HÀN ỐC
Chưa rõ
tiểu sử tác giả.
Bắc chước thơ Thôi Quốc Phụ
Hoa hải đường tự rụng.
Trăng nhạt như sương mù.
Một mình nhìn hiên vắng.
Gió lay ghế xích đu.
Trời mát
Rèm thêu xanh biếc rủ ngoài hiên.
Bình phong màu đỏ vẽ thần tiên.
Tiết trời đã mát nhưng chưa rét.
Chiếu rồng, đệm gấm, cảnh bình yên.
Xuân hết
Tiếc xuân, liên tục mấy ngày say.
Tỉnh dậy, áo quần nước mắt dây.
Nước đục, hoa trôi về suối khác.
Quạnh hiu xóm nhỏ bụi mưa dày.
Đời người được mấy mùa xuân đẹp?
Đất rộng, gọi hồn khó lắm thay.
Thẹn với chim oanh kêu líu ríu,
Một mình buổi sáng đến vườn tây.
HOA NHI PHU NHÂN TỪ THỊ
Tác giả:
Sinh năm 883, mất 926, người Thanh Thành nay thuộc Tứ Xuyên, là phi của Mạnh
Sưởng, hiệu là Hoa Nhị Phu nhân, từng bị bắt vào cung Tống, được Tống Thái Tổ
rất sủng ái. Tác phẩm: "Hoa Nhị Phu nhân cung thi" còn hơn 100 bài.
Thơ tả cảnh mất nước
Vua sợ, cờ hàng cắm đã lâu,
Thiếp ở trong nhà có biết đâu.
Mười bốn vạn người cùng bỏ giáp.
Không người đáng gọi đấng mày râu.
VI TRANG
Tác giả:
Sinh năm 836, mất năm 910, tên chữ là Đoan Dĩ, nhà thơ nổi tiếng thời Vãn
Đường, người Đỗ Lăng, nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, từng đỗ tiến sĩ và có họ hàng
với Vi ứng Vật.
Tiễn bạn ở quán rượu Đông
Dương
Buồn sống tha hương tận cuối trời.
Hôm nay lại phải tiễn đưa người.
Từ mai chỉ có ta và nguyệt.
Say tỉnh lúc nào lệ cũng rơi.
Cảnh thành Kim Lăng
Mưa trên mặt nước, cỏ ven bờ.
Sáu triều vua ngắn tựa trong mơ.
Chỉ liễu Đài Thành là vẫn thế,
Đứng lặng trên đê giữa khói mờ.
Thương người cày
Vẫn thế, đời nào chẳng chiến tranh.
Hết thời loạn lạc đến thời bình.
Đã bao xương thịt vùi trong cát,
Vẫn bắt dân binh thành chiến binh.
Ở Phù Châu, để lại bài thơ
này
từ biệt Trương viên ngoại
Ải Bắc gặp nhau trong gió cát.
Giang Nam đưa tiễn dưới sao mờ.
Chuyện cũ mười năm như gió thoảng.
Bạn bè Ba Sở chỉ trong mơ.
Đừng nói: Ngày mai, chờ kiếp khác.
Hãy vui đàn sáo, uống bây giờ.
Chỉ tiếc hai ta đành tạm biệt.
Trời mưa, bên núi ngựa đang chờ.
Suy nghĩ trong đêm, ở Chương
Đài
Đêm, tiếng đàn thanh thót
Những điệu buồn gió mây.
Bên đèn, nghe sáo Sở.
Trăng nhạt treo trên cây.
Cỏ thơm đang héo lụi.
Bạn xưa mong từng ngày.
Thư nhà không gửi được.
Về nam, chim nhạn bay.
Nhớ ngày xưa
Ngày xưa từng đến Ngũ Lăng chơi.
Nửa đêm còn hát, nguyệt sáng ngời.
Nến bạc, đèn vàng như bạch nhật.
Sương đọng hoa đào, khách lả lơi.
Chàng trai ngày ấy tên Vô Kỵ.
Mạc Sầu cô gái, thật hơn người.
