Sunday, March 22, 2015

CỔ TI TÁC DỊCH - LỤC DU




Tác giả: Sinh năm 1125, mất 1210, người Sơn Âm, nhà thơ lớn yêu nước thời Nam Tống, hiện còn giữ được 9.300 bài.

Cảm hứng ngày xuân

Đêm đêm đốt củi sưởi mền bông.
Cơm trưa một bát đáng nghìn đồng.
Vẫn biết mình già, vô tích sự,
Nhưng thấy dân đau vẫn chạnh lòng.

Cảm hứng mà viết

Già rồi mà luôn nghèo đói.
Chỉ tạm hết lo khi say.
Năm tháng làm đầu bạc trắng.
Duy lòng vẫn đỏ xưa nay.

Đám mây cô đơn

Hơn bốn chục năm ở núi này.
Vào triều vô bổ, lại về đây.
Không phải ngẫu nhiên buồn, tựa cửa
Ngắm núi, nhìn sông, nhàn suốt ngày.

Thơ viết khi đi thuyền trên hồ,
khoảng cuối hạ, đầu thu năm Ất Sửu 1)

Đêm buộc thuyền con cầu Mộng Bút 2),
Khó ngủ, hắt hiu một chấm đèn.
Cơn giận Tử Tư chưa dịu hẳn -
Sóng lớn ầm ầm ngay sát bên.

1. Tức năm 1205 theo Tây lịch.
2. Cầu này nằm phía đông bắc núi Tiêu Sơn, tỉnh Triết Giang.
3. Theo truyền thuyết, sóng sông Tiền Đường lớn là do khí tức giận của Ngũ Tử  Tư gây nên.

Tưới nước trong vườn

Lúc trẻ mang gươm bình thiên hạ,
Về già xách nước tưới cho cây.
Bạn cũ không còn, luôn ốm yếu,
Cái buồn tâm sự với ai đây?

Mưa nhỏ, trời mát, ngủ say trong thuyền đến chiều

Sau mưa, ruồi nhặng chẳng còn bay,
Trải khăn, nằm ngủ một giấc say.
Khi tỉnh, mặt trời đang xế bóng,
Lặng lẽ thuyền đi suốt cả ngày.

Tết Trùng Dương

Lá đỏ ven sông, rừng ngập sương.
Hái bông cúc nhỏ, nghĩ càng thương.
Giá say một trận quên trời đất,
Vui cùng vua Sở tết Trùng Dương.

1. Vua nước Sở thích những ng ười phụ nữ có eo lưng thon nhỏ. Trong cung Tế  Yêu của  vua nhiều cô muốn được vua yêu nhịn ăn đến chết đói. Đây tác giả muốn được hưởng cảnh sung sương vô lo trong ngày tết Trùng Cửu mồng chín tháng Chín.

Ghi việc

Nghe nói giang sơn lấy lại rồi.
Núi sông, đất nước chẳng ngăn đôi.
Biết thế nán thêm dăm bữa nữa,
Thăm chùa Nhiêu Ích, núi Hòn Vôi.

Viết đêm mưa to gió lớn, mồng bốn tháng Mười Một

Đã cam xóm nhỏ cảnh nằm dài,
Còn muốn xả thân chốn Lâm Đài.
Chập chờn giấc ngủ đêm mưa gió,
Tiếng gươm, tiếng ngựa vẳng bên tai.

Đêm thu sắp sáng, ra cổng
hóng mát, chợt viết bài thơ này

Hoàng Hà vạn dặm chảy về đông.
Họa Sơn nghìn thước vút lên không.
Trong vùng giặc chiếm, dân kêu khóc,
Chờ vua đến cứu, mỏi mòn trông.

Dặn con

Đành rằng thế cả sau khi chết.
Chỉ tiếc chín châu chưa lấy hết.
Khi nào vua lấy được Trung Nguyên,
Cúng ta, hãy báo cho ta biết.

