1
Hàng
năm, cứ vào ngày mồng bảy tháng Giêng âm lịch là cả làng D.T lại nhộn nhịp hẳn
lên. Cái nhộn nhịp ấy còn lan sang những làng lân cận. Vào ngày ấy, từ sáng sớm
người ta í ới gọi nhau đi chợ, đến trưa thì nhà nào trên bàn thờ tổ tiên cũng
có một mâm cỗ với những que hương trầm nghi ngút khói. Trong khi lũ trẻ hoặc
đám thanh niên mới lớn vô tư cười nói bên cạnh, những người già đứng chắp tay
trước bàn thờ, cúi đầu lầm rầm cầu khấn điều gì chỉ mình họ biết. Cuối cùng mâm
cỗ được hạ xuống, một lần nữa, khi cánh trẻ ăn uống vui vẻ, những người già -
thường ngồi riêng với nhau ở mâm trên, - vừa nhâm nhi cốc rượu, vừa khe khẽ
nhắc lại những gì đã xẩy ra vào cái ngày
khủng khiếp ấy...
Đó
là ngày mồng bảy tháng Giêng âm lịch năm 1954, nghĩa là lâu, đã lâu lắm rồi, đến mức bây giờ nhớ lại, người
ta không khỏi không mâu thuẫn với nhau về chi tiết, thậm chí cả những chi tiết
quan trọng. Mỗi người kể một cách và ai cũng cho mình đúng. Đại khái sự việc
xẩy ra thế này.
Độ
năm giờ sáng vào cái ngày khủng khiếp ấy, một chiếc máy bay khu trục Pháp bất
ngờ từ phía biển bay vào, ném một loạt năm quả bom xuống D.T. lúc ấy hẵng còn
là một làng nhỏ nhà cửa đứng sát sít bên nhau. Chiếc máy bay ấy còn lượn thêm
hai vòng, sau mỗi vòng lại chúc xuống ném những loạt bom dài và chính xác như
trước. Rồi vút lên, nó bay mất hút về phía biển.
Sau
đấy là một nỗi kinh hoàng thật sự. Làng D.T nằm dài thành một vệt, bị ba lần
ném bom trúng ngay vào ba phần đầu, giữa và cuối, thành ra cả làng không còn
ngôi nhà nào nguyên vẹn. Số người chết lại càng khủng khiếp hơn, vì lúc ấy còn
sớm, hoặc người ta ngủ chưa dậy, hoặc dậy rồi nhưng chưa đi đâu khỏi làng. Có
người bảo chết hai trăm, có người bảo ba, cũng có người nói nhiều hơn. Còn việc
vì sao làng D.T bị ném bom chứ không phải làng nào khác, mà lại một cách dã
man, mang tính hủy diệt như thế, trong khi suốt một thời gian dài trước đấy cả
huyện Diễn Châu rộng lớn chưa bị ném bom lần nào, thì không ai hiểu nổi, mặc dù
người ta đã đưa ra rất nhiều giả thiết khác nhau.
Từ
đấy hàng năm đúng ngày mồng bảy tháng Giêng âm lịch là cả làng nhà nào cũng có
giỗ. Kèm theo giỗ là những câu chuyện rôm rả, những hồi tưởng đau buồn, những
tiếng khóc...
2
Năm nay về D.T dự "giỗ làng" có thêm một người.
Người ấy lập tức thu hút sự chú ý của dân làng. Đó là một ông già khoảng 65
tuổi, tóc bạc trắng, da dẻ hồng hào nhưng hình như không được khỏe vì ông phải
dùng gậy để đi lại. Ông về làng trước ngày có giỗ hai hôm, tức là vào ngày mồng
năm. Không ai nhận ra ông, có lẽ ông cũng chẳng nhận ra ai quen trong làng. Ông
nói tên những người ông muốn gặp, người ta lắc đầu không biết. Ông phải tìm hỏi
người cùng tuổi, tự giới thiệc mình là ai, từ đâu tới, vân vân, lúc ấy người ta
mới đồng thanh "ồ", "à" cả lên.
Thì
ra ông già là dân làng này, có điều ông xa nó gần ba mươi năm, và nay, sau ba
mươi năm dài ấy, ông mới trở lại thăm làng lần đầu. Không phải không muốn, ông
nói, mà vì ông ở xa, tận bên nước Thụy Sĩ hay gì gì ấy ở châu Âu. Còn những
người ông hỏi gặp thì thuộc gia đình một địa chủ lớn ngày xưa ở vùng này. Có
điều bây giờ cái gia đình ấy chẳng còn ai, trừ bà Sen, một bà già đơn độc sống
cuối làng.