Loạn lạc triền miên, nhìn chỉ thấy
Nước chảy về đông, gió ngút trời.
Nghĩ tới ngày về quê
Trời giăng tơ mỏng, đẹp muôn màu.
Ngày ấm, gió xuân luống gợi sầu.
Xa quê, hoa nở thêm hiu quạnh,
Nhạc hay, múa đẹp cũng buồn rầu.
Hoa anh đào nở bên bờ ruộng.
Cỏ ngát mùi thơm giữa bãi rau.
Nếu quả về quê là việc dễ,
Tử An sao chết, Tử Kỳ đau?
THÔI MẪN ĐỒNG
Chưa rõ
tiểu sử.
Ăn tiệc ở trại Đông Thành
Xuân đến và rồi xuân lại qua.
Bách niên thử hỏi mấy người già.
Chớ bảo vì nghèo, không đủ rượu.
Dễ được mấy lần say trước hoa?
THÔI HỤÊ ĐỒNG
Chưa rõ
tiểu sử.
Ăn tiệc ở trại Đông Thành
(Hoạ thơ
Thôi Mẫn Đồng)
Chủ nhà mỗi tháng mấy lần say.
Gặp nhau nên uống những lúc này.
Vừa đến, kìa xem, xuân đã hết.
Hoa nở, hoa tàn trong gió bay.
ĐỖ THU NƯƠNG
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, người Kim Lăng, là tỳ thiếp của Lý Kỳ, sau được
Đường Mục Tông (821 - 826) đem về cung làm Trung giáo tập.
Áo kim tuyến
Tiếc gì áo gấm với công danh.
Một thời hãy tiếc đẹp xuân xanh.
Hoa nở đang thì, thì cứ bẻ,
Đừng đợi hoa rơi, chỉ bẻ cành.
CAO THIỀM
Tác giả:
Nhà thơ đời Vãn Đường, năm sinh, năm mất chưa rõ, người Bột Hải, nay là tỉnh Hà
Bắc. Ông đỗ tiến sĩ năm Càn Phù đời Đường Hy Tông, làm quan tới chức Ngự sử
Trung thừa.
Thơ dâng quan Thị lang họ Cao 1)
Sáng sớm sương giăng, đào rực hồng.
Trưa hoa hạnh nở, thắm từng bông.
Sông thu còn đợi phù dung nở.
Chưa nở không vì thiếu gió đông.
1. Tức Cao Biền.
LAI HỘC
Tác giả:
Không rõ năm sinh, mất 883, người Dư Chương, nay thuộc tỉnh Dương Tây; thi tiến
sĩ không đỗ, lên núi ở ẩn, "Toàn Đường thi" lưu được 29 bài.
Người đàn bà chăn tằm
Dệt áo, xe tơ, việc lút đầu,
Vất vả suốt ngày ngoài bãi dâu.
Giá kẻ giàu sang không áo mặc
Để biết nuôi tằm khổ đến đâu.
VƯƠNG GIÁ
Tác giả:
Năm sinh, năm mất không rõ, tên chữ Đại Dụng, người Hà Trung, nay là Vĩnh Tế,
Sơn Tây; đỗ tiến sĩ năm Đại Thuận nguyên niên (891) đời Đường Chiêu Tông, từng
giữ các chức Thập Di, Hữu Bổ Khuyết, Viên ngoại lang bộ lễ. Tác phẩm: Toàn
Đường thi tập còn 6 bài của ông.
Ngày xuân, sau mưa
Hoa nở trước mưa, nhụy trắng ngần.
Sau mưa chợt rụng, xác đầy sân.
Bướm ong bay sang vườn hàng xóm,
Tưởng rằng bên ấy vẫn còn xuân.
ĐỖ TUÂN HẠC
Tác giả:
Sinh năm 846, mất 904, tự Ngạn Chi, người Trì Châu, nay thuộc tỉnh An Huy, đỗ
tiến sĩ đời vua Đường Chiêu Tông, làm quan đến chức Hàn lâm Học sĩ. Ông xuất
thân hàn vi, bất mãn với chính sách tồi tệ đương thời nên thơ thường miêu tả
cảnh điêu đứng của dân chúng.
