Tuesday, March 24, 2015

MÙI TRĂNG



                                                     Truyện ngắn. Thái Bá Tân

1
Ngôi nhà nằm bên cái hồ lớn cách trung tâm thành phố chưa đầy chục cây số. Mùa này gió nhiều nên mặt hồ đôi khi nổi sóng khá cao, nhất là buổi xế chiều. Tuy nhiên, do bị chắn bởi doi đất nhô ra hình cánh cung, vùng nước trước nhà luôn phẳng lặng, chỗ sát bờ thường có váng phủ, nhện và những loài côn trùng khác vẫn nô dỡn đuổi nhau.
Đó là ngôi nhà mới xây một tầng, lợp ngói, bề ngoài mang rõ nét kiến trúc dân tộc nhưng bên trong trang bị hiện đại theo kiểu phương tây. Dân giàu thành phố mấy năm gần đây có mốt xây kiểu nhà này, thường để nghỉ cuối tuần, hoặc dành cho bố mẹ già. Hầu hết họ có nhà ở thành phố, nhà nhiều tầng làm nơi kinh doanh.
Nó ở vị trí đặc biệt, thuộc loại tốt nhất. Buổi sáng từ hiên phía đông nhìn ra, nếu không có sương mù, có thể ngắm mặt trời nhô lên khỏi vệt mờ xanh làng hoa Nhật Tân, đến khi chói mắt mới thôi. Thường việc này kéo dài nửa giờ. Buổi chiều chuyển sang hiên phía tây thì tha hồ ngồi suốt buổi nhìn mặt trời lặn cho tới lúc nó biến thành chiếc mâm màu hồng khổng lồ treo lơ lửng bên mép tòa nhà khách sạn Sheraton mấy chục tầng phía bên kia hồ. Nếu không muốn bị công trình bê tông kính ấy che khuất, người ngắm chỉ việc nhích ghế sang bên.
Chủ nhà ngày nào cũng làm cái việc ngắm mặt trời ấy. Cả buổi sáng lẫn buổi chiều. Cả những hôm trời mù hoặc mưa không có mặt trời để ngắm.
Thường khi mặt trời lặn, ông thấy buồn, cái buồn mơ hồ, nhẹ nhàng mà day dứt. Buồn như hôm kia bất chợt thấy đàn sếu bay qua giữa bầu trời trong xanh, lòng ông nhẹ tênh muốn bay lên theo mà không bay được.
Cũng thường vào giờ ấy chuông chùa làng bên bắt đầu đổ. Những tiếng chuông thong thả nghe đùng đục, ngân dài rồi tắt dần trong ánh chiều tĩnh mịch. Không hiểu sao ông luôn hình dung chúng như những chiếc lá bưởi úa vàng sau nhà đang rơi lặng lẽ, rơi nghiêng như trong một bài thơ người ta đã viết. Có lá bay cả vào mái hiên mà dù rất muốn, người hầu gái không dám quét nhặt vì biết tính chủ thích để thế.
Thỉnh thoảng ông chống gậy đi sang chùa ấy. Ở đó ông quen biết một bà sư đã mấy chục năm nay, từ lúc bà còn là cô gái trẻ không hiểu cớ gì cắt tóc vào đây. Bây giờ lần nào nhìn bà thong thả đưa những nhát chổi dài quét lá rụng trên sân chùa, ông cũng thầm thở dài thử hình dung nếu đầu bà nếu không cạo trọ thì tóc đã bạc đến mức nào.
Phía trước, nơi ông ngồi bất động, có tiếng cá quẫy mạnh. Người ta nuôi cá ở hồ này, loại cá mè lúc thu hoạch có thể nặng tới hai ba cân. Không nhìn nhưng nghe tiếng quẫy, ông thấy chúng phơi bụng trắng lóa dưới ánh mặt trời, dù mặt trời đã lặn từ lâu.
Ông chợt nhớ và lại buồn, vì cây đào rừng một ông bạn già cất công mang từ Sơn La về năm ngoái trồng sau vườn mãi đến giờ vẫn chưa cho nụ nào. Loại đào này chóng lớn, thân cao, lá xum xuê nhưng ít hoa, lúc nở có màu trắng phớt hồng, không đỏ như giống đào Nhật Tân. Lần ấy ông bạn còn cho thêm một khóm trúc, cũng từ Sơn La, nhưng ông đã chặt bỏ tháng trước vì thân chúng quá mập chứ không mảnh khảnh theo kiểu “trúc sấu lão công khanh” của Trần Nguyên Đán. Chắc vì đất ở đây quá màu mỡ.
Hôm nay là chủ nhật. Cô con dâu út từ thành phố về đây từ sáng. Nó đang ngồi trên chiếc ghế xếp trong vườn, tay cầm cuốn sách, và cũng ngắm mặt trời lặn như ông. Nó có chửa sắp sinh. Có lẽ nó đang đọc ca dao hoặc những bài hát ru để sau này sinh con còn biết ru. Lúc này nó ngả người trên ghế, hai tay nhẹ nhàng đặt lên chiếc bụng chửa to tròn như đang nâng giữ cả trái đất. Ông có cảm giác như không phải mặt trời vừa khuất sau tòa nhà khách sạn sáng loáng của người nước ngoài, mà đã chui tọt vào bụng con dâu mình.
