Sunday, March 22, 2015

CỔ THI TÁC DỊCH - ĐỖ PHỦ




Tác giả: Sinh năm 712, mất 770, tự Tử Mỹ, quê Tương Dương, nay thuộc tỉnh Hà Bắc, một trong những nhà thơ vĩ đại nhất đời Đường. Ông thi tiến sĩ không đỗ, một lần nhân đến Trường An, dâng lên vua Huyền Tông ba bài phú. Vua thấy hay, cho làm Đãi chế tập hiền viên. Đến đời Đường Túc Tông, ông giữ chức Hữu tập di, rồi Hoa châu tư công. Gặp lúc loạn lớn, ông bỏ quan về đất lạ Tần Châu hái rau kiếm củi lần hồi rồi lưu lạc tới Kiếm Nam. Nghiêm Vũ xin cho ông làm Tham mưu kiểm hiệu Công bộ viên ngoại lang. Đến đời Đại Lịch, ông tới Lỗi Dương, một đêm quá say rồi mất, thọ 59 tuổi. Tác phẩm: Còn lưu lại được 16 quyển thơ với hơn 1400 bài.

Cảm tác

Dở, hay tự mình biết.
Nghiệp văn, nghiệp cả đời.
Mỗi người một cách viết,
Kẻo đời sau chê cười.

Tuyệt cú

Trên nền nước biếc chim càng trắng.
Hoa đỏ hơn nhiều nhờ lá cây.
Xuân này có lẽ không về được,
Vậy biết xuân nào về được đây?

Chợt hứng

Đường trắng hoa dương, những lá sen
Tròn xanh trên suối như đồng tiền.
Mầm măng khẽ nhú không ai thấy.
Trên cát vịt trời đang ngủ yên.

Chợt hứng

Những muốn tới nơi suối khởi đầu.
Một mình chống gậy giữa Phương Châu.
Cuồng điên gió thổi, oằn tơ liễu.
Nước cuốn, hoa đào trôi tới đâu?

Tặng Lý Bạch

Thu về nhớ cảnh ngắm trăng lên.
Thẹn với Cát Hồng vì thuốc tiên. 1)
Ngang tàng, bướng bỉnh, kiêu, trọng nghĩa,
Ngày nào cũng uống, hát như điên 2).

(1) C¸t Hång tù lµ Bao Ph¸c Tö, chuyªn häc phÐp tiªn, kÓ c¶ viÖc ®Ó chÕ ra thÇn d­îc.
(2) Lý B¹ch næi tiÕng hay uèng r­îu, tÝnh khÝ hµo hiÖp, cã lóc v× ng­êi kh¸c mµ ®©m chÕt ng­êi.

Tặng Hoa Khanh

Cẩm Thành đàn sáo suốt đêm ngày,
Nửa tan vào gió, nửa vào mây.
Vốn của thiên cung, nơi hạ giới,
Ai đã từng nghe nhạc khúc này?

Bát đồ trận 1)

Giúp thiên hạ chia ba.
Nổi tiếng bát đồ trận.
Sông chảy, đá vẫn trơ.
Chưa lấy Ngô, còn hận.

1. Thời Tam Quốc Gia Cát Lương cho xếp đá lập trận bát đồ cao năm thước, rộng mười vi ở tay nam cung Vĩnh An, nay thuộc Tứ Xuyên. Sau này tướng Ngô là Lục Tốn đến xem bị lạc, may được Hoàng Thừa Nghiện, bố vợ Khổng Minh, chỉ đường mới thoát. Năm 768 Đỗ Phủ đi qua đây nên viết bài thơ này.

Tiễn Hạ Tiêm ở bến sông

Bùi ngùi lệ nhỏ lúc xa nhau:
Đã bảy mươi rồi, còn đi đâu?
Thuyền nghiêng, gió mạnh, buồn khi thấy
Trên sóng bạc đầu người bạc đầu.

Trung thu

Đêm nay là trung thu.
Trời cao, trăng huyền ảo.
Ai có tiệc lầu nam
Mà rộn vang đàn sáo.

Lại buồn

Các nước lo chinh phạt.
Quê cũ giờ thế nào?
Trước đã ít bạn hữu,
Nay thêm họa binh đao.