Lại đi qua huyện Hồ Thành
Năm ngoái tình cờ ta đến đây,
Thấy dân ca thán suốt đêm ngày.
Quan nay được thưởng dây tua đỏ.
Chắc máu dân lành thấm đỏ dây.
Người đàn bà góa trong núi
Lều tranh, chồng lính chết từ lâu.
Áo gai, quần rách, tóc vàng nâu.
Quan giục nộp tô, đòi thuế vải,
Dẫu không còn ruộng, bỏ tằm dâu.
Phải chặt cành tươi mà nhóm lửa.
Bữa ăn toàn rễ với rau bầu.
Vẫn không thoát cảnh quan đòi thuế,
Khi trốn trong rừng sâu, rất sâu.
TƯ KHÔNG ĐỒ
Tác giả:
Sinh năm 837, mất 908, tự Biểu Thánh, người Hà Trung, nay thuộc Sơn Tây, đỗ
tiến sĩ năm Hàm Thông thứ 10 (869) đời Đường úy Tông, làm quan một thời gian
rồi về ở ẩn trong núi. Tác phẩm: "Tư Không biểu Thánh thi tập".
Thơ vịnh lúc lui về ở ẩn
Yến hót, mừng khách tới,
Tiễn người, cây nở hoa.
Hãy vui vì xuân mới,
Đừng buồn xuân đã qua.
Thơ làm một năm sau khi trở
lại Vương Quan
Ngôi nhà thân thuộc giữa rừng cây.
Binh lửa rụi thiêu giá sách đầy.
Ở ẩn, quên đời vì vắng khách.
Thiếu gạo, thương thân phải yếu gầy.
Ao nhỏ bên khe, xuân còn đó.
Buổi trưa trời tạnh, hoa trên cây.
Ngoài cổng cần gì xe ngựa quí.
Trốn đời, thả sức hát và say.
TRẦN PHỐC
Tác giả:
Sinh năm 906, mất 989, tự Đồ Nam, hiệu Phù Dao tử, người Hào Châu, nay thuộc
tỉnh Hà Bắc, thi tiến sĩ cuối đời Đường không đỗ, bỏ đi ở ẩn, hết loạn lạc được
Tống Thái Tông tặng cho danh hiệu Hi Di tiên sinh. Có rất nhiều thơ chép trong
Đường thi toàn tập.
Lui về ở ẩn
Chạy trốn mười năm chốn bụi trần.
Mơ về núi biếc, chỗ dừng chân.
Trả hết vinh hoa, giành giấc ngủ.
Giàu sang không bõ cái yên bần.
Buồn nghe phò chúa mà mang vạ.
Chán cảnh đàn ca, uống với ăn.
Lui về ở ẩn, tay cầm sách,
Vui với hoa rừng với gió xuân.
KHUYẾT DANH
Thơ vặt
Trên đê gió thổi, tung màn liễu.
Trời mưa, hàn thực, cỏ xanh non.
Có quê mà chẳng về quê được.
Đừng kêu, chim cuốc, kẻo thêm buồn.
KHUYẾT DANH
Thơ vặt
Chiều, sông Vô Định, tiếng tù và
Làm khách bâng khuâng nỗi nhớ nhà.
Một tối sương thu, đầu bạc trắng.
Hàm Quan vời vợi dặm đường xa.
VƯƠNG VŨ XƯỚNG
Tác giả:
Sinh năm 954, mất 1001, xuất thân từ gia đình nông dân, học giỏi, làm quan đến
chức hàn lâm học sĩ. Tính ông thích nói thẳng và nhiều lần bị giáng chức. Thơ
ông mang tính hiện thực, phần nào mô tả đời sống cùng nực của người nông dân.
(Từ bài này trở đi là thơ các tác giả đời Tống).
Khúc hát vỡ hoang
Bài một
Mọi người ra sức chặt, đốn cây.
