Sunday, March 22, 2015

CỔ THI TÁC DỊCH - LÝ BẠCH


 
Tác giả: Sinh năm 701, mất 762, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, người Lũng Tây (nay là Tần An, Cam Túc). Ông sinh ở Toái Diệp nay là vùng Trung Á thuộc Liên Xô cũ. Thơ ông phóng khoáng, bay bướm, được người đời tôn là Tiên Thi (cùng với Thánh Thi Đỗ Phủ và Phật Thi Vương Duy). Đương thời ông có làm một số chức quan nhỏ, nhưng do tư tưởng phóng khoáng, ông bỏ đi ở ẩn; nổi tiếng hay uống rượu. Tác phẩm: "Lý Thái Bạch tập", khoảng hơn 1000 bài thơ còn lưu được.

Suy nghĩ trong đêm yên tĩnh

Trăng bàng bạc bên giường
Mà cứ ngỡ là sương.
Ngẩng đầu thấy trăng sáng.
Cúi đầu nhớ quê hương.

Tặng người đẹp gặp giữa đường

Vó ngựa phũ phàng dẫm xác hoa.
Năm sắc mây trời, xe phóng qua.
Nâng rèm, người đẹp cười e lệ:
Nhà thiếp màu hồng ở phía xa.

Khúc hát người xa nhà

Lan Lăng có rượu uất kim hương.
Chén ngọc long lanh thật khác thường.
Giá chủ có nhiều cho khách uống,
Để say, quên cảnh sống tha hương.

Ở lầu Hoàng Hạc, tiễn
Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

Tiễn bạn xuống thuyền đi Dương Châu.
Hoa khói tháng Ba Hoàng Hạc lâu.
Cánh buồm côi cút nhòe trong gió.
Lơ lửng Trường Giang dải lụa mầu.

Khúc hát hành quân

Ngựa Lưu vừa mới choàng yên ngọc.
Trăng suông, chiến trận xác thành gò.
Tiếng trống đầu thành vang vọng mãi.
Gươm vàng trong vỏ, máu chưa khô.

Đi thuyền tới Giang Lăng

Sáng thuyền rời bến, trời đầy mây.
Bạch Đế, Giang Lăng chỉ một ngày.
Trùng điệp núi rừng, chim, vượn hót.
Thuyền như chiếc lá nhẹ nhàng bay.

Tự khuây khỏa

Mải uống, quên trời tối.
Trên áo đầy hoa rơi.
Dậy, theo trăng dọc suối.
Chim cũng vắng như người.

Cùng quan lang trung họ Sử
uống rượu, nghe thổi sáo ở lầu Hoàng Hạc

Bị đày biệt xứ xuống Trường Sa.
Ngoái lại Tràng An, chẳng thấy nhà.
Hoàng Hạc lầu cao nghe sáo ngọc.
Giang thành sáo thổi "Lạc Mai Hoa"

Nhớ Đông Sơn

Xa Đông Sơn lâu ngày,
Tường vi hoa mấy độ?
Mây trắng tụ rồi bay,
Nhà ai trăng chiếu tỏ?

Hỏi đáp trong núi

Sao chọn rừng xanh, trốn sự đời?
Không đáp, cười thầm, lòng thảnh thơi.
Nước chảy, hoa đào trôi đẹp thế.
Đây sống như tiên, đâu phải người.

Tặng Uông Luân

Lên thuyền, Lý Bạch sắp đi xa.
Bất chợt trên bờ rộn tiếng ca.
Sông sâu có thể sâu nghìn thước,
Không bằng tình bác tiễn đưa ta.

Đình Lao Lao 1)

Lao Lao - đình tiễn khách.
Chốn thương tâm ở đời.
Gió hiểu sầu ly biệt,
Không bắt liễu xanh tươi. 2)

(1) §×nh Lao Lao x©y tõ thêi Ng« trong Tam Quèc, nay ë phÝa nam thµnh phè Nam Kinh, x­a vèn lµ chç ®­a tiÔn ng­êi.
(2) Tôc cò khi tiÔn nhau th­êng bÎ mét cµnh liÔu tÆng ng­êi ®i. Khi Lý B¹ch lµm bµi nµy liÔu ch­a xanh.

