Sunday, March 22, 2015

CỔ THI TÁC DỊCH - BẠCH CƯ DỊ


 
Tác giả: Sinh năm 772, mất 846, tự Lạc Thiên, cuối đời gọi là Hương Sơn cư sĩ, người Thái Nguyên (Sơn Tây); đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 16 (800), gặp thăng trầm nhiều trong nghiệp làm quan. Thơ ông gồm hai mảng lớn là phúng dụ và trữ tình thiên nhiên. Ông đã sáng lập trường phái đề cao tính hiện thực trong thơ, người sau gọi là "Nguyên Bạch thi phái" Tác phẩm hiện còn lưu lại được "Bạch Thị Trường Khánh tập" gần 3000 bài.

Trên ao

Có cô bé bơi thuyền
Trộm hái vài bông sen.
Vụng về không biết giấu,
Để bèo dạt hai bên.

Suối Bạch Vân

Nơi trời yên tĩnh, nước lăn tăn,
Từ núi Thiên Bình, suối Bạch Vân.
Suối đổ xuống đây, thành thác chảy,
Cho sóng thêm to ở cõi trần?

Ở huyện Hàm Đan, đêm nhớ người thân

Hàm Đan, đông chí, trước đèn hoa
Chỉ một mình ta với bóng ta.
Ở quê có lẽ còn chưa ngủ,
Mọi người đang nhắc kẻ đi xa.

Tử vi

Ty Luân gác đỏ, ánh dương tà.
Trên lầu chuông điểm giọt ngân nga.
Gấp sách một mình ngồi, không bạn -
Tử vi người với tử vi hoa.

Hoa hạnh ở thôn Triệu

Thôn Triệu hoa hồng nở tháng Ba.
Ta đã nhiều lần tới ngắm hoa.
Bảy mươi ba tuổi, nay lần cuối.
Có lẽ sang năm đã quá già.

Tự nói với mình

Đi thi năm ấy, dẫu nghèo hèn,
Áo dài đổi rượu đãi người quen.
Một đấu mười nghìn còn dám uống.
Nay có lương quan, chẳng tiếc tiền.

Chim vẹt đỏ

An Nam cống nạp vẹt lông hồng,
Biết nói như người - chuyện tây đông,
Văn chương, luân lý đều am hiểu.
Giỏi thế làm sao thoát khỏi lồng?

Đêm xuân

Hoa chẳng phải hoa, sương chẳng sương.
Hình như ngày đã rạng ngoài đường.
Đêm xuân giấc ngủ như mây mỏng,
Hết tụ rồi tan, chẳng vấn vương.

Lời cung nữ

Không ngủ năm canh, lệ thấm đầy.
Tiếng đàn đã tắt, gió mành bay.
Nhan sắc chưa phai, vua ghẻ lạnh.
Tựa gối ngồi nghiêng tới rạng ngày.

Hỏi Lưu Thập Cửu

Có vò rượu mới cất,
Lại sẵn bếp than hồng.
Tuyết đang rơi, trời lạnh.
Có làm một chén không?

Bên ao

Tây ao dựng nhà nhỏ.
Đông ao trồng khóm cây
Để đón trăng và gió.
Ai đoán hiểu điều này?

Nghỉ trọ dưới núi

Trọ một mình dưới núi.
Đi dưới ánh trăng tà.
Tiếng chày giã cối đá
Vang dọc suối xa xa.

Có bạn đến thăm ban đêm

Chiếu ngoài thềm, gió mát.
Chén rượu ngời ánh trăng.
Một mình đã thấy thích.
Có bạn, còn gì bằng?

Mưa đêm

Dế kêu rồi im lặng.
Đèn hết sáng lại mờ.
Rì rào trên lá chuối -
Biết là trời đang mưa.

Tiếng dế đêm thu

Trời tối, ngoài cửa sổ
Dế rền rĩ không nguôi,
Làm càng thêm nhớ vợ.
Mưa thu, buồn tê người.