Tay làm miệng hát thật vui thay.
Vì ai cũng muốn thêm nhiều đất
Để lúa và ngô sớm mọc dầy.
Khúc hát vỡ hoang
Bài hai
Núi bắc vừa hết, đến núi đông.
Luôn tay cuốc xới lại vun trồng
Tất cả đời này ai cũng thế,
Vì chẳng có nhiều đất bỏ không.
Tiết thanh minh
Không hoa, không rượu tiết Thanh minh.
Như vị sư già, ngồi một mình.
Hàng xóm hôm qua nhóm lửa mới.
Phải nhờ ánh sáng đọc sách kinh.
Cưỡi ngựa đi quanh xóm núi
Ngựa đi men núi, cúc khoe hoa.
Buông cương, ngắm cảnh trải bao la.
Hang sâu gió thổi nghe như sáo.
Núi biếc trầm ngâm dưới nắng tà.
Lá đường lê rụng, màu như gạch.
Hoa kiều mạch nở, hương bay xa.
Chợt hứng, ngâm thơ, rồi chợt chán.
Chắc bởi ở đây giống ở nhà.
Tết Hàn thực
Núi Thương, Hàn thực, tết năm nay.
Phong cảnh nên thơ ở xứ này.
Lũ trẻ đua nhau rình bắt bướm.
Nam nữ chơi đu dưới tán cây.
Sau mưa, sáng sớm đồng xanh biếc.
Vào ngày cấm lửa, khói không bay.
Cái chức phó quan, nhàn, lại tiện.
Sẵn tiền bia rượu, uống kỳ say.
YẾN THÙ
Tác giả:
Sinh năm 991, mất 1005,, tự Đồng Thức, người Lâm Xuyên, nay thuộc tỉnh Giang Tây.
Ông nổi tiếng thần đồng từ nhỏ, đỗ tiến
sĩ thời Tống Nhân Tông, làm quan đến chức tể tướng, rất giỏi thơ và từ.
Buồn
Xe đi ngày ấy, đã đi xa.
Mây xưa núi Giáp cũng phai nhòa.
Đầy sân hoa rụng, trăng vời vợi.
Liễu rũ bên ao, gió mượt mà.
Buồn bã, mấy ngày ngồi uống rượu,
Nhìn trời sương lạnh, lại nhìn hoa.
Bức thư muốn gửi, không ai chuyển.
Nơi ấy chắc người nghĩ giống ta.
PHẠM TRỌNG YÊM
Tác giả:
Sinh năm 989, mất 1052, đỗ tiễn sĩ đời Tống Chân Tông, làm quan đến chức Tham
trinh chính trị. Thơ ông lưu giữ được rất ít.
Đánh cá trên sông
Trên sông, người vất vả
Đang mải mê đánh cá.
Giữa sóng chiều thuyền con
Mỏng manh như chiếc lá.
MAI NGHIÊU THẦN
Tác giả:
Sinh năm 1002, mất 1060, tự Thánh Du, người Tuyên Thành, tỉnh An Huy, nhà thơ
hiện thực thời Bắc Tống, bạn thân của Âu Dương Tu, chủ trương cách tân thơ và
có ảnh hưởng lớn đối với thơ Tống.
Người nung ngói
Nung hết đất ngoài cửa,
Vẫn không ngói lợp nhà.
Trong khi người tay sạch
Lại lầu gác nguy nga.
Cảnh nông thôn
Cửa sài cây che mát,
Rêu xanh nắng nhuốm hồng.
Đi cày về, trăng mọc,
Sương phủ trắng ngoài đồng.
Nghé theo trâu về xóm,
Già cùng trẻ đứng trông.
Tối, bữa ăn đạm bạc,
Toàn ngó hẹ, rau ngồng.
Chơi núi Lỗ Sơn
Cảnh núi rừng tuyệt đẹp.
Núi cao, thấp liền nhau.
Mỗi nơi đẹp một vẻ.
Khéo lạc, đi đã lâu.
