Saturday, March 28, 2015

CÁC TÍCH CỔ VIỆT NAM



TRUYỆN LƯU BÌNH, DƯƠNG LỄ

Truyện Lưu Bình, Dương Lễ
Được truyền tụng từ lâu,
Truyện về hai người bạn,
Một nghèo và một giàu.

Họ chơi thân từ nhỏ.
Vì nhà giàu, Lưu Bình
Mời bạn đến cùng ở,
Thật chí đức, chí tình.

Biết phận nghèo, Dương Lễ
Rất chịu khó học hành.
Chàng đi thi, đỗ trạng,
Thành công và thành danh.

Còn Lưu Bình, thật tiếc,
Cậy giàu, thích ham chơi,
Nên thi trượt, chán nản,
Chán mình và chán đời.

Cũng vì chán, của cải
Cứ theo nhau ra đi,
Chẳng bao lâu chợt thấy
Trong nhà không còn gì.

Chàng đến gặp Dương Lễ,
Lúc này là quan to,
Dương Lễ không chịu tiếp,
Còn mời ăn cơm khô.

Giận bạn quên ân nghĩa,
Lòng ngậm ngùi, xót xa,
Chàng quyết tâm học giỏi
Để cũng được vinh hoa.

Khi trở về quán trọ,
Còn tủi nhục trong lòng,
Chàng gặp một cô gái
Có tên là Châu Long.

Nàng dịu dàng, xinh đẹp,
Có vẻ con nhà giàu.
Hai người cảm, rồi mến,
Rồi cuối cùng yêu nhau.

Có điều, Châu Long nói,
Nàng sẽ chỉ lấy chàng
Khi chàng thi, đỗ đạt
Mang về nhà vinh quang.

Được Châu Long khích lệ
Và giúp đỡ tận tâm,
Lưu Bình chăm chỉ học
Ròng rã suốt ba năm.

Nàng lo từ sách vở
Đến quần áo, cái ăn,
Chu đáo như người vợ,
Nhưng vẫn không cho gần.

Rồi Lưu Bình thi đỗ,
Như mở cờ trong lòng,
Về nhà, rất kinh ngạc
Khi không thấy Châu Long.

Chàng tìm mãi không thấy,
Mà không hiểu vì sao,
Bèn đến nhà Dương Lễ,
Trách mắng chuyện năm nào.

Dương Lễ ra đón bạn,
Ân cần mời vào nhà.
Lưu Bình chưa kịp nói
Thì Châu Long bước ra.

Khi chàng được cho biết
Châu Long là thiếp yêu
Của bạn mình, Dương Lễ,
Chàng hiểu hết mọi điều.

Thì ra, để khích bạn
Nhanh chóng đạt công danh,
Dương Lễ vờ bội bạc,
Bị bạn trách cũng đành.

Nàng Châu Long xinh đẹp,
Tận tâm vì bạn chồng,
Vẫn giữ tròn danh tiết,
Giúp Lưu Bình thành công.

Từ đó hai người bạn
Lại gắn bó như xưa.
Mọi chuyện thế là rõ,
Có bàn thêm cũng thừa.

Vậy là tôi kể hết
Chuyện Dương Lễ, Lưu Bình,
Hy vọng các bạn trẻ
Rút bài học cho mình.


TRUYỆN PHẠM CÔNG, CÚC HOA

1.
“Phạm Công, Cúc Hoa” truyện
Được biết đến từ lâu,
Chữ Nôm, thể lục bát,
Bốn nghìn sáu trăm câu.

Tức là truyện dài nhất
Trong thơ Nôm xưa nay.
Trước không rõ người viết,
Nhưng nghe nói gần đây

Đã tìm ra tác giả,
Nhờ nhiều năm sưu tầm,
Là Dương Minh Đức Thị,
Cách đây hai trăm năm.

Tuy nhiên, chính Đức Thị
Là ai, và thế nào,
Thì còn chờ nghiên cứu.
Chờ thì chờ, không sao.

2.
Gặp cảnh nghèo, mới lớn,
Phạm Công phải ở nhà
Lo làm thuê cuốc mướn
Giúp đỡ đần mẹ cha.    

Cha mất, gặp năm đói,
Chàng phải đi ăn mày
Để nuôi mẹ, mẹ chết,
Chàng một mình, trắng tay.