Đêm cô đơn đầu thu

Cây khô soi giếng lạnh.
Tiếng chày vang trong sương.
Ngủ ngoài hiên, chợt tỉnh,
Thấy trăng sáng nửa giường.

Đêm đông nghe tiếng dế

Tiếng dế đêm đông nghe thật lạ.
Đang vui cũng thấy buồn không đâu.
Ta đã già rồi, nghe chả sợ.
Người trẻ đừng nghe, khéo bạc đầu.

Các kỹ nữ của ông Trương Bộ Dịch quá cố

Cần người múa hát, mở hầu bao,
Ông bỏ tiền mua gái má đào,
Rồi dạy đủ trò... ông kiệt sức,
Chết chẳng mang theo được ả nào.

Ngày mười lăm tháng giêng, ở Trường An

Kinh thành năm mới, cảnh vui tươi.
Ốm phải ở nhà, chẳng dạo chơi.
Trăng rằm tháng giêng, đêm trời mát,
Nhưng vạn người vui, buồn một người.

Ở sông Khúc, nhớ Nguyên Cửu

Buồn vì vắng bạn, chẳng chơi xuân.
Ba phần vui thú giảm hai phần.
Sáng nay đã thế trong vườn hạnh
Gặp toàn người lạ, vắng người thân.

Bày tỏ nỗi lòng thay cho ông lão hàng xóm

Con người mong muốn chẳng bền lâu.
Ngày trước bây giờ khác xa nhau.
Trước mong chóng già thành thông thái.
Giờ tiếc thời gian nhuộm trắng đầu.

Bên bàn tiệc ngày Trùng dương, vịnh cúc trắng

Trong vườn tất cả hoa đều đỏ,
Một bông lại trắng, chẳng hài hòa.
Sáng nay cũng vậy, bên bàn tiệc
Mọi người đều trẻ, chỉ ta già.

Bài hát hái sen

Lá sen lay động, nước chao chao.
Thuyền rẽ hoa sen cứ lướt vào.
Gặp chàng muốn nói mà cúi thẹn,
Để chiếc trâm vàng rơi xuống ao.

Bài hát thương xuân

Bên thềm, hoa đậm nhạt trên cây.
Ngoài cửa chim oanh hót suốt ngày.
Rèm rũ, má son nhòe thấm lệ.
Thương tiếc cho xuân, xuân chẳng hay.

Cô gái bán củi nghĩ về các kỹ nữ

Vào rừng đốn củi, chửa tan sương.
Đầu rối, khăn thô, khổ mọi đường.
Loại gái gì kia mà áo đỏ,
Thong dong cưỡi ngựa bến Tiền Đường?

Người phụ nữ nhớ chồng

Gió xuân thổi nhẹ phía trời đông,
Làm cả vườn hoa nở rực hồng.
Nhưng không xua được mây trên mặt
Người vợ cô đơn, khổ, nhớ chồng.

Đê Ngụy Vương

Trời lạnh, hoa chưa nở.
Chim không hót trên cành.
Ngựa đưa thư rảo bước.
Đê Ngụy Vương liễu xanh.

Nhớ cây liễu bên sông

Tự trồng khóm liễu sát bờ sông.
Đi xa thấm thoắt mấy năm ròng.
Giờ liễu ra hoa, ai được bẻ?
Tự nhiên vương vấn nhớ trong lòng.

Trồng vải

Như ngọc, hạt hồng, quí lắm đây.
Quan thái thú già thật đến hay.
Mười năm bói quả, ông còn sống,
Mà chút sân con vải mọc dày?

Khúc ngâm trên sông buổi chiều

Xế chiều, vệt nắng nhạt trên sông.
Một nửa đen đen, một nửa hồng.
Tháng Chín, mồng ba, trăng rất mảnh,
Sương như màn ngọc phủ tầng không.

Ba năm xa cách

Xa nhà mới đó đã ba năm.
Nhớ quê nhiều nhất những đêm rằm.
Đã ba mươi sáu lần trăng sáng,
Đứng buồn, ngong ngóng chốn xa xăm.