Nó sắp sinh. Vậy là ông sắp có thêm đứa cháu nữa. Còn cây đào Sơn La thì mãi không chịu ra nụ. Mai ông thử cắt bớt lá xem sao. Có cách nào làm cho đất cằn cỗi chút ít thì càng tốt. Lạ thật, có nhiều loài, như cây hoa giấy hay bằng lăng chẳng hạn, trồng ở nơi khô hạn, sỏi đá thì hoa nhiều và đẹp, còn không thì chẳng tích sự gì. Người cũng vậy.
Từ phòng khách vẳng ra những tiếng đàn pianô rời rạc. Có lẽ cháu ông đi ngang ngứa tay gõ mấy nốt. Nó là con thằng cả, người xây cho vợ chồng ông ngôi nhà này. Nhà nó ở thành phố có cây đàn lớn mới tinh chiếm cả một phòng, giá những mấy chục nghìn đô-la. Chiếc đàn nhà ông cũng mới, mua cho đẹp phòng khách, và cũng để phòng lúc con bé hứng lên chơi vài bài. Nhưng nó lên đây chỉ thích chơi trò điện tử.
Cũng có thể mấy tiếng nhạc ấy là trò chơi của con mèo con tinh nghịch. Một lần ngẫu nhiên dẫm lên phím đàn thấy phát ra những âm thanh lạ tai, nó thích rồi dần thành quen, bây giờ thì hầu như ngày nào nó cũng nhảy lên đàn, đi lại trên dãy phím đen trắng vài lần. Nếu ghi lại được cũng thành bản nhạc theo trường phái hiện đại, kiểu cho chó dẫm lên sơn rồi bước lên toan vẽ của họa sĩ. Ban ngày chẳng sao, nhưng ban đêm lắm lúc cũng khó chịu.
Nhiều hôm đang ngủ, ông chợt nghe có tiếng nốt đàn ngân rất khẽ, những nốt cao. Chắc chắn không phải do con mèo. Vậy do gì? Ông không biết. Và trong giấc ngủ chập chờn, ông lười biếng nghĩ có thể do ánh trăng hay một cánh hoa bay vào rơi lên nốt nhạc.
Trời tối hẳn. Cô con dâu đã bê mặt trời vào nhà. Đứa cháu chán trò điện tử đang bật nhạc rất to. Còn ông thì vẫn ngồi yên bất động, mắt đăm đăm hướng về phía trước. Trăng chưa mọc. Sao cũng không có. Chỉ có những ô cửa sổ rực sáng của tòa nhà khách sạn. Ông nhìn chúng một cách hằn học.
                            
2
Bữa ăn diễn ra khá ồn ào. Ông không thích nhưng chẳng nói gì. Cả nhà ngồi bên chiếc bàn lớn gỗ gụ hình bầu dục trải khăn ăn trắng toát, bên trên có lớp kính dày. Ông ngồi ở chỗ thường ngày, đầu bàn. Vợ ông phía đối diện. Bình thường cô gái giúp việc cùng ngồi ăn chung. Đó là một cô bé khá xinh xẻo, da trắng, mặt trái xoan, bỏ việc văn phòng ở một cơ quan nhà nước xin đến đây làm ô-sin vì tiền công cao bằng lương trước đây, ăn ngon và hầu như chẳng phải làm gì. Những hôm có khách cô ăn sau một mình.
Vợ chồng anh cả ngồi một bên. Con gái họ và cô dâu út ngồi bên kia. Chồng cô gọi điện bảo bận không đến được. Còn hai chiếc ghế trống. Con bé đặt chiếc máy điện tử lên mặt ghế, một tay xúc cơm, tay kia bấm bấm lên nó rồi ồ lên xuýt xoa, bất chấp lời nhắc của mẹ. Chiếc ghế trống thứ hai ở gần cửa, nơi có cành hồng xiêm từ vườn vươn vào. Anh con mấy lần đòi chặt vì vướng lối đi, nhưng ông nhất định không cho.
Suốt bữa ăn chốc chốc ông nhìn cành cây, cứ sợ một quả trên đó, quả to nhất và có vẻ như đã chín, rụng xuống làm hỏng liễn xúp. Thực ra, nếu nó có rụng thì cũng không rụng theo đường xiên, mà phải thẳng đứng, cách chiếc liễn ít nhất nửa mét.
“Bố dạo này hình như không được khỏe?” anh con hỏi.
“Ừ, già rồi, còn gì”.
Ông thong thả đáp rồi nâng chén uống nốt chỗ rượu còn lại. Ông chỉ uống rượu Làng Vân chứ không bao giờ động đến những chai rượu ngoại đắt tiền có rất nhiều trong tủ. Thỉnh thoảng cô dâu út gắp miếng thức ăn bỏ vào bát bố chồng.
Anh kia quay sang bàn chuyện làm ăn với vợ, nói oang oang các con số lỗ lãi. Chị vợ là giám đốc một công ty tư nhân mang tên mình, đăng ký kinh doanh dịch vụ thương mại, nhưng thực chất làm nhiều việc khác lớn hơn. Việc gì thì ông không biết mà cũng không muốn biết. Anh chồng là người nhà nước, phó chủ tịch hội đồng quản trị cái khách sạn sáng loáng ông căm ghét vì che mất mặt trời của ông, và cả vì nó làm xấu cảnh quan chung của chiếc hồ.