Gấu vào hang, sương xuống.
Hươu uống nước khe sâu.
Chỉ nghe tiếng gà gáy,
Không thấy làng xóm đâu.
Xóm nhỏ
Ngoài bãi sông Hoài có một thôn,
Rào xiêu, nhà dột, chái không còn.
Người già không áo, chơi cùng cháu.
Gà vịt thấy mồi, gọi lũ con.
Thuyền đậu ngoài sông, dây thõng xuống.
Bãi dâu nước ngập, thối chồi non.
Dân chúng ở đây cơ cực vậy,
Mà gọi "dân vua", kể cũng buồn.
Tên cường hào trong thôn
Đánh trống, dục ra ruộng,
Nói năm nay được mùa.
Rượu hắn nấu bừa bãi.
Thóc người hắn tranh mua.
Con gái nhiều trâm bạc.
Con trai áo tua rua.
Quan trên, hắn không sợ.
Bọn lý dịch cũng thua.
LIỄU VĨNH
Chưa rõ
tiểu sử.
Theo điệu "Bát thanh cam
châu"
Bài một
Mưa sầm sập xuống sông.
Sau mưa, trời xanh trong.
Gió lạnh, núi đứng lặng.
Lầu tây, mặt trời hồng.
Cảnh hoang tàn đổ nát.
Hoa rụng, buồn mênh mông.
Chỉ Trường Giang vẫn thế,
Lặng lẽ chảy về đông.
Theo điệu "Bát thanh cam
châu"
Bài hai
Không dám bước lên lầu,
Ngóng quê, lòng quặn đau.
Cách xa bao năm tháng,
Sao cứ làm khổ nhau.
Người đẹp chắc tựa cửa
Mong đợi cánh buồm nâu.
Không biết ta trên gác
Đang đứng, nhỏ lệ sầu.
TÔ THỨC
Tác giả:
Sinh năm 1037, mất 1101, hiệu Đông Pha, người Mỹ Sơn, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, nhà
thơ lớn, nhà tản văn lừng danh đời tống.
Hoa hải đường
Gió xuân hây hẩy gọi trăng lên.
Trăng dọi xuyên mù, đến mép hiên.
Chỉ sợ rồi khuya, hoa ngủ thiếp,
Nên chẳng ngắm hoa cũng thắp đèn.
Uống rượu trên hồ lúc mưa vừa
tạnh
Phía mưa vừa tạnh, nước long lanh,
Phía vẫn còn mưa, mờ núi xanh.
Tây Hồ, Tây Thi đem so sánh,
Riêng chung một vẻ, đẹp nghiêng thành.
Cảnh Tây Hồ
Tháng Sáu, Tây Hồ khách dạo chơi.
Lá sen xanh biếc tận chân trời.
Nơi đây cảnh khác, mà sen đỏ,
Cũng đỏ cái màu khác mọi nơi.
Ngày 27 tháng 6, viết ở lầu
trong lúc say
Núi xanh chưa kịp phủ mây đen,
Đã nghe mưa gõ rộn trên thuyền.
Bỗng trận gió to xua đi hết,
Rồi nước và trời lại tĩnh yên.
Trăng rằm Trung Thu
Trời thu trong sáng chuyển vào mây.
Sông Ngân dọi sáng đến trăng này.
Kiếp ấy đêm trăng không gặp được.
Bây giờ trăng sáng, gặp đâu đây?
Đêm xuân
Không gì sánh được với đêm xuân.
Hoa thoảng hương thơm, nguyệt trắng ngần.
Trong lầu tiếng nhạc vang khe khẽ,
Bóng đêm kiên nhẫn đợi ngoài sân.
Rằm tháng Giêng, hầu tiệc vua
Trăng lạnh, sao thưa, lầu Kiến Chương.
Gió xuân thổi khói lư trầm hương.
Thông Minh điện ngọc, quan đứng đợi.
Thánh Hoàng tỏa sáng tựa vầng dương.
Trên đường đi Tân Thành
Biết ta chơi núi sáng hôm nay,
Gió thổi mưa tan, đẹp thế này.