Tuyệt cú

Chim trắng bay, sông biếc.
Núi xanh tươi, đầy hoa.
Lại thêm một xuân nữa.
Biết bao giờ về nhà?

Gặp ông Lý Niên ở Giang Nam

Trước nhà Thái Cửu từng nghe tiếng.
Trong phủ Kỳ Vương gặp mấy lần.
Giang Nam xinh đẹp mùa hoa rụng,
Bây giờ lại gặp trạm dừng chân.

Tuyệt cú

Đôi chim oanh hót trên cành liễu.
Chấp chới trời xanh mấy cánh cò.
Khung cửa in tranh mờ núi tuyết,
Dập dìu thuyền đậu bến Đông Ngô.

Mạn hứng

Đứng ngắm sông xuân những chạnh lòng,
Một mình chống gậy bước thong dong.
Tơ liễu quay cuồng khi gặp gió.
Theo nước, hoa đào trôi dưới sông.

Quan Lý Cố mời xem tranh Tư Mã, em trai ông ta 1)
(Trích)

Cảnh thần tiên, trời, nước.
Thiên Thai, mây nhiều màu.
Đời trần này đẹp thế,
Còn thoát trần đi đâu?

1. Lý Cố mời Đỗ Phủ xem tranh của em mình là Tư Mã, và xin đề thơ bình. Đỗ Phủ viết ba bài. Đây là bài thứ hai. Bài có tám câu, xin trích dịch bốn câu ý chính.

Trông cảnh xuân

Nước mất, còn núi sông.
Cỏ vẫn mọc ngoài đồng.
Thương đời, hoa nhỏ lệ.
Tiễn bạn, chim đau lòng.
Lửa hiệu đốt ba tháng.
Thư nhà luôn chờ mong.
Tóc đã bạc, lại ngắn,
Cài trâm, cài không xong.

Được tin em Quan từ Trung Đô đã về tới Giang Lăng, cuối tháng xuân này sẽ đến Quỳ Châu, vừa mừng vừa tủi, cuộc sum họp có thể đợi chờ, làm thơ tỏ chuyện ấy, tình lộ ra cả ở lời

Em đã đến Giang Phủ.
Bao giờ về Giáp Châu?
Vì loạn, thành ly biệt,
Nay sắp sửa gặp nhau.
Bệnh hết, mắt thôi chớp.
Sáng sáng bước lên lầu,
Hết sợ chết xương trắng.
Cũng bớt phần lo âu.

Lên lầu thành Duyện Châu

Đến Đông quan thăm cha.
Lên lầu Nam nhìn ra.
Mây đầy biển Đông Hải.
Thanh Từ đất bao la.
Thành hoang còn điện Lỗ.
Bia Tấn núi xa xa.
Nơi này nhiều cảnh cũ,
Xem không muốn về nhà.

Ngắm cảnh đồng quê

Bầu trời thu trong vắt.
Một vệt mờ rừng cây.
Trời, nước hòa làm một.
Thành chìm trong sương dày.
Gió thổi, cây rụng lá.
Mặt trời lặn phía tây.
Quạ trong rừng nhao nhác.
Bay đâu hạc lẻ bầy?

Núi Vu ngày tạnh ráo

Núi Vu đẹp như gấm.
Sau mưa trời cao trong.
Cỏ ngoài ao xanh biếc.
Mây phía biển đỏ hồng.
Suốt ngày chim oanh hót.
Hạc giăng hàng trên không.
Hoa lặng lẽ héo rụng,
Gió thổi, bay ngoài đồng.

Đêm mười bảy, ngắm trăng

Trăng thu tròn và sáng.
Già, bên sông sống lười.
Cuốn rèm, trăng hắt bóng.
Chống gậy, trăng theo người.
Ánh trăng làm rồng quẫy.
Chim tỉnh, bay lên trời.
Nhà tranh bên gốc bưởi.
Long lanh giọt sương rơi.

