Tuesday, March 3, 2015

TRUYỆN THƠ CÂY THUỐC VIỆT NAM


     
NHÂN SÂM          

1
Xưa, hai vợ chồng nọ
Đều đặn ngày một lần
Vào rừng hái củi bán
Mà vẫn không đủ ăn.   

Họ đi từ sáng sớm,
Đến tối mịt mới về.
Nhà có đứa con nhỏ,
Bé tí, hay khóc nhè.

Thường ngày họ để lại
Bát cơm hay bắp ngô,
Thế mà nó chóng lớn
Còn hồng hào, cao to. 

Họ lấy thế làm lạ.
Mãi khi con lên ba,
Gặng hỏi mãi được biết
Rằng khi họ vắng nhà

Có đứa bé nào đó,
Cũng trần truồng như con,
Đến chơi thân với nó,
Nhờ thế mà béo tròn.   

Cơm và ngô bố mẹ       
Thật lạ, nó không ăn,
Mà đem cho lũ khỉ.
Luôn lảng vảng đến gần.                          

Nghe thằng con nói thế,                           
Họ thấy lạ lùng sao,
Vì xung quanh mười dặm,
Không có láng giềng nào.

Rồi họ đưa sợi chỉ,
Bảo thằng bé thế này:
“Khi cậu bạn con đến,
Hãy lén buộc vào tay.”

Họ vờ đi hái củi,
Nhưng quay về, đứng rình,
Rồi thấy có cậu bé
Đến chơi với con mình.

Con họ, như được dặn,
Buộc chỉ tay cậu kia.
Chúng đang chơi vui vẻ
Thì bất chợt họ về.

Thằng bé thấy, bỏ chạy.
Biết chắc chắn không lầm,
Họ lần theo dấu chỉ
Tìm thấy cây nhân sâm.                           

Đúng như họ ngờ vực,
Rằng chính thằng bé này
Là Người Sâm béo bổ
Được truyền tụng xưa nay.

Vậy phải bắt lấy nó
Để béo bổ, hồng hào.
Rồi anh chồng vội vã
Lấy cuốc xẻng ra đào.

Tiếc anh ta nóng vội,
Sơ ý, đào quá tay,
Làm chết mất thằng bé,
Thần Người Sâm, Thần Cây.

Do vậy mà từ đó
Thần Người Sâm, than ôi,
Không làm ai bất tử,
Chỉ bổ dưỡng mà thôi.

Vì đào mạnh, cây chết,
Thân lá bay khắp nơi,
Nên nay ta chỉ có
Những rễ sâm hình người.                        

2
Nhân sâm là loại thuốc
Nổi tiếng từ rất lâu.
Trong sâm, nhung, quế, phụ,
Nó thuộc loại hàng đầu.

Sở dĩ có tên ấy       
Vì trông nó giống người,
Được xem là thứ thuốc
Chữa bách bệnh trên đời.

Nhân sâm có nhiều loại,
Loại mọc hoang, loại trồng.
Bạch sâm là loại trắng.
Hồng sâm là loại hồng.

Cây sâm cao nửa mét,
Thuộc loại cây lưu niên,
Rễ mẫm to thành củ,
Trồng được ở nhiều miền.

Loại cây này mọc chậm,
Ba năm cho hoa tươi,
Sáu năm mới có củ,
Thu hoạch vào tháng Mười.                     

Trung Quốc trồng nhiều nhất
Ở Liêu Ninh, Cát Lâm,
Bảy mươi lăm nghìn tấn
Là sản lượng hàng năm.

Ở Khai Thành, Hàn Quốc,
Sâm cũng trồng lâu đời,
Hai trăm năm kinh nghiệm,
Nay có bán khắp nơi.

Ta mới trồng thí nghiệm,
Tạm thời chưa thành công -
Có, nhưng ít và xấu,
Cả sâm trắng, sâm hồng.

Về tác dụng dược lý:
Tốt cho hệ thần kinh,
Ngừa các bệnh tim mạch,
Hô hấp và kháng sinh.

Cách dùng: Thái miếng mỏng
Rồi ngậm mủn, hay ăn.
Hoặc đem cho vào chén,
Đun cách thủy, uống dần.

Về liều lượng, tốt nhất,
Hai - sáu gam một ngày.
Bổ thì sâm bổ thật,
Quá liều cũng không hay.

Người ta lấy dung dịch
Sâm chỉ hai mươi phần.
Tiêm cho chuột, chuột chết
Sau mười giờ, chết dần.

Tuy nhiên, dung dịch ấy
Nếu uống thì không sao.
Độc tính sẽ rất ít
Cũng chẳng biết thế nào.                         

Nghe người ta kể lại,
Thời nhà Thanh, một lần
Bà Từ Hy Thái hậu
Mở tiệc đãi sứ thần.

Trong hàng mấy trăm món
Có món “độc” chuột hầm.
Một loại chuột đặc biệt
Ba đời ăn nhân sâm.

Vì vậy thành bổ dưỡng,
Có cả tính bổ dương,
Khiến ông cụ đại sứ
Của nước Anh siêu cường

Làm bà vợ đại sứ,
Cũng gần đất xa trời,
Sinh được một quí tử,
Khiến kinh ngạc mọi người.

Truyền thuyết là truyền thuyết,
Chưa chắc đúng hay không,
Nhưng nhân sâm quả có
Chất kích thích đàn ông.


BẠCH CHỈ

1
Ngày xưa có cậu Tú,
Tuổi mới khoảng ba mươi,
Một hôm đầu đau nhức,
Đau đến buốt khắp người.

Không thuốc nào chữa được.
Các thầy lang bó tay.
Và thế là cậu Tú
Ôm đầu rên suốt ngày.

Một hôm, được người mách
Rằng ở núi Vu Lương,
Có một thầy thuốc giỏi.
Chàng vội vã lên đường.

Ông thầy không cho biết
Chữa bằng loại thuốc gì.
Chỉ biết là thuốc tán,
Vo tròn như viên bi.

Cậu Tú uống thuốc ấy
Thấy bệnh tình đỡ dần.
Rồi đầu không đau nữa
Chỉ trong vòng một tuần.          

Cậu tò mò muốn biết
Cây thuốc đó thế nào.
À, một loài thảo dược,
Thân mềm, cây không cao.

Rễ của nó màu trắng,
Có mùi thơm hơi nồng,
Mới được thầy tìm thấy
Trên núi chứ chưa trồng.

Phải đặt tên cho nó.
Thế là hai ông con,
Đặt là Hương Bạch Chỉ.
Thơm, màu trắng, rễ non.

Sau người ta rút gọn,
Cho tiện gọi hàng ngày,
Đơn giản thành bạch chỉ.
Không quan trọng điều này.

2
Bạch chỉ là vị thuốc
Bằng rễ cây cùng tên,
Nằm trong họ Hoa tán,
Công hiệu như thuốc tiên.

Xuất xứ từ Trung Quốc,
Được nhập vào nước ta,
Trồng nhiều ở Tam Đảo,
Và vùng lạnh Sapa.

Cho đến nay, bạch chỉ
Chưa dùng trong thuốc Tây.
Một vị thuốc quan trọng,
Có tính ôn, vị cay.

Nó được dùng chủ yếu
Như loại thuốc giảm đau,
Chữa cảm mạo, hoa mắt,
Nhức răng và đau đầu.

Bạch chỉ giúp cầm máu,
Chảy máu cam thường xuyên,
Hoặc đại tiện ra máu.
Uống vài thang, khỏi liền.

Dùng dưới dạng thuốc sắc,
Năm - mười gam một ngày.       
Hoặc dùng dưới dạng bột,
Ngày vài gam cũng hay.

Khi trẻ con nóng sốt,
Bố mẹ hoặc ông bà
Nấu bạch chỉ, để nguội,
Tắm cho chúng trong nhà.

Ai mắc chứng hôi miệng,
Lấy bạch chỉ, xuyên khung,
Ba mươi gam một vị,
Tán thành viên mà dùng.


ĐƯƠNG QUY

1
Ngày xưa có làng nọ
Ở gần sông Bạch Long,
Nay thuộc tỉnh Cam Túc,
Đất tốt, người lại đông.

Trong vùng có ngọn núi
Tên chữ là Đại Tiêu.
Đó là kho thuốc quí,
Nhưng thú dữ rất nhiều.

Nên tiếc thì tiếc thật
Mà không ai dám vào.
Trai làng quả không ít,
Nhưng kém mặt anh hào.

Ấy thế mà bất chợt
Có một chàng thư sinh
Quyết vào rừng hái thuốc,
Bỏ cô vợ rất xinh

Ở với mẹ, và dặn
Ba năm về, nếu không
Coi như chàng đã chết,
Nàng cứ việc lấy chồng.    

Sau ba năm chờ đợi,
Mãi không thấy chồng về.
Cô vợ đi bước nữa,
Lấy một ông nhà quê.

Thật oái oăm, bất chợt,
Chàng thư sinh về nhà.
Nhà trống hoang, lạnh lẽo,
Chỉ còn lại mẹ già.

Vợ chàng thì hối hận
Đã không ráng chờ thêm,
Rồi đổ bệnh, ốm yếu
Vì than thở ngày đêm.

Chàng hay tin, đem thuốc
Vừa lấy được trong rừng,
Nhờ người bạn mang đến,
Còn hướng dẫn cách dùng.

Sau một thời gian uống,
Bệnh của nàng đỡ dần,
Rồi đột nhiên khỏi hẳn,
Cứ như có phép thần. 

Lại nói anh chồng mới,       
Nhà quê, rất thật thà.
Thấy vợ ốm khỏi bệnh
Và chồng cũ về nhà,

Bèn đem vợ đến trả
Rồi bỏ đi biệt tăm.
Một người vừa biết nghĩ
Và cũng rất có tâm.