Mây tạnh, trời cao như mũ úp.
Đỏ rực mặt trời trên tán cây.
Xanh xanh bờ trúc, đào tươi tốt.
Nước khe trắng lóa, liễu lung lay.
Vui vẻ người dân trong xóm nhỏ,
Nấu nước, làm cơm cho thợ cày.
LÝ THANH CHIẾU
Chưa rõ
tiểu sử.
Theo điệu "Túy hoa
âm"
Sương mù mỏng, mây dày.
Buồn ủ ê suốt ngày.
Lò hương vàng đã tắt.
Trời lạnh, gió heo may.
Giữa hoàng hôn uống rượu.
Uống mãi mà không say.
Vườn đông hoa cúc nở.
Gió thổi rèm lầu tây.
Theo điệu "Nhất tiễn
mai"
Ngó sen tàn, thu lạnh.
Cởi áo, bước lên thuyền.
Gió đưa thư ai đến?
Chim nhạn về, trăng lên.
Hoa cứ tàn, nước chảy.
Nỗi buồn không chịu yên.
Tình xưa muốn dứt bỏ,
Mà cứ nghĩ triền miên.
HOÀNG ĐÌNH KIÊN
Tác giả:
Sinh năm 1045, mất 1105, tự Lỗ Trực, hiệu Sơn Cốc, người Hồng Châu, Phân Ninh,
đỗ tiến sĩ đời Tống Anh Tông. Tác phẩm: "Sơn Cốc tập".
Ngẫu hứng trên lầu Nam ở Ngạc
Châu
Bốn bề nước biếc nối non xanh.
Hương sen thoang thoảng bốn xung quanh.
Gió mát, trăng trong hào phóng tặng
Cho khách phương Nam vị mát lành.
Trời mưa, lên lầu Nhạc
Dương ngắm núi Quân Sơn
Đứng tựa lan can, mưa gió to,
Ngắm dãy Quân Sơn lượn nhấp nhô.
Giá được một lần nhìn núi biếc
Từ đỉnh sóng kia trắng giữa hồ.
Tiết Thanh Minh
Thanh Minh trời đẹp, mận khoe màu.
Mộ hoang, đồng trống gợi thêm sầu.
Sấm nổ âm vang, rồng rắn thức.
Mưa dầm đúng lúc, tốt vườn rau.
Chịu nhục ăn thừa nên vợ trách. 1)
Chết cháy không ra, chối tước hầu. 2)
Khôn dại, ngu hiền chưa dám nói.
Nhưng mộ người nào cũng giống nhau.
1. Xưa có người ăn của tế thừa no say rồi về
khoe với vợ được nhà quyền quí mời. Sau vợ biết chuyện liền trách không giữ
liêm sỉ.
2. Giới Tử Thôi giúp Tấn Văn Công trong lúc
khó khăn, đã xẻo thịt bắp chân mình cho vua ăn. Khi lấy lại ngôi vua, Văn Công
quên không trọng thưởng. Ông bỏ vào rừng ở ẩn cùng mẹ. Vua cho mời mãi không
ra. Khi vua đốt rừng bắt ra, ông thà chịu chết cháy trong rừng. Từ đó vua ra
lệnh không được nhóm lửa vào ngày Hàn Thực.
TĂNG KỶ
Tác giả:
Sinh năm 1084, mất 1166, bị Tần Cối chèn ép, bỏ quan về nhà, khi Tần Cối chết
mới ra làm quan lại.
Giữa đường núi Tam Cù
Đang mùa mơ chín, nắng vàng hoe,
Rời thuyền, đi bộ dọc bờ khe.
Đường rợp bóng cây như lúc đến,
Lại thêm chim hót rộn bốn bề.
TRẦN LIỆT
Tác giả:
Sinh khoảng năm 1088, năm mất không rõ. Làm quan tới chức Quốc tử trực giảng.
Thơ đề trên chiếc đèn 1)
Nhà giàu đóng một đèn,
Như kho bớt hạt thóc.