Bài hát cô gái nước Việt

Dưới suối Gia Khê em hái sen.
Thấy khách bỏ đi, vừa lái thuyền,
Lẫn vào hoa đỏ, vừa vui hát,
Không chịu lại gần, không nói tên.

Ở Thanh Khê, nửa đêm nghe tiếng sáo

Sáo thổi khúc Mai Hoa.
Núi lạnh, bến trăng tà.
Nước Ngô Khê trong vắt.
Não ruột kẻ xa nhà.

Ở Kim Hương, tiễn Vi Bát đi Tây Kinh

Biệt ly, tình khó nói.
Biết bao giờ gặp nhau.
Nhìn theo chỉ thấy khói,
Không thấy hình bác đâu.

Khúc hát Kiết Miệt Tử

Ngô Yên nghĩa khí, lắm anh hào:
Sáo đổ đầy chì 1), cá giấu dao 2).
Mang nặng ân vua, liều sống chết,
Thái Sơn coi nhẹ tựa hồng mao.

(1) Cao TiÖm Ly ng­êi n­íc Yªn muèn giÕt TÇn Thuû Hoµng ®ã ®æ ch× vµo s¸o lµm gËy ®¸nh cho nÆng nh©n khi TÇn Thuû Hoµng nghe nh¹c. ViÖc kh«ng thµnh, ®ã bÞ nhµ TÇn giÕt.
(2) Chuyªn Ch­, ng­êi n­íc Ng«, giÊu dao trong ruét c¸ ®©m chÕt vua Ng« lµ V­¬ng Liªu.

Bài ca ở bến Hoành Giang

Đò đến quán Hoành đưa khách đi,
Mây đen phía biển nặng như chì.
Trời sắp gió to, ông lái hỏi,
Khách muốn sang sông, có việc gì?

Theo điệu Thanh Bình 1)

Là mây hay áo, mặt hay hoa?
Vì nàng gió thổi giữa sương sa.
Ví được gặp tiên nơi núi ngọc,
Sẽ đến đài Dao ngắm nguyệt tà.

1). Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi thường ra ngắm hoa mẫu đơn ở đình Trầm Hương. Một lần mời Lý Bạch sáng tác từ theo điệu Thanh Bình. Ông làm ba bài. Đây là một trong ba bài đó.

Khúc hát về các chàng trai trẻ

Đám trẻ Ngũ Lăng vào chợ Kim.
Ngựa trắng, yên vàng lướt thật êm.
"Đi đâu, nỡ dẫm lên hoa rụng?"
Thưa: "Vào quán rượu của cô em".

Uống rượu cùng người ở ẩn trên núi

Vừa uống, hai người vừa ngắm hoa.
Chén một, chén hai, rồi chén ba.
Ta say, muốn ngủ, ông về trước.
Mai sáng, mang đàn đến gặp ta.

Nhìn từ núi Thiên Môn

Thiên Môn gãy khúc, Sở Giang điên 1)
Núi cao sừng sững đứng hai bên.
Nước chảy đến đây quay ngược lại.
Chân trời đơn độc chấm thuyền đen.

(1) S«ng Së Giang ë gÇn nói Thiªn M«n,  sãng rÊt d÷ v× ®Þa thÕ hiÓm trë, người đời vì thế thường gi là sông điên..

Nghe Vương Xương Linh bị giáng chức
phải ra Long Tiêu, gửi tặng bài thơ này

Dương Châu cuốc gọi, cánh hoa bay.
Đường tới Long Tiêu mất mấy ngày?
Lòng buồn ta gửi vào trăng sáng,
Theo người ra tận Dạ Lang tây.

Mối tình ai oán

Cuốn rèm châu, người đẹp
Ngồi im chau mày ngài,
Mắt rưng rưng ngấn lệ.
Không biết lòng giận ai

Ngồi một mình ở núi Kính Đình

Đàn chim bay đi hết.
Chỉ còn lại đám mây.
Cùng ta ngắm không chán
Là núi Kính Đình này.