Câu chuyện này có thật
Loan truyền trong đám đông.
Ai cũng mừng, rốt cuộc,
Nàng trở về với chồng.

Nên mới có huyền thoại
Là Đương Qui sau này.
Đương qui là quay lại
Về với chồng, may thay.

2            
Đương Qui là vị thuốc
Chữa các bệnh phụ khoa,
Như bần huyết, đau bụng,
Các rắc rối đàn bà.

Phụ nữ bốn mươi tuổi
Thường dùng đương qui tinh
Để điều chỉnh huyết mạch
Trong những ngày có kinh.      

Đương qui cây không lớn,                 
Khoảng sáu, bảy mươi phân,
Sống lâu năm, nhiều lá,
Có rãnh tím quanh thân.

Nó được trồng chủ yếu
Ở Triều Tiên, Trung Hoa,
Gần đây được trồng thử
Vài nơi ở nước ta.

Là một vị thuốc chính,
Như đã nói, đương qui
Được sử dụng rộng rãi
Trong các bài đông y.

Chữa bệnh rối kinh nguyệt -
Trước có kinh bảy ngày,      
Uống dưới dạng thuốc sắc,
Hoặc rượu ngâm cũng hay.        

Thuốc sắc uống liên tục
Từ một đến hai tần.
Mươi gam một lần uống
Và uống ngày hai lần.

Nó còn giúp bổ máu,
Tay chân lạnh, nhức đau,
Giúp giảm bớt mệt mỏi,
Khó chịu và đau đầu.
                                               

KỶ TỬ

1
Theo truyền thuyết kể lại,
Tể tướng Phòng Huyền Linh
Kiệt sức vì vất vả
Giúp vua Đường của mình.

Các thái y thấy thế
Thường xuyên nấu ông ăn
Cháo quả cây kỷ tử,
Sức khỏe bình phục dần.

Lại có một truyền thuyết
Rằng xưa ở Ninh An,
Nay thuộc tỉnh Ninh Hạ,
Có người con gái ngoan

Tên là Cẩu Hồng Quả.
Cha cô sớm qua đời.
Mẹ cô thương xót khóc
Đến mù mắt, rạc người.

Rồi không quản vất vả,
Cô đến núi Hoàng Du
Mong tìm thấy thuốc quí
Chữa cho bà mẹ mù.

Tiên ông Bạch Hồ Tử
Cảm cái lòng của cô
Chỉ chỗ cây kỷ tử,
Cô hái nó, không ngờ

Mẹ cô uống khỏi bệnh.
Từ đó, dân vùng này
Gọi là “minh mục tử”,
Thuốc chữa mắt rất hay.

2
Thời xa xưa, kỷ tử
Được gọi là “địa tiên”,
Hay “thiên tinh”, “khước lão”,
Coi như vị thuốc tiên.

Nguồn gốc ở Trung Quốc,
Đã nhập trồng nước ta.
Nó là cây thuốc quí,
Được xếp vào họ Cà.

Cây cao khoảng một mét,
Cành nhỏ và có gai.
Hoa có màu tím đỏ,
Quả mọng, hình trứng dài.

Khi thu hoạch, lấy quả,
Quả chín hoặc phơi khô.       
Quả hái vào buổi sáng,
Mùa hè và mùa thu.

Nó là vị thuốc bổ,
Lợi cho bệnh đái đường,
Ho lao và viêm phổi,
Bổ khí huyết, bổ dương.

Dùng dưới dạng thuốc sắc,
Hoặc ngâm rượu cũng hay.
Nhớ nên dùng đều đặn,
Khoảng mươi gam một ngày.

Lá kỷ tử rửa sạch
Nấu canh với thịt bò
Hay thịt lợn đều tốt,
Chữa bệnh sốt, bệnh ho.

Rễ củ cây kỷ tử
Cùng các vị thuốc nam
Có thể chữa nhiều bệnh,
Đơn giản và dễ làm.

Theo các nhà nghiên cứu,
Kỷ tử là loài cây
Dược lý rất phong phú
Được biết đến gần đây:

Cải thiện hệ miễn dịch,
Tuyến thượng thận, tuyến yên,
Chống loạn lipid máu,  
Chống mỏi mệt, ưu phiền;

Làm giãn mạch, hạ áp,
Tái sinh tế bào gan,
Làm chậm sự lão hóa,
Ngừa phóng xạ, vân vân.



CHUỐI

1                                                  
Thời xa xưa, Thượng đế,
Cứ ba năm một lần
Tổ chức chọn cây đẹp
Để làm lễ tế thần.

Có một chàng trai nọ
Tên gọi là Lan Tiêu,
Vợ mới sinh con gái,
Bụ bẫm và đáng yêu.           

Chàng yêu và chiều nó,
Chơi với nó suốt ngày,
Bất chợt nẩy ý định
Tạo ra một giống cây

Thân mềm mềm và mát
Như da thịt của con,
Các lá to và rộng,    
Chụm lại thành hình tròn.

Quả màu vàng, da mịn, 
Thon dài như ngón tay
Trên bàn tay năm ngón,     
Cứ to thêm từng ngày.

Cô bé chơi với nó,
Như đôi bạn rất thân
Trong bóng râm tàu lá,
Đói thì hái quả ăn.

Một lần, khi Thượng đế
Cho mở hội thi cây,
Chàng Lan Tiêu quyết định
Dự thi cây mới này.

Thượng đế xem, thích lắm.
Sau khi nghe Lan Tiêu
Giảng giải về ý nghĩa,
Về cả đứa con yêu,

Ngài tuyên bố chàng thắng,
Rồi về ngồi trên ngai.
Lát sau, vì đãng trí,
Ngài hỏi: “Cây của ai,

Cây của ai thắng nhỉ?
Cây tên gì, ở đâu?”
Mọi người đáp: “Cây cuối.”
Vì Lan Tiêu đến sau.

Và rồi, loài cây ấy
Do đứng cuối, người đời
Gọi chệch thành cây chuối,
Một loài cây tuyệt vời.

2       
Cây chuối có nhiều loại:
Chuối tây rồi chuối ta,
Chuối rừng rồi chuối hột,
Chuối nước rồi chuối hoa...       

Theo các nhà khoa học,
Có hai mươi lý do
Để ta nên ăn chuối,
Yên tâm ăn kỳ no.

Nó bổ sung năng lượng,
Chữa trầm cảm rất tài,
Giảm bớt sự khó chịu
Khi phụ nữ mang thai.

Chữa bệnh cao huyết áp,
Hoặc suy yếu thần kinh,
Bệnh đường ruột, thiếu máu,
Làm tăng trí thông minh.

Chuối giúp cai thuốc lá,
Chữa béo phì, khó tiêu,
Giảm nguy cơ đột quị,
Tóm lại là rất nhiều.

Chuối hột, hay chuối chát,
Cũng là vị thuốc hay.
Dưới đây xin được trích
Một số bài thế này:          

Chuối hột chữa tiêu chảy -
Bóc vỏ, thái thành khoanh,
Ăn sống, nên chấm muối
Khi muốn ăn chuối xanh.

Chữa hắc lào - đơn giản
Lấy chuối xanh thái dày
Rồi xát lên chỗ ngứa,
Độ năm đến bảy ngày.

Trẻ em khi táo bón,
Lấy chuối chín nướng lên,
Rồi ăn khi chuối nẫu,
Bên ngoài, vỏ sạm đen.   

Chữa phát cuồng, cảm sốt,
Cũng thế, bệnh tiểu đường -
Củ chuối giã, uống nước,
Bệnh hết, lại bình thường.

Ngoài ra, rễ chuối hột
Chữa cảm mạo cũng hay.
Phơi khô vỏ và lá
Sắc nước, uống hàng ngày

Rất tốt cho lợi tiểu,
Chữa đái dắt, biếng ăn...
Nhắc lại: Ăn chuối tốt.
Vậy hãy ráng mà ăn.


CÂY ĐU ĐỦ

1
Ngày xưa có người nọ,
Nghèo, nhưng sống an nhàn.
Ông thích nuôi chim cảnh.
Nhà lại gần nhà quan.

Một hôm, con chim ấy
Bay sang nhà quan chơi,
Ăn vụng ba hạt bắp
Trong nong bắp đang phơi.

Ba năm sau bất chợt
Quan sang nhà bắt đền.
Bắt đền ba hạt bắp?
Ừ, muốn đền thì đền.

Ông xuống bếp, quay lại,
Ba hạt bắp trên tay.
Quan lắc đầu, rồi nói:
“Không đơn giản thế này.

Ba hạt bắp, anh biết,
Mọc thành ba cây ngô.
Mỗi cây có hai bắp,
Hạt mẩy và rất to.

Hạt của sáu bắp ấy
Lại gieo cho mùa sau.
Thế thì sẽ nhiều lắm.
Anh thử nhẩm trong đầu.

Rồi đến mùa sau nữa.
Cứ nhân lên, rất nhiều...”
Quan lấy bàn tính tính,
Nét mặt rất đăm chiêu.

Cuối cùng quan tuyên bố:
“Anh phải trả cho ta
Không dưới ba tấn bắp,
Mà phải mang tận nhà!”

Anh kia nghe, sợ quá,
Chắp tay rồi dập đầu:
“Bẩm, nhà con nghèo đói,
Con biết lấy ở đâu?”

“Ở đâu tao không biết.
Hay muốn tù mọt gông?”
Anh nghèo cực chẳng đã,
Thất thểu đi ra đồng.

Anh ta bò lổm ngổm
Nhặt từng hạt bắp rơi,
“Ôi, nhặt đâu cho đủ?
Chắc phải nhặt suốt đời.”