Hôm nay anh ta mang về nguyên vẹn một con lợn sữa quay vàng, đặt trên chiếc đĩa sứ  lớn Trung Quốc hình bầu dục. Con lợn bé lắm, chỉ độ gang rưỡi, da căng, vàng óng và khắp người dính đầy mỡ. Lần nào lên đây anh ta cũng mang cái gì đó từ khách sạn về.
Bà vợ ông lấy dao xẻo một miếng lớn ở phần mõm, ăn ngon lành. Anh kia lật ngược con lợn, bổ nó ra làm hai rồi cắt thành nhiều miếng hình vuông, thứ tự đặt lên đĩa mọi người. Tất nhiên miếng đầu tiên lên đĩa ông bố. Ông không đụng đũa, suốt buổi chỉ nhâm nhi miếng bánh mì kẹp pho-mat hoặc trứng cá. Cả nhìn anh con làm động tác mổ xẻ ấy ông cũng không.
Lúc ấy đã xế chiều. Nắng vàng hoe, rực rỡ. Vào thứ bảy, nhà ông có thói quen ăn trưa rất muộn, và bữa ăn thường kéo dài cho đến chập tối.
Ông ngoảnh mặt ra phía vườn. Ở đó, cạnh lối lên xuống có chiếc chậu lớn đất nung màu đỏ với cây si tam tòng tứ đức, bên trái ba tán hình tròn, bên phải bốn. Ông thông gia tặng vợ chồng anh cả năm ngoái, hàm ý nhắc con gái ăn ở cho đúng đạo nghĩa dâu hiền. Con ông kêu nhà có quá nhiều cây cảnh nên tháng trước chở nó lên đây. Không nói tặng, cũng chẳng nhờ chăm hộ.
Vậy là chúng không hiểu ý cây si tam tòng tứ đức ấy. Chắc vợ ông cũng không một lần nghĩ tới ý nghĩa của nó, dù ngày nào cũng tưới nước.
Ông cố nhìn nhưng không thấy cây si do bị khuất sau bụi hoa giấy. Thay vào đó, ông thấy rất rõ hình con lợn sữa lành lặn nằm trên đĩa, như đứa bé mới sinh được tắm sạch sẽ đặt lên giường sắp được mẹ âu yếm quấn tã. Ông rùng mình, như thể bà Tý vợ ông vừa xẻo miệng nó, còn anh con thì thản nhiên mổ bụng, chìa một miếng cho ông.
Cô dâu út cũng không ăn, vì lý do khác chứ không nghĩ như ông. Cô luôn ngồi im, một tay, tay trái, chốc chốc lại xoa lên chiếc bụng chửa to tròn.
Nhìn cô, ông cứ nghĩ về hình tròn của mặt trời và trái đất.
Ngày nhỏ đi học ông đã biết được rằng cả lịch sử tiến hóa của loài người đều gói gọn trong chín tháng hình thành cái thai. Từ tế bào đơn giản nhất thành loài không xương, loài cá, bò sát rồi đến linh trưởng và cuối cùng thành người. Trước khi lọt lòng mẹ, con người cũng đầy lông lá và có đuôi. Như khỉ. Thật buồn cười. Và ông đã thầm cười một mình.
“Mẹ nghĩ đẻ xong con nên đưa cháu đến đây ở hẳn với ông bà. Mẹ chăm cho. Chứ bên ấy một thân một mình…”
Bà Tý bảo cô. Lúc ấy mọi người đã chuyển sang uống trà. Nhà này có cái lệ ăn xong vẫn ngồi lại uống trà với nhau, đúng mốt các nhà giàu mới nổi.
“Vợ chồng con cũng nghĩ thế nhưng chưa biết ý bố mẹ thế nào”.
Cô nói, hình như lần đầu tiên từ khi đến đây. Cô hay cả thẹn, gầy và rất ưa nhìn. Mặt tai tái nhưng hứa hẹn sẽ hồng hào xinh đẹp sau khi sinh. Đàn bà đẻ con như lột xác, trẻ và đẹp hẳn lên. Cô làm kế toán ở một trường đại học, hàng ngày chồng chở ô tô đi về. Những hôm chồng đi xa, mà anh thì phải đi xa luôn vì là làm giám độc một công ty phần mềm đang làm ăn phát đạt, cô tự lái xe, thích thì thích nhưng sợ rúm cả người. Lần này nhân nghỉ đẻ, chồng cô bắt thôi việc ở trường. Cũng phải chịu, dù cô không muốn.
“Có gì mà ý với chả kiến”, bà Tý đáp. “Cho vui cửa vui nhà. Chứ một mình thế này với bố mày, tao đến chết buồn mất”.
“Vâng ạ”.
Thế là sẽ thêm một mặt trời nữa ở nhà mình, ông nghĩ. Ngộ nhỡ đứa bé ra đời mà quên rụng lông, rụng đuôi thì sao nhỉ?