Vốn là người hiếu học,
Lại tư chất thông minh,
Phạm Công xin thụ giáo,
Học Quỷ Cốc tiên sinh.

Ở đấy, cùng theo học
Còn có nàng Cúc Hoa,
Con gái quan tri phủ,
Hạng danh giá con nhà.

Kiểu gần rơm lửa cháy,
Hai người đã yêu nhau,
Rồi lấy nhau, hạnh phúc,
Rất ý hợp tâm đầu.

Phạm Công từ biệt vợ,
Khăn gói lên kinh kỳ.
Nhờ dùi mài kinh sử,
Chàng đỗ đầu khoa thi.

Thế mà nhiều tai họa
Đã ập xuống đầu chàng.
Chàng trở thành gai nhọn
Trong mắt nhiều lân bang.

Kể ra ai cũng thích
Khi đi thi đỗ đầu.
Cũng thích - lấy công chúa,
Vừa xinh lại vừa giàu.

Nhưng Phạm Công thì khác.
Chàng yêu thương Cúc Hoa,
Từ chối lấy công chúa,
Mới sinh lắm phiền hà.

May công chúa nước Triệu,
Vốn nhân hậu, từ tâm
Giúp được chàng họ Phạm
Thoát khỏi chốn giam cầm.   

Thế là chàng đoàn tụ
Cùng vợ mình Cúc Hoa.
Mọi việc đều tốt đẹp,
Việc công và việc nhà.

Rồi Cúc Hoa sinh hạ
Hai con ngoan, lớn dần,
Con trai là Tiến Lực,
Con gái là Nghi Xuân.

3.
Tưởng tột cùng hạnh phúc,
Thế mà rồi hóa không:
Ba mươi tuổi, vợ chết,
Bỏ lại con và chồng.

Khóc đến mòn hai mắt,
Phạm Công nghe lời khuyên,
Lấy vợ hai - con gái
Của viên quan huyện bên.

Tên ả là Tào Thị,
Đẹp thì đẹp, tiếc thay
Mưu mô và hiểm độc,
Còn thích trò gió mây.

Rồi Phạm Công vâng chiếu
Lên trấn thủ Cao Bằng,
Chốn khỉ ho cò gáy,
Giữa điệp trùng núi dăng.

Ở nhà, ả Tào Thị,
Tìm bạn tình, tư thông,
Còn ngang nhiên đánh đập
Hai con riêng của chồng.

Bọn gian phu, dâm phụ
Còn mưu giết con chàng,
Khiến chúng đêm, hoảng sợ,
Bỏ nhà đi lang thang.

Cúc Hoa ngay tối ấy
Từ cõi âm hiện về
Để giúp hai con nhỏ,
Báo chồng về mụ kia.

Sau ba năm trấn thủ,
Phạm Công trở về nhà,
Thẳng tay đuổi Tào Thị,
Một dâm phụ gian tà.   

Trời nổi giông lập tức.
Sấm sét nổ vang trời.
Sét đánh chết Tào Thị,
Xác tung tóe khắp nơi.

Nhờ công chúa nước Trịnh,
Có tên là Xuân Dung,
Và Tề Thiên Đại Thánh,
Và Diêm Vương, cuối cùng

Phạm Công xuống âm phủ
Gặp lại nàng Cúc Hoa.
Cúc Hoa sinh lần nữa,
Rồi được cho về nhà.

Chàng Phạm Công sau đó
Được vua Trịnh nhường ngôi,         
Cưới Xuân Dung công chúa,
Sống hạnh phúc suốt đời.


TRUYỆN TỐNG TRÂN, CÚC HOA

1.
Cảm động và ý nghĩa,
Nội dung câu chuyện này
Có tích thuần chất Việt,
Hơn hai trăm năm nay.

Truyện theo thể lục bát,
Một nghìn bảy trăm câu,
Không biết tên tác giả,
Rất nhiều người thuộc làu.

Giờ tôi xin viết lại,        
Đúng ý, đúng tinh thần,
Ngắn gọn và giản dị,
Chuyện Cúc Hoa, Tống Trân.

Tống Trân mồ côi bố
Khi vừa mới lên ba.
Chàng là con cầu tự,
Mẹ chàng lại mù lòa.

Lớn lên, vì nghèo đói,
Chàng dắt mẹ xin ăn,
Tới một nhà giàu có
Nổi tiếng khắp xa gần.