- Chết hết rồi, - người ta thở dài bảo ông. - Chết vào cái
ngày khủng khiếp ấy. Bom, máy bay ném bom... ông biết chứ? - Rồi như để an ủi,
người ta ái ngại nhìn ông, nói thêm: - Không riêng gì nhà nhà bác mà cả làng,
nhiều lắm...
-
Có, tôi có nghe nói, - ông già lặng lẽ lấy khăn mù-xoa lau lau đôi mắt hoe đỏ
vì xúc động. - Cũng vì thế tôi về đây xem thực hư thế nào. Kinh khủng quá,
trời, kinh khủng quá...
Ông
già lại lấy khăn chấm vào mặt. Giọng ông run run. Đôi tay khô và nhăn nheo của
ông cũng run run. Một chốc sau lũ trẻ dẫn ông chống gậy chậm chạp đi về phía
nhà bà Sen.
Đêm
hôm ấy, dĩ nhiên ông và bà Sen trò chuyện với nhau rất lâu.
-
Trời, bác Ánh, không lẽ bác còn sống à? - Bà Sen kêu lên khi nhận ra khách là
ai. Bà và ông là con chú con bác với nhau, tuy ít hơn ông mấy tuổi và có vẻ già
yếu hơn. - Chừng ấy năm bác ở đâu? Sống thế nào?
Không
chờ khách trả lời, bà vội bỏ đi lấy ghế, múc nước. Còn ông già thì cố tỏ ra
bình tĩnh. Ông thong thả đưa cả hai tay bê bát chè vối nguội lên tận miệng, rồi
cũng thong thả như thế, ông uống từng ngụm nhỏ cho đến hết bát nước, trong khi
bà Sen ngồi đối diện, vừa tò mò quan sát, vừa kiên nhẫn chờ nghe ông nói.
-
Bà biết rồi đấy. Năm bốn mươi, tôi ra Hà Nội học. Rồi sang Pháp. Rồi lại về
nước làm cái thằng lính. Đến năm năm tư thì tôi theo người Pháp rời Việt Nam,
sang sống với bố mẹ ở nước ngoài. Ờ, mà hai cụ chết đã lâu, hai mươi năm rồi.
Còn tôi vẫn sống một mình, không vợ con, những tưởng chẳng bao giờ được thăm
lại quê cũ, thế mà tôi vẫn lần được về. Tôi muốn biết...
-
Vâng, - đoán hiểu ý ông, bà Sen vội tiếp lời, - ngày kia là giỗ làng rồi. Cả
làng, bác ạ, - những hai ba trăm người chết chứ đâu ít...
-
Nhiều thế cơ à? - Ông ánh khẽ hỏi.
-
Vâng, thật khủng khiếp. Tờ mờ sáng, bác ạ. Một chiếc máy bay... ôi! - Bà Sen
thở dài rồi ngồi im, rơm rớm nước mắt.
-
Hai cụ nhà cô cũng chết lần ấy?
- Vâng, cả chồng và con trai tôi nữa. Một quả bom rơi trúng
nhà. May tôi lúc ấy ra vườn hái rau
chuẩn bị cơm sáng nên mới thoát.
-
Còn gia đình bác Vị ? (Bác Vị là anh trai cả bố mẹ ông Ánh, bà Sen).
-
Cũng thế. Có điều bác gái bị thương, phải nửa năm sau mới chết được.
-
Còn chú Xuân?
-
Chú Xuân lúc ấy không ở nhà. Chú ấy trốn đi bộ đội từ hai năm trước, sau này hy
sinh ở Điện Biên.
- Còn làng xóm?
-
Làng xóm thì bác thấy đấy, nhà nào cũng bị, không người này thì người nọ. Ngày
kia giỗ, rồi bác xem.
Ông
Ánh không hỏi gì thêm. Ông cúi đầu ngồi im, hai tay ôm mái tóc bạc. Ngoài sân,
trời đã tối từ lâu. Trong ánh sáng đỏ nhờ của chiếc đèn dầu ma-dút, bà thấy ở
khóe mắt ông có hai giọt nước lấp lánh mỗi lúc một to dần. Bà cũng ngồi im thẫn
thờ, cho đến lúc bất chợt vụt đứng dậy vì sực nhớ phải làm cơm mời khách.
Đêm
ấy hai người còn ngồi nói với nhau nhiều chuyện, nhưng như đã hẹn trước, ai
cũng cố không nhắc tới đề tài lúc nãy.
Cuối
cùng cáo mệt, ông Ánh lên giường nghỉ. Từ buồng trong, bà Sen nghe rõ tiếng ông
nằm trăn trở mãi, cho đến khi bà thiếp đi lúc nào không biết.
Hôm
sau, tức ngày mồng sáu, ông Ánh nhờ bà Sen dẫn ra thăm mộ những người bị bom
chết trong cái ngày xa xưa ấy. Đến nơi, ông nói muốn ở lại một mình. Tuy không
hiểu ý ông làm gì, nhưng bà Sen chẳng hỏi, lẳng lặng ra về.