Vườn Thẩm 1)
Bài một

Chênh chếch mặt trời ngả phía tây.
Vườn Thẩm bây giờ khác trước đây.
Buồn bã dưới cầu dòng nước chảy.
Người đẹp từng soi bóng nước này.

Vườn Thẩm
Bài hai

Bốn mươi năm chẵn đã trôi qua.
Không thấy tơ bay bụi liễu già.
Sau chết thân vùi chân núi Cối,
Vẫn xin nhỏ lệ mối tình ta.

1. Bài này tác giả viết để tỏ lòng thương nhớ nàng Đường Uyển, người vợ trước của ông. Hai người lấy nhau rất tâm đắc, nhưng do mẹ chồng ghét bỏ nên nàng phải ra đi. Một hôm đến vườn Thẩm, ngẫu nhiên ông lại gặp nàng, lúc này đã lấy chồng khác. Hai người nhìn nhau đau khổ. Nàng trở về, nghĩ ngợi nhiều sinh ốm rồi mất.  Năm 1199, Lục Du đã 75 tuổi, trở lại vườn Thẩm và viết hai bài tứ tuyệt này.

Đi thuyền trên sông nhỏ

Khói vương buồm dệt cói.
Mưa lên mui cỏ dày.
Xin lửa, thuyền bên cạnh.
Mua cá, chợ gần đây.
Hết ghềnh rồi lại thác.
Khách buồn, tỉnh lại say.
Thương nhà thuyền vất vả,
Chèo ngược gió suốt ngày.

Lầu bên sông
           
Mưa tẩy sạch chướng khí.
Nhàn rỗi, đứng trên lầu.
Nước chảy cuốn củi mục.
Mặt trời lặn đồng sâu.
Làng rộn tiếng giã giấy
Trong ngõ, trẻ dắt trâu.
Hủ nho lo việc nước,
Nhưng chỉ biết gãi đầu.

Đội mưa lên đài Nghĩ Nghiễn
xem nước sông dâng

Mưa dội lên nghìn núi,
Nước ngập hết muôn nhà.
Mây dày, đen như mực,
Sóng dồn dập gần xa.
Một cánh thuyền nhỏ bé
Giữa trời nước bao la.
Nhớ cuộc chơi ngày trước,
Say, vượt sóng Tam Ba.

Đầu xuân

Mấy tháng liền ốm yếu.
Vừa năm mới đã đau.
Dậu thưa, cây cỏ bám.
Vách đổ, rêu xanh màu.
Tráng sĩ chờ giết gặc.
Cứu nước, sá gì đâu.
Ta không là nhi nữ
Mà ngâm khúc “Bạc đầu”.

1. Khúc nhạc phủ xưa, nội dung mỉa mai người không chung thủy với tình yêu. Ở đây tác giả muốn khẳng định lòng yêu nước của mình.

Cảm hứng vụn vặt

Buồn, uống buồn thêm mãi.
Mưa tạnh, cây ít hoa.
Bàn cờ quân rời rạc.
Tiếng sáo vọng sau nhà.
“Dời núi” 1), sức chưa hết.
“Ra biển” 2) , lời thiết tha.
Ai hiểu lòng tráng sĩ,
Gõ trúc, buồn xót xa.

1. Ngu Công ở Bắc Sơn quyết tâm dời núi Thái Hàng và Vương Ốc chắn trước   nhà mình.
2. Lỗ Trọng Yên ở nước Tề không chịu tôn nước Tần lền đế hiệu, nói:“Ta thà ra biển mà chết chứ không tôn vua Tần làm hoàng đế!”

Mong xuân

Xuân về theo luật định.
Ngày đẹp, trời xanh cao.
Nước long lanh dưới nắng.
Liễu xanh, gió thì thào.
Lo việc đời, ứa lệ.
Chí giết giặc còn cao.
Lên gác còn phải đỡ,
Nhưng vẫn hát nghêu ngao.

