Sunday, March 22, 2015

CỔ THI TÁC DỊCH - NGUYỄN KHUYẾN



 
Tác giả: Sinh năm 1835 tại ý Yên, tỉnh Hà Nam, mất 1909 tại quê nhà. Nhiều lần thi hương, thi hội không đỗ, mãi đến 1871 mới đỗ đầu thi hội và thi đình, học vị hội Hoàng Giáp, được vua Tự Đức ban cờ biển và hai chữ Tam Nguyên, được bổ làm Toàn tu sử quan trong triều. Cuối đời về ở ẩn dạy học. Tác phẩm: "Quế sơn thi tập", "Tam Nguyên Yên Đổ thi ca".

Đêm thu ngắm trăng

Bốn bề yên tĩnh một mình ta.
Phòng văn tựa ghế, ngắm trăng tà.
Một chiếc lá thu rơi, bay đến,
Gợi biết bao nhiêu nỗi nhớ nhà.

Phu trạm

Suốt ngày khênh cáng chẳng ngơi chân.
Phu trạm, thân anh thật nhọc nhằn.
Nhưng anh không biết người trên cáng,
Hai chục năm qua lắm bụi trần.

Qua sông Tồn

Sông Tồn nay trở lại.
Chiều thu, lòng thêm sầu.
Sóng lạnh ngoài cửa biển.
Sương ướt trên lá dâu.
Tóc bạc cùng năm tháng.
Trên hồ lá thuyền câu.
Văn nhân nhiều phiền muộn,
Đâu riêng chuyện lên lầu.

Lên núi Ngũ Hành, viết thơ để lại

Ngũ Hành sừng sững vút lên không.
Xanh tươi, rực rỡ tựa tiên bồng.
Sóng biển lô xô, nhìn tít tắp.
Cửa hang lơ lửng mặt trời hồng.
Nửa đêm chuông điểm nghe ngưng đọng.
Đá khóc từng hàng giọt lệ trong.
Chiêm ngưỡng kỳ quan này tuyệt tác,
Tự nhiên thư thái hẳn trong lòng.

Núi Long Đọi

Ở giữa đồng bằng, ngọn núi xanh.
Nhấp nhô nhà cửa bốn xung quanh.
Uốn lượn con đường dài hút mắt.
Líu lo chim hót, lượn trên cành.
Xa xa xóm nhỏ vương mây khói.
Thân già, mắt kém, khó đi nhanh.
Sướng nhất trên kia, nơi mát mẻ,
Có ông sư béo ngủ ngon lành.

Núi Dục Thúy

Ai đặt tên Dục Thúy
Núi đã có từ lâu.
Bên sông ngôi chùa cổ.
Vách núi một mái lầu.
Thăng Phủ bia còn đó,
Sư Tuệ Viễn ở đâu?
Xế tà, thêm hoài cổ,
Chim hót càng gợi sầu.

Đêm xuân, thương con thiêu thân

Cánh mỏng, thương ngươi phận yếu hèn,
Mà dám quang minh chết trước đèn.
Hoảng sợ chết liền là một nhẽ,
Ung dung mà chết, đáng nêu tên.
Tri năng trời phú còn chưa mất,
Chẳng màng danh lợi đợi kề bên.
Đèn dẫu giết ngươi, lòng vẫn xót,
Thành tro, ngấn lệ đỏ còn hoen.

Cảm nghĩ nhân trung thu năm Giáp Thân (1884)
        ở Hà Nội, viết gửi cho bạn đồng niên là ông cử họ Ngô

Cùng nhau đón Tết ở đất này.
Giờ đã mười năm, cảnh đổi thay.
Đèn hồng, nến đỏ, hư mà thật.
Mũ trắng, dù xanh ta lẫn Tây.
Tô Giang sóng vỗ như tức giận.
Nùng Lĩnh cô đơn mảnh nguyệt gầy.
Nghe nói đi đâu giờ cũng cấm.
Có nhớ lần ta dạo trước đây?