Nhà nghèo đóng một đèn,
Cha con ôm nhau khóc.
Quan lớn có biết không?
Quan bận với người ngọc.
1. Năm Nguyên Phong đời Thần Tông nhà Tống,
quan thái thú Phúc Châu là Lưu Cẩn bắt dân bất kể giàu nghèo mỗi hộ phải nộp đủ
mười chiếc đèn để đốt đêm rằm tháng Giêng. Tác giả đề bài thơ này trên chiếc
đèn lồng treo bên gác lầu.
PHẠM THÀNH ĐẠI
Tác giả:
Sinh năm 1126, mất 1193, tự Trí Năng, cư sĩ, là một trong những nhà thơ lớn
thời Nam Tống.
Đê ngang
Xuân về trên bến, nước xanh trong.
Cầu đá như xưa, cạnh tháp hồng.
Đê nhỏ, mưa phùn đưa tiễn khách.
Cột thuyền gốc liễu sát bờ sông .
Cảm hứng nhỏ chốn thôn quê
Bài một
Vườn rau, bươm bướm lượn bên hoa.
Thôn quê ít khách đến thăm nhà.
Chợt nghe chó sủa, gà nhao nhác.
Biết ngay ai đó đến mua trà.
Cảm hứng nhỏ chốn thôn quê
Bài hai
Nhổ cỏ, xe gai, bận lút đầu,
Mỗi người một việc tận đêm thâu.
Chưa biết cày bừa và dệt vài,
Trẻ tập trồng dưa bên gốc dâu.
VƯƠNG VÕ NỂ
Chưa rõ
tác giả là ai.
Tiết thanh minh
Thanh minh, hoa rượu, bánh đều không.
Như sư, không chút vấn vương lòng.
Hàng xóm đêm qua cho tí lửa,
Sáng ngồi thắp nến đọc bên song.
THIẾN ĐÀO
Tác giả:
Bà sinh khoảng năm 1010, không rõ mất năm nào, là người hầu của Khấu Chẩn, tể
tướng đời Tống Chân Tông.
Thưa với Khấu Công
Bài thơ đem đổi lụa màu hồng,
Hình như ngưòi đẹp chửa hài lòng.
Không biết tay nàng thoi thoăn thoắt
Qua lại mấy lần mới dệt xong.
ÂU DƯƠNG TU
Tác giả:
Sinh năm 1007, mất 1072, nhà thơ, nhà tản văn lớn đời Bắc Tống, tự Vĩnh Thúc,
hiệu Túy Ông, về già đổi thành Lục Nhất Cư Sĩ, ông đề xướng lối thơ cách tân.
Chơi xuân ở đỉnh Phong Lạc
Núi xanh, lá đỏ, ánh dương tà.
Màu trời vàng rực phía xa xa.
Khách chơi không ngại xuân sắp hết,
Vẫn dạo quanh đình, dẫm nát hoa.
Đùa trả lời Nguyên Trân
Gió xuân như thể tránh nơi đây.
Tuyết cũ cuối mùa trĩu lá cây.
Tháng Hai đã đến, hoa không nở.
Ngọ nguậy chồi măng dưới đất dày.
Đêm nghe tiếng nhạn, thương quê cũ.
Ngày ốm, buồn nhìn tuyết với mây.
Lạc Dương hoa đẹp từng là khách,
Chẳng sao, hoa nở muộn nơi này.
Theo điệu " Đạp sa
hành"
Mai tàn quán khách, liễu bờ mương.
Cỏ thơm, gió ấm, ngựa buông cương.
Cái buồn ly biệt buồn thêm mãi,
Như nước mùa xuân chảy vệ đường.
Đứng tựa lan can nơi gác ngọc,
Hai mắt lệ tràn, lòng vấn vương.
Núi xuân trước mặt xa vời vợi,
Người còn xa nữa, người yêu thương.