Bà Tý thấp người nhưng mập. Mặt tròn, da căng dẫu đã qua tuổi sáu mươi. Chắc ngày nhỏ bà gầy bé lắm nên mới có cái tên Tý ấy. Cuộc sống thành thị giúp bà thay đổi nhiều, nhưng chẳng thể làm bà cao thêm và dễ coi hơn chút nào. Kể ra về già trông bà không đến nỗi, một phần nhờ mái tóc bạc, phần nữa trầm tính hơn do hay đi lễ nhà chùa.
Ông lấy bà trong đợt cải cách ruộng đất, rồi từ vùng chiêm trũng Hà Bắc bà được đưa thẳng về sống ở phố Hàng Bồ Hà Nội.
Ông, lúc đó là một trí thức đẹp trai, lấy bà theo chủ trương trí thức hòa mình với công nông. Cũng theo chủ trương ấy ông đã học cày bừa, hót phân, mặc quần áo rách, đi chân đất, thậm chí học cả cách nói tục. Đỉnh cao của sự hóa thân ấy là cuộc hôn nhân này, do ông tự nguyện chứ chẳng ai bắt. Nó là một thảm kịch nhưng ông chẳng trách bà. Chỉ trách mình, và lặng lẽ chịu đựng. Rồi cũng quen.
Từ lâu bà Tý đã là người thành phố, thậm chí còn hơn cả thành phố. Tuy nhiên, nếu chú ý quan sát, người ta vẫn nhận ra ở bà một vài thói quen nhỏ cho thấy nguồn gốc xuất xứ của bà.
Vợ chồng anh cả ngừng bàn chuyện làm ăn. Con bé lỉnh đi từ lúc nào. Ngoài phòng khách con mèo đang chơi trò dẫm lên các phím đàn pianô. Mặt hồ phản ánh trăng bàng bạc.
“Vợ chồng con tháng tới định du lịch châu Âu theo một tua trọn gói. Mười sáu ngày ba nước Đức Pháp Ý”, anh chồng nói. “Hay bố cùng đi cho vui?”
“Anh chị không mời tôi à?” bà Tý hỏi.
“Có chứ ạ”, chị vợ chống đỡ. “Chỉ sợ mẹ bận việc chùa”.
“Đùa thế thôi, chứ tôi biết anh chị không mời, mà có mời tôi cũng không đi. Cảm ơn”.
“Không, chúng con mời thật mà. Mẹ đi đi”.
“Không. Cảm ơn”.
Bà Tý đáp rồi đứng dậy sang phòng bên thắp hương cúng Phật như thường lệ.
“Còn bố?”
Ông ngồi im hồi lâu không đáp, tự nhiên nhớ lại chuyện thằng bé hàng xóm hôm nọ trèo hái trộm cây ổi nhà ông rơi xuống hồ. May nước nông nên không sao. Nó hoảng hốt bỏ chạy, còn ông thì đuổi theo nhưng không kịp. Mấy quả ổi chín định cho nó vẫn trong tay, cuối cùng ông vứt xuống nước. Mặt hồ lúc ấy đỏ rực ánh hoàng hôn, khiến ông giật mình như nó đang bốc lửa cháy thật.
Hôm nào ông cũng ngồi ngắm mặt trời lặn, một mình, mà cũng chỉ thích một mình. Thường những lúc ấy ông thấy buồn, cái buồn bâng quơ mà như buồn thật. Có khi ông ngồi lặng rất lâu, với cảm giác sờ được cái buồn đó. Sờ rất rõ trên từng đầu ngón tay.
                       
3
Trước cách mạng không lâu, ông theo bố sang Pháp định thi vào một trường kỹ nghệ bên ấy. Ý định đó không thành, nhưng trong ba tháng ở lại Paris ông làm quen và yêu cô gái con bạn bố ông sang Pháp sống từ mấy năm trước. Họ nhiều lần rủ gia đình ông cùng sang nhưng không hiểu sao bố ông không chịu. Chiều chiều hai người dắt tay nhau dạo bên bờ sông Seine, thường dừng lâu trước nhà thờ Đức Bà, tranh luận với nhau đâu là chỗ Thằng Gù trong tiểu thuyết của văn hào Victo Huygô đã sống, đã rót chì nung chảy xuống bọn người phía dưới. Lúc mặt trời sắp lặn họ lên xe điện tới Montmartre, nơi có ngôi đền thờ hùng vĩ ngự tọa trên ngọn đồi cao. Ông không theo đạo nhưng cũng chiều cô vào ngồi hàng giờ trong nhà thờ xem lễ. Có hôm hai người đến đây chỉ xem các họa sĩ tự do ngồi vẽ trên đồi hoặc vẽ chân dung cho ai có yêu cầu ở các phố nhỏ bên phải nhà thờ. Rồi họ thả bộ dọc theo con phố dẫn đến Moulin Rouge, hộp đêm nổi tiếng ăn chơi của thành phố, nhưng chẳng bao giờ họ vào bên trong. Đó là chốn hư hỏng, cô gái bảo thế. Trong khi Bảo Đại, đức vua của họ, nghe nói lần nào đến mẫu quốc cũng ghé thăm đây bằng được.