Khúc Trường Môn oán 1)

Xuân đi, xuân đến đã bao lần.
Quế Điện vàng son úa bụi trần.
Trường Môn chênh chếch, soi người đẹp
Là chiếc gương tròn trăng cuối xuân.

(1) Cung Tr­êng M«n, x©y ®êi H¸n Vò ®Õ (140-86 tr­íc c«ng nguyªn), lµ n¬i nµng A KiÒu bÞ vua ®Çy ra ë mét m×nh khi nµng bÞ thÊt sñng.

Nỗi giận hờn nơi thềm ngọc

Thềm ngọc ướt sương đêm.
Chăn thấm đầy hơi lạnh.
Buồn, những muốn nâng rèm
Ngắm trăng thu lấp lánh.

Bài hát sông Lục Thủy

Sông Lục Thủy, trăng lên,
Hái rau tần; hoa sen
Như có gì muốn nói
Làm buồn khách trên thuyền.

Tặng vợ

Ba trăm sáu chục ngày,
Ngày nào cũng uống say.
Tiếng là vợ Lý Bạch
Mà phải khổ thế này?

Ngắm cảnh cũ đài Cô Tô

Khúc hát Lăng Ca, liễu mấy hàng,
Chớm xuân, hé nụ giữa vườn hoang.
Vầng trăng từng được Tây Thi ngắm
Giờ trôi đơn độc giữa Tây Giang.

Ngắm cảnh cũ ở đất Việt

Câu Tiễn diệt Ngô xong, trở lại,
Ba quân áo gấm, cảnh huy hoàng.
Cung nữ như hoa đầy điện ngọc,
Mà giờ chỉ thấy cuốc bay ngang.

Đêm xuân ở Lạc Dương, nghe tiếng sáo

Nhà ai sáo ngọc thổi du dương,
Theo gió ngân vang khắp Lạc Dương.
Sáo lại thổi bài buồn "Bẻ liễu",
Ai nghe không chạnh nhớ quê hương?

Bài hát vầng trăng núi Nga My

Nửa vầng trăng sáng núi Nga My.
Trăng soi xuống nước, nước trôi đi.
Rời bến Thanh Khê về Thục Giáp,
Chờ mãi tin anh, chẳng thấy gì.

Chơi hồ Động Đình, tiếp quan thị lang bộ Hình là     
chú Hoa và trung thư xá nhân Giả Chí

Động Đình, trăng sáng phía bờ tây.
Phía bắc Tiêu Tương chim nhạn bay.
Mải hát trên thuyền bài "Bạch trữ,"
Sương ướt bao giờ áo khách say.

Khúc hát hái sen ở khe Nhược Da
Bài một

Mấy cô gái trẻ hái hoa sen.
Chốc chốc tiếng cười lại rộ lên.
Trâm cài, như nước, lung linh nắng.
Gió tung tà áo bay hai bên.

Khúc hát hái sen ở khe Nhược Da
Bài hai

Không biết con ai, mấy cậu chàng
Bên liễu buông tơ dưới nắng vàng,
Ghì cương, ngựa dẫm lên hoa rụng,
Dùng dằng nán lại, mắt nhìn ngang.

Khúc hát của người lữ khách

Rượu thuốc Lan Lăng thật khác thường.
Rót ra sánh đặc, sáng như gương.
Giá chủ rót nhiều cho khách uống,
Để say không biết mình tha hương.

Nhìn thác Bộc Bố đổ xuống từ núi Lư

Dưới nắng, núi Lư như bốc cháy.
Xa xa Bộc Bố tựa sông mây,
Chảy thẳng từ trời, ba vạn thước,
Chẳng khác sông Ngân rơi xuống đây.

Bãi Anh Vũ

Chim xưa bay đến đậu nơi này,
Thành tên Anh Vũ đến hôm nay.
Anh Vũ bay đi, qua núi Lũng,
Để lại bãi bồi xanh tốt cây.
Sóng gấm nhấp nhô, hoa sát nước.
Thoang thoảng mùi lan giữa khói mây.
Cô đơn, trăng chiếu cho ai nhỉ?
Ngoái trông bãi đẹp, khách lưu đày.