Mở cửa, ra bố thí
Là con gái chủ nhà,
Một cô gái xinh đẹp,
Có tên là Cúc Hoa.

Nàng giản dị, tốt bụng,
Đa cảm và thương người,
Chuyên tâm làm việc thiện,
Lo tích đức giúp đời.

Vừa đưa xong bát gạo,
Ngước mắt nhìn Tống Trân,
Trái tim nàng thổn thức,
Bước chân đi tần ngần.

Nàng yêu chàng say đắm
Từ cái nhìn đầu tiên,
Đem chuyện thưa với bố,
Xin kết nghĩa nhân duyên.

Xấu hổ và tức giận,
Bố và mẹ Cúc Hoa,
Sau khi khuyên không được,
Đuổi nàng ra khỏi nhà.

Thế là thành chồng vợ,
Cúc Hoa và Tống Trân.
Nàng không hề ca thán,
Cam chịu cảnh thanh bần.

Nàng vất vả làm việc,
Không chỉ thờ mẹ chồng,
Mà nuôi chồng ăn học,
Mong đến ngày thành công.  

Cuối cùng, kỳ thi đến,
Tống Trân đỗ trạng nguyên,
Vua muốn gả công chúa,
Xinh đẹp và dịu hiền.

Chàng nhất mực từ chối.
Công chúa giận, xui cha
Bắt chàng sang Trung Quốc,
Giải quyết mối bất hòa.

Đang bực mình, khó chịu
Với nước Nam, vua Tần
Tìm cách gây khó dễ
Với sứ thần Tống Trân.

Vốn thông minh, khôn khéo,
Sứ Việt đã vượt qua
Các thử thách vua bẫy,
Giải quyết được bất hòa.

Vua Tần thôi không ghét,
Để cho chàng được yên,        
Còn ban lộc, phong tặng
Chức Lưỡng quốc Trạng nguyên.   

Vua muốn gả công chúa,
Nhưng nhớ vợ ở nhà,
Chàng khôn khéo từ chối,
Không mất lòng ông ta.

Vậy là bảy năm chẵn
Chàng xa xứ, long đong,
Để Cúc Hoa nuôi mẹ
Và một mực chờ chồng.

Bố nàng thấy con gái
Chờ chồng, chồng không về,
Ép nàng lấy Đình Trưởng,
Một người giàu cùng quê.

Nàng nhất quyết không chịu,
Bị cha nhốt trong nhà,
Còn đánh đập tàn nhẫn,
Nhốt cả bà thông gia.

Cúc Hoa quá đau khổ,
Để giữ trọn chữ tình,
Nàng lên núi Sơn Vĩ
Định liều mình quyên sinh.

Một bức thư tuyệt mệnh
Nàng để lại cho chồng.
Thần Sơn Tinh cám cảnh,
Liền vội hóa thành rồng

Rồi mang bức thư ấy
Đưa tận tay Tống Trân.
Chàng khóc thương, lặng lẽ
Đưa nó cho vua Tần.

Vua Tần tuy quyến luyến
Sứ đất Việt tài hoa,
Đọc xong thư, quyết định
Cho chàng về quê nhà.

Trong khi đó Đình Trưởng
Hết hạn chờ ba năm,
Cha Cúc Hoa cho cưới,
Một tiệc cưới nghìn mâm.

Tống Trân về đúng lúc
Tiệc cưới rất linh đình
Và người vợ chung thủy
Sắp liều mình quyên sinh.

Rồi mừng mừng, tủi tủi
Rồi sum họp một nhà.
Một đoạn kết có hậu
Cho Tống Trân, Cúc Hoa.

Hai người sống hạnh phúc
Tới đầu bạc, răng long.
Một tấm gương chung thủy
Của đạo nghĩa vợ chồng.       

Nay bên bờ sông Luộc,
Huyện Phù Cừ, Hưng Yên,
Vẫn còn ngôi đền cổ
Thờ Lưỡng quốc Trạng nguyên.

2.
Lại nói nàng công chúa
Con gái vua nước Tần,
Buồn rầu và đau khổ
Khi không còn Tống Trân.

Nàng xin sang nước Việt.
Vua cấp thuyền, cho đi.
Một khi con đã quyết,
Bố còn biết làm gì?