Mãi đến giờ ông còn nhớ như in cảnh một lần chán đi lại trong nhà thờ, ông xuống ngồi trên chiếc ghế sắt cũ kỹ dưới chân đồi chờ cô. Một lúc sau cô bước ra và đi như chạy theo những bậc đá xuống phía dưới với ông. Hôm ấy cô mặc bộ đồ vải mỏng màu đỏ. Dưới ánh hoàng hôn sắp tắt, cả người cô rực hồng, trông như ngọn lửa đang bay. Và ông đã ghì chặt ngọn lửa ấy vào lòng, toàn thân nóng rực vì nó.
Họ chỉ vào nhà hát Gardier một lần, xem vở ôpêra “Cây sáo thần” của Mozart, nhưng đến đó thì khá thường xuyên, thường vào ban đêm, vì ban đêm nhà hát được chiếu sáng rất đẹp. Từ đấy họ lên xe về nhà ở khu Port d’Italie. Cả hai bố con ông ở nhờ nhà cô suốt cả thời gian lưu lại Pháp.
Hôm trước ngày chia tay, theo yêu cầu của ông, cả hai leo lên tháp Eiffel, dù cô rất sợ độ cao. Ông đưa mắt nhìn quanh một lượt để thâu tóm vào trí nhớ cái thành phố Paris hoa lệ cùng cô gái yêu quí của mình. Ông đã van nài, thậm chí dọa tự tử để được ở lại với cô, nhưng bố ông một mực không chịu.
“Anh sẽ quay lại với em chứ?” cô gái hỏi.
“Tất nhiên”, ông đáp, dù không tin lắm.
“Em sẽ chờ anh”.
“Thật không?”
“Thật”, cô chúm môi nũng nịu vì bị hỏi một câu như vậy. “Chờ mãi mãi. Chủ nhật hàng tuần em sẽ đến Montmartre, ngồi dưới chân cột giữa trước nhà thờ, và chờ anh”.
“Sao phải đến đấy, khi anh có thể về thẳng nhà em?”
“Em muốn thế. Trong một cuốn tiểu thuyết có đôi trai gái yêu nhau hẹn chờ nhau cách ấy. Em sẽ chờ từ mười giờ sáng đến hai giờ chiều, dù đôi kia chờ từ rạng sáng đến chập tối”.
“Ngộ nhỡ số cột nhà thờ không lẻ mà chẵn thì sao?”
“Không, em đếm rồi. Số lẻ. Em sẽ ngồi ở cột giữa”.
Không biết nói gì hơn, ông ôm hôn cô âu yếm. Đó là lần đầu tiên họ hôn nhau nơi đông người.
“Em nghĩ có ngày sẽ về Hà Nội không?” lát sau ông hỏi, rất nghiêm túc.
‘Chắc có”, cô cũng nghiêm túc đáp lại. “Em rất muốn về. Để gặp anh. Nhưng mọi việc do bố mẹ em quyết định”.
“Bao giờ em có thể về?”
“Ngay ngày mai cùng anh, nếu được tự em quyết định. Thế anh có chờ em không?”
“Có”.
“Ở đâu?”
Ông suy nghĩ một lúc rồi nói:
“Ở bậc lên xuống trước nhà hát Ôpêra Hà Nội”.
“Cũng cột chính giữa?”
“Không, ở bên góc. Góc trái. Đỡ vướng người khác. Vả lại số cột ở đấy chẵn chứ không lẻ”.
“Anh định chờ em bao lâu?”
Ông lại hôn lên môi cô:
“Còn em?”
“Suốt đời”.
“Vậy thì anh cũng sẽ chờ em suốt đời, nhưng hy vọng ta không phải chờ nhau lâu đến thế”.
Đã năm mươi năm năm trôi qua kể từ ngày ấy, và họ chưa lần nào gặp lại. Thời gian đầu họ viết thư cho nhau hầu như hàng ngày với đủ lời thề thốt của những người đang yêu say đắm. Sau khi rời Hà Nội lên chiến khu, ông ngừng trả lời thư cô, thậm chí nhận thư cũng dấu diếm. Ông đã gặp không ít phiền toái vì những bức thư từ nước Pháp. Cái thời ấy nó thế. Ông chẳng trách ai ngoài trách mình hèn nhát. Ông cố ý không liên lạc để cô tưởng ông thôi yêu cô, hoặc đã chết.
Cũng chỉ thời kỳ đầu, tức khi chưa tham gia cách mạng, ông đều đặn ra ngồi ở cửa nhà hát Ôpêra chủ nhật hàng tuần, không phải từ sáng đến chiều mà chỉ một chốc theo kiểu chiếu lệ vì ông không hứa cụ thể sẽ chờ từ mấy giờ đến mấy giờ. Sau thì vài ba năm một lần. Cả chục năm nay ông chưa tới đó lần nào với mục đích này. Thậm chí cũng rất ít khi nghĩ về cô. Ông thầm ngạc nhiên và giận mình có thể bội bạc như vậy.
Cô người yêu của ông, nếu bây giờ còn sống, đã là một người già, có lẽ cũng nhăn nheo, ốm yếu như ông. Bà có ra đồi Montmartre chờ ông suốt mấy mươi năm qua không? Chắc không. Thời gian và sự mệt mỏi sẽ nhanh chóng xóa đi mọi thứ, cả những điều thiêng liêng nhất. Bản chất con người chóng quên. Mà thế cũng đúng thôi…
Trước khi ra ô tô về nhà, vợ chồng anh cả nói:
“Tùy bố thôi. Nếu thấy khỏe thì đi với chúng con cho vui. Có gì bố cho biết sớm để kịp mua vé”.