Suy nghĩ khi ra ải

Dùng cung, cung phải cứng.
Bắn tên, tên phải dài.
Bắn người, bắn ngựa trước.
Bắt tướng để thị oai.
Giết người nên có hạn.
Người - ai cũng như ai.
Ví như tướng đánh giặc,
Đâu giết nhiều là tài.

Đêm trăng, nhớ em

Nghe trống, chân dừng bước.
Ngỗng kêu, thu gợi sầu.
Đêm nay sương dày đặc.
Quê cũ, ánh trăng thâu.
Anh em người một ngả.
Chết hay còn, ở đâu?
Thư gửi nhiều, không tới.
Binh lửa hẳn còn lâu.

Lại nhớ em

Thời loạn, nghe tin chú
Đang náu ở Tế Châu.
Đường xa, thư không tới.
Biết bao giờ gặp nhau?
Trước cũng từng chạy giặc,
Bao vất vả, buồn đau.
Thôi, mọi điều phó mặc
Dòng nước kia đục ngầu.

Đập vải

Chàng vẫn ngoài biên ải.
Mỗi bận mùa thu về,
Lau sạch chày đập vải,
Lòng thiếp buồn ủ ê.
Thiếp đập vải, nhuộm áo
Gửi cho chàng - phòng the,
Đập thật mạnh, đập mãi,
Mong ngoài ấy chàng nghe.

Gửi Đỗ Vi

Ngày lạnh, trời chóng tối.
Mất tổ, vượn kêu sầu.
Trên sông chợt nhớ bác.
Bác bây giờ ở đâu?
Gửi thân nơi cát bụi,
Có tránh khỏi buồn đau?
Gói phong thư gửi bác,
Mà lệ ứa hồi lâu.

Buổi chiều

Trâu dê đã xuống núi.
Nhà nhà cổng cài then.
Trăng gió, đêm vắng lặng.
Sông núi, cảnh không quen.
Giọt sương treo ngọn cỏ.
Vách đá, suối kề bên.
Đầu bạc cạnh đèn sáng.
Cần chi nở hoa đèn.

Lên lầu Nhạc Dương

Động Đình xưa nghe tiếng,
Nay lên lầu Nhạc Dương.
Sở Ngô ở hai phía,
Trời đất mịt mù sương.
Thân già, chiếc thuyền nhỏ,
Vắng tin bạn, người thương.
Binh đao ngoài ải bắc.
Tựa hiên, lòng vấn vương.

Đêm ở đất khách, viết thơ để nói nỗi lòng mình

Hai bờ, cỏ gợn sóng.
Chiếc thuyền, buồm dương cao.
Trên sông trăng vỡ vụn,
Ngoài đồng nhấp nháy sao.
Nghề quan lo nghĩ lắm.
Nghiệp văn, nghiệp tầm phào.
Chơi vơi giữa trời đất,
Chim âu về nơi nào?

Đền thờ vua Vũ

Đền vua Vũ trên núi.
Gió thu thổi, xế tà.
Sân đầy bưởi và quýt.
Rồng vẽ kín vách nhà.
Đền vắng, hơi mây lạnh.
Nước trong hang chảy ra.
Vua dùng xe bốn loại,
Xây đập chắn Tam Ba.

Mặt trời lặn

Mặt trời xuống sát vách.
Xuân về bên suối trong.
Bác tiều phu nhóm lửa
Trên thuyền, giữa eo sông.
Côn trùng bay đầy ngõ.
Chim giành nhau quả thông.
Giá có vò rượu đục
Uống cho vợi nỗi lòng.

Đêm xuân, mừng trời mưa

Đang tiết xuân, bất chợt
Trời đổ trận mưa lành.
Muôn vật được tưới mát.
Hơi ẩm bốc xung quanh.
Thuyền chài le lói sáng.
Đường quê mây bập bềnh.
Chắc sáng mai, rực rỡ,
Hoa nở khắp Cẩm Thành.

Chiều hôm

Nơi này nước chảy xiết.
Hoàng hôn, núi nhuộm màu.
Hoa lạnh trong cỏ rối.
Chim ngủ tận rừng sâu.
Bao giờ thấy quê cũ?
Trời thu gợi nỗi sầu.
Ở đời gặp may hiếm.
Thoắt cái đã bạc đầu.