Thú vui trong cung
Bài một

Cây mai không còn lạnh.
Màn liễu gió lung lay.
Trong cung oanh nhảy múa.
Ngoài thềm chim én bay.
Nắng tà soi tiệc hát.
Hoa mới nở cầm tay.
Tối, dẹp đồ nghi lễ,
Lại vui, ngày tiếp ngày.

Thú vui trong cung
Bài hai

Ngõ gấm gió xuân thổi.
Bên song nắng chói ngời.
Trong cung hoa nở đẹp.
Ngoài ao cỏ xanh tươi.
Chim hót trên cây biếc.
Lầu xanh đầy tiếng cười.
Cung Chiêu Dương trăng sáng,
Soi bữa tiệc đông người.

Thú vui trong cung
Bài ba

Hoa lê thơm mùi tuyết.
Liễu như tơ, vấn vương.
Lầu vàng chim phí đậu.
Đền ngọc nhốt uyên ương.
Ca nhi lên xe ngọc.
Vũ nữ ra vũ trường.
Trong cung ai đẹp nhất?
Phi Yến ở Chiêu Dương.

Bài hát dưới ải
Bài hai

Miền Bắc binh trời xuống.
Miền Nam ngựa Hồ lên.
Cầm giáo xông trăm trận,
Ân vua quyết báo đền.
Bốc tuyết ăn khi đói.
Ngủ không cần chăn mền.
Thành Nguyệt Chi phá được
Mới cao gối nằm yên

Tiễn khách về Ngô

Xóm ven sông mưa ướt.
Tiệc vãn, cánh buồm nâu.
Lướt trên nghìn ngọn sóng
Là về đến Ngô Châu.
Trên cồn hoa nở rộ.
Liễu rủ bóng bên cầu.
Tiễn khách xong, rỗi việc,
Phủi tảng đá, ngồi câu.

Tiễn bác Trương đi Giang Đông

Đúng lúc gió thu thổi,
Bác Trương đi Giang Đông.
Biển lớn, cánh buồm nhỏ.
Chim nhạn, trời xanh trong.
Ngày đang tàn, sắp tối.
Lòng khó hẹn với lòng.
Ở Ngô, nhìn trăng sáng,
Liệu có nhớ nhau không?

Nghe sư nước Thục, tên Tuấn, gẩy đàn cầm

Từ núi Nga Mi xuống,
Sư Thục tay ôm đàn,
Vì ta, gẩy một cái,
Như thông reo trên ngàn,
Như nước rửa lòng khách,
Hòa vào tiếng chuông ngân.
Mải đàn, quên trời tối.
Mây thu đang xạm dần.

Đêm đậu thuyền ở bến Ngưu, nhớ chuyện ngày xưa

Đậu thuyền bến sông Tây.
Trời xanh, không gợn mây.
Lên thuyền ngắm trăng sáng,
Nhớ họ Tạ lắm thay.
Muốn ngâm thơ, chỉ tiếc
Người ấy không ở đây.
Sáng dong thuyền đi sớm.
Lá phong úa rơi đầy.

Tặng Mạnh Hạo Nhiên

Ta vốn yêu thầy Mạnh,
Tiếng phong lưu hơn người.
Trẻ - bỏ quan, từ chức.
Già - về núi nằm chơi.
Say trăng trong chén rượu,
Mê hoa quên sự đời.
Như núi cao tinh khiết -
Một tấm gương sáng ngời.

Tiễn bạn

Núi xanh chắn phía bắc,
Trăng sáng ở bên đông.
Nơi đây từng tiễn biệt.
Nổi trôi thân cỏ bồng.
Tình bạn như chiều xế.
Ý người tựa mây hồng.
Vẫy tay, chào ly biệt,
Tiếng ngựa nghe não lòng.

Từ thành Sa Khâu, gửi Đỗ Phủ

Nào có việc gì đâu.
Nằm khểnh ở Sa Khâu.
Bên thành cây cổ thụ
Buông những tiếng thu thâu.
Bài hát Tề lạc điệu.
Rượu nước Lỗ say lâu.
Nhớ anh như sông Vấn
Trôi về nam đục ngầu.