“Không, bố cảm ơn. Bố già rồi, không muốn đi đâu nữa”.
Ông uể oải đáp, mắt nhìn mặt nước hồ lung linh những vì sao. Tuy nhiên, cái ông nhìn thấy là một vệt lửa đỏ rực đang lao nhanh từ đỉnh đồi Montmartre xuống. Rồi vệt lửa ấy bỗng nhiên nhòe nước như bị nhấn chìm xuống hồ.
Không ai để ý thấy ông khóc.
Đêm nhiều mây. Cũng có thể là sương mù. Phía thành phố hừng lên một mảng màu vàng. Còn trên cao, chếch về phía làng hoa Nhật Tân, vào giờ này phải có trăng, nhưng chẳng thấy trăng đâu, chỉ thấy bàng bạc một màu lạnh lẽo.
Ông chậm chạp bước đi theo những lối nhỏ rải sỏi trong vườn, cuối cùng dừng lại bên một gốc đào già. Nó là cây đào duy nhất sót lại trên mảnh đất của người chủ trước. Trông nó thật tội nghiệp, xấu xí. Lá ít, hoa ít, chỉ nhiều mạng nhện. Nhưng ông không muốn chặt bỏ, tự mình cũng không hiểu vì sao.
Ông đặt tay lên một cành cụt của nó, với cảm giác như chạm vào tay một người bạn đồng niên, vẩn vơ nghĩ về bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại của cô gái người yêu khi họ lần cuối cùng nhau đứng trên tháp Eiffel.


4
Sáng hôm sau, anh con ngạc nhiên khi thấy bố gọi điện bảo cho xe đến đưa ông tới Nhà Hát Lớn.
Đến nơi, ông bảo mười hai giờ trưa quay lại đón.
Buổi sáng nắng đẹp mà lát sau trời nổi gió lạnh, lại bắt đầu mưa lâm thâm. Tối hôm trước cơ quan khí tượng cho biết trời không mây, nắng nóng và nhiệt độ có thể lên tới 27 độ C.
Người xe qua lại tấp nập trước Nhà Hát Lớn, nhưng không ai để ý thấy có ông già ngồi dưới mưa nặng hạt ở bậc tam cấp nhà hát.
Ở đấy có sáu chiếc cột lớn, không kể hai cột sát tường hai bên. Nghĩa là số chẵn chứ không lẻ như ông đã nói ngày nào. Ông ngồi ngay chính giữa, hai tay đặt lên gối. Bên cạnh có tờ báo mới mua nhưng ông không đọc, như thể sợ mải đọc ngộ nhỡ người ông chờ đến hoặc đi ngang mà không nhìn thấy.
Lúc trời đổ mưa, ông lấy tờ báo che đầu, sau nó ướt thì ông ngồi đầu trần. Mái tóc bạc dính bết trên khuôn mặt nhăn nhúm. Nước mưa chảy thành từng dòng theo các nếp nhăn. Ông vẫn ngồi yên bất động.
Đúng mười hai giờ, khi anh con đến và bế bố vào xe, ông đã cấm khẩu, bộ com-lê và chiếc cà-vạt mới màu tro ướt sũng như vừa ngâm nước trước khi giặt.
Vậy là năm mới được bắt đầu bằng một ngày thời tiết xấu. Lại thêm ông chủ nhà bị cảm nặng.
Ông nằm trong phòng mình, chăn trùm tận cằm, uể oải nghe tiếng những giọt nước treo trên lá rơi xuống mặt hồ. Tai ông rất thính. Tiếng rơi bộp bộp như rơi lên lá sen. Cũng có thể không phải tiếng nước, tiếng nước mưa rơi nghe không to đến thế. Con nhái nhảy lên lá sen chăng? Dễ thế lắm. Mà thôi, không quan trọng. Ông chuyển sang nghĩ cảnh buổi sáng sớm giữa trời mưa các cô gái Nhật Tân gánh hoa vào thành phố, quần áo ướt dính chặt người mà cười nói như không. Ông rùng mình vì thấy lạnh. Nhiều hôm ngồi nhìn ông thấy có cô để rơi một bông cúc vàng trên mặt đường nhựa. Bông cúc mới hái, tươi rói, bất lực chờ những bánh xe lăn qua nghiến nát. Trên cánh hoa còn vài giọt sương long lanh như nước mắt. Nó đang kêu cứu. Hình như ông nghe tiếng kêu ấy. Vậy mà ông vẫn ngồi yên. Ông suýt khóc khi lát sau bánh một chiếc xe chở công-te-nơ lăn qua người nó.
Mưa gió dầm dề mãi đến tối. Sau đó ngớt dần và đỡ lạnh hơn. Cũng là lúc ông hồi phục, gần như khỏe hẳn.
Ông đã có thể đi lại trong nhà, nhưng người ta vẫn ấn ông xuống chiếc ghế bành bọc da, khoác lên người chiếc măng-tô dạ nặng chình chịch có từ thời xa xưa mà ông tưởng đã bị vứt từ lâu. Hóa ra bà Tý vẫn giữ nó, còn giặt sạch và ướp long não cẩn thận. Mùi long não gây cảm giác khó chịu. Một trong những thói quen xưa sót lại của bà là không bao giờ vứt đi thứ gì.