Không may gặp bão lớn,
Nàng bị dạt lên bờ,
Được hươu nai cứu sống,
Giữa núi rừng hoang sơ.

Một hôm, đang săn thú,
Tống Trân nhìn thấy nàng,
Lại mừng mừng, tủi tủi,
Lại lệ chảy hai hàng.

Tiễn đưa nàng công chúa,
Muông thú xếp hàng dài.
Còn Cúc Hoa hào hiệp
Cho nàng làm vợ hai.


TRUYỆN PHẠM TẢI, NGỌC HOA

1.
Có gia đình giàu có
Xưa ở huyện Thanh Hà,
Bố làm quan, nhân đức,
Con gái là Ngọc Hoa.

Đương nhiên là nàng đẹp
Lại gia giáo, đa tài.
Nhiều người muốn dạm hỏi,
Nhưng nàng không lấy ai.

Ở Sơn Tây lúc ấy
Có một chàng thư sinh
Có tên là Phạm Tải,
Tuấn tú và thông minh.

Bố mẹ chàng mất sớm,
Gia cảnh sa sút dần,
Để tiếp tục theo học,
Chàng đành đi xin ăn.

Chắc chàng khôi ngô lắm,
Hay có gì khác thường,
Mà Ngọc Hoa vừa gặp,
Đã đem lòng yêu thương.

Dẫu không thật vừa ý,
Bố mẹ nàng dằn lòng
Để cho cô con gái
Lấy Phạm Tải làm chồng.

Có một tên vô lại
Tục danh là Biện Điền,
Trước bị nàng từ chối,
Giờ tức giận, phát điên.

Không ăn thì đạp đổ -
Triết lý hắn rõ ràng.
Hắn lấy một khúc gỗ,
Đẽo bức tượng giống nàng.

Bức tượng quả giống thật.
Hắn đem tặng Trang Vương,
Một tên vua háo sắc,
Khinh luân lý, đạo thường.

Vua cho ngay quân lính
Bắt nàng về triều đình.
Thấy Ngọc Hoa xinh đẹp,
Hắn ép phải lấy mình.  

Nàng Ngọc Hoa không chịu,
Vua dọa chém cũng không,
Một mực nàng chỉ nói:
“Thiếp là gái có chồng!”       

Vua cho đòi Phạm Tải,
Bắt ký giấy nhường nàng.
Vì tội không nhượng vợ,
Vua đã đầu độc chàng

Ngọc Hoa khóc, thương xót
Bên xác chồng thân yêu.
Nàng rạch mặt, cắt tóc,
Mặc áo tang vào triều,

Rồi giả vờ đồng ý
Lấy Trang Vương, để nàng
Có ba năm thanh thản
Thờ chồng và chịu tang.

Hết hạn, vua đòi cưới,
Ngọc Hoa nhảy xuống sông.
Dưới âm phủ, lần nữa,
Nàng lại được gặp chồng.

Rồi hai người thưa kiện,
Quỳ trước điện Diêm La,
Kiện Trang Vương tàn ác
Hại vợ chồng Ngọc Hoa.

Diêm Vương, vua âm phủ,
Vốn là em Trang Vương,
Nhưng ông là vua tốt,
Rất coi trọng kỷ cương.

Xử vụ này, vua nói:
“Thương anh, để trong lòng,”
Ác giả phải ác báo,
“Việc quan cứ phép công!”

Vua nén khóc, quay mặt,
Ném anh vào vạc dầu.  
Một tấm gương xử án
Cho các quan về sau.

Ngọc Hoa và Phạm Tải,
Vì đau khổ, vì oan,
Được Diêm Vương ký lệnh
Cho trở về dương gian.

2.
Vậy là tóm lược hết
Cuốn “Phạm Tải - Ngọc Hoa”.
Nội dung chỉ có thế,
Ngắn gọn và nôm na.

Đây là cuốn sách cổ,
Gần một nghìn câu thơ
Viết theo thể lục bát,
Truyền tụng đến bây giờ.

Như nhiều truyện Nôm khác,
Tác giả tập thơ này      
Còn vô danh, chưa biết.
Thơ dung dị mà hay.

Tôi chỉ muốn con trẻ
Biết vốn cổ cha ông
Ngay từ thời đi học,
Thậm chí cấp vỡ lòng.