Cuối cùng, anh ta chết,
Xác nằm bên bờ mương.
Rồi ở đó xuất hiện
Một loài cây khác thường.

Thân nó mềm, nhiều đốt,
Lá nó rộng và to.
Trái nhiều, trông na ná
Như những hạt bắp ngô.

Dân làng gọi “đâu đủ”,
Kiếm đâu đủ ngô đây...
Sau chệch thành “đu đủ”
Nên mới có tên này.

2
Trong dân gian, đu đủ
Là vị thuốc xưa nay.
Trái chín giúp tiêu hóa,
Khó tiêu và bụng đầy.

Đu đủ xanh nấu kỹ
Cho thêm ít thịt gà
Chữa dạ dày rất tốt,
Khỏi bệnh, lại béo ra.

Đu đủ xanh vắt nước
Xoa lên mặt và tay,
Các nốt tàn hương nhỏ
Sẽ mờ dần từng ngày.

Nước sắc lá đu đủ
Rửa vết loét trên da,
Tẩy vết máu trên vải,
Sắc sẵn, để trong nhà.

Lá đu đủ thái nhỏ
Đem trộn với cỏ khô
Chữa được bệnh ăn biếng
Cho ngựa và trâu bò.

Nước sắc rễ đu đủ
Uống mỗi ngày một lần
Giúp cầm máu băng huyết,
Sỏi thận cũng tan dần.

Lấy hoa đu đủ đực,
Hoa tươi hoặc phơi khô,
Hấp với đường mà uống,
Chữa mất tiếng, hen, ho.


QUẢ MƠ

1
Xưa, một người trẻ tuổi
Có tài làm thơ hay.
Bố từng là thầy thuốc,
Nên cũng biết nghề này.      

Chàng yêu một cô gái
Con một nhà trong làng.
Nàng cũng yêu chàng lắm.  
Nàng xinh và dịu dàng.           

Thế mà họ, thật tội,
Không thể nào lấy nhau,
Vì gia đình hai họ
Có tư thù từ lâu.

Bố mẹ nàng thề độc      ,
Thà con ế suốt đời,
Nhất định không chịu gả,
Bất chấp ý hai người.        

Chàng làm thơ than thở,
Bốc thuốc giúp dân làng,
Chữa khỏi bệnh người khác,
Trừ người yêu và chàng.

Một tối nọ, đang ngủ,
Chàng mơ thấy cụ già
Mặc áo xanh, mắt sáng,
Mái tóc bạc lòa xòa.

Cụ bảo cụ rất hiểu
Nỗi đau của hai người.
Vậy thì mai sáng dậy,
Cứ nhằm hướng mặt trời,

Đi, đi mãi, đi mãi,     
Đi cho tới lúc nào
Gặp một dòng suối nhỏ
Có một cây thông cao.

Một cây con kỳ lạ
Mọc dưới tán cây thông,
Với một quả duy nhất,
Bé, màu vàng, có lông.

Con hãy đi tới đó
Hái nó đem về đây,
Ngâm rượu mời bố vợ,      
Mọi việc sẽ xong ngay.

Có điều, đường xa đấy,
Vượt chín suối mười non.
Ta sẽ cho chim phượng
Bay, dẫn đường cho con.

Sáng hôm sau, lập tức
Chia tay với người thương,
Đi tìm trái cây quí,
Chàng khăn gói lên đường.        

Đúng là đường xa thật,
Vừa xa vừa khó khăn,
Đi một ngày, một tháng,
Một năm, rồi ba năm.

Cuối cùng, chàng trở lại,
Ngâm rượu trái cây này.
Ông bố người yêu uống,
Cứ gật gù khen hay.

Cũng nhờ rượu ngâm ấy,
Ngâm trái cây phương xa,
Hai nhà quên hiềm khích,
Sống với nhau thuận hòa.

2
Cái quả gì quả ấy,
Mà hòa giải họ hàng,
Vợ chồng thêm hạnh phúc?
Đó là quả mơ vàng.

Không nói ai cũng biết
Nước mơ ngon thế nào.
Rất tiếc, ít người biết
Mơ chữa bệnh ra sao.

Mơ cũng có nhiều loại.
Có nơi gọi ô mai,
Được trồng khá phổ biến,
Cả miền trong, miền ngoài.

Ngoài việc dùng ngâm rượu,
Mơ làm thuốc rất hay,
Dưới dạng hạt khô sấy,
Nước hạt cất lâu ngày.

Mơ khô chữa viêm họng,           
Trị long đờm, chữa ho.
Dùng dưới dạng thuốc sắc
Hay mứt ô mai khô.

Cùng với vị thuốc khác,
Mơ chữa giun cũng tài,
Như giun chui ống mật,
Giúp rụng trĩ, chân chai...

Dầu hạt mơ rất bổ.
Là thuốc chữa nhuận tràng.
Làm thuốc bôi chống nẻ,
Bôi cho tóc mịn màng.

Chữa kiết lỵ, khát nước:
Hai hay ba quả mơ,
Đun sôi mười lăm phút,
Uống thay nước hàng giờ.

Chữa giun chui vào mũi
Cũng dùng nước sắc này,
Thêm đường, uống đều đặn
Trước khi ngủ hàng ngày.

Còn chữa bệnh băng huyết:
Bảy quả mơ khô nhăn,
Rang chín rồi tán nhỏ,
Uống mỗi ngày ba lần.



CÂY TRE

1
Xưa có một người nọ
Loại thường thường bậc trung,
Có một cô con gái
Cũng xinh đẹp vô cùng.

Ông ta mướn người ở -
Một chàng trai nhà quê,
Khỏe mạnh và chăm chỉ,
Thường ít nói, rụt rè.

Ông ta muốn lợi dụng
Anh chàng này hiền lành,
Nên hứa làm việc tốt,
Sẽ gả con cho anh.

Thế là anh cố gắng
Làm việc suốt đêm ngày.
Ông chủ thành giàu có,
Quên lời hứa trước đây.

Ông đem gả con gái
Cho con một phú ông,
Nhưng bảo anh người ở
Rằng ông sẽ vui lòng

Cho anh chàng làm rể 
Nếu mang được về đây
Một cây tre trăm đốt,
Loại đốt cứng và dày.

Tre trong rừng không ít,
Nhưng cây dài và già
Cũng chỉ hơn mươi đốt.
Trăm đốt tìm đâu ra?  

Nên chàng ôm mặt khóc,
Ngồi trong rừng một mình.
Bụt đi đến, hỏi chuyện,
Chàng kể hết sự tình.

Bụt bảo chàng đừng khóc,
Hãy đốn trăm đốt tre,
Cột chúng thành hai bó
Rồi cứ thế gánh về.      

Khi chàng nói “Khắc Nhập”,
Các đốt dính vào nhau.
Ngược lại, nói “Khắc Xuất”,
Lại rời như ban đầu.

Chàng về nhà đúng lúc
Lễ cưới đang linh đình,
Chỉ bây giờ mới biết
Ông chủ đã lừa mình.

Chàng mời ông ra đếm
Xem các đốt đủ chưa.
Đúng cây tre trăm đốt,
Không thiếu cũng không thừa.

Ông kia ngạc nhiên lắm,
Thử nhắc nó trên tay.
Chàng kêu to “Khắc Nhập”,
Liền dính chặt vào cây.

Ông kêu lên hoảng sợ.
Nghe tiếng, ông sui gia
Chạy tới định giúp đỡ
Thì dính vào ông ta.

Cả hai họ thấy thế,       
Không ai dám lại gần.
Để hai ông than khóc,
Phơi giữa nắng ngoài sân.

Cuối cùng, họ sụp lạy,
Xin chàng tha, và thề
Họ nhà trai lập tức
Từ hôn và quay về.

Ông chủ cũng thề độc
Gả con cho anh ta,
Cho cưới ngay luôn thể,
Chỉ cần thả ông ra.

Vậy là anh chàng ấy
Và con gái của ông
Nhờ cây tre trăm đốt
Được thành vợ thành chồng.

Dẫu không thể làm khác,
Ông chủ vẫn xót xa.
Nhưng cây tre còn đó.
Thôi thì đành cho qua.

2       
Cuốn “Danh y biệt lục”,
Một cuốn sách lâu đời
Nói về việc tre, trúc
Chữa bệnh cho con người.

Lá tre non sắc uống
Giúp thanh nhiệt, giảm sầu,
Sinh tân dịch, lợi niệu,
Chữa miệng lở loét đau.

Tre non tươi đem chặt
Thành từng đoạn, nướng lên,
Vắt lấy nước để uống
Trị hen xuyễn kinh niên.

Ngoài ra nó cũng tốt
Giúp thanh nhiệt, ho khè,
Chữa đàm nhiệt khái suyễn,
Hoặc trúng gió hôn mê.

Chữa sốt do viêm não:
Bốn mươi gam nước này,
Pha nước sôi để nguội,
Chia đều uống trong ngày.

Thân cây tre, cạo sạch,
Chỉ chọn lấy phần non,
Thái thành từng lớp mỏng
Sắc uống, chữa buồn nôn,

Hoặc chữa ho đờm đặc,
Hoặc mất ngủ dài ngày.
Dân gian vẫn dùng thế,
Đơn giản và rất hay.

Cùng một số vị khác,
Nước tre và thân tre
Còn chữa được nhiều bệnh,
Đơn do thầy thuốc kê.


SẦU RIÊNG

1
Vua Gia Long Nguyễn Ánh,
Khi giành được giang sơn,
Đã thẳng tay đàn áp
Những người giúp Tây Sơn.

Có một chàng trai trẻ
Vì vậy phải xa làng,
Chạy sang tận Căm Bốt,
Thủ đô là Nam Vang.

Ở đấy chàng đã gặp
Và rồi yêu một người
Con gái xứ chùa tháp,
Xinh đẹp và hay cười.