Ông ngạc nhiên thấy trong nhà có đầy đủ con cháu, không thiếu một ai, kể cả anh con út luôn bận rộn, dù lúc ấy đã mười giờ đêm.
Một hình thức biểu lộ tình thương, một cách chăm sóc cảm động? Có thể. Hay chúng đến chờ ông chết để chia nhau của thừa kế? Cũng có thể như thế, ông nghĩ, nhưng liền sau đó lại tự trách mình nhẫn tâm nghĩ xấu về người khác. Ông có ngôi nhà cổ, khá rộng ở ngay trung tâm thành phố mà nhờ là cán bộ cách mạng lão thành, vẫn còn giữ được. Thêm vào đó, ông còn được thừa hưởng gần nghìn mét đất ở ven đô, nơi theo qui hoạch của thành phố sẽ là khu đô thị mới và giá đất đang tăng vùn vụt.
Ngoài ra ông thấy cả ông bạn già bác sĩ. Trước họ cùng học trường Anbe Xarô với nhau, khá thân. Ông bác sĩ thỉnh thoảng đến đây, để chơi thôi chứ chẳng phải chữa bệnh vì ông ít đau ốm. Chắc hôm nay thì ông ta được gọi đến, và đã làm những gì cần làm để ông nhanh chóng hồi phục.
Hiện giờ ông bác sĩ đang ngồi hút thuốc ngoài phòng khách. Ông nghiện thuốc nặng, dù là chuyên gia hàng đầu về các bệnh đường hô hấp và nhiều lần lên ti-vi khuyên người khác bỏ thuốc lá.
Còn những người khác thì bâu quanh ông, tranh nhau trách ông không biết giữ gìn. “Sao bố có thể không đâu ngồi giữa trời mưa hàng giờ thế nhỉ?”
Ông chỉ mỉm cười vẻ biết lỗi. Ông chưa bao giờ kể người khác nghe về vệt lửa đỏ của mình trên đồi Montmartre. Nét mặt các con ông lộ vẻ lo lắng thực sự, thế mà ông cứ có cảm giác như họ ít nhiều thất vọng vì bố không chết.
Cuối cùng, theo yêu cầu của ông, người ta để ông yên một mình. Ai về phòng người ấy đi ngủ. Nhà có đủ phòng cho các cặp vợ chồng. Còn thừa một phòng trống. Ông bác sĩ được mời nghỉ lại nhưng từ chối, xin phép về, và anh con út đánh ô tô đưa ông về.
Lúc đó đã muộn, bên ngoài trăng rất sáng. Hôm ấy, theo âm lịch là ngày mười sáu. Trăng chiếu chếch vào phòng, lại qua lớp sương mù nhè nhẹ nên tạo thành từng luồng rất rõ, tưởng như nắm bắt được. Sàn nhà lát gỗ pơ-mu như được láng một màng sữa mỏng.
Đầu ông nhẹ tênh, có thể nói trống rỗng. Điều này làm ông có cảm giác thật lạ. Chính xác là gì thì ông không biết, nhưng rõ ràng trận cảm sáng nay đã tạo nên một sự thay đổi nào đó. Ông thấy nhạy cảm khác thường, đặc biệt ở khứu giác và thính giác. Đầu óc dường như cũng minh mẫn hơn. Sao thế nhỉ?
Vốn ít hiểu biết về y, ông không lý giải được điều đó. Thông thường sau những chuyện như việc vừa rồi mà bây giờ thực tâm ông lấy làm tiếc, người ta chỉ mụ mẫm đi chứ không ngược lại. Chắc vài ngày, có thể ngay sáng mai nó sẽ qua.
Cảm giác trống rỗng, minh mẫn ấy làm ông không ngủ được. Ông gạt chiếc măng tô cũ kỹ xuống sàn, đứng dậy đi vài vòng trong phòng. Ra ngoài được một chốc thì tốt, ông nghĩ, nhưng nhớ lời dặn của ông bác sĩ, ông đành thôi.
Tựa tay vào tấm cửa kính, ông nhìn ra phía hồ. Lạ thật, suốt ngày mưa gió thế mà bây giờ trời rất quang. Vẫn cái khách sạn đồ sộ ấy đứng chắn trước mặt. Các tầng giữa hầu như tắt hết đèn, nhưng tầng lễ tân phía dưới và tầng trên cùng, nơi người ta ăn uống, nhảy múa, đèn vẫn sáng. Quá sáng. Thậm chí ông thấy bóng người lờ mờ đi lại. Chắc mình tưởng thế thôi, xa thế, thấy sao được?
Ý nghĩ ấy được khẳng định khi ông quay sang nhìn hướng khác, nơi có ngôi chùa cổ. Chẳng thấy gì ngoài một vệt mờ đen.
Hơi chóng mặt, ông quay lại nằm lên chiếc ghế võng đã được hạ thấp hết mức, phía dưới lót tấm chăn mỏng.
Bà Tý bước ra trong bộ đồ ngủ màu mỡ gà yêu thích của bà.