Không gặp

Lâu không gặp Lý Bạch.
Cứ giả khùng, giả sai.
Người đời muốn ông chết,
Nhưng ta thì mến tài.
Giang hồ, rượu cứ uống.
Thơ viết cả nghìn bài.
Nay già, đừng đi nữa,
Về đọc sách, nằm dài.

Dong thuyền trên sông Bồi, đưa Vi Ban về kinh

Ngồi thuyền đưa tiễn bác.
Sông buồn khách đi xa.
Lênh đênh lâu đất khách,
Mong bác sớm về nhà.
Mây lửng lờ trên núi.
Lớp lớp cây chen hoa.
Quê người bạn bè ít,
Đã già càng thêm già.

Trên cánh đồng phía tây Thế Thành, tiễn ông
Lý phán quan và ông em Vũ phán quan đi phủ Thành Đô

Thời gian trôi lặng lẽ.
Bùi ngùi tiễn người thân.
Xa xa nước gợn sóng,
Buông tơ hàng liễu gần.
Hoa đồng nội đang nở.
Núi dạt dào sắc xuân.
Sao đời lắm ly biệt
Để buồn thương nhiều lần.

Ông Hai viên ngoại Phạm Mạc và ông
Mười thị ngự Ngô Úc chiếu cố đến thăm,
vì tiếp đãi sơ sót nên viết bài này

Sang chơi bên hàng xóm,
Không biết khách đến nhà.
Quả là vinh dự lớn
Dành cho kẻ yếu già.
Xóm vắng không có khách.
Lại ở tít đồng xa.
Mong các vị lại đến
Cùng đàm đạo, uống trà.

Sông Khúc
Bài một

Mỗi cánh hoa rơi, xuân bớt xuân.
Nhìn hoa trong gió, những bần thần.
Thôi, mặc hoa rơi, rượu cứ uống,
Để cho con tạo cứ xoay vần.
Nhà nhỏ bên sông cò vẫn đậu.
Vẫn trên sườn núi chú kỳ lân.
Nghĩ kỹ, đời này nên hưởng lạc,
Đừng vì danh hão, bận vào thân.

Sông Khúc
Bài hai

Tan chầu, cứ phải uống thật say.
Hề chi cầm áo uống hàng ngày.
Đời người thất thập xưa nay hiếm.
Nợ tiền uống rượu, chuyện xưa nay.
Rỡn nước, chuồn chuồn lên lại xuống.
Bươm bướm lại về, chấp chới bay.
Hãy nhớ: Thời gian trôi mãi mãi.
Vậy thì vui đến, cứ vui ngay.

Chơi thuyền ở bến Tây Thành

Mày xanh, răng trắng, chiếc thuyền con.
Tiêu ngắn, sáo dài cứ véo von.
Gió xuân nhẹ thổi, say lòng khách.
Cánh buồm no gió giữa hoàng hôn.
Én chao, sa cả vào mâm tiệc.
Cá lượn tung tăng giữa sóng dồn.
Nếu không có buổi chơi thuyền đẹp
Thì đâu có rượu để trào tuôn.

Đêm ngủ lại trong phủ

Đêm thu lạnh lẽo giếng ngô đồng.
Một mình ngủ lại phủ ven sông.
Trời cao, trăng sáng cho ai ngắm?
Đêm khuya tiếng trống vọng vào phòng.
Lần nữa binh đao, tin vắng bặt.
Quan ải tiêu điều, xe khó thông.
Thấm thoắt mười năm, thân lặn lội,
Nay nương một chỗ, tạm yên lòng.

Thơ đề nơi ở ẩn của họ Trương

Vui được làm khách bác.
Hứng, ở luôn hết ngày.
Hươu chạy trong vườn cỏ.
Cá mè nhảy như bay.
Mời nhau chén rượu Đỗ.
Lê trương 1) nhà có đầy.
Đường về, núi hiểm trở.
Say mà không sợ say.