Đọc để hiểu nhân nghĩa
Và đạo lý, luân thường,
Để làm người nhân ái
Còn biết yêu, biết thương.

Mục đích rất khiêm tốn
Ham muốn cũng không nhiều.
Các cháu nhỏ đọc nhé.
Ông yêu các cháu nhiều.


TRUYỆN TRÊ CÓC

Viết theo thể lục bát,
Ba trăm chín tám câu,
Trê Cóc là câu chuyện 
Đã có từ rất lâu.

Truyện ngụ ngôn, giáo huấn       
Của tác giả vô danh,
Đời sau thường chuyển thể
Thành văn xuôi, truyện tranh.

Truyện kể rằng xóm nọ
Có vợ chồng Cóc nghèo,
Sống cạnh một ao nước
Trong túp lều vẹo xiêu.

Láng giềng có cô Diếc,
Bác Cua, chú Cá Mè
Ông Ếch, anh Nhái Bén
Và vợ chồng Cá Trê.    

Hai vợ chồng nhà lão
Giàu có nhưng khó gần,
Lại thêm tính hách dịch,
Nên không ai chơi thân.

Một ngày nọ, cô Cóc
Đến mùa sinh, bất ngờ
Đẻ ra một bọc trứng
Trôi trên ao nhờ nhờ.

Rồi từ bọc trứng ấy
Một bầy nòng nọc con
Nở ra, trông thật thích,
Đuôi dài, đầu tròn tròn.

Lão Cá Trê đi dạo,
Tưởng chúng là cá trê
Vì đuôi dài, đầu lớn,
Nên lão bắt mang về.

Vợ chồng Cóc biết chuyện,
Đem Trê kiện lên quan.
Quan giam lão vào ngục,
Dù lão cứ kêu oan.

Bị lính đánh đau quá,
Trê ông bảo Trê bà
Phải lo đường đút lót
Để nhanh chóng được tha.

Thế là lão Lý Ngạnh
Và Chánh Quạ nhận tiền
Cùng rất nhiều lễ biếu,
Rồi chúng đút quan trên.

Trước quan xử: Nòng nọc
Không phải con Lão Trê,
Mà con vợ chồng Cóc,
Nay quan cười hề hề,

Bảo để rồi xem lại.
Rồi quan cử sai nha
Gồm Lý Ngạnh, Chánh Quạ
Xuống tận nơi điều tra.     

Hai đứa này, ta biết,
Do nhận lễ, ăn tiền,
Nên chúng xuống chiếu lệ,
Chỉ đánh chén triền miên.

Chúng bèn xin quan lớn
Thả lão Trê ra ngay.
Quan, cũng nhận hối lộ,
Còn băn khoăn việc này.

Lại nói vợ chồng Cóc,
Không có tiền đút quan,
Nên nhờ anh Nhái Bén
Bày cách gỡ mối oan.

Nhái Bén vốn hay chữ,
Học đến héo quắt người,
Sau khi nghe sự việc,
Nhẩm tính rồi mỉm cười:

“Hai bác đừng lo sợ.
Chờ vài ngày nữa thôi
Mọi việc sẽ sáng tỏ.
Cứ yên tâm tin tôi.”

Hai ngày sau, nòng nọc
Rụng hết đuôi, bình thường
Lại thành cóc, bé xíu
Trông thật là dễ thương.

Sau đó cả nhà cóc
Kéo nhau lên gặp quan.
Giờ con ai đã rõ,
Điều ấy không cần bàn.

Dù đã ăn của đút
Của vợ chồng nhà Trê,
Quan đưa ra mức phạt
Phải nói, cũng rất ghê:

Vợ chồng Trê bị đánh
Mỗi người một trăm roi
Rồi bị đày biệt xứ,
Đày vĩnh viễn, suốt đời.

Còn Lý Ngạnh, Chánh Quạ,
Vì tội thiếu công tâm,
Tức là ăn của đút,
Bị treo chức mười năm.

Còn gia đình nhà Cóc
Thì mở tiệc ăn mừng,
Mời bà con, hàng xóm
Làm một bữa tưng bừng.


TRUYỆN TRƯƠNG VIÊN, PHƯƠNG THỊ

1.
Truyện rằng xưa, làng nọ
Có người tên Trương Viên,
Một chàng trai khỏe mạnh,
Chất phác và rất hiền.

Bỗng lệnh vua ban xuống
Bắt tất cả tráng đinh
Phải đầu quân chiến đấu
Trong quân đội triều đình.