“Ông khỏe hẳn rồi chứ?”
“Ừ”.
“Thế thì vào mà ngủ”.
“Tôi ở đây cũng được”, ông đáp. Thực ra, ông ngại cảm giác chạm vào da thịt già nua của bà. “Vả lại, ở đây lúc thích tôi còn bật đèn xem sách báo được”.
“Lại còn sách với báo nữa”.
“Ấy là nói thế”.
Bà Tý ngồi với ông thêm chốc nữa nhưng hai người không nói gì thêm. Như các cặp vợ chồng khác ở tuổi ấy, họ thường nói chuyện với nhau theo cách đó. Khủng khỉnh, tiếng một, nhưng yêu quí và quan tâm lẫn nhau.
Bà Tý ngồi trên chiếc ghế bên cạnh. Ông nằm ngửa, mắt lim dim.
Bên ngoài, không cần thính tai cũng nghe rõ tiếng côn trùng rên rỉ và tiếng cá quẫy dưới hồ.
Bỗng ông khẽ nhỏm dậy, hỏi:
“Bà không ngửi thấy mùi gì à?”
“Không. Mùi gì?”
“Tôi không biết. Nhưng quả có cái mùi gì đặc biệt lắm”.
“Vớ vẩn”.
“Thật mà”.
“Thế thì mùi gì?”
“Đã bảo không biết. Cái bà này rõ buồn cười. Nhưng rõ ràng tôi ngửi thấy nó. Đúng thế. Một mùi đặc biệt, rất mới lạ. Các mùi khác tôi nhận ra ngay”.
“Nó thơm hay thối?”
Ông lặng im, phật ý với câu hỏi thô tục đó. Bất chợt ông chỉ xuống sàn nhà:
“Bà nhìn kìa!”
“Cái gì?”
“Ánh trăng”.
Trăng đã ngả hẳn về phía tây, nên ánh sáng của nó tràn khắp nhà, trừ những chỗ bị đồ vật che khuất. Do không còn sương mù nên lúc này ánh trăng có vẻ loãng hơn.
“Thì sao?”
“Tôi ngửi thấy mùi của nó đấy”.
“Mùi trăng?”
“Ừ, mùi trăng”.
“Vớ vẩn”.
Im lặng một chốc, bà nói:
“Ông vẫn ốm đấy. Ốm nặng. Không khéo còn hóa điên. Thôi, ngủ đi. Không vào phòng thì nằm đây mà ngủ”.
Bà vợ bỏ đi từ lâu, ông vẫn nhỏm người trân trân nhìn thứ ánh sáng kỳ diệu trên sàn nhà.
Mùi trăng. Ngửi thấy mùi trăng. Đúng là vớ vẩn. Có lẽ mình ốm thật, ốm nặng như bà Tý nói. Nhưng tại sao vẫn thấy khỏe, còn tỉnh táo hơn ngày thường? Tại sao mình thực sự ngửi thấy cái mùi ấy? Mùi trăng, một mùi … Nói thế nào được nhỉ?
Ông không thể diễn tả thành lời cái mùi ấy. Có lẽ cũng chẳng cần, ông nghĩ bụng rồi nằm xuống, với tay đắp chiếc măng tô lên người. Và cố ngủ.
Trong giấc ngủ chập chờn, bất chợt ông nhớ tới ông bạn bác sĩ lúc nãy. Ông này vốn là một nhà thơ thời trước giải phóng, nhiều lần in báo Tri Tân. Sau này ông chẳng bao giờ nhắc đến thơ phú, viết lại càng không. Thế mà một hôm, cách đây hai năm, ông ta đưa cho ông một tập thơ chép tay, bảo của mình. Toàn thơ không đề, loại sáu câu sáu chữ về cây lá vẩn vơ. Trong đó có một bài mà không hiểu sao bây giờ ông nhớ rất rõ, nhớ đến từng dấu chấm phẩy.

              Một mình tôi với thiên nhiên,
              Không làm thơ, cũng chẳng thiền,

              Chỉ ngắm trăng trên rừng rậm…
              Hình như ánh trăng cũng ấm.

              Và tin hay không tùy anh:
              Tôi ngửi thấy mùi trăng xanh.
Vậy là không chỉ một mình mình. Ông bác sĩ cũng ngửi thấy nó, lại còn mùi trăng xanh. Đành rằng là nhà thơ, ông ta có thể phịa cái gì cũng được.
Ông gần như tin chắc vào sự hiện hữu của cái mùi đặc biệt ấy. Có lẽ xưa nay trăng luôn có mùi, tại người ta không ngửi thấy mà thôi. Vậy sao ông ngửi được? Mà cũng chỉ hôm nay? Vì trận cảm lạnh ban sáng? Ừ, chắc thế. Nghe nói sau khi trải qua những thay đổi bệnh lý lớn, nhiều người bỗng có một vài khả năng kỳ diệu. Nhưng gì thì gì, đây cũng là dấu hiệu cho thấy ông thực sự đã già yếu, có thể phát điên hay sắp chết như bà Tý nói.
Nghĩ vậy, tự nhiên ông cảm thấy sức khỏe mình sút kém hẳn.

                                                     T.B.T

No comments:

Post a Comment