1. Rượu đỗ, lê trương, hai đặc sản vùng quê của Đỗ Phủ.

Dự tiệc đêm ở nhà chàng họ Tả

Gió rừng thổi, trăng lặn.
Sương đêm vướng tiếng đàn.
Qua luống hoa nước chảy.
Sao vãi trên lan can.
Đốt nến ngồi đọc sách.
Nhìn gươm, rượu rót tràn.
Làm thơ xong, nghe hát,
Lại nhớ chiếc thuyền nan.

Ngắm cảnh buổi sớm

Trống cầm canh Bạch Đế
Báo Dương Đài rạng ngày.
Mặt trời lạnh nhô núi.
Mờ mờ những đám mây.
Cánh buồm xa, gió thổi.
Nghe rõ tiếng lá cây.
Hươu nai đùa trước ngõ
Muốn gọi mây vào bầy.

Thơ vặt ở Tần Châu

Thành Tần Châu phía bắc.
Ngôi chùa cổ sát đồng.
Tường điện loang nét vẽ.
Cửa núi phủ rêu phong.
Trăng soi sương trên lá.
Gió thổi, mây bập bồng.
Sông Vi vẫn hờ hững
Buồn bã chảy về đông.

Tuyết rơi trong đêm, trên thuyền
nhớ em là thị ngự Lư Vu Tứ

Gió thổi trên sông Quế.
Tuyết rơi nặng từng bông.
Lầu nam trăng mờ ảo.
Bãi bắc gió buốt lòng.
Ánh đèn nghiêng, thuyền nặng.
Yên tĩnh trùm mênh mông.
Ở xa, nghe gà gáy,
Chú có nhớ anh không?

Ngắm tuyết

Tuyết đã đến Trường Sa.
Mây Hồ lạnh muôn nhà.
Lá rơi bay theo gió.
Mưa nhiều, không nở hoa.
Cứ có tiền trong túi,
Bình rượu đầy thôi mà.
Khi không ai cùng uống,
Chờ quạ chiều bay ra.

Chiều tạnh

Chiều trong thôn, gió mạnh.
Sân lênh láng sau mưa.
Nắng sưởi làn cỏ mịn.
Màu sông hắt rèm thưa.
Rượu uống nhiều, tự rót.
Sách đọc xong vứt bừa.
Thỉnh thoảng nghe người nói:
Ông lão này lạ chưa!

Đom đóm

Bay ra từ cỏ mục,
Không dám gần mặt trời.
Không đủ sáng đọc sách,
Đôi lúc bám vào người.
Đôi lúc ra bãi vắng,
Chập chờn như ma trơi.
Chúng trốn đâu không biết
Giữa mây gió tháng mười?

Chim khướu

Chim khướu từ đâu tới,
Mang xuân đến mọi nhà.
Giỏi nhại tiếng chim khác,
Khéo múa bên cành hoa.
Trốn gần không ai thấy.
Hót hay khi ở xa.
Chẳng trách mỗi lần hót
Không ít người gièm pha.

Thuyền đến thành Quí Châu nghỉ lại, vì mưa dầm
không thể lên bờ từ biệt phán quan Vương Mười Hai

Thuyền đậu trên bãi vắng.
Bờ đá ánh trăng lồng.
Con gì kêu là lạ.
Mưa rào rạt trên sông.
Chuông sớm, bến sông ẩm.
Nhà cổ, mây bập bồng.
Mái chèo như cánh nhạn.
Buồn này bác biết không?

Nhìn đom đóm

Đêm thu đom đóm lập lòe bay.
Chui cả vào màn, bám cả tay.
Chắc sợ trong phòng đàn, sách lạnh,
Lại bay ra ngõ, tụm thành bầy,
Trông giống sao thưa trên trời vắng,
Vật vờ giếng nước đến bờ cây.
Buồn xem đom đóm ông đầu bạc.
Năm tới giờ này có đến đây?

Khách đến nhà

Hai phía bắc nam đều ngập nước.
Chim âu không ngớt lượn quanh nhà.
Nay bác đến chơi, ra mở cổng.
Vắng khách nhiều ngày, chửa quét hoa.
Chỉ tiếc nhà nghèo nên rượu nhạt.
Thanh đạm mâm bàn vì chợ xa.
Nâng cốc uống đi, rồi bảo trẻ
Còn bao nhiêu rượu cứ mang ra.