Vợ chàng là Phương Thị,
Vừa đẹp vừa đảm đang,
Rất giỏi bề gia chánh,
Nổi tiếng tốt khắp làng.

Ngày lên đường nhập ngũ,
Khăn ướt, lệ dầm dề,
Chàng dặn vợ, chạy giặc,
Nên tạm lánh về quê.

Và rồi, quả sau đó,
Giặc nổi lên ngút đồng,
Phương Thị đành phận gái
Đưa mẹ về quê chồng.

Gặp muôn vàn trở ngại,
Đường vừa khó, vừa xa.
Nàng là dâu hiểu thảo,
Nhường cơm, cõng mẹ già.

Một sáng nọ, đói khát,
Họ đi qua một nơi,
Thấy dân làng chạy đến,
Với bộ mặt vui cười.

Hai mẹ con được họ
Còn cho ăn uống no.
Có chuyện gì thế nhỉ?
Đang lúc họ tò mò,

Thì một vị bô lão
Liền giải thích thế này:
Mỗi năm làng phải tế
Cho hung thần ở đây

Một cặp mắt phụ nữ.
Trước còn của dân làng,
Sau chuyển thành lấy mắt
Của những người đi ngang,

Tức là người hôm ấy
Đến làng này đầu tiên.
Vậy năm nay hiến mắt
Sẽ là mẹ Trương Viên! 

Phương Thị nghe, hoảng hốt,
Sụp lạy trước dân làng,
Xin được thay cho mẹ.
Rồi họ móc mắt nàng.

Cảm tấm lòng chí hiếu,
Một bà tiên hiện ra,
An ủi nàng rồi tặng
Một chiếc đàn tỳ bà.

Khi trao đàn, bà nói:
“Con quả là dâu hiền.
Nó sẽ giúp con sống
Cho đến ngày đoàn viên.”

Vậy là mù hai mắt,
Phương Thị dẫn mẹ già
Đi xin ăn khắp chợ,
Xin, và chơi tỳ bà.

2.
Lại nói, binh đao hết,
Chàng Trương Viên trở về,
Không thấy vợ và mẹ,
Chàng lên đường về quê.

Tới chỗ làng có lệ
Lấy mắt người cúng thần,
Chàng đau xót khi biết
Mọi chuyện về người thân.

Chàng cất công tìm kiếm,
Tìm mãi, tìm khắp nơi,
Cuối cùng đến khu chợ
Thì gặp được hai người.

Vợ chàng đang ngồi hát,
Chiếc đàn lạ trên tay.
Mẹ chàng xin bố thí
Bằng chiếc bát ăn mày.

Rồi mừng mừng, tủi tủi,
Ba người khóc, ôm nhau.
Nàng Phương Thị khóc mãi,
Đến khi từ hố sâu

Của đôi mắt bị khoét,
Ứa hai cục máu hồng.
Và rồi sự lạ đến,
Trước mặt mẹ và chồng,

Nàng ôm đầu quằn quại.
Đôi mắt mù ngày nào
Bỗng nhiên giờ lại sáng,
Sáng như hai ngôi sao.

3.
Đây là phần tóm lược
Một vở chèo rất hay,
Tích Trương Viên - Phương Thị,
Tôi mới xem gần đây.

Trong các loại hát cổ,
Tôi thích nhất là chèo,
Áo mớ ba, mớ bảy,
Đủ màu, trông thật yêu.         

Là đặc sản Bắc Bộ,
Hóm hỉnh và thông minh,
Chèo đầy chất dân dã,
Có duyên, lại có tình.

Nhân tiện, xin nhắc lại,
Rằng Hoa Lư, Ninh Bình,
Là gốc của chèo cổ,
Có từ thời nhà Đinh.

Và người tạo ra nó
Là bà Phạm Thị Trân,
Một nữ sĩ tài giỏi,
Chắc cũng đẹp tuyệt trần.

Rồi chèo dần phổ biến
Từ Nghệ Tĩnh trở ra
Khắp cả vùng Bắc Bộ,
Thành một dạng dân ca.

Một thế kỷ sau đó,
Khi ta thắng quân Nguyên,
Ta tóm được một chú
Người Mông Cổ, rất hiền.