Tiễn Hạ Chiêm bên sông

Tiễn bác đi xa, nhỏ lệ sầu.
Bảy mươi, già yếu, cửa nhà đâu?
Buồn nữa, đúng hôm trời nổi gió.
Giữa sóng bạc đầu khách bạc đầu.

Nghe tiếng chày đêm

Ai đó nhớ chồng đang đập lụa.
Trăng mờ, gió lạnh suốt đêm thâu.
Mùa thu, tháng tám, đêm dằng dặc.
Muôn nghìn tiếng đập nối theo nhau.
Thêm một tiếng chày, thêm sợi bạc.
Có lẽ sáng mai trắng hết đầu.

Đêm mưa, trên thuyền

Gió lạnh thổi không dứt.
Mây trên sông, tối đen.
Sóng vỗ vào hai mạn,
Mưa rắc trên mui thuyền.
Trong khoang có người ốm
Bị giáng đi châu Yên.

Lời Chiêu Quân 1)

Khi sứ trở về, xin hỏi hộ:
Vua Hán bao giờ mới chuộc ta?
Nếu vua có hỏi nhan sắc thiếp,
Chớ bảo rằng không bằng ở nhà.

1). Tên người con gái đẹp được tuyển vào cung vua Hán, bị nịnh thần giấu không cho vua biết sắc đẹp của nàng, nên nàng bị vua đem gả cho vua Hung Nô để gây hòa hiếu. Sau vua biết thì đã muộn.

Người đàn bà nhớ thương

Gió xuân lồng lộng thổi hôm nay.
Nhớ thương, chinh phụ khẽ chau mày.
Gió ngắt hết hoa, làm rụng lá,
Nhưng không xóa được nét chau này.

Ngồi tĩnh lặng

Trăng sáng, ngồi tĩnh lặng.
Mới dậy, sắp bình minh.
Chiếu thấm sương, ẩm mát.
Ngọn đèn mờ lung linh.
Hương trầm còn phảng phất.
Với tay kéo tấm mành.
Nhà ai đang dạy vẹt.
Nghe vẹt nói, giật mình.

Ngồi ở đình bên sông, ngắm trời tạnh

Khói tan trên mặt nước.
Gió thổi nhẹ làn mây.
Cầu vồng chợt xuất hiện.
Chèo khua, chim nhạn bay.
Cổng đóng, quan vừa nghỉ.
Vắng tin nhà nhiều ngày.
Mai đã tết Trùng Cửu,
Biết cùng ai uống say?

Tan tiệc

Trăng treo trên cầu nhỏ.
Cuối cùng tiệc cũng tan.
Con hát tản đi hết.
Đèn mờ ngoài lan can.
Ve kêu, báo thu đến,
Chim nhạn bay thành đàn.
Trước khi lên giường ngủ,
Uống nốt chén rượu tàn.

Tiết hàn thực, nhìn ra cánh đồng

Trước nhà họ Quách, mộ đầy đồng.
Hàn thực, nhà ai khóc não lòng.
Mộ xưa cỏ mọc xanh nhiều lớp.
Mấy tờ tiền giấy lượn trên không.
Ly biệt âm dương, người sống chết.
Liễu buồn soi bóng xuống dòng sông.
Suối vàng có khóc, không nghe thấy.
Người về, người ở giữa chiều đông.

Tiễn người trên sông thu

Chim hồng nối nhau bay.
Vượn buồn kêu suốt ngày.
Hôm ấy trên thuyền nhỏ
Khách ra đi nơi này.
Mưa dầm dầm ướt áo.
Mảnh mai cánh buồm gầy.
Khói sóng buồn heo hắt.
Rượu Tầm Dương không say.