Sông Ghép

Lần nữa qua sông Ghép.
Một mái chèo chơi vơi.
Đàn cò bay về tổ.
Vệt núi vắt lưng trời.
Gió giật, thuyền chao mạnh.
Cát lún giữ chân người.
Khách đi đường sợ nhất
Tiếng sóng gầm ngoài khơi.

Cảm tác

Mười hai năm lẻ được làm quan.
Những mong ân huệ được vua ban.
Nhưng hay đau ốm, thôi thì nghỉ.
Ngày ăn một bữa, sống an nhàn.
Mình nghỉ, nhiều người còn ở lại.
Về nhà, con cháu chắc gì ngoan?
Từ nay chỉ việc say và ngủ.
Chỉ sợ đời sau chúng chê gàn.

Về nhà

Mười năm xa cách, nay về nhà.
Tóc bạc như sương, mắt lại lòa.
Cây trong ngõ cũ nhìn khang khác.
Trên trời chim lượn, nhận không ra.
Trẻ con lễ phép: Chào ông ạ.
Các cụ gật đầu: Ông đấy a?
Đêm bên song lạnh ngồi im lặng.
Trời khuya thấm đẫm ánh trăng tà.

Ban đêm, trò chuyên với
       hai bạn học cũ là ông Đồng và ông Tốn

Bốn mươi năm trước học cùng nhau.
Gặp lại hôm nay, bạc trắng đầu.
Anh mải chơi cờ, anh đọc sách 1)
Đều phường vô dụng, khác gì đâu.
Mẹ già hai bác may còn khỏe.
Rủi tôi hay ốm, mắt thường đau.
Nay ta đánh chén, say nghiêng ngả.
Ngủ gác lên nhau, chân lộn đầu.

1). Sách Trang Tử có chuyện Tang và Cốc cùng chăn dê và bị mất dê, vì người ham đọc sách, người mê chơi cờ. Hai người hai lý do, nhưng kết quả là mất dê, ý nói không ai hơn ai.

Mùa xuân, bị ốm
Bài một

Nhiễu nhương thế sự, lão Nho già.
Bây giờ ta mới hiểu thêm ta.
Tài năng thực sự thua thằng ở.
Hư danh hơn mấy mụ đàn bà.
Nằm nhiều, bẳn tính thành đơn độc.
Đi lắm, quẩn quanh trong xó nhà.
Sáng bảnh, trùm chăn không chịu dậy,
Mặc trời nắng đẹp, mặc chim ca.

Mùa xuân, bị ốm
Bài hai

Mới xuân, sương sớm ướt bờ rào.
Đã nghèo, mùa lại mất, buồn sao.
Hoa chưa rụng hẳn, hương còn thoảng.
Thuốc sắc vừa sôi, nước đã trào.
Buồn chẳng muốn nghe con đọc sách.
Nghèo không còn rượu để mời khao.
May đêm có trận mưa nho nhỏ.
Dường như bệnh tật giảm phần nào.

Tiếng dế đêm thu

Đêm, trời đầy sao sáng.
Tiếng dế kêu ngoài đồng.
Quyện trong sương tháng Bảy,
Nghe mà buồn mênh mông.
Át cả tiếng trống điểm,
Chinh phụ thêm nhớ chồng.
Thân trai không được được để
Tiếng dế làm mềm lòng.

Cảm nghĩ đầu xuân

Năm mới đến rồi, năm cũ qua.
Cỏ cây tươi tốt, vườn đầy hoa.
Sao ta khô héo, toàn gân cốt?
Nhanh thật thời gian, loáng đã già.
Giáp Tý 1) không ghi vì không lịch.
Xuân Thu 2) ngại đọc bởi thù nhà.
Tài mình chỉ vậy, mong gì nữa,
Chống gậy ra ngoài, ta với ta.

1). Hai chữ đứng đầu can và chỉ dùng để ghi năm, tháng, ngày theo âm lịch. Vì tác giả không còn làm quan, không được vua ban lịch, nên chẳng biết ghi vào đâu.
2). Khổng Tử viết kinh Xuân Thu, khen đại nghĩa nhà Chu, chê thói xấu  kẻ thù của nhà Chu. Tác giả ngẫm mình không làm được như Không Tử để cứu nước nên thẹn mà không dám đọc Xuân Thu.