Chú đánh nhau thì kém,
Nhưng giỏi hát, giỏi đàn,
Nên đã đưa Kinh Kịch
Của Tàu vào nước Nam.

Trước chèo chỉ có nói
Và lời ngâm dân ca,
Nay nhờ chú, thêm hát,
Những câu hát mặn mà.        


SÚY VÂN GIẢ DẠI

1.
Tích “Súy Vân giả dại”
Trong vở chèo Kim Nham
Được xem là kinh điển
Của môn chèo Việt Nam.

Giả dại để chồng bỏ,
Để đi theo tình nhân,
Rồi tình nhân ruồng rẫy,
Cuối cùng phải xin ăn.

Cái giá là thế đấy,
Giá của những cô nàng
Thích tham sung bỏ ngãi,
Thích phú quí, giàu sang.

Vậy mà tôi, thật lạ,
Thương thương cho Súy Vân.
Kiếp nữ nhi bèo bọt,
Chẳng biết đâu mà lần.

2.
Ngày xưa ở Nam Định
Có anh gốc bần hàn,
Tên Kim Nham, hiếu học,
Trọ học ở Tràng An.

Ông quan huyện họ Tể
Có con là Súy Vân,
Một cô gái xinh đẹp,
Nết na và tảo tần.

Cũng vì đức tính ấy,
Tức tảo tần, nết na,
Nàng thích sống giản dị,
Cam chịu phận đàn bà.

Không quen nghĩ sâu sắc,
Ít tiếp xúc với đời,
Chỉ lo bề gia chánh,
Nàng rất dễ tin người.

Thấy Kim Nham học giỏi,
Tướng mạo cũng đàng hoàng,
Ông quan huyện họ Tể
Gả Súy Vân cho chàng.

Mọi chuyện đều tốt đẹp,
Ai cũng thấy hài lòng.
Súy Vân thì hạnh phúc,
Đơn giản vì có chồng.

Thế mà người chồng ấy,
Lần nữa lại đi xa,
Ra kinh thành học tập,
Để mình nàng ở nhà.

Súy Vân đành lẻ bóng,
Chờ chồng và buồn rầu.
Nàng chỉ nghĩ đơn giản,
Vợ chồng phải bên nhau.

Có một gã giàu có
Ở Đông Ngàn, Bắc Ninh,
Tên Trần Phương, đẹp mã,
Và nổi tiếng phong tình.

Thấy Súy Vân xinh đẹp,
Hắn buông lời lẳng lơ,
Còn hứa lấy làm vợ,
Thôi không phải đợi chờ.

Hắn xui nàng giả dại,
Để Kim Nham bỏ nàng,
Sau đấy hắn sẽ lấy,       
Có cưới xin đàng hoàng.

Vốn thơ ngây, nhẹ dạ,
Không quen thiếu đàn ông,
Súy Vân nghe lời hắn,
Giả điên để lừa chồng.

Chàng Kim Nham, tội nghiệp,
Phải vất vả, ưu phiền,
Lo chữa trị cho vợ,
Mà bệnh tình vẫn nguyên.

Không còn cách nào khác,
Theo đúng ý của nàng,
Chàng ký giấy thừa nhận,
Nàng không phải vợ chàng.

Súy Vân, lòng khấp khởi,
Liền đi tìm Trần Phương,
Những tưởng sắp hạnh phúc,
Những tưởng lên thiên đường.

Thế mà thằng vô lại,
Sau khi chiếm được nàng,
Đã thẳng tay ruồng rẫy,
Tráo trở và phũ phàng.

Lòng chua xót, xấu hổ,
Nàng không dám về nhà,
Điên giả thành điên thật,
Ngẫm mà lòng xót xa.

Kim Nham khoa thi ấy
Thi đỗ, được làm quan.
Súy Vân nơi phố chợ
Xin ăn, thân héo tàn.

Một lần, thấy vợ cũ,
Đang xin ăn, thương thay,
Chàng lấy một nén bạc
Giấu dưới bát cơm đầy.

Thấy tên lính lễ phép
Đưa bát cơm cho mình,
Bẻ ra, có nén bạc,
Nàng hiểu hết sự tình.

Xấu hổ và đau đớn,
Nàng gieo mình xuống sông.
Lại thêm một bài học
Về đạo nghĩa vợ chồng.

No comments:

Post a Comment