Nhà lá mới dựng xong dưới chân núi Tân Bốc,
ngẫu hứng đề thơ lên vách phía đông

Thềm đá, vách tre, cột gỗ quế,
Ba gian nhà lá nhìn ra hồ.
Cửa bắc suốt hè luôn gió mát.
Hiên nam đông ẩm nắng hong khô.
Suối đổ trên cao, vườn được tưới.
Bờ tre cao thấp đứng nhấp nhô.
Mùa xuân mái nhà thơm hương gỗ.
Vuốt giấy, kê bàn viết sách Nho.

Cỏ

Mỗi năm một lần úa,
Rồi lại xanh một lần.
Lửa đồng đốt không cháy,
Nẩy mầm cùng gió xuân.
Xanh xanh bên thành cũ.
Mùi thơm tỏa xa gần.
Tiễn người đi, bịn rịn,
Nặng tình, cỏ níu chân.

Buổi chiều, từ Hồ Tây trở về

Đảo Thông, hồ Liễu với chùa Sen.
Thuyền quay trở lại, triều đang lên.
Lư quất gặp mưa, thêm nặng hạt.
Lá tĩnh lư run trước mũi thuyền.
Nước sông man mác soi trời biếc.
Dưới nắng lô nhô mấy nóc đền.
Cặp bến, mời anh nhìn ngoái lại:
Giữa nước, Bồng Lai đang mọc lên.

Thơ đề ở chùa Tiên Du khi
đưa tiễn bác Vương Mười Tám về núi

Núi Thái Bạch kia từng vãn cảnh.
Tiên Du chùa cổ mấy lần qua.
Nhìn rõ đáy đầm khi nước lặng.
Mây trắng tan rồi, thấy động xa.
Trong rừng, đốt lá, ngồi hâm rượu.
Quét rêu trên đá, chép thi ca.
Buồn không trở lại nơi từng đến.
Mong bác về xem cúc nở hoa.

Mới dọn đến ở chân núi Hương Lô,
nhà cỏ vừa làm xong, chợt hứng
đề bài thơ này lên vách phía đông

Trời sáng đã lâu, còn biếng dậy.
Hai lớp chăn dày, rét khỏi lo.
Tựa gối nghe chuông chùa Ái điểm.
Vén rèm ngắm tuyết núi Hương Lô.
Tư Mã 1), chức quan khi lớn tuổi.
Khuông Lư 2) về ẩn, tránh buồn lo.
Nhàn nhạ, yên thân là sướng nhất.
Cần gì cứ phải sống thành đô.

1. Chức quan coi việc hình pháp.
2. Tức Lư Sơn, tên ngọn núi ở Cửu Giang, tỉnh Giang Tây.

Ý nghĩ mùa thu

Ráng chiều như lửa đỏ.
Trời xanh trong, bao la.
Mây có hình thú vật.
Mỏng tang trăng mồng ba.
Chim nhạn bay về bắc.
Tiếng chày đá xa xa.
Mùa thu buồn như thế,
Khiến chưa già mà già.

Mùa xuân, dạo bên hồ Tiền Đường

Chùa Cô Sơn bắc, Giả đình tây.
Nước hồ phẳng lặng, trời nhiều mây.
Nhà ai chim én tha bùn mới.
Con oanh líu ríu giữa lùm cây.
Hoa nở muôn màu, làm rối mắt.
Dấu ngựa mờ phai, lối cỏ gầy.
Thật thích, ven hồ đi, đi mãi.
Bờ đê cát trắng, liễu xen dày.

Đêm xuân, đề thơ trên hồ

Đẹp như tranh vẽ cảnh hồ xuân.
Xung quanh núi đứng, nước trong ngần.
Thông xanh lớp lớp trên sườn núi.
Trăng vàng soi bóng, sóng lăn tăn.
Lúa nếp một khoanh như tấm thảm.
Vệt cỏ bồ non giống dải quần.
Chưa bỏ Hàng Châu mà đi được,
Phần vì hồ đẹp, níu bàn chân.