Gió sương

Tháng Mười, gió lạnh rít ngoài hiên.
Áo mỏng, lót bông, chửa có tiền.
Trời rét, khách ngồi không đệm ấm.
Thiếu ăn, vay gạo của chùa bên.
Thân già, chua xót, đêm ca cẩm.
Nhà nghèo, mùa mất, đói triền miên.
Làm trai mà thế thì buồn thật.
Nước mắt trào dâng, cười trước đèn.

Hồ Nam

Tháng Hai, hoa nở đẹp, chim bay
Đứng ngắm một ông yếu, lại gầy.
Tóc bạc lơ thơ, buồn ứa lệ.
Muôn khoảnh hồ xanh, chuyện tháng ngày.
Đắp đê đâu chỉ dân no ấm,
Mà nước mạnh hơn nhờ việc này.
Những kẻ tầm thường không hiểu được,
Chỉ lo hương lễ để cầu may.

Bài hát mừng mưa

Không mưa ra châu, ra ngọc.
Tháng Sáu trời mưa ra thóc.
Mười năm hạn lụt buồn lo,
Dân phải chặt dâu, bán bò.
Năm ngoái no nhiều, đói ít.
Năm nay chắc có rượu thịt.
Được no, người ta chạnh lòng
Nhớ người chết đói ngoài đồng.

Hết gạo, thiếu củi, đùa viết bài này

Làm ruộng, làm quan đều nhỡ nhàng.
Sách nhiều, nhà hẹp, trống toang hoang.
Chẳng sao canh nhạt, không dầu mỡ.
Bếp củi chưa mua, nhóm lá bàng.
Thân trai mà đói, do mình cả.
Tuy nghèo nhưng dáng vẫn hiên ngang.
Chưa phải rình chờ ăn chực cỗ,
Về nhà khoe vợ gặp người sang 1).

1. Sách Mạnh Tử viết: Có một người nước Tề hàng ngày đi ăn cỗ thừa ở các đám tang, về nhà khoe với vợ được người giàu sang chiêu đãi. Sau vợ rình bắt quả tang và chê trách không biết giữ liêm sĩ.

Lên đài Nghĩ Nghiễn

Mờ mịt đài cao chắn góc thành.
Lên đài, chống gậy đứng nhìn quanh.
Bao la bốn phía màu xuân mới.
Mười năm rũ sạch bụi công danh.
Trầm tư núi đứng như hiền triết.
Quanh co sông chảy thật yên lành.
Không lo toan tính, lòng thanh thản,
Muốn bạn cùng chim giữa lá cành.

Vịnh hoa mai

Hoa mai nở, không chủ
Bên cầu gãy, sát đường.
Hoàng hôn, đã buồn sẵn,
Lại còn thêm gió sương.
Mặc hoa khác ghen ghét,
Mai vô tư, dễ thương.
Khi rụng, vùi trong đất,
Còn giữ được mùi hương.

Theo điệu "Giá cô thiên"

Ruộng dâu xanh tốt bãi phù sa.
Tằm nở đầy nong, đợi ở nhà.
Gò cao cỏ mượt, con bê rống.
Rừng lạnh, quạ bay giữa ráng tà.
Nhà ai bán rượu, cờ xanh thẫm.
Con đường chênh chếch, núi gần xa.
Trong thành đào mận buồn mưa gió.
Xuân đến đầu khe, cỏ nở hoa.

Đêm đậu thuyền ở xóm ven sông

Cung tên mang mãi, sệ bên hông.
Tiếc bia chưa dựng để ghi công.
Ngày xưa lão tướng băng sa mạc,
Nay sao lớp trẻ khóc, nao lòng?
Liều chết, chỉ mong đền nợ nước,
Dẫu giờ tóc bạc, tấm lưng còng.
Giang hồ thuở trước, đêm thuyền đậu
Nhớ nằm nghe tiếng nhạn ngoài sông.

