng viết thư cho em. Điều ấy không cần thiết. Hơn thế, nó chỉ làm em
thêm đau khổ.
Bức thư đề ngày... tháng... năm 1989.
Mười lăm năm kể từ đêm tôi nhìn thấy nàng lần cuối.
*
Tháng Năm năm 2000, trong lần đi du lịch
một tháng với vợ ở Mỹ, tôi tìm đến nhà nàng theo địa chỉ ghi trên bì thư. Tất
nhiên một mình. Tôi không có ý định gặp hay trò chuyện với nàng vì nàng không
muốn điều ấy. Đơn giản chỉ muốn được nhìn qua ngôi nhà nàng đang sống. Đứng từ
xa mà nhìn. Đó là một ngôi nhà nhỏ, bình thường như bao ngôi nhà khác xung
quanh ở ngoại ô thành phố Raleigh, tiểu bang North Carolina. Nhà đóng
cửa, chỉ hai ô cửa sổ là không, nhưng được che bằng những chiếc mành trắng
mỏng. Tôi thong thả đi hai lần qua ngôi nhà ấy, ngồi xuống cạnh gốc cây đối
diện, hút hết một điếu thuốc rồi trở về khách sạn.
Tháng trước, tôi lại nhận được một bức
thư nữa từ Mỹ. Bức thư chỉ mấy dòng, được viết bằng nét chữ đàn ông rắn rỏi,
gần như tô từng nét.
“Theo
yêu cầu của người đã khuất, tôi xin báo ông biết rằng vợ tôi, bà Lệ Trinh, đã
từ trần ngày...vì nhồi máu cơ tim. Vợ tôi cũng nhờ nói lại rằng bà ấy đã nhìn
thấy ông ngồi hút thuốc trước nhà chúng tôi cách đây hơn hai năm. John Nguyen
Van Bach.”
*
Đó là toàn bộ câu chuyện về Lệ Trinh mà
chắc tôi sẽ không bao giờ viết ra nếu không nhận được bức thư ngắn này của
chồng nàng. Tôi chẳng còn gì để nói thêm, ngoài việc nếu có dịp tới Mỹ lần nữa,
nhất định tôi sẽ tìm đến mộ nàng để đặt lên đó bông hồng năm nào tôi định tặng.
Hà Nội, 2004.
No comments:
Post a Comment