Cùng uống rượu ở Lam Điền

Thu đến, tuổi già gượng giải khuây.
Hai người, tôi bác, uống hôm nay.
Thẹn mình tóc ngắn làm rơi mũ.
Nhờ bạn ngồi bên giúp buộc dây.
Sông Lam góp suối từ xa đến.
Núi Ngọc hai hòn cao tận mây.
Dịp này năm tới ai còn khỏe?
Đã vậy cứ ngồi uống thật say.

Tặng người ở núi Chu Sơn

Ông đồ thôn Cẩm đội khăn ô.
Ngoài vườn thu hoạch lắm khoai ngô.
Chim sẻ quen ăn, vào tận bếp.
Dạn khách, trẻ con thật lắm trò.
Sông thu sâu độ dăm ba thước.
Chở hai ba khách một chuyến đò.
Tre xanh, cát trắng, làng bên bến.
Tiễn người trước cổng lúc trăng nhô.

Sông Thanh

Làng nằm lọt giữa khúc sông Thanh.
Xóm bến mùa hè luôn vắng tanh.
Chim âu quen thuộc chao trên nước.
Con sáo thờ ơ nhảy giữa cành.
Vẽ bàn cờ giấy chơi cùng vợ.
Uốn lưỡi câu cùn cho trẻ ranh.
Ốm mãi, uống nhiều, quen vị thuốc.
Thân hèn không thiết chuyện công danh.

Uống rượu ở sông Khúc

Vườn ngự bên sông, ngồi suốt ngày.
Gác lầu soi bóng, nước lung lay.
Theo cánh hoa lê, hoa đào rụng.
Chấp chới chim vàng, chim trắng bay.
Lười chầu, là việc xưa nay hiếm.
Lâu không có bạn, một mình say.
Tự trách già rồi không ở ẩn,
Không về nhàn nhã với rừng cây.

Thu mới

Mây khói chưa đùn thành núi lạ,
Giật mình đã thấy lá vàng rơi.
Tiếng chày đập vải vang đâu đó.
Rét lạnh vườn cây giữa đất trời.
Râm ran ve khóc, thương trăng héo.
Đom đóm lập lòe lượn khắp nơi.
Tặng đền Kim Mã bài thơ mới.
Tóc trắng, buồn thay, đã rối bời.

Cảm hứng mùa thu

Rừng phong sương xuống, khói âm u.
Khí lạnh ùn ùn phía núi Vu.
Dưới sông mây nước đua nhau chảy.
Ngoài ải gió mây cuốn bụi mù.
Cô đơn, thuyền gợi tình quê cũ.
Cúc vàng nhỏ lệ kiếp phù du.
Háo hức nhà nhà may áo mới.
Tiếng chày đập vải rộn chiều thu.

Đêm thu, ngủ ở nhà Tả Tỉnh 1)

Bờ tường ngắn, hoa ít.
Tiếng chim hót trên cao.
Trăng rải vàng xuống đất.
Trời lấp lánh muôn sao.
Không ngủ, nghe tiếng khóa.
Cả tiếng gió ào ào.
Biết là sẽ được tiếp,
Mà vẫn lo thế nào.

1. Nơi khách chờ trước khi gặp vua trong Cố Cung. Năm Chí Đức thứ hai, đời Đường Túc Tông, Đỗ Phủ được mời làm Tả thập di, chờ yết kiến nhà vua.

Theo công tử Chư Quí đến khe Trương Bát,
có đem theo kỹ nữ, buổi chiều mát gặp mưa
Bài một

Xế chiều, thuyền lướt nhẹ.
Gió thổi, nước lững lờ.
Trời đẹp, sen thơm ngát.
Tre mọc kín hai bờ.
Công tử giục thuyền chạy.
Người đẹp cười, mộng mơ.
Bỗng mây đen kéo đến,
Đúng lúc nẩy ý thơ.

Theo công tử Chư Quí đến khe Trương Bát,
có đem theo kỹ nữ, buổi chiều mát gặp mưa
Bài hai

Mưa xuống, ướt chiếu tiệc.
Gió mạnh quất bốn bề.
Cô gái Việt quần ướt.
Nàng nước Yên ủ ê.
Dây chằng làm dập liễu.
Buồm rách lúc quay về.
Thoảng hơi thu lành lạnh,
Dẫu còn đang mùa hè.