Từ khi Hà Nam trải qua loạn lạc, vùng trong cửa ải nghẽn đường bị đói, anh em tan tác mỗi người một nơi, nhân trông trăng xúc cảm viết tả nỗi nhớ, gửi anh cả ở Phù Lương, anh Bảy ở Ư Tiềm, anh Mười Lăm ở Ô Giang, cùng nhắn các em trai, em gái ở Phù Ly và Hạ Khuê

Loạn lạc, mất mùa, cảnh đáng thương.
Phiêu dạt anh em, người một đường.
Ruộng vườn hoang hóa vì binh lửa.
Ruột thịt chia lìa khắp bốn phương.
Thương nhạn lạc bầy nơi cát bụi.
Tiếc cỏ bồng tàn giữa tuyết sương.
Một lúc năm nơi, giờ có lẽ
Năm người ngắm nguyệt, nhớ quê hương.

Chơi hồ Tiểu Động Đình

Bên cạnh hồ to lại có hồ.
Hoa sen thơm ngát cõi hư vô.
Sao đêm chi chít, chia thành khoảnh.
Mây sáng năm màu, núi nhấp nhô.
Chim đậu trên cây, trăng sáng lạnh.
Dịu dàng gió thổi, sóng lô xô.
Hồ thiêng, cảnh đẹp như tranh vẽ,
Bốn mùa trong vắt, nước không khô.

Vịnh Vũ Hầu 1)

Tiên sinh ở ẩn chốn rừng sâu.
Chúa giỏi ba phen đến thỉnh cầu.
Cá ở Nam Dương đang độ béo.
Rồng lên thượng giới gọi mưa ngâu.
Vua gửi con côi, bày lễ trọng. 2)
Ông đền nợ nước nặng tình sâu.
Bài biểu ra quân đầy khích lệ,
Khiến đọc ai ai cũng lệ sầu.

1. Tức Khổng Minh Gia Cát Lượng, Lưu Bị ba lần đến lều cỏ mời, mới xuống núi phò Hán diệt Ngụy.
2. Trước khi chết Lưu Bị gửi gắm con mình là Lưu Thiện cho Khổng Minh. Thiện sau này hóa ra là người nhu nhược, ham chơi, nghe lời quan hoạn mà để mất nước.

Trên đường từ Giang Nam đi Từ Châu, gửi cho em

Đi từ Nam lên Bắc,
Buồn anh em xa nhau.
Nghìn dặm xa vời vợi
Giữa tuyết trắng một màu.
Đêm mơ về quê cũ.
Sáng xếp gói ngậm sầu.
Vội - lo đường phía trước.
Nghèo - tính chuyện mai sau.
Nhạn chao trên sóng lạnh.
Quạ quần quanh gác lầu.
Ai thương người vượt núi
Từ Sở đến Kinh Châu?

Vầng trăng đất khách

Khi từ Giang Nam tới,
Trăng còn non, rất gầy.
Dặm đường xa, thăm thẳm
Đã ba lần trăng đầy.
Lên đường lúc trăng lặn.
Nghỉ, trăng trên ngọn cây.
Hữu tình, trăng lặng lẽ
Theo người đi đêm ngày.
Sáng rời dòng sông Vị,
Chiều đã tới Hà Tây.
Tối nay ngủ đâu nhỉ
Với trăng sáng thế này?

Trăng trung thu

Trăng sáng khắp non sông.
Khổ đau đang chất chồng.
Sân trước người ly biệt.
Ngoài ải lính canh phòng.
Thất sủng, vợ vua khóc.
Thua trận, tướng mất công.
Sáng chi thêm não ruột.
Trăng trên ấy biết không?

Nghỉ việc
(trích)

Bảy mươi tuổi nghỉ việc,
Hợp lẽ lại hợp thời.
Bất chấp cái lẽ ấy,
Tham lam, không ít người
Tuổi tám chục, chín chục,
Răng rụng, thở thiếu hơi,
Vẫn bám quyền, bám chức,
Mang tiếng xấu với đời.