Thơ nhàn

Cam thân yếm thế khi đời thịnh.
Bạn bè ai tốt để noi theo?
Làm quan không giúp cho dân, nước.
Đọc sách tu thân sáng lại chiều.
Xu thời, trục lợi không khôn khéo.
Lương tâm, trung thực vẫn còn nhiều.
Vậy sao còn than nghèo và khổ?
Giàu đạo, giàu thơ, nên chưa nghèo.

Tự thán

Đáng thương ông già hơn năm mươi.
Mắt đỏ, da đen, móm mém cười.
Thật tội: ốm đau không được nghỉ -
Bận ngủ, bận say và bận lười.
Danh lợi đường đời không muốn biết.
Sắc, không cõi Phật - chuyện giời ơi.
Là thế đời ta, sao thế nhỉ?
Để rỗi, bắc thang lên hỏi trời.

Mưa thu

Ngồi bên cửa sổ, lắng tai nghe
Mưa thu rả rích, mưa dầm dề.
Rót mãi, cuối cùng vò hết rượu.
Lúa ngập vì mưa, buồn ủ ê.
Ngủ say, chuột cắn không hay biết.
Thích chải vì đầu cứ ngứa, tê.
Con đường phía trước mưa lầy lội,
Đành buộc thuyền câu vào bụi tre.

Mưa tạnh

Mưa dầm dề, gió thổi.
Bệnh không giảm, cứ ho.
Tiếng khàn như tiếng hạc.
Con mèo lạnh, co ro.
Ngày - đọc truyện Tần, Tống.
Đêm - mơ đất Kinh, Ngô.
Rồi mưa tạnh, hửng nắng,
Lòng ấm, nhà cũng khô.

Sau khi say

Cái ao nửa mẫu, tuổi năm mươi.
Say, bên cửa sổ, cứ nằm chơi.
Lối đi cỏ uốn thành đai áo.
Ao bùn mặt nước cánh sen rơi.
Lúc nhàn, chỉ rượu là tri kỷ.
Câu thơ ngâm vặt chẳng cần người.
Xuân tàn, mắt kém không nhìn rõ,
Chỉ thấy lom lem sáng mặt trời.

Ngày hè thăm người anh em bên ngoại
        là bác Đặng, khi trở về làm thơ

Chống gậy, men theo lối cỏ dày,
Tới thăm bác Đặng ở thôn này.
Râu tóc cả hai đều điểm bạc.
Nửa xóm bây giờ đã đổi thay.
Thấy người, con chó nhà bên sủa,
Tránh nắng, trâu nằm dưới gốc cây.
Thầm khen thật khéo, ông trời khỏe,
Sáo gió vi vu thổi suốt ngày.

Mạn hứng

Cáo việc kinh đô, sống ở nhà.
Mấy năm nghèo ốm chỉ mình ta.
Trước cửa, mặt trời thu bóng ngắn,
Ngoài sân, gió thổi khóm tre ngà.
Lão nông biết ruộng cằn hay tốt.
Lái buôn hiểu rõ đấu non già.
Hứng lên, chỉ bạn cùng chai rượu,
Ngồi nhìn ngọn núi phía trời xa.

Tự than thở một mình

Ngẫm chuyện mười năm, lòng tái tê.
Sự đời thay đổi, nhìn mà ghê.
Cá ăn thịt cá vì tham lợi.
Cùng một giống nòi, tre cột tre.
Ngày nay khổ thế, do ai nhỉ?
Người xưa ở ẩn bỏ về quê.
Nhắn ai quen biết ngoài đô thị:
Đời loạn mà sao chửa muốn về?

Đầu hè

Sáo diều văng vẳng tự đâu xa.
Bên ao, sen đã nở đêm qua.
Sáng dậy không ngờ hè lại đến.
Trên cành, đâu đó có chim ca.
Vợ chết, nằm lo ông hàng xóm.
Cãi nhau inh ỏi bốn năm bà.
Những muốn dạo chơi cho khuây khỏa,
Nhưng mắt lại đau, phải ở nhà.