Đi chơi xóm núi ở phía tây

Đừng tưởng nhà nông rượu chát cay.
Được mùa, có thịt đãi khách say.
Liễu rậm, hoa thưa, khu xóm nhỏ.
Đường đi lắt léo núi và cây.
Quần áo đơn sơ, theo thói cũ.
Kèn trống mừng xuân rộn suốt ngày.
Từ nay rảnh rỗi, khi trăng sáng,
Chống gậy một mình lại đến đây.

Thơ viết ở Lâm An, lúc mưa xuân mới tạnh

Tình đời thật mỏng những năm qua.
Cưỡi ngựa đến đây, ai xúi ta?
Đêm lắng mưa rơi trên gác nhỏ.
Sáng dậy nghe ai rao bán hoa.
Rỗi việc, vu vơ dăm chữ viết.
Bên song, trời tạnh, tự pha trà.
Áo trắng đừng lo dây cát bụi.
Thanh minh còn kịp trở về nhà.

Đi đường, gặp lão nông,
trò chuyện, về nhà làm bài thơ này

Mấy năm ốm yếu, nghỉ, nằm không.
Chỉ gặp tiều phu với mục đồng.
Lẽ phải tìm trong trang sách cổ.
Lời ngay từ miệng những già nông:
"Riêng lo thế giặc mà sa lệ,
Nghĩ chuyện đền ơn, những ước mong!"
Chưa hưởng lộc vua, mà họ vậy,
Xấu hổ, ta nghe, thẹn với lòng.

Tre mới

Gai nhọn, chăng rào, giúp chở che.
Bên ao soi bóng những trưa hè,
Không biết lúc nào giờ chính ngọ.
Bóng râm mát rượi, tưởng thu về.
Măng mọc ban đêm, nghe tách vỏ.
Ban ngày trổ ngọn, lá xum xuê.
Sau này rỗi việc, về đây sống,
Kê gối ta nằm dưới bóng tre.

Làm trên lưng ngựa lúc về muộn

Thanh Duẩn chiều hôm nắng chiếu tà.
Đông Hồ rầu rĩ tiếng tù và.
Không buồn lận đận đời cay đắng.
Chỉ tiếc ít người biết đến ta.
Phóng ngựa chơi ngông, xuân bát ngát.
Bên sông uống rượu đến say ngà.
Say rồi chỉ muốn ngâm “Lương Phủ” 1)
Muốn cùng Gia Cát luận thi ca.

1). Bài phú Khổng Minh Gia Cát Lượng thường ngâm.

Đi trong đêm

Không sợ người chê bạc trắng đầu.
Lối đi trong xóm thuộc từ lâu.
Chùa ở ngoài mây, chuông vọng lại.
Mặt nước lung linh nến thủy lầu.
Chim hạc về Liêu, nghìn vạn tuổi.
Phong rụng đất Ngô, úa một màu.
Khép tấm cửa thuyền, không ngủ được.
Bên ngoài trăng sáng suốt đêm thâu.

Qua một làng quê, cảm tác

Xế chiều, dừng ngựa ở bên sông.
Thấp thoáng nhà ai ánh lửa hồng.
Thấy khách, sau rào con chó sủa.
Chờ ăn, tằm đói bò trên nong.
Phiêu dạt mười năm, đời lận đận.
Quê xa vạn dặm nhớ trong lòng.
Ở ẩn Nam Dương 1) ai bảo xấu?
Anh hùng đích thực biết làm nông.

1). Khi chưa ra giúp Lưu Bị, Khổng Minh ở ẩn ở Nam Dương, tự mình cày cấy.