Đàn Bắc Song năm dây
(trích)

Tiếng người hát vừa dứt.
Thôi múa tà áo hồng,
Cô gái Triệu lặng lẽ
Ôm chiếc đàn ngang hông.
Dây to trầm và đục.
Dây nhỏ tựa suối trong.
Mười ngón tay như múa,
Nghiêng ngả các âm cung.
Chậm buồn như vượn hót.
Nhanh dữ tựa cuồng phong.
Người ngồi nghe kinh ngạc,
Xúc động tận đáy lòng.
Tiếc cho kẻ phàm tục,
Tầm thường và chơi ngông,
Chạy theo thứ hiện đại
Mà quên đàn Bắc Song.

Trời rét

Đất Tần năm sắp hết.
Thành đô tuyết rơi dày.
Người giàu không sợ rét,
Còn thích đi đó đây.
Nơi lầu son gác tía
Luôn tiệc tùng no say.
Văng vẳng tiếng đàn hát,
Phấp phới tà áo bay.
Khách nóng, cởi bớt áo.
Vui vẻ đến rạng ngày.
Mà không biết gần đấy
Trong nhà tù hôm nay
Có tử tù chết rét
Vì không đủ áo, giày.

Cây ngô đồng ở chùa Văn Cư
(trích)

Một thân cây cao thẳng,
Tán lá rộng và dày.
Sừng sững năm mươi trượng,
Còn vươn nữa lên mây.
Sư cụ chín mươi tuổi
Kể về cây ngô này:
Lúc trồng chỉ hạt nhỏ,
Đúng mùa, mọc mầm ngay.
Mầm khỏe, cây thon thẳng,
Cứ lớn lên từng ngày.
Trong thân cây có lõi,
Dây leo không bám đầy.
Với ai muốn lập nghiệp,
Gương cho mình là đây.

Chiếc gương

Khi chia tay, người đẹp
Để lại chiếc gương đồng.
Người đi, buồn từ đấy,
Hồ trong không còn trong.
Suốt năm không động đến,
Mặt gương phủ bụi hồng.
Lau, soi mình - hốc hác,
Khuôn mặt buồn, trống không.
Càng buồn: sau gương, thấy
Quấn quít một đôi rồng.

Tìm đạo sĩ họ Quách không gặp

Khách xa đến tìm gặp,
Tìm mãi không thấy đâu.
Cây tùng xanh trước cửa.
Đôi hạc trắng sân sau.
Lửa lò thuốc còn đỏ.
Mây, nước chửa phai màu.
Có chuyện muốn tìm hỏi.
Liệu bao giờ gặp nhau?

Hỏi bạn

Trồng lan, không trồng ngãi.
Thế mà lan nảy mầm
Ngãi cũng mọc liền cạnh,
Xanh tốt không cần chăm.
Lan thơm cùng ngãi hắc
Dính vào nhau, thật phiền.
Nhổ ngãi sợ lan chết.
Tưới lan, ngãi kề bên.
Vậy là lan chưa tưới,
Ngãi cũng chưa nhổ đi.
Ngẫm nghĩ, phân vân mãi.
Bác bảo phải làm gì?

Con tuấn mã gầy

Ngựa Hoa Lưu mất chủ,
Không ai chăm, đói gầy.
Hý lên giữa gió rét
Bên sông Hoàng hàng ngày.
Chân dẫm lên băng tuyết,
Đêm ngủ trong rừng cây.
Cuối năm, không có cỏ,
Biết lấy gì ăn đây?
Ai cũng muốn ngựa tốt,
Nhưng chọn ngựa xưa nay
Toàn người trần mắt thịt
Chỉ thấy béo hay gầy.
Không nhìn thấy bộ vó
Phi nghìn dặm như bay.
Kia, trong xóm, nha lại
Đang thúc dân nộp ngay
Cỏ để nuôi ngựa lính,
Lũ ngựa thồ, cả bầy.

Trọ ở Huỳnh Dương

Huỳnh Dương là quê quán.
Từ bé rời quê hương.
Bốn chục năm đằng đẵng,
Nay về trọ Huỳnh Dương.
Lúc đi hơn mười tuổi,
Năm mươi sáu bây giờ.
Thế mà vẫn còn nhớ
Những trò nghịch tuổi thơ.
Nhà cũ không còn nữa.
Không còn nữa họ hàng.
Thay đổi không chỉ chợ,
Thay đổi cả gò, hang.
Duy sông Trân, sông Vị
Xanh như thuở hồng bàng.