Ngày hè hửng nắng

Được ngày hửng nắng, ngước lên trông.
Trong mây thấp thoáng mặt trời hồng.
Tằm đói đòi ăn, đang tỉnh dậy.
Lúa mới ngậm hơi đã trổ đòng.
Chú bé lùa trâu thong thả bước.
Nhà bên, ông lão lại thăm đồng.
Tựa cửa một mình, ngồi uống rượu.
Quạ về, tha rác lượn trên không.

Tiễn học trò là Nghĩa định Sứ quân Lê Như Bạch,
        nhân tiện gửi các học trò ở kinh thành

Kinh thành từ biệt, bảy năm sau,
Gặp anh, nhớ bạn cũ từ lâu.
Gió bụi mịt mờ, người một ngả,
Bây giờ thấy mặt có ngờ đâu.
Nghĩ đến bút nghiên, trào nước mắt,
Ngước nhìn sông núi, những buồn đau.
Anh về nhắn hộ người quen biết:
Huyền án tiên sinh đã bạc đầu.

Ngắm cảnh chiều hè

Tháng Tư, cái nóng đã gắt gay.
Sắp giông, chim nháo nhác trên cây.
Phụ nữ nuôi tằm lo chắn gió.
Người nhà phơi lúa, dọn luôn tay.
Ham việc, nhiều người còn cuốc xới.
Mặt trời le lói giữa tầng mây.
Ai ai cũng bận, không ai rỗi,
Xõa tóc ngồi chơi chỉ lão này.

Nhớ núi Long Đọi

Ốm, chẳng thăm chùa kể đã lâu.
Nhớ cuộc chơi xưa, những luống sầu.
Chùa cổ bốn bên, cây với đá.
Sư nghèo, mây khói ngủ kề nhau.
Tre bọc mấy tầng che mất lối.
Ai đứng đợi thuyền bên bãi dâu?
Tiểu đồng quên cả chuông giờ ngọ.
Ông già nằm ngủ dưới gốc cau.

Tết trung thu không có trăng, ba ngày sau 
      bỗng nhiên trời tạnh, cảm tác

Không nhiều sông núi chốn đồng quê.
Cảnh buồn, gió lạnh thổi se se.
Trung thu trời tối, không trăng sáng,
Khiến lão già này thêm ủ ê.
Thơ phú chua cay thành khiếm nhã.
Cảnh nhuốm hơi thu thêm não nề.
Bất chợt mây tan, trời lại sáng.
Một bóng thuyền con bên khóm tre.

Hồ Hoàn Kiếm

Ba mươi năm vắng, gặp bây giờ,
Cảnh sắc ngày xưa đã nhạt mờ.
Nhà tranh, cổng gỗ thành lầu đá.
Đêm nghe tiếng súng, vắng đàn thơ.
Chim én có về, quên chốn cũ.
Nơi đàn cò ngủ khói như tơ.
Năm trăm năm trước vùng văn vật,
Nay sót một mình ngọn núi trơ.

Khóc vợ

Năm mươi năm chẵn sống cùng nhau.
Hoa hòe giấc mộng vụt qua mau,
Thành giấc nghìn thu trong nấm mộ.
Ai rồi cũng chết, khác gì đâu.
Có thể những người trên cõi Phật
Không thích người đời than khóc lâu.
Sống tám trăm năm như Bành Tổ,
Phải biết bao lần thêm khổ đau?

Tức sự

Một mình bên cửa sổ.
Mưa dầm, dài lê thê.
Rét lâu, lúa chín muộn.
Mây nặng, núi thấp tè.
Ngấm nước, tường rêu mốc.
Rượu nhiều, buồn ủ ê.
Không biết xuân đã hết,
Một con én bay về.

Nói chuyện với bạn

Xưa theo thầy học cả hai ta,
Nay tóc cả hai bạc, đã già.
Đời lắm đổi thay, khôn nắm bắt.
Chẳng ai trẻ mãi, tiếc chi mà.
Chuyện mới ngày nào thành chuyện cũ.
Hãi hùng giấc mộng dữ đêm qua.
Ước gì có rượu Trung Sơn nhỉ,
Uống say, tỉnh dậy đã thái hòa.

No comments:

Post a Comment