Ngày xuân, nhớ Lý Bạch

Chẳng ai bằng Ly Bạch.
Thơ ngang tàng khác thường.
Tươi mới như Dữu Tiến.
Tài cao như Bảo Lương.
Xanh như cây Vị Bắc.
Đẹp như mây Hàm Dương.
Mong sớm cùng Lý Bạch
Uống rượu, chuyện văn chương.

Thơ vặt ở Tần Châu

Thành trơ trong lũng vắng.
Núi tiếp núi xa xa.
Mây bay ra biên giới.
Trên ải mảnh trăng tà.
Quan Thuộc Quốc về muộn
Vì bận việc can qua.
Tơi bời trong khói trận,
Bùi ngùi đứng mình ta.

Tiễn bác Nghiêm ở trạm Phùng Tế

Ngậm ngùi đưa tiễn bác,
Sông núi chứa chan tình.
Hôm qua cùng đi dạo,
Nay đã đi sao đành.
Dân các quận nhớ bác.
Suốt ba triều hiển vinh.
Bác về ẩn xóm núi,
Sống nhàn nốt đời mình.

Tiễn người đi xa

Khắp nơi đều có giặc,
Bác còn định đi đâu?
Bạn bè ai cũng khóc.
Con ngựa đứng buồn rầu.
Đến mùa, cây trụi lá.
Sông tuyết phủ một màu.
Phải chia tay bạn cũ,
Chợt thấy lòng quặn đau.

Con hoẵng

Bị bắt từ khe núi
Để đưa lên bàn ăn.
Tài không bằng ẩn sĩ,
Đâu dám trách gia nhân.
Đời loạn, thú cũng khổ,
Bao hiểm họa xa gần.
Loáng một cái, vào bụng
Bọn giàu, bọn bất nhân.

Cây mai bên sông

Tháng Chạp, mai hé nụ.
Tết, hoa nở trên cành.
Vẫn biết xuân tốt đẹp,
Khách buồn, vui sao đành.
Tuyết và mai cùng trắng.
Nắng làm nước long lanh.
Cố nhìn quê, không thấy.
Núi Vu Sơn thật xanh.

Đôi én

Kiếm cái ăn, sợ hãi,
Đôi én bay vào nhà.
Tìm đến nơi mát mẻ,
Tránh cái nóng quê nhà.
Vất vả nuôi con nhỏ,
Bay đến từ phương xa.
Đời này ta cũng vậy,
Phải lưu lạc, bôn ba.

Bài hành nuôi tằm, trồng lúa

Nước có nhiều quận huyện.
Mỗi quận huyện nhiều thành.
Thành có nhiều vũ khí.
Nếu không có chiến tranh,
Biến gươm thành cày cuốc,
Thì lúa tốt, dâu xanh.
Binh sĩ không phải chết,
Dân được hưởng hòa bình.

Ở lâu nơi đất khách

Sống gửi, thương bè bạn.
Ở lâu, biết thói đời.
Tự diễu mình ốm yếu,
Bé nhỏ và dở hơi.
Vương Xán buồn, bỏ nước.
Giả Nghị khóc kiếp người.
Lũ chồn cáo ti tiện.
Cọp sói đang gặp thời.

Sông Giang, sông Hán

Vùng sông Giang, sông Hán
Có ông gàn nhớ nhà.
Nhìn trời mây vời vợi,
Buồn với mảnh trăng tà.
Mặt trời lặn, còn hứng.
Thu về, bệnh sắp qua.
Cả gia tài duy nhất
Chỉ có con ngựa già.

Sông trời

Rất sáng khi thu đến.
Mùa khác có lúc mờ.
Lung linh hai cửa khuyết.
Bên thành, trăng thờ ơ.
Ngưu Lang và Chức Nữ
Phải năm năm đợi chờ.
Sông trời lớn và rộng
Chưa nổi sóng bao giờ.