Thơ làm khi ngắm cảnh sông trên lầu

Bên sông, lầu chót vót.
Con đường lớn chạy qua.
Tự nhiên thấy nhẹ nhõm,
Nhìn đất trời bao la.
Trong đồn, lính luyện tập.
Đường trạm, xe sứ qua.
Buổi binh đao loạn lạc
Nên sống nhàn ở nhà.
Ta hơn bốn mươi tuổi,
Ở ẩn cũng chưa già.

Mời rượu
(Trích)

Mời bác chén này, xin cứ uống.
Mời chén thứ hai, chớ ngại ngần.
Uống chén thứ ba, bác sẽ thấy
Rằng mình quả thật chẳng còn xuân.
Khi say, lòng sáng hơn khi tỉnh.
Đời dài và đẹp lúc ta say.
Khi chết bạc vàng có chất đống,
Không bằng chén rượu uống hôm nay.
Vậy hãy về nhà, đầu đã bạc,
Cầm cố áo quần, mua rượu ngay!

Gửi Vi Chi

Tôi vừa tới Châu Giang,
Chặng đường dài mỏi mệt.
Đã xa càng xa hơn.
Tin tức nhau không biết.
Gửi theo ngọn gió này
Lời hỏi thăm thân thiết.
Còn sống thì gặp nhau.
Chết thì xin vĩnh biệt.

Thuế nặng
(Lược dịch)

Dân trồng dâu, cấy lúa
Để có mặc, có ăn.
Thế mà trẻ phải đói,
Già không gì che thân.
Quan ráo riết thu thuế,
Chất đầy kho, đầy sân.
Trong khi dân đói rét,
Trong kho vải mục dần.

Anh học trò nghèo
    (Lược dịch)

Anh học trò nghèo đói
Sống trong hẻm một mình.
Ra ngõ, gặp bạn cũ,
Giờ đỗ đạt, hiển vinh.
Bạn lờ như không biết,
Quất ngựa phóng đi nhanh.
Đời này đều thế cả,
Đâu chỉ riêng mình anh.

Áo cừu nhẹ và ngựa béo
(Lược dịch)

Các quan đi dự tiệc,
Mũ, yên cương sáng ngời.
Áo cừu nhẹ, ngựa béo.
Hả hê, miệng tươi cười.
Tiệc rót đầy rượu quí.
Món lạ từ khắp nơi.
Năm ấy Cù Châu hạn,
Người phải ăn thịt người.

Mua hoa
(Lược dịch)

Kinh thành xe nườm nượp,
Kéo nhau đi mua hoa.
Hoa đẹp, quí, lại hiếm.
Hồng đỏ, huệ mượt mà.
Những giò lan quí phái,
Mọi người ngắm, xu‎yt xoa.
Một lão nông đứng cạnh,
Lẩm bẩm, vẻ thật thà:
“Tiền một bông như thế
Bằng thuế của mười nhà!”

Đêm yên tĩnh
(Lược dịch)

Ve kêu rồi im bặt.
Đom đóm bay vệ đường.
Ngọn đèn sáng, không khói.
Chiếc chiếu tre đẫm sương.
Đầu hè trăng chênh chếch.
Gió thổi trên cành dương.
Sao lạ lùng thế nhỉ?
Lòng không chút vấn vương.

Tặng vợ
(Lược dịch)

Chết, cùng chung cát bụi.
Sống, luôn ở bên nhau.
Cơm áo chỉ cần đủ.
Ở không cần gác lầu.
Gương liêm khiết, thanh bạch
Cố giữ cho đời sau.
Vợ chồng đã gắn bó,
Vui sống đến bạc đầu.