Họ sống thật hạnh phúc,
Yêu thương, giúp đỡ nhau,
Dẫu cuộc sống vất vả,
Phải mưa nắng dãi dầu.

Một hôm cô vợ trẻ
Mang về nhà cho chồng
Một trái cây kỳ lạ
Có mùi hăng và nồng.

Chàng vội vàng bịt mũi,
Lúc đầu không dám ăn.
Cô vợ cười: “Cứ thử,
Rồi sau sẽ quen dần.”

Và rồi chàng quen thật,
Rồi nghiện trái cây này,
Đến mức phải ra chợ
Mua nó ăn hàng ngày.

Chàng thấy như thể nó
Có cái gì khác thường,
Vừa xao xuyến, day dứt,
Vừa thầm kín yêu thương.

Bỗng vợ chàng lâm bệnh
Rồi chẳng may qua đời.
Chàng vô cùng đau khổ,
Tiếc thương người bạn đời.

Chàng quyết định về nước,
Mang theo giống cây này
Như kỷ niệm về vợ,
Một mối tình riêng tây.

Mấy năm sau, hái quả,
Chàng đem mời xóm giềng,
Và âu yếm gọi nó
Là trái cây sầu riêng.

Sau, trái sầu riêng ấy
Trở thành trái cây chung,
Được nhân giống, yêu thích
Không chỉ ở trong vùng.

2
Đây là loại cây lớn,
Còn có tên thu-ren,
Trồng nhiều ở Nam bộ,
Thuộc giống cây lưu niên.

Sầu riêng là cây quả,
Quả to, hình trứng, dài,
Ruột có năm ngăn nhỏ,
Ngoài mặt quả có gai.

Lần đầu ăn không thích,
Nhưng ăn rồi thích dần.
Không ai giải thích nổi
Vì sao mình thích ăn.

Các thầy thuốc cho biết
Ăn loại trái cây này
Làm kích thích sinh dục,
Vậy nhớ ăn hàng ngày.

Rễ và lá của nó
Sắc uống, chữa suy gan,
Chữa cả bệnh cảm sốt -
Toa thuốc của dân gian.

Dùng lá nấu nước tắm,
Chữa được bệnh da vàng.
Hạt thì ăn rất bổ,
Có thể luộc hay rang.


CÂY DỨA

1
Xưa, có một bà góa
Sống với cậu con trai.
Cậu con thì lười nhác,
Chỉ suốt ngày nằm dài.

Một phần cũng tại mẹ
Chiều anh con cực kỳ,
Nên anh con lớn xác
Mà chẳng biết làm gì.

Một hôm, bà ốm nặng,
Không thể dậy hầu con.
Mà anh con thì đói,
Thức ăn vẫn đang còn.

Anh ta đành xuống bếp
Tìm cái ăn, than ôi,
Tìm mãi vẫn không thấy,
Dù thức ăn trong nồi.

Chỉ vì anh ta vụng,
Mắt cứ nhìn đâu đâu,
Cứ luôn miệng hỏi mẹ,
Mà mẹ thì đang đau.

Bực mình, bà mẹ ước:
“Ước gì thằng con tôi
Có trăm mắt để thấy
Thức ăn để trong nồi!”

Tiếp đến là im lặng,
Sự im lặng ngỡ ngàng.
Bà mẹ bò xuống bếp
Rồi dụi mắt, bàng hoàng:

Anh con trai yêu quí,
Than ôi, nay chẳng còn,
Mà biến thành quả dứa
Với trăm mắt tí hon.

2
Không nói, ai cũng biết
Giá trị loại cây này.
Ngoài thơm ngon bổ dưỡng,
Nhân dân ta xưa nay

Dùng rễ nó làm thuốc
Chữa đi tiểu khó khăn,
Hay đái ra sỏi sạn.
Cứ sắc uống nhiều lần.

Có thể ép lá dứa
Hay quả dứa chưa vàng
Làm vị thuốc hiệu quả
Trong việc tẩy nhuận tràng.

Sắc hay giã nõn dứa,
Ba mươi gam mỗi ngày,
Có thể chữa cảm sốt,
Đơn giản mà rất hay.

Ngoài ra còn dứa dại,
Hay dứa gỗ, dứa gai,
Cũng chữa bệnh rất tốt,
Cả dùng trong, dùng ngoài.

Đặc biệt loại dứa dại
Chữa tốt bệnh lòi dom -
Ngày uống mười gam rễ,
Hai mươi gam đọt non.


CÂY ĐÀO

Nghe người ta kể lại,
Xưa ở núi Sóc Sơn
Có cây đào đại thụ
Tán rộng, lá xanh rờn.

Có hai thần trú ngụ
Trong thân cây đào này,
Là Trà và Uất Lũy,
Loại cây cao, bóng dày.

Mọi người nhờ hai vị
Mà được sống yên thân.
Nhờ họ luôn canh giữ,
Ma quỉ không dám gần.

Chúng sợ thần một nhẽ,
Còn sợ cả cây đào.
Hễ thấy nó là chạy,
Không ngoái lại lần nào.

Như các vị thần khác,
Khi đông hết, xuân sang,
Đăc biệt mấy ngày Tết,
Họ lên chầu Ngọc Hoàng.

Nhân dịp ấy, ma quỉ
Liền kéo đến hoành hành.
Để xua quỉ, dân chúng
Cắm đào trong nhà mình.

Rồi vẽ hình hai vị
Đem dán lên cột nhà.
Cột nhà đen, giấy đỏ
Là bùa yểm trừ ma.

Sau, dần dần thành lệ,
Một tục lệ lâu đời,
Tết có câu đối đỏ
Và cành đào hồng tươi.

2
Đào là cây thuốc quí,
Xếp vào họ Hoa hồng.
Nhân, lá, hoa - dùng hết,
Không thứ gì là không.

Nhân đào chữa hen xuyễn,
Khoảng mười gam một ngày,
Uống dưới dạng thuốc sắc.
Nó còn là thuốc hay

Giúp phụ nữ sinh đẻ
Cầm máu và điều kinh.
Nên thêm các vị khác -
Hỏi bác sĩ của mình.

Lá đào chữa ghẻ lở,
Sưng tấy, viêm kẽ chân -
Lấy lá tươi giã nhỏ,
Đắp lên sẽ đỡ dần.

Hay nấu lá để tắm
Cũng rất tốt, có điều
Lá đào độc, vì vậy
Nên sử dụng đúng liều.

Lá đào chữa sốt rét -
Bảy mươi gam lá tươi,
Sắc uống ngày một lượt,
Năm ngày là nhẹ người.

Bác nào phải khổ sở
Vì đại tiện không thông,
Giã lá đào, lấy nước
Uống vài lần là xong.

Hoa đào cũng là thuốc
Thông đại tiện, ngoài ra
Nó còn chữa thủy thủng,
Và các bệnh ngoài da.

Dùng dưới dạng thuốc sắc,
Ba, bốn gam một lần.
Hoa để lâu không tốt,
Do công hiệu giảm dần.


HOA MỘC LAN

1
Ngày xưa, ở nước Nhật
Có cô gái rất xinh,
Sớm mồ côi cha mẹ
Nên cô sống một mình.

Cô phải gấp hoa giấy
Bán kiếm tiền hàng ngày,
Ăn bữa no, bữa đói,
Không mua nổi đôi giày.

Một hôm có con vẹt
Bị mèo đuổi, cuối cùng
May mắn được cô cứu,
Từ đó họ sống chung.

Để trả ơn, con vẹt
Bày cho cô cách này
Kiếm nhiều tiền hơn trước,
Vừa dễ lại vừa hay:

Khi gấp xong hoa giấy,
Cô hà hơi vào hoa.
Hoa sẽ thành hoa thật
Như mới hái sau nhà.

Có điều, nó báo trước,
Cứ mỗi lần hà hơi,
Cô mất một giọt máu,
Để hoa đỏ và tươi.        

Vậy là cô từ đấy
Kiếm tiền nhiều và nhanh,
Vì hoa của cô đẹp,
Do máu nhuộm mà thành

Cô bắt đầu ăn diện,
Mua áo lụa, giày hồng,
Rồi bắt đầu giao tiếp,
Rồi cuối cùng lấy chồng.

Rồi sắm sanh đủ thứ
Cho cuộc sống gia đình,
Cho anh chồng thích diện
Mà không chịu học hành.

Tất cả những thứ ấy
Rất tốn kém, tất nhiên,
Nên cô cứ thổi mãi,
Thổi hoa để kiểm tiền.

Da mặt cô xanh nhợt
Cơ thể thành gầy gò.
Chú vẹt con tốt bụng
Đã mấy lần nhắc cô.

Vậy mà cô quát nó,
Bảo cô còn cần nhà,
Một ngôi nhà thật đẹp,
Nhiều ban-công có hoa.

Bị ước mơ thôi thúc,
Cô làm việc đêm ngày,
Có hôm mệt, suýt ngất,
Rã rời cả hai tay.

Bỗng người của thái tử
Đến tìm cô đặt hoa,
Đặt với khối lượng lớn,
Đủ tiền xây ngôi nhà.

Vậy là cô thức trắng
Gấp hoa rồi hà hơi,
Để có hoa màu đỏ,
Tuyệt đẹp và thật tươi.

Hoa cô làm bằng máu
Kịp đám cưới hoàng cung,
Nhưng than ôi, cô chết,
Mất giọt máu cuối cùng.

Anh chồng vô tích sự
Lấy tiền xây ngôi nhà
Rồi cưới cô vợ khác.
Cô chết, biến thành hoa,

Một loài hoa tuy đẹp
Nhưng nhợt nhạt, tính hàn,
Vì cô không còn máu,
Gọi là hoa mộc lan.