Nghĩa
địa Gia Quán nằm trên mé đồi thoai thoải bao quanh bởi những bụi gai còi cọc
thấp tè. Mộ được xếp thành từng hàng dài, mỗi họ một khu, chiếc này dính liền
chiếc kia như những luống khoai lớn, phía trên nổi lên những mô đất nhỏ đánh
dấu từng chiếc. Phần bị mưa xói, phần do trâu bò xéo, nhiều chiếc sụt lở, méo
mó. Đất cằn, cỏ không mọc nổi, không bóng cây, không lăng bia, mộ chí. Nói
chung quang cảnh khá tiêu điều và ảm đạm.
Ông
Ánh thận trọng chống gậy đi đến trước hàng mộ người thân của ông bà Sen vừa
chỉ. Tay cầm hộp diêm, run run, ông bật lửa châm mấy bó hương mang theo, cắm
xuống đấy năm que. Số còn lại ông chia đều cho tất cả những hàng mộ bên cạnh.
Sau đó ông chọn một hòn đá phẳng và ngồi xuống, hồi lâu đờ đẫn nhìn một điểm
nào đấy trước mặt...
Tối
đến ông chống gậy đi hết nhà này sang nhà khác. Đến đâu ông cũng gợi để chủ nhà
nói về cái sự kiện khủng khiếp xảy ra cách đây mấy mươi năm. Còn ông, ông chỉ
im lặng ngồi nghe, thỉnh thoảng thêm đôi lời để câu chuyện khỏi bị ngắt quãng.
Ai
cũng ái ngại cho ông già sau chừng ấy năm xa cách nay trở lại quê hương phải
nghe những chuyện buồn như vậy.
3
Rạng
sáng ngày mồng bảy, khi mặt trời chưa lên và sương mù còn dầy đặc, có một bà
gánh rau cải xuống chợ bán sớm. Đến cây đa cụt cuối làng, vì mải nhìn xuống
đường để tránh những vũng nước đọng sau cơn mưa, bà bỗng thấy đầu mình va phải
cái gì khô cứng.
Bà
ngước nhìn lên, kêu to một tiếng vì ngạc nhiên và sợ hãi, rồi vứt gánh, ù té
chạy trở lại. Chưa đầy mười lăm phút sau, một nửa dân làng D.T đã có mặt. Mọi
người đứng quanh cây đa cụt, sững sờ nhìn cảnh tượng trước mặt.
Trên
cành cây choãi ra phía mặt đường, có một người treo cổ chết, xác lủng lẳng, mồm
há hốc, đầu ngoẹo sang một bên, mớ tóc bạc lòa xòa dính bết vào trán - có thể
vì mồ hôi, cũng có thẻ vì sương ướt.
Người
đó là ông Ánh. Chiếc gậy của ông để tựa gốc cây. Trên gậy là chiếc mũ dạ với tờ
giấy được gấp tư cẩn thận, to bằng lòng bàn tay. Theo yêu cầu của mọi người,
một thanh niên rón rén lại gần gốc đa, cầm tờ giấy lên, đọc to:
"Thưa bà con dân
làng,
Chính tôi là người lái
máy bay ném bom làng ta ba mươi năm về trước. Tôi đã xin cấp trên được làm điều
đó, vì nghe tin gia đình tôi bị Cộng Sản cướp hết ruộng đất, nhà cửa chia cho
dân nghèo. Lúc ấy còn trẻ và nông nổi, tôi thèm khát trả thù, lại sẵn bom đạn
trong tay, thế là tôi tự nguyện gây nên tội ác khủng khiếp kia, cái mà từ ngày
ấy cho đến nay không để lương tâm tôi thanh thản phút nào. Tôi đã phạm một sai
lầm không cứu vãn nổi, là tách rời khái niệm "Cộng Sản" khỏi khái
niệm quê hương làng nước...
Bây giờ đã bốn giờ hai
mươi phút, nghĩa là tôi còn phải chờ thêm mười phút nữa để tự kết liễu đời
mình. Thực ra, tôi xem tôi đã chết vào đúng cái giờ phút ấy cách đây ba mươi
năm, khi tôi bấm nút ném quả bom đầu tiên xuống khu làng đã sinh và nuôi tôi
lớn.
Tôi chẳng dám xin được
bà con tha thứ cho tôi, một đứa con tội lỗi sau bao nhiều năm lưu lạc, nay trở
về quê cũ để tự đền tội. Trong túi tôi hiện còn ít tiền, nếu được, nhờ bà con
cho thuê người chôn tôi ở nghĩa địa Gia Quán, cạnh những người tôi đã giết.
Nguyễn Văn Ánh”
Diễn Châu, 1983
No comments:
Post a Comment