Thăm đạo sĩ họ Đái ở núi Thiên Sơn, không gặp

Tiếng suối reo, tiếng chó.
Sau mưa đào thêm hồng.
Cây rậm, nai lấp ló.
Tiếng chuông tắt trên không.
Suối treo lưng chừng núi.
Trúc xanh, mây bập bồng.
Đạo sĩ đi đâu nhỉ?
Buồn, tựa đứng gốc thông.

Mùa thu, lên lầu Bắc của Tạ Diễn ở Tuyên Thành

Thật đẹp thành bên sông.
Sáng sớm trời xanh trong.
Chiếc cầu treo lơ lửng.
Nước như gương, xuôi dòng.
Khói bếp làm cây lạnh.
Thu nhuộm lá ngô đồng.
Lên lầu Bắc hóng gió,
Bùi ngùi nhớ Tạ Công.

Lên đài Phượng Hoàng ở Kim Lăng

Chim phượng ngày nào đã tới đây,
Để tên lưu mãi với đài này.
Rốt cục cung Ngô vùi dưới mộ,
Áo Tấn làm mùn nuôi cỏ cây.
Tam Sơn chót vót, nhìn không thấy,
Nhị Thủy quanh co giữa bãi lầy.
Trường An xa tít, mây che khuất,
Chợt buồn, vô cớ giận trời mây.

Tìm nhà ở ẩn của thầy Ung

Núi xanh cao ngang trời.
Quanh năm chỉ dạo chơi.
Vén mây tìm đường cũ.
Tựa cây nghe thác rơi.
Trên ngọn hạc đang ngủ.
Dưới gốc trâu nghỉ ngơi.
Chuyện vãn, chiều ngả bóng,
Một mình xuống với đời.

Thơ đề nhà ở ẩn của bạn ở Đông Khê

Đỗ Lăng có bác rất thanh liêm,
Chọn đất Đông Khê gửi nỗi niềm.
Nhà cạnh núi xanh như Tạ Diễn.
Liễu buông trước cửa giống Đào Tiềm.
Chim đón mùa xuân sau viện thuốc.
Cỏ hoa mời rượu múa trước thềm.
Đãi khách trong mâm toàn muối trắng,
Nhưng vui, khách chủ uống say mềm.

Thơ để lại núi lúc chia tay ở quán Kim Lăng

Lễ phép, gái Ngô mời uống rượu.
Gió xuân, trong quán thoảng hương nhài.
Bè bạn Kim Lăng về tiễn biệt,
Mọi người cùng uống, chẳng chừa ai.
Đem so dằng dặc tình ly biệt,
Sông kia đang chảy ngắn hay dài?

Nhớ biên cương

Chàng đi năm ngoái đúng ngày này.
Lúc ấy trong vườn bươm bướm bay.
Giờ thiếp nhớ chàng, mây nước Tấn
Bị tuyết che mờ ở núi Tây.
Thư đi ải Ngọc ba nghìn dặm,
Muốn gửi cho chàng, chàng có hay?

Ý nghĩ mùa thu

Gió thu thật mát mẻ.
Trăng thu thật sáng trong.
Lá rơi, tụ rồi tán.
Con quạ lạnh, xù lông.
Biết bao giờ gặp lại?
Nhớ nhau, chợt chạnh lòng.

Bài hát mùa thu của nàng Tử Da
Bài một

Gái La Phu đất Tần
Hái dâu bên hồ vắng.
Tay trắng vít cành xanh.
Má hồng thêm dưới nắng.
Tằm đói, em phải về,
Xin chàng đừng hỏi gặng.

Bài hát mùa thu của nàng Tử Da
Bài hai

Trăng xế ở Tràng An.
Tiếng đập vải râm ran.
Gió thu không ngớt thổi.
Thương người ở Ngọc Quan.
Bao giờ chồng trở lại?
Bao giờ giặc mới tan?

Quạ kêu đêm

Khói bụi bên thành tựa ráng mây.
Quạ về, ồn ĩ đậu trên cây.
Cô gái Tần Xuyên đang dệt gấm.
Chợt nghe tiếng nói gần đâu đây.
Dừng thoi, nàng nhớ người xa cách,
Phòng không, lệ ứa suốt canh chầy.