2
Mộc lan là hoa cảnh,
Còn gọi tân di hoa,
Được trồng khá phổ biến
Nhiều nơi ở nước ta.

Vì có nhiều hóa chất
Và tinh dầu, cây này
Chữa nhiễm trùng hô hấp,
Hoặc hen xuyễn lâu ngày.

Mộc lan rất công hiệu
Chữa chứng bệnh viêm xoang
Hoặc nhiễm trùng khoang mũi,
Khi thuốc khác đầu hàng.

Cách dùng: sắc hoa uống,
Hoa không dập, còn tươi,
Ba đến mười gam nhỏ,
Tùy thể trạng từng người.

Trị viêm xoang mãn tính,
Uống mỗi ngày ba lần,
Sắc còn một nửa nước,
Uống liên tục bốn tuần.


THỦY TIÊN       
                                                                                    
1
Xưa, có ông phú hộ
Sinh được bốn con trai.         
Trước khi chết, ông dặn
Các con chia gia tài

Làm bốn phần đều đặn,
Và công bằng như nhau.
Thế mà bố vừa chết,
Lập tức ba anh đầu

Giành lấy phần tốt nhất
Chỉ chừa cho em mình
Mảnh đất bé ngập nước
Nằm sát một đầm sình.

Chàng út vừa thương bố,
Vừa oán giận các anh,
Ngồi trên mảnh đất ấy
Tấm tức khóc một mình.       

Một bà tiên xuất hiện,
Nhẹ nhàng nói với chàng:
“Mảnh đất con đang có
Là cả một kho vàng.”

Nói đoạn, bà biến mất.
Và rồi, khi xuân sang,
Một loài hoa mới lạ
Mọc trên đất của chàng.

Một loài hoa tuyệt đẹp,
Có hương thơm lạ lùng,
Như những chiếc chén nhỏ
Trên bàn ăn hoàng cung.      

Vì thế, người tìm đến
Ngắm hoa, chen chúc nhau,
Họ mua, trả giá đắt.
Chàng thành người rất giàu.

Cứ mỗi dịp Tết đến,
Chàng thu được bộn tiền.
Chàng đặt tên hoa ấy
Là hoa của bà tiên.

Thủy tiên, cái tên đẹp,
Sau gọi chệch mà thành.  
Không ngẫu nhiên mà nó
Được vào thơ, lên tranh.

Theo thần thoại Hy Lạp
Thì tên hoa thủy tiên
Là tên chàng Narcis,
Một chàng trai dịu hiền   

Và xinh đẹp đến mức
Chàng đâm ra yêu mình,
Yêu, suốt ngày soi bóng
Xuống dòng sông trong xanh.

Chàng ngắm mình say đắm,
Không thể ngước nhìn lên,
Rồi ngã xuống sông, chết,
Hóa thành hoa thủy tiên.

2
Thủy tiên có nguồn gốc
Từ Nhật Bản, Trung Hoa
Và một số nước khác,
Sau mới nhập vào ta.

Nó là loại cây cảnh,
Nhưng thân và rễ cây
Có thể dùng làm thuốc
Chữa nhiều bệnh rất hay.

Thân và rễ của nó
Có độc tố khá cao,
Khi dùng phải cẩn thận
Và theo dõi sít sao.

Người ta sắc thân rễ
Chữa long đờm, gây nôn,
Phối hợp với cà độc,
Giúp hen xuyễn cắt cơn.

Dùng dưới dạng thuốc sắc,
Hai, ba gam một ngày,
Theo chỉ dẫn bác sĩ,
Thường sẽ tác dụng ngay.

Có thể giã nát rễ
Rồi đắp lên chỗ đau,
Chữa ung thũng rất tốt,
Hoặc xoa như xoa dầu.
                                                   
     
HƯỚNG DƯƠNG

1
Xưa, có chàng trai nọ
Phải đi chinh chiến xa,
Để lại vợ chưa cưới
Phải một mình ở nhà.

Chàng mở tung lồng ngực,
Giờ chia tay lên đường,
Lấy trái tim nóng hổi
Trao cho người yêu thương.

“Nay anh đã là lính.
Lính không cần trái tim.
Anh trao nó em giữ,
Để anh luôn bên em.”

Cô giữ trái tim ấy
Trong chiếc tráp bạc con,
Và bắt đầu chờ đợi,
Chờ đợi trong héo mòn.

Tháng năm trôi chậm chạp,
Chậm chạp tháng năm trôi.       
Năm năm nàng chờ đợi,
Rồi con số gấp đôi.

Bố mẹ muốn có cháu,
Bảo nàng đi lấy chồng.
Em gái nói chàng chết.
Nàng lắc đầu bảo không.

Rồi thêm mười năm nữa,
Người yêu vẫn chưa về.
Tóc bắt đầu điểm bạc,
Dáng đi đã nặng nề.

Chỉ trái tim vẫn thế,
Vẫn tràn đầy thương yêu.
Bà vẫn chờ trước ngõ
Hàng ngày, vào buổi chiều.

Một hôm, bà bỗng gặp
Một người bạn của chàng.
Người này nghe kể chuyện,
Mắt rơm rớm, ngỡ ngàng.         

Sau một hồi do dự,
Ông nói người yêu bà
Đã chiến đấu dũng cảm,
Ngã xuống chiến trường xa.

Ông bỏ đi như chạy,
          Luôn cúi mặt xuống đường
Vì đang tâm nói dối
Người đàn bà đáng thương.       

Thực ra hắn chưa chết,
Mà còn sống vùng này.
Hắn là tên thủ lĩnh
Một băng cướp gần đây.

Số là khi đi lính,
Hắn để tim ở nhà,
Thành người vô tri giác,
Luôn xa lánh đàn bà.

Hắn chỉ thích chém giết,
Nên khi hết chiến tranh
Lập một băng cướp lớn
Ẩn náu ở rừng xanh.

Ông, dẫu căm ghét hắn,
Thương bà, lòng xót xa,
Nên buộc phải nói dối,
Cả việc hắn yêu bà.

Người đàn bà tội nghiệp
Một hôm vội lên đường,
Ôm theo chiếc tráp bạc,
Tìm mộ người yêu thương.

Khi qua khu rừng rậm,
Một toán cướp nhảy ra.
Mặc nạn nhân than khóc,
Kể về người yêu bà,

Bọn cướp hung dữ ấy,
Lấy chiếc tráp mang đi,
Về đưa cho thủ lĩnh.
Tên này mở, tức thì

Nhận ra tim của hắn,
Trái tim vẫn còn tươi.
Bỗng trái tim lên tiếng
Bằng giọng nói con người:

“Hãy vì tình nghĩa cũ,
Đừng làm bà đau lòng,
Để bà tiếp tục nghĩ
Mày là thằng đàn ông!”

Tên cướp nghe, ra lệnh
Trả chiếc tráp cho bà,
Còn sai chúng dẫn đến
Một chiếc mộ giả vờ.                  

Bà ngồi bên ngôi mộ,
Ôm chiếc tráp, khóc thầm,
Thương người chồng chưa cưới
Bà chờ đợi nhiều năm.

Rồi bà chết, sau đó,
Từ mộ đất ven đường
Mọc lên loài hoa mới,
Gọi là hoa hướng dương.

Đó là hoa chung thủy,
Cao thượng và trắng trong,
Hoa của những người vợ
Không ngừng thôi chờ chồng.

2
Hoa hướng dương còn gọi
Nôm na là mặt trời.
Một loài hoa quen thuộc,
Được trồng ở nhiều nơi.

Hạt hướng dương vị ngọt,
Mát bổ, có tính bình,
Lại hoàn toàn vô độc,
Rất tốt cho thần kinh.

Nó còn chữa ăn biếng,
Chảy máu khi đi ngoài.
Vỏ hạt dùng làm thuốc
Chữa chứng bệnh ù tai.

Lá giúp tiêu hóa tốt,
Chữa huyết áp cao lâu.
Hoa trừ phong, sáng mắt,
Chữa mặt phù, váng đầu.

Rễ chữa nhọt lở loét,
Mưng mủ, chảy nước vàng,
Giúp thông đại, tiểu tiện,
Giảm đau và nhuận tràng.

Chữa đại tiện xuất huyết:
Bóc vỏ hạt hương dương,
Ba mươi gam, sắc uống,
Nên cho thêm ít đường.

Chữa ù tai, đơn giản
Lấy vỏ hạt sắc lên,
Mười lăm gam là đủ,
Uống sẽ thấy đỡ liền.

Chữa tiểu tiện bị tắc -
Cành lá hay thân cây,
Khoảng hai mươi gam nhỏ,
Sắc uống đều nhiều ngày.


DƯA HẤU

1
Vào thời xa xưa ấy                          
Đất nước còn hoang sơ,
Chưa có nhiều quả ngọt,
Trái thơm như bây giờ.                                 

Vua Hùng thứ mười bảy
Có một người con nuôi
Là An Tiêm hoàng tử,
Giỏi, thông minh hơn người.

Vua yêu chàng nhất mực,
Thường ban thưởng nhiều quà.
Thế mà chàng, thật lạ,
Không cảm ơn vua cha.

Ai cũng thích quà tặng,
Nhưng chàng thì khác người.
Chàng nói: “Quà được tặng
Là món nợ ở đời.”

Vua biết chuyện, tức giận
Bèn nói với quần thần:
“Vậy thì ta để nó
Phải tự mình kiếm ăn.”

Thế là một sáng nọ
Cả gia đình, vợ chồng
Bị lính bắt, lập tức
Phải ra đi tay không.

Một thanh kiếm cùn gỉ
Phải nằn nì nhiều lần
Mới được chúng cho phép
Mang theo để phòng thân.