Mùa thu, lên núi
(Lược dịch)

Ốm mãi, quên đi dạo.
Hôm nay lên núi chơi.
Núi thu gầy, lạnh lẽo,
Xơ xác như mặt người.
Cây xanh làm chỗ tựa.
Đá trắng nằm nghỉ ngơi.
Trong lòng thấy thanh thản,
Muốn ở lại suốt đời.

Rét gắt ở nhà quê
(Lược dịch)

Tháng Chạp năm Thiên Bảo,
Tuyết rơi suốt năm ngày.
Tre thông đều chết cóng,
Huống chi đám dân cày.
Cơm đói, không áo mặc,
Còn bao nỗi đắng cay.
Ta thì nhà kín gió,
Lại chăn ấm, áo dày.
Không đói ăn, nhàn nhã.
Việc đồng không đến tay.
Ngẫm điều ấy mà thẹn.
Ta hạng người gì đây?

Nghe người khóc
(Lược dịch)

Xóm Tây hôm trước khóc.
Tiếng khóc thật não lòng.
Chồng chết, hăm lăm tuổi.
Đó là vợ khóc chồng.
Sáng nay lại nghe khóc.
Tiếng khóc từ xóm Đông.
Mẹ khóc con mười bảy,
Chết, không có cháu bồng.
Ra thiên hạ thế cả,
Thường chết non, khổ không!
Mình đã bốn mươi tuổi,
Đã được gọi bằng ông,
Sao soi gương, buồn bã,
Thấy tóc trắng như bông?

Áo cừu mới may
(Lược dịch)

Vải Quế trắng như tuyết,
Bông Ngô mềm hơn mây.
May áo cừu thừa ấm.
Vải nhẹ, bông lại dày.
Đêm làm chăn, ngày mặc.
Không sợ gió, tuyết bay.
Bỗng giật mình, chợt nghĩ:
Là trượng phu, xưa nay
Phải giúp dân, giúp nước,
Đâu an phận, cầu may.
Làm sao ta no ấm,
Khi đói rét dân cày?
Mong có chiếc áo rộng,
Bao phủ hết đời này,
Để không ai còn rét,
Bất hạnh chẳng hề hay.

Người tìm củ địa hoàng
(Lược dịch)

Mạch chết vì sương muối.
Lúa - vì nắng chang chang.
Đói ăn nên vác cuốc
Đi tìm củ địa hoàng.
Đi từ trời chưa sáng,
Tối mịt mới về làng.
Đem giỏ củ bé nhỏ
Tới cửa nhà cao sang:
“Loại củ này sẽ giúp
Ngựa ngài béo, mỡ màng.
Xin đổi ít thóc ngựa,
Qua cơn đói nhỡ nhàng!”

653. Xem gặt lúa
(Lược dịch)

Nhà nông ít lúc rỗi.
Tháng Năm, việc bù đầu.
Suốt ngày lo gặt lúa.
Già và trẻ như nhau.
Lưng cháy khô dưới nắng.
Chân ngập dưới bùn sâu.
Bên cạnh, một bà lão,
Mót lúa, miệng lầu bầu:
“Phải bán nhà nộp thuế.
Vừa đói, vừa ốm đau…”
Còn ta, ta nhàn nhã,
Không cấy lúa, trồng dâu,
Mà lộc quan trăm thạch,
Ăn thừa đến năm sau.
Nghĩ càng thấy xấu hổ.
Vương vấn mãi hồi lâu.

Gửi ông Vương trong núi
(Lược dịch)

Nghe bác bỏ ăn ngủ,
Vất vả bấy lâu nay
Tìm thuốc, mong trường thọ.
Tôi lại nghĩ thế này:
Dài là so với ngắn.
Ngọt là so với cay.
Nghìn tuổi thông mới chết.
Hoa dâm bụt - một ngày.
Rốt cuộc đều thế cả,
Đều gió thoảng, mây bay.
Sống lâu hay chết yểu,
Không quan trọng xưa nay.
Không sống thì không chết -
Biết đâu thế lại hay?

No comments:

Post a Comment