Cảm nghĩ mùa xuân

Dâu Tần thấp, xanh biếc.
Cỏ Yên như tơ mềm.
Thiếp chờ chàng trở lại.
Lòng quặn đau trong đêm.
Gió xuân không quen biết,
Sao cứ thổi vào rèm?

Một mình uống rượu dưới trăng
(Lược dịch)

Một mình một bầu rượu,
Ngồi uống bên khóm hoa.
Nâng chén mời trăng sáng,
Thêm bóng nữa là ba.
Trăng không biết uống rượu.
Bóng lẽo đẽo theo ta.
Thì đành cùng trăng, bóng,
Ta uống chờ đông qua.

Một mình uống rượu dưới trăng
(Lược dịch)

Tháng Ba, thành Hàm Dương
Hoa nở đẹp lạ thường.
Vậy thì hãy uống rượu.
Ngày xuân chớ buồn thương.
Một chén quên trời đất,
Đời biết đâu mà lường.
Uống say, khinh thiên hạ,
Ta ôm gối lên giường.

Một mình uống rượu dưới trăng
(Lược dịch)

Rượu chỉ ba trăm chén,
Mà ngàn vạn cái buồn.
Để cái buồn không đến,
Ta phải uống rượu luôn.

Thơ cổ phong
(Lược dịch)

Lên núi nhìn bốn phía.
Trời đất thật mênh mông.
Gió lạnh từ xa thổi.
Vạn vật thu nhuốm hồng.
Giàu sang thì cũng thế.
Mọi cái có mà không.
Vậy ta về quê cũ,
Vỗ kiếm, đi chơi rông.

Ngày xuân say rượu tỉnh dậy, tự nói với mình
(Lược dịch)

Sao phải làm đời khổ?
Đời - giấc mộng thôi mà.
Nên cứ say, cứ uống,
Nằm bừa trước hiên nhà.
Hôm nay ngày mấy nhỉ
Mà oanh hót bên hoa?
Kệ, hát chờ trăng sáng.
Hát xong, hết phiền hà.

Xuống núi Chung Nam, ngủ nhờ
nhà sơn nhân Hộc Tư, chủ còn bày tiệc rượu

Chiều, từ núi đi xuống,
Trăng lặng lẽ theo ta.
Ngoái lại nhìn, chỉ thấy
Một màu xanh bao la.
Cổng tre cháu bé mở.
Chủ dắt khách vào nhà.
Lối nhỏ trúc râm mát,
Lá chạm người đi qua.
Được nghỉ, được nói chuyện,
Còn uống rượu, uống trà.
Xong, trời cũng gần sáng.
Nhàn nhạt giải Ngân Hà.

Ngày xuân uống rượu một mình

Xuân đến, mang hơi ấm.
Sông núi ngời ánh xuân.
Mặt trời trắng, cỏ biếc.
Hoa chết, xác đầy sân.
Mây trắng bay về núi.
Chim bên nhau quây quần.
Loài vật có chỗ ở,
Ta không chốn nương thân.
Không sao, dưới trăng sáng
Ta hát bài “Bất cần”.

Nâng chén rượu, hỏi trăng
(Lược dịch)

Trăng ơi, trăng hãy nói ta hay:
Trăng có trên đời bao lâu nay?
Người xưa trăng chiếu giờ không thấy,
Nhưng vẫn trăng xưa chiếu lúc này.
Người nối tiếp nhau như nước chảy.
Cúng ngắm trăng vàng, cùng uống say.
Chỉ muốn có trăng khi uống rượu,
Để được trăng soi chén rượu đầy.

Nỗi niềm phòng the
(Lược dịch)

Đám mây rời cửa ải.
Nước lặng lẽ xuôi dòng.
Nhưng mây về với núi,
Nước trở lại với sông.
Chỉ chàng xa, xa mãi,
Để thiếp phải phòng không.
Đêm, nhớ chàng, thiếp khóc,
Nước mắt chảy thành dòng.