Ngắm trăng đêm mười sáu

Trăng thu sương phủ bạc,
Suốt mùa hè dát vàng.
Quan sơn trăng man mác.
Dải Ngân Hà mênh mang.
Trên núi bác tiều hát.
Tiếng sáo chài âm vang.
Trằn trọc không ngủ được.
Có con thuyền đi ngang.

Phòng khuê

Phòng khuê, ngọc giá lạnh.
Gió thu thổi qua lầu.
Ao rồng đầy cung cũ.
Trăng Tần khuyết, gợi sầu.
Giọt đồng hồ vẫn chảy.
Lặng lẽ buộc thuyền câu.
Núi Hoàng xanh phía bắc.
Vườn Lăng sương bạc màu.

Chim nhạn về

Mùa thu đến, chim nhạn
Lại bay về phương xa.
Tới La Phù tránh tuyết,
Rời Trường Hải xem hoa.
Đó là điềm ly loạn.
Bao giờ hết can qua?
Đã năm năm xa cách.
Chưa một lần về nhà.

Đêm trên gác

Ngày tháng cuối năm như ngắn lại.
Đêm đỡ lạnh hơn nhờ tuyết rơi.
Trống đánh năm canh nghe não ruột.
Sao xa nhấp nháy phía chân trời.
Chinh chiến, nhà bên rầu rĩ khóc.
Đâu đó anh chài hát, nghỉ ngơi.
Rốt cục mọi điều vùi dưới đất.
Đã lâu, sốt ruột vắng tin người.

Thơ làm trên thuyền, ngày tiểu hàn

Rượu suông, đồ nguội, nắng lung linh.
Áo mũ chỉnh tề, buồn một mình.
Sóng xuân, thuyền nhẹ như lơ lửng.
Mắt kém, nhìn hoa chẳng rõ hình.
Chao lượn trên sông con nhạn trắng.
Bên thuyền, đàn bướm cánh xinh xinh.
Mây trắng, núi xanh, dài tít tắp.
Buồn trông phía bắc, chốn kinh thành.

Ở nơi xa xôi, nhớ Lý Bạch

Nơi chân trời gió mát
Người quân tử rong chơi.
Có thấy chim hồng nhạn?
Hồ thu nước sáng ngời.
Văn chương kỵ người giỏi.
Ma quỉ thích tối trời.
Ném thơ xuống sông Mịch 1),
Trò chuyện với hồn người.

1). Khuất Nguyên bị vua Sở lưu đầy, phẫn chí mà gieo mình xuống sông Mịch La.

Đêm trăng sáng nhớ con gái

Ở Phu Châu, đơn độc
Ngắm trăng vàng lung linh.
Con gái còn thơ dại
Chưa biết nhớ cha mình.
Sương thơm trên mái tóc.
Trăng nhuộm cặp môi xinh.
Bao giờ được cùng bố
Ngắm vầng trăng hữu tình?

Viếng mộ quan thái úy họ Phòng

Công cán nơi đất khách,
Dừng ngựa trước mộ phần.
Trời cao xa, mây rách.
Đất ẩm ướt lệ gần.
Chơi cờ hầu Tạ Truyện.
Mang kiếm viếng Từ Quân
Chim oanh hót tiễn khách.
Hoa rừng rụng dưới chân.

Xem tranh và thơ Lý Cố Nhân

Phương trượng mênh mông nước.
Thiên thai trùm trời mây.
Người đời xem tranh vẽ.
Ta già - nghe, chạm tay.
Tiếc Phạm Lãi thuyền nhỏ.
Vương Kiều hạc lẻ bầy.
Mọi việc do tạo hóa.
Ai thoát khỏi đời này?

Trông cảnh đồng quê

Tam Thành đồn lính, tuyết mênh mông.
Vạn Lý cầu ngang, nước cuộn dòng.
Loạn lạc, anh em xa cách mãi.
Mình ta ứa lệ, kiếp long đong.
Tuổi già đang đến, luôn đau ốm.
Ân vua đền đáp vẫn chờ mong.
Cưỡi ngựa ra thành nhìn bốn phía,
Ngẫm bao dâu bể, tái tê lòng.

No comments:

Post a Comment