Có một chiếc thuyền lớn
Đang đợi sẵn hai người.
Rồi thuyền đi ra biển,
Mênh mông nước và trời.

Gặp gió, thuyền lướt nhẹ
Đi không nghỉ một ngày
Thì đến một đảo nhỏ
Chỉ toàn cát và cây.

Hai người bị bỏ lại
Với năm ngày thức ăn
Ở hòn đảo hoang vắng,
Không nhà cửa, không dân.

Chàng An Tiêm và vợ
Bế con đứng nhìn theo
Bóng con thuyền bé nhỏ
Mất hút giữa nắng chiều.

Thế là họ ở lại
Trên hoang vu đảo này,
Không nhà cửa, đồ đạc,
Biết sống sao qua ngày?

Giỏi lo toan, tháo vát,
An Tiêm đưa gia đình
Vào hang núi ở tạm,
Còn chàng thì một mình

Cầm kiếm dạo quanh đảo.
Đảo toàn đá chỏng chơ,
Chỉ vài loài chim biển
Và cỏ dại lơ thơ.

Tìm mãi, chàng cũng thấy
Mọc dại, không ai trồng,
Một ít rau và trái
Ăn tạm, đỡ đói lòng.

Rồi hàng ngày, từ đó
Vợ xuống biển mò ngao.
Cá nhiều, không có lưới,
Chẳng bắt được con nào.

Chàng và thằng con lớn
Làm bẫy bẫy chim rừng
Cũng có hôm bẫy được,
Đốt lửa, nướng thơm lừng.

Lúc đầu thật vất vả
Cùng muôn vàn khó khăn,
Nhưng họ vẫn không nản,
Cuộc sống cũng khá dần.

Bỗng ngày nọ, chàng thấy
Có một con chim gì
Đậu ngoài bãi, chàng đến
Nó liền vội bay đi.

Con chim lớn bỏ lại
Miếng dưa bằng bàn tay.
Vì thấy chim ăn được,
Chàng ăn miếng dưa này.

Ôi, thật mát, thật ngọt!
Chàng nhặt lấy hạt dưa,
Đào lỗ, trồng xuống đất.
Mấy hôm sau gặp mưa,

Hạt nẩy mầm xanh tốt,
Rồi hé nụ, đâm hoa,
Rồi cuối cùng kết trái,
Thành vườn dưa xùm xòa.

Khi đến mùa thu hoạch.
Cả nhà bổ dưa ăn.
Dưa đỏ và ngọt lịm,
Quà tặng của thánh thần.

Ruộng dưa chàng thêm rộng.
Được chăm sóc hàng ngày,
Trái càng sai, càng lớn,
Vỏ mỏng, ruột càng dày.

Chàng thường thả xuống biển
Những trái dưa của mình,
Mong ai đấy vớt được,
Dù hy vọng mong manh.

Thế mà rồi bất chợt
Có con thuyền ghé vào.
Họ muốn biết dưa ấy
Ai trồng, và nơi nào.    

Từ đấy, đem dưa hấu
Chàng đổi lấy thức ăn
Và những đồ vật khác
Mà gia đình đang cần. 

Ngày càng nhiều người biết,
Thuyền tấp nập vào ra.
Cuộc sống thành dễ chịu,
Còn dựng được ngôi nhà.

Vua Hùng Vương mười bảy,
Thường hay nhớ thương chàng,
Vẫn nghĩ chàng và vợ
Đã chết ngoài đảo hoang.

Một hôm, đang ngồi nghỉ,                           
Có người từ phương xa
Dâng vua quả dưa lạ.
Ngài ăn, khen xuýt xoa.  

Hỏi thì biết dưa ấy
Vợ chồng An Tiêm trồng,
Vua trầm tư suy nghĩ,
Rồi sai đem thuyền rồng

Và quân lính ra đảo
Đón họ về kinh đô,
Cùng những quả dưa hấu
Rất tròn và rất to.

Từ đấy, dân khắp nước
Trồng loại dưa quí này.
Nhờ An Tiêm và vợ,
Ta có nó ngày nay.

Nhờ phù sa bồi đắp
Thành đất liền, núi non,
Hòn đảo hoang ngày ấy
Nay là huyện Nga Sơn,

Có lẽ cũng vì thế
Mà dưa hấu ở đây
Thuộc vào loại ngon nhất,
Ngọt, vỏ mỏng, ruột dày.

2
Dưa hấu họ Bầu bí,
Trồng nhiều ở nước ta.
Còn gọi là dưa đỏ,
Thủy qua và hàn qua.

Ở miền Bắc, dưa hấu
Thu hoạch vào mùa hè.
Miền Nam vào dịp Tết,
Ngập thành thị, thôn quê.

Về tác dụng dược lý,
Theo y học dân gian,        
Dưa hấu giải nhiệt tốt,
Có vị ngọt, tính hàn.

Khi dùng làm vị thuốc
Chỉ lấy lớp vỏ trong,
Gọi là tây qua thủy,
Đem phơi khô trên nong.

Lớp vỏ ngoài xanh cứng
Gọi là tây qua bì.
Hai loại vỏ đều tốt,
Cứ cất đấy, phòng khi.

Dùng chữa bệnh ỉa chảy:
Tây qua thủy sắc dần,
Còn hai phần ba nước,
Uống mỗi ngày ba lần.

Chữa bệnh cao huyết áp,
Viêm thận, nóng bàng quang,
Vàng da hoặc phù thũng,
Đái buốt, đái tháo đường, 

Thì lấy hai loại vỏ
Cứ sắc lên uống dần.
Uống hàng ngày thay nước,
Không hạn chế số lần.

Nước ép rễ dưa hấu
Được người dân Mã Lai
Cầm máu sau khi đẻ
Hoặc không may sẩy thai.

Còn người dân Marôc
Có cách này rất hay:
Họ lấy quả dưa hấu,
Khoét lỗ bằng ngón tay

Rồi rót mật vào đó,
Lấy nút đậy, và rồi
Vùi trong đống ngũ cốc,
Chỉ sau mấy ngày thôi

Là dưa có men rượu,
Uống ngon, và cũng say.
Kể dân ta có lẽ
Cũng nên thử cách này.



CÂY HÀNH
                                                                               
1
Ngày xưa, một nhà nọ
Có ba người con trai,
Nghèo đến mức bố chết,
Không mua nổi quan tài.

Ba người con buộc phải
Lấy chiếu bọc xác cha,
Chọn lúc mọi người ngủ,
Chôn ngoài bãi tha ma.

Đêm ấy trời rất tối,
Lại lất phất mưa ngâu.
Hai người khiêng xác chết,
Một người cầm đèn dầu.

Xác chết gầy nên nhẹ,
Dọc đường đã tuột rơi
Mà người khiêng không biết,
Nên khi ra đến nơi

Họ chỉ chôn chiếc chiếu
Rồi vội vã về nhà.  
Trời tối, đèn lại tắt
Họ vấp phải xác cha.

Họ tưởng đó là xác
Của ai đấy chết đường,
Bèn đem chôn làm phúc
Ngay sát một bờ mương.

Đêm ấy người anh cả
Thấy có con rồng già
Đến báo mộng rằng họ
Đã chôn nhầm xác cha

Vào đúng giữa răng nó,
Gây khó chịu và đau.
Nó bảo hãy dời mộ,
Rồi anh sẽ rất giàu.

Anh Cả sáng tỉnh dậy,
Thấy vàng bạc đầy nhà.
Không cho hai em biết,
Lặng lẽ dời mộ cha.

Đêm sau rồng lại đến,
Gặp anh Hai, yêu cầu
Nhanh chóng dời mộ bố,
Rồi cũng sẽ thành giàu.

Sáng dậy anh Hai thấy
Kim cương rải đầy nhà.
Cũng không cho ai biết,
Lặng lẽ dời mộ cha.

Thực chất mộ cha họ
Vẫn chưa được dời đi,
Nên đêm tiếp rồng tới
Gặp anh Ba, nằn nì.

Nó xin dời ngay mộ,
Hứa cho lọ nước thần.
Anh Ba dời, việc ấy
Cũng giấu diếm người thân.  

Sáng dậy anh Ba thấy
Một chiếc bình bình thường,
Hình như trong đựng nước.
Anh đặt nó đầu giường.

Trong khi chồng đi vắng,
Nhìn thấy chiếc bình này,
Vì tò mò, cô vợ
Đổ ít nước ra tay.

Lập tức tay cô trắng,
Trắng như lông thiên nga.
Cô lấy nước trong lọ
Đem ra tắm, thế là

Nhờ phép thần nước lạ,
Từ cô gái nông dân
Cô trở thành xinh đẹp
Như nàng tiên giáng trần.

Anh chồng về, kinh ngạc
Thấy vợ đẹp tuyệt vời.
Nên suốt ngày ngồi ngắm,
Một phút cũng không rời.

Việc thì nhiều, do vậy
Cô vợ giận, bảo anh
Lấy chiếc mo cau trắng
Vẽ hình vợ lên tranh.

Anh làm theo, từ đấy,
Cứ đi ra khỏi nhà
Là mang theo tranh vợ,
Ngắm gần rồi ngắm xa.              

Một hôm, anh sơ ý
Ném trúng con quạ đen.
Nó trả thù bằng cách
Cắp bức tranh bay lên.

Nó đem tranh đến thả
Đúng chỗ vua đang ngồi.
Vua nhìn thấy người đẹp,
Mắt long lanh, và rồi

Cho quân đi khắp nước
Tìm người vẽ trong tranh.
Vợ anh Ba vì thế
Đã được đưa vào thành.

Vua thấy cô tuyệt đẹp
Nên đem lòng yêu ngay,
Phong “Tây cung Hoàng hậu”,
Mở yến tiệc đêm ngày.