Ở Lâm An, mưa nhỏ mới tạnh

Mùi đời nhạt nhẽo mấy năm qua.
Ai xui cưỡi ngựa chốn Kinh Hoa?
Đêm lắng mưa rơi trên gác nhỏ.
Sáng thấy có người rao, bán hoa.
Phóng tay chấp bút dăm hàng nhỏ.
Lặng lẽ nhâm nhi mấy chén trà.
Đừng lo áo trắng đời dây bụi.
Trước tết Thanh Minh kịp ở nhà.

Cuối xuân

Mấy gian nhà cỏ dựng bên hồ.
Sách nhiều mà bụng vẫn không no.
Hoa nở, hoa tàn, xuân lại hết.
Én đi, én lại, cứ vòng vo.
Mở sách, vui tìm nhiều bạn cũ.
Soi gương - già yếu, thấy buồn lo.
Nhưng vẫn một lòng vì cứu nước.
Nuôi chí ngày đêm giết giặc Hồ.

Đêm, đọc binh thư
(Trích)

Đọc binh thư trong núi.
Ngọn đèn mù khói sương.
Để phò vua, cứu nước,
Muốn xông pha chiến trường.
Kẻ sĩ không ngại chết.
Chỉ thấy mình đáng thương
Vì bịn rịn con, vợ,
Vì mặt gầy trong gương.

Bài ca say rượu
(Trích)

Ngồi uống rượu bên sông.
Bốn bề lầu trống không.
Tay nâng chiếc chén ngoc,
Thấy mình trôi bập bồng.
Chỉ uống một hớp nhỏ
Mà hết cả núi sông.

Cuối năm, làm thơ vui về cảnh nghèo

Tiền cần có nhất, luôn không có.
Cam nghèo đóng cửa, chịu nằm co.
Nhờ tiền, lưng cong thành lưng thẳng.
Men say làm mặt đỡ gầy gò.
Bàn ăn ngồn ngộn toàn rau củ.
Quần áo vá chằng tấm nhỏ, to.
Hết tiền, khí phách nhiều, chưa hết.
Vung bút viết bài phú Lương Đô. 1)

1). Bài phú nổi tiếng của Bàn Cổ đời Hán.

Mưa thu
(Trích)

Đèn mờ như đom đóm
Luôn lập lòe bên sông.
Mưa thu rơi thánh thót
Như giọt nước lậu đồng.
Không bị Sở phóng trục, 1)
Buồn mà nhảy xuống sông,
Chỉ vì lo việc nước,
Ta đau xót trong lòng.

1). Ý nói Khuất Nguyên bị vua Sở lưu đày, phẫn chí mà nhảy xuống sông tự tử.

Đêm đọc sách, cảm hoài
(Trích)

Con cú bay trong núi.
Đàn vịt kêu ngoài đồng.
Ta thì ngồi đọc sách
Bên cửa bện cỏ bồng.
Khổ thân ta, đầu bạc,
Chán đời, chán việc công.
Quên mình, lo việc nước,
Mà lệ chảy ròng ròng.

Hồ Gương
(Trích)

Dân cày mong lúa tốt,
Có cái ăn trong nhà.
Nhưng hết hạn lại lụt,
Thóc gạo đắt gấp ba.
Hồ Gương luôn ngập úng.
Đâu phải trời gây ra -
Chỉ dân ngu không biết
Quan lười, không lo xa.

Lời than của nông dân
(Trích)

Ruộng thấp cấy chiêm muộn.
Nương cao trồng mạch, ngô.
Ốm cũng phải cày ruộng,
Tội nghiệp lũ trâu bò.
Nông dân làm cật lực
Mong được ngày ấm no.
Thế mà vừa thu hoạch,
Quan đã đến thu tô!

Nghe tiếng nhạn
(Trích)

Thương cho lũ chim nhạn
Từ phương Bắc về đây,
Nơi lúa ngô vốn ít.
Ăn gì sống qua ngày.
Có thoát được cung bẫy
Khi bay ngoài trời mây?
Nếu có cánh như nhạn,
Ta cũng bỏ nơi này.

No comments:

Post a Comment