TÔ THUẤN KHÂM
Tác giả:
Sinh năm 1008, mất 1048, tự Tư Mỹ, có tư tưởng tiến bộ, bị bọn quyền quí chèn
ép, cách chức và lui về ở ẩn tại Tô Châu, nay là tỉnh Giang Tô. Ông là người
chủ trương cách tân thơ ca thời bấy giờ.
Có khách đến nhà
Khách đến bàn thời cuộc,
Nhìn nhau buồn mênh mông.
Giặc Man giết tướng ải.
Sâu bọ phá ngoài đồng.
Ở vùng quê heo hút,
Có chí mà hóa không.
Ai người lo nợ nước?
Uống rượu, lòng giận lòng.
Bày tỏ nỗi lòng
Ta tuy là nhà nho,
Nhưng muốn giết giặc Hồ.
Không được dùng, đành chịu.
Cảm thương, lòng cháy khô.
Ngày nằm giữa đống sách,
Đêm mơ dựng cơ đồ.
LÝ CẤU
Tác giả:
Sinh năm 1009, mất 1059, có tư tưởng tiến bộ, nổi tiếng thơ hay, phản ánh nỗi
khổ của nhân dân.
Đọc bài "Trường Hận
từ"
Đường vào đất Thục lắm gian truân.
Đêm mưa, não ruột tiếng xe lăn.
Chắc vua không biết, không thương xót,
Nếu mình bỏ mạng lúc hành quân.
VƯƠNG AN THẠCH
Tác giả:
Sinh năm 1021, mất 1086, nhà chính trị, nhà thơ, nhà tản văn lớn thời Bắc Tống,
tự Giới Phủ, người Lâm Xuyên, tỉnh Giang Tây ngày nay.
Hoa mai
Bên tường, mấy cành mai
Nở trong sương giá rét.
Nhờ hoa có mùi thơm,
Nên không lẫn với tuyết
Đêm xuân
Đồng hồ cạn nước, bát hương tàn.
Từng hồi gió lạnh, buốt tâm can.
Trăng hắt bóng hoa lên bậu cửa.
Cảnh buồn như thế, ngủ sao an.
Bóng hoa
Bóng hoa dày đặc rụng bên chân.
Đã bảo con sen quét mấy lần.
Nắng tắt hoa tàn, trăng lại mọc.
Bóng hoa lần nữa rụng đầy sân.
Thơ viết trên vách nhà Hồ Âm
tiên sinh
Không rêu, không bụi, mái nhà tranh.
Hoa mộc tự tay xén, cắt cành.
Nước dẫn từ mương vào ruộng lúa.
Núi như cổng mở, đón màu xanh.
Sông Bắc Sơn
Bắc Sơn mùa lũ, nước tràn trề.
Nước chảy đầy đầm, ngập suối khe.
Gặp chỗ hoa rơi nhiều, nán lại,
Mải hái cỏ thơm, quên cả về.
Mồng một Tết
Một năm nữa hết, pháo âm vang.
Rượu Đồ Tô uống, đón xuân sang.
Trước cửa nhà nhà treo thẻ đỏ,
Nghinh tân, tống cựu, được an khang.
Hoa hải đường
Gió đông đùa nghịch ánh trăng tà.
Rồi trăng lặng lẽ khuất sau nhà.
Trời tối, lo hoa buồn, ngủ thiếp,
Thắp đèn soi sáng, sưởi cho hoa.
Nhớ Vương Phùng Nguyên
Mộ anh chắc cỏ mọc xanh dày.
Buồn buồn vẫn thổi gió heo may.
Tài đức của anh đời rẻ rúng.
Mấy người, ngoài bạn, hiểu lời hay?
Lô Sơn bóng ngả lên bàn viết.
Bồn Thủy trào tuôn chén rượu đầy.
Dấu vết ngày xưa giờ chẳng thấy.
Muốn vui như trước, vui sao đây?
VƯƠNG LỆNH
Tác giả:
Sinh năm 1032, mất 1059, tự Phùng Nguyên, người Giang Đô, nay thuộc tỉnh Giang
Tô, có tư tưởng đổi mới chính trị