Thế mà cô rầu rĩ,
Chẳng chịu cười nói gì,
Dù mua vui sẵn có
Đúng một nghìn nô tỳ.

Vua cho mở hội lớn,
Hứa trọng thưởng cho người
Làm “Tây cung Hoàng hậu”     
Dù một lần, mỉm cười.

Còn cái chức tể tướng
Sẽ được giành cho ai
Làm được nàng đồng ý
Ngồi chơi cờ với ngài.

Từ khi mất vợ đẹp,
Anh Ba khóc suốt ngày,
Không còn vợ để ngắm,
Ngồi đực như thằng ngây.          

À mà quên chưa nói.
Cô vợ tắm nước thần,
Nước thải cô đem tưới
Cho luống hành thay phân.

Nên nó tốt kinh khủng:
Củ đúng bằng bình vôi,
Lá dài như đòn gánh,
Đem nấu canh không tồi.

Phần vì do buồn chán,
Phần cũng bởi hết tiền,
Anh Ba đem hành bán
Vào những ngày chợ phiên.       

Anh rao to giữa chợ:
“Nào, ai mua hành tôi.
Lá dài như đòn gánh,
Củ to bằng bình vôi...”        

Thế mà ngồi cả buổi,
Không ai chịu mua hành.
Hôm sau anh quyết định
Vào bán dạo trong thành.

Anh rao to giữa phố:
“Nào ai mua hành tôi.
Lá dài như đòn gánh,
Củ to bằng bình vôi...”

Tiếng rao dai dẳng ấy
Lọt được vào hoàng cung,
Làm “Tây cung Hoàng hậu”
Vui, thích thú vô cùng.

Vua còn thích gấp bội,
Bèn cho gọi anh vào.
Để kiểm tra, lần nữa
Ngài bắt anh lại rao.

Và lần nữa hoàng hậu
Mỉm cười khi thấy anh.
Ông vua thì lại nghĩ
Bí quyết ở gánh hành.

Thế là ngài liền bắt
Anh đổi áo cho vua.
Vua thành anh bán dạo,
Vừa rao vừa vui đùa.

Vua bắt chước rất giống:
“Nào ai mua hành tôi.
Lá dài như đòn gánh,
Củ to bằng bình vôi...”        

Còn anh Ba lúc ấy
Là vua, ngồi trên ngai.
Anh liền quát quân lính
Tóm cổ, bỏ tù ngài.

Anh làm vua từ đấy.
Vợ vui, cười suốt ngày.
Thỉnh thoảng họ lại nhớ
Những tháng năm đi cày.

Anh Ba thì như cũ,
Ngắm vợ, ngắm cả tranh.
Nhiều hôm ra ngoài phố
Giả làm người bán hành.

Anh lại rao vui vẻ:
“Nào ai mua hành tôi.
Lá dài như đòn gánh,
Củ to bằng bình vôi...”      

2
Hành là rau, có mặt
Trong bữa ăn hàng ngày,
Thế mà ta biết ít
Giá trị cây thuốc này.

Hành nhiều công dụng lắm:
Giúp phát biểu, hòa trung,
Thông dương và hoạt huyết,
Rất lợi tiểu, sát trùng.

Chữa đau răng cũng tốt,
Giúp tiết mồ hôi mau.
Nước hành sắc giảm sốt,
Chữa cảm cúm, nhức đầu.

Ngoài ra còn tác dụng
Kích thích hệ thần kinh,
Tăng bài tiết, tiêu hóa,
Góp phần diệt ký sinh.

Cách thức dùng: sắc nước,
Hay giã nhỏ hành tươi
Lấy nước ép mà uống
Hoặc xoa đều lên người.

Tinh dầu hành sát khuẩn,
Dùng chữa bệnh ngoài da.
Giã hành tươi, lấy nước
Tưới lên mụn rồi xoa.

Chữa nhức đầu, cảm mạo,
Vừa ngon lại vừa nhanh
Thì thần dược duy nhất
Là một bát cháo hành.              
               

QUẢ KHẾ

1
Hai anh em nhà nọ
Sớm mồ côi mẹ cha.
Người anh, khi lấy vợ,
Đuổi em ra khỏi nhà.

Ruộng đất và nhà lớn
Anh ta giữ cho mình.
Chỉ cho em cây khế
Và một túp lều tranh.

Người em, vốn dễ tính,
Không một lời cằn nhằn,
Chỉ chăm sóc cây khế
Và làm thuê kiếm ăn.   

Không hiểu sao năm ấy
Cây khế trái rất nhiều.
Người em mừng, nghĩ bụng
Bán khế lấy tiền tiêu.

Thế mà rồi bất chợt
Có con chim khổng lồ
Không biết từ đâu đến,
Mổ khế ăn kỳ no.

Người em nhìn, tiếc của:
“Tôi chỉ có cây này.
Nếu chim ăn hết khế,
Tôi sống thế nào đây?”

Con chim đáp: “Đừng sợ,
Tôi là người đàng hoàng.
Cứ ăn một quả khế,
Tôi trả anh cục vàng!”

Hôm sau và sau nữa
Con chim ấy khổng lồ
Tiếp tục đến ăn khế,
Ăn nhiều, ăn thật no.

Cuối cùng con chim nói:
“Hãy may túi ba gang,
Ngồi lên lưng, tôi chở
Đi đến chỗ lấy vàng.

Con chim bay, bay mãi
Chàng chẳng nhớ bao lâu,
Cuối cùng đến hòn đảo
Đầy bạc vàng, ngọc châu.

          Chàng đi dạo quanh đảo,
Rồi nhặt một ít vàng
Cho vào chiếc túi vải
Rộng vừa đúng ba gang.

Chim bảo lấy thêm nữa
Nhưng chàng chỉ lắc đầu.
Trở về nhà, từ đó
Thành một người rất giàu.

Người anh, khi biết chuyện,
Liền đến gạ gẫm chàng,
Xin đem hết nhà cửa
Đổi lấy cây khế vàng.                 

Thương anh, lại dễ tính,
Cuối cùng chàng gật đầu.
Người anh tham, háo hức
Chờ mùa khế năm sau.

Con chim kia lại đến,
Ăn khế, hứa trả vàng.
Ăn sắp hết, lại dặn
May túi vải ba gang.

Chim không biết trước đấy
Hai vợ chồng anh này
Đã may sẵn chiếc túi
Rộng đúng bằng sải tay.

Thành ra khi đến đảo
Lấy vàng xong, quay về,
Chim nặng, bảo vứt bớt,
Nhưng anh chàng không nghe.

Anh ta ôm chặt túi,
Nhất quyết không chịu rời.
Chim tức giận, nghiêng cánh,
Rơi cả túi lẫn người.
                                     
2
Đọc truyện này, ta hiểu
Không ngẫu nhiên đại bàng
Khi ăn một quả khế
Hứa trả một cục vàng.

Chắc chắn chim biết rõ
Quả khế quí thế nào,
Cả về mặt dinh dưỡng
Và chữa bệnh ra sao.

Khế là cây thân gỗ
Thuộc họ cây Chua me,
Thân cao năm, sáu mét,
Lá nhiều, mọc so le.

Quả khế vị chua ngọt,
Lại có tính sáp bình,
Chữa phong nhiệt rất tốt,
Không độc, mà rất lành.            

Trị dị ứng, lở loét
Hay da bị sơn ăn,
Có thể nấu lá khế
Rồi xông tắm nhiều lần.

Lá khế được nấu chín,
Liên tục ba bốn ngày
Đắp lên chỗ lở loét
Là sẽ thấy đỡ ngay.


TRẦU CAU

1
Ngày xưa ở làng nọ,
Hai anh em họ Cao
Rất giống nhau, khó biết
Người nào là người nào.       

Năm tròn mười tám tuổi,
Cha mẹ họ qua đời.
Trước thương yêu nhau lắm,
Nay yêu thương gấp mười.

Lưu Ông là đạo sĩ
Rất nổi tiếng trong làng.
Hai người đến tìm học.
Ông cũng yêu hai chàng.       

Nhà có cô con gái
Vừa đến tuổi cập kê,
Nết na và xinh đẹp,
Thêm sắc sảo nhiều bề.

Vì hai người học giỏi,
Cũng tuấn tú, khôi ngô,
Nên một người trong họ
Đã lọt vào mắt cô.

Khốn nỗi do giống quá,
Nhiều khi cô thở dài,
Vì chính mình không thể
Phân biệt ai là ai.

Một hôm cô muốn thử,
Liền đặt bát cháo hành.
Họ nhường ai ăn trước,
Chắc chắn đó là anh.

Rồi Lưu Ông làm lễ
Cho cô và người này.
Có điều sau khi cưới,
Mọi việc khác xưa nay.

Người anh, vì có vợ,
Dường như quên mất em.
Anh kia, do tủi phận,
Thường nằm khóc trong đêm.

Người em, một ngày nọ,
Quay về từ cánh đồng.
Chị dâu ở trong bếp
Chạy ra, tưởng là chồng,

Liền ôm hôn, nũng nịu,
Vừa đúng lúc người anh
Xuất hiện ngay trước cửa.
Đúng là việc chẳng lành.

Anh ta nghĩ: Thật láo,
Thằng em tán vợ mình.
Nên tình vốn đã nhạt,
Nay càng thêm cạn tình.

Người em thấy oan ức,
Bèn bỏ nhà ra đi.
Đi, đi mãi, đi mãi,
Tới dòng suối rầm rì.

Suối thì rộng, nước xiết,
Không thể qua, đành ngồi,
Khóc đến cạn nước mắt,
Chết, thành hòn đá vôi.

Lại nói người anh cả,
Về nhà không thấy em,
Ngày hôm sau, giấu vợ,
Lặng lẽ bỏ đi tìm.