Trước cuộc rượu
(Lược dịch)

Gió cười ta không say.
Đừng từ chối chén này.
Vì ta, hoa mận nở,
Đẹp, mời chào trên cây.
Con oanh chuyền liễu biếc,
Trăng bơi chén rượu đầy.
Giờ mà không uống rượu,
Thì bao giờ uống đây?

Ý thu

Yên Chi lá vàng rụng,
Thiếp lên đài nhìn ra.
Thiền Vu thu đã đến,
Mây vần trên biển xa.
Lính Hồ ngoài bãi cát,
Sứ Hán mới về nhà.
Người đi không trở lại,
Cỏ úa, lòng xót xa.

Vượt núi Kinh Môn, tiễn người ra đi

Lên đường chơi nước Sở,
Vượt Kinh môn đi xa.
Bình Nguyên, núi thành vệt,
Sông trải dài bao la.
Như gương sáng, trăng chiếu,
Mây tụ nơi biển xa.
Chợt nhớ sông quê cũ
Nhiều lần tiễn thuyền ta.

Tiễn bạn vào đất đất Thục

Đường Tàm Tùng nghe nói
Gập ghềnh, dốc chơi vơi.
Núi quanh co, dựng đứng,
Mây sà trước mặt người.
Đường Tấn và sông Thục,
Bác có thể nghỉ ngơi.
Khỏi cần hỏi Nghiêm Tuấn. 1)
Mọi chuyện đã có trời.

1. Tức Quân Bình, một cao sĩ thời Tây Hán, làm nghề bói toán mà sống khi ở ẩn tại Thành Đô, Tứ Xuyên.

Tặng trung quân Tiền Thiếu Dương

Tháng Ba, liễu xanh biếc.
Hãy uống chén rượu này.
Hai mái tóc đã bạc.
Xuân còn lại mấy ngày.
Cứ thắp đèn uống đã.
Đi câu muộn càng hay.
Gặp vua săn bến Vị,
Ta có thể làm thầy.

Gửi người nơi xa

Khi không còn người đẹp,
Giường lạnh, phòng vắng tanh.
Ba năm rồi, chăn chiếu
Còn thoảng hương mát lành.
Người đẹp không trở lại,
Hoa không nở trên cành.
Nhớ nhau, vàng cả lá.
Sương trắng ướt rêu xanh.

Từ biệt Tống Chi Để ở Giang Hạ

Nước sông đổ vào biển,
Trời như nước, xanh trong.
Chia tay nhau nghìn dặm,
Uống chén này đi ông.
Chim núi hót, ngày lạnh.
Vượn hú bên kia sông.
Người không quen đa cảm,
Mà cũng thấy não lòng.

Ghé thăm nhà thủy đình của cụ Tám Thôi

Nhà cao, quang cảnh đẹp.
Nhờ ông mà đẹp thêm.
Núi Đình Kính sát vách,
Khe Uyển chảy bên thềm.
Dưới trăng ông chài hát,
Bầy vượn hót trong đêm.
Đi dạo cùng chim trắng.
Thật tĩnh, thật êm đềm.

Đình Ông Tạ

Ông Tạ từng ở đây.
Mỗi lần thấy, buồn thay.
Núi quạnh, nước lười chảy.
Vắng người, mây không bay.
Xuân thắm, hoa sen nở.
Trúc reo tiếng thu gầy.
Hát, nhớ lần gặp trước.
Hòa lẫn xưa với nay.

Bắt chước ý xưa
Chết là người đã đến.
Sống là người đang đi.
Trời đất là quán trọ
Ta dừng lại nhất thì.
Trước xuân, thông vô cảm.
Xương trắng không biết đi.
Đời buồn, sau lẫn trước.
Giàu sang mà làm gì.

Kim Lăng

Để tôi nói anh biết:
Lục Triều thịnh rồi vong.
Đất Tần ít hoa trái.
Lạc Dương nhiều núi sông.
Cung Tấn lụa chất đống.
Đền Ngô lắm đồ đồng.
Tất cả đều mất hết.
Thôi, đi chơi miền đông!

No comments:

Post a Comment