Anh cũng đi đường ấy,
Gặp suối, không thể qua,
Bèn ngồi bên hòn đá,
Rồi khóc, lệ ướt nhòa.

Anh khóc mãi, khóc mãi, 
Chết, thành một cây cao,
Thân rất thẳng, thật lạ,
Không có một cành nào.

Vợ ở nhà lo lắng,
Không biết chồng đi đâu.
Rồi lên đường tìm kiếm,
Đi rất lâu, rất lâu.

Cuối cùng đến con suối,
Cô ngồi khóc não lòng,
Không biết ngay bên cạnh
Là chồng và em chồng.

Cô khóc hết nước mắt,
Người cô cứ gầy teo,
Rồi cô chết, lặng lẽ
Biến thành một dây leo.

Dây leo ấy quấn quít
Ôm quanh cây cao kia.
Bên dưới là tảng đá,
Bộ ba không chia lìa.

Khi mọi người biết chuyện,
Tỏ lòng thương xót thay.
Vua Hùng một lần nọ
Dừng lại ở nơi này.

Sau khi nghe hết chuyện,
Vua bèn lấy trái cây,
Nhai với lá dây cuộn,
Thấy có vị cay cay.

Vua nhổ vào tảng đá,
Thấy mặt đá sùi sôi,
Rồi ngả dần màu đỏ.
Đó là hòn đá vôi.

Cái cây cao cao ấy
Vua gọi là cây cau.
Còn lá leo quanh nó
Thì đặt tên lá trầu.

Còn tảng đá, nung chín,
Sẽ có màu trắng tinh,
Nhai với trầu, cau ấy,
Môi đỏ, trông rất xinh.

Từ đấy dân nước Việt
Có tục lệ ăn trầu
Để nhớ ba người chết
Còn gắn bó bên nhau.          

2      
Một câu chuyện cảm động,        
Được truyền tụng bao đời
Về tình của cây cối,
Và cũng là tình người.                

Không cần thiết mô tả
Hình dáng cây trầu, cau.
Vườn nhà ai chẳng có
Hàng cau và bụi trầu.

Cây cau có hai loại,
Cau rừng và cau nhà.
Cau rừng hạt chắc, nhỏ
Nhưng ăn lại đậm đà.

Hạt cau rất hiệu nghiệm
Chữa giun sán cho người,
Và cả cho gia súc,
Một bài thuốc lâu đời.

Nó còn giúp tiêu hóa,
Chữa viêm ruột kinh niên,
Uống vài gam một lượt
Bột hạt cau khô nghiền.

Trẻ chốc đầu, đơn giản
Mài hạt cau, và rồi
Hòa một ít nước ấm
Cứ thế mà đem bôi.

Cây trầu không, ta biết,
Thường đi liền với cau
Làm nên phong tục đẹp
Đó là tục ăn trầu.

Ăn trầu, ngoài môi đỏ,
Nó còn làm răng đen,
Gái răng đen mới đẹp,
Ngừa sâu, lại có duyên.

Lá trầu không giã nhỏ,
Cho thêm ít nước sôi,
Cứ nhằm chỗ lở loét
Và mẩn ngứa mà bôi.

Hoặc có thể dùng nó
Chữa các bệnh hen ho
Bằng cách đắp lên ngực,
Làm giảm cả giật co.

Nước trầu không pha loãng
Chữa kết mạc bị viêm.
Nó cũng rất công hiệu
Chữa chàm mặt trẻ em.

Phụ nữ mới sinh đẻ
Sữa quá nhiều, hàng ngày
Có thể đắp lên vú,
Sẽ hạn chế điều này.


CÂY VÚ SỮA

1
Ngày xưa có cậu bé
Ham chơi làm mẹ buồn.
Một lần cậu bị mắng,
Thế là bỏ đi luôn.

Không có gì đáng trách
Bằng con bỏ nhà đi.
Làm bố mẹ lo lắng:
Con ở đâu, làm gì?

Cậu bé ấy lếu láo
Bỏ nhà đi khá lâu.
Làm gì không ai biết.
Không ai biết ở đâu.
        
Rồi một hôm, đói khát,
Lại bị đánh sầy da,
Không biết đi đâu nữa,
Cậu bèn mò về nhà.

Ở nhà, vẫn như cũ,
Nhưng không thấy mẹ đâu.
Mà cậu thì đang đói,
Khóc, hai tay ôm đầu.

Cậu khóc to gọi mẹ:
Mẹ ơi, mẹ về đi!
Thật tội cho cậu bé,
Muốn ăn, chẳng có gì. 

Cậu vừa mệt, vừa đói
Vì nhịn ăn suốt ngày,
Bèn ra ngồi trước ngõ,
Tựa lưng vào gốc cây.

Một sự lạ xuất hiện:
Cái cây ấy nở hoa,
Rồi nhanh chóng thành trái,
Rơi vào lòng cậu ta.
        
Những trái cây rất lạ,  
Da mềm và màu xanh,
Có nước ngọt màu trắng
Như sữa mẹ ngon lành.

Trên quả có đôi chỗ
Màu đo đỏ, tròn tròn
Thoáng nhìn trông thật giống    
Đôi mắt mẹ chờ con.

Về sau loại cây ấy
Được đem trồng khắp nơi.
Người ta gọi vú sữa,
Để con cái nhớ đời.      

2
Câu chuyện trên có thể
Chỉ là chuyện ngụ ngôn.
Để thêm một lần nữa
Nói về tình mẹ con.

Có lẽ không cần thiết
Phải mô tả cây này,
Vì chúng nhiều, phổ biến
Ở miền Nam xưa nay.

Vú sữa có xuất xứ
Từ quần đảo Angti,
Nhập vào ta thời Pháp,
Rồi nội hóa tức thì.

Nó cũng là cây thuốc,
Rất bổ dưỡng, ngoài ra     
Có tác dụng kích thích,
Giàu Celluloza.

Dùng dưới dạng thuốc sắc,
Sắc vỏ của cây này,
Sáu, mười gam mỗi bận,
Làm liều dùng hàng ngày.
                                           

CÂY ĐA

1
Vào những đêm trăng sáng,
Khi ta ngước nhìn lên
Mặt trăng vàng, ta thấy
Có hình người đen đen.     

Hình người đen đen ấy,
Lúc rõ, lúc nhạt nhòa
Ta thường gọi Chú Cuội
Đang ngồi gốc cây đa.

Chú là người có thật,
Sống từ thời xa xưa.
Sáng vào rừng đốn củi,
Ra về vào buổi trưa.         

Một hôm, chú bỗng gặp
Bốn con hổ mới sinh.
Chú dùng rìu đập chết
Mà chẳng chút rùng mình.

Nhưng cũng liền sau đó
Chú bỗng nghe tiếng gào
Của hổ mẹ đang tới,
Liền leo lên cây cao.   

Thương đàn con đã chết,
Hổ mẹ gầm rồi rên.
Sau đó nó lẳng lặng
Ra con suối kề bên.

Nó đến một bụi rậm,
Cắn một nhúm lá non,
Rồi mang về, nhai lá,
Mớm cho bầy hổ con.

Bầy hổ con sống lại,
Như không hề hấn gì.
Nhìn xung quanh một lượt,
Hổ mẹ dẫn con đi.

Chú Cuội liền tụt xuống,
Đi tìm cây thuốc thần,
Nghĩ có lúc cần đến,
Bèn đem trồng trước sân.          

Thực ra cây thuốc ấy
Chỉ là một cây đa.
Cây còn non, mơn mởn,
Lớn nhanh, lá xùm xòa.

Chú quí cây này lắm,
Chăm tưới nước hàng ngày,
Dặn đi dặn lại vợ
Không được tè lên cây.

Bị nhắc nhiều, khó chịu,
Nhân hôm chồng vắng nhà,
Cô nàng đã vén váy
Tè vào gốc cây đa.

Bỗng như có phép lạ,
Cây đa non xanh tươi
Vươn lên cao, bật rễ,
Từ từ bay lên trời.

Đúng lúc ấy chú Cuội
Vừa đi đâu về nhà,
Thấy thế liền nhanh chóng
Định níu giữ cây đa.

Chú ngoắc rìu vào nó.
Nó bay lên phăng phăng,
Và chỉ chịu dừng lại
Khi lên đến mặt trăng.

Và thế là chú Cuội
Kẹt không về được nhà.
Đêm nhìn trăng ta thấy
Chú ngồi gốc cây đa.

2
Câu chuyện cổ tích ấy
Đã đi vào lòng người
Khi ta còn bé tí
Rồi theo ta suốt đời.

Ai một lần ngày nhỏ
Không ngồi gốc cây đa,
Chăn trâu rồi tắm mát,
Đùa nghịch giữa chiều tà.

Nhưng không nhiều người biết
Rằng chính loại cây này
Lại là vị thuốc quí
Dân gian dùng xưa nay.

Đa là cây đại thụ,
Thuộc họ cây Dâu tằm,
Mà có những mấy loại,
Tán rộng, cho bóng râm.

Rễ mọc từ cành xuống,
Cả lõi và da mềm,
Tươi, sao khô đều được,
Không chế biến gì thêm.

Rễ tươi sắc rồi uống,
Chống cổ chướng xơ gan,
Rất lợi tiểu, liều lượng:
Mỗi ngày khoảng trăm gam.

Thời gian uống: liên tục
Từ bảy đến mười ngày.
Lá đa tươi giã nát
Lấy nước dùng hàng ngày

Chữa đi ngoài rất tốt.        
Khi uống cho thêm đường.
Hai giờ một lần uống,
Khoảng một thìa bình thường.

Nghe nói xưa các cụ
Lấy vỏ đa bồ đề
Làm trầu ăn rất thích,
Vừa đỏ lại vừa phê.

No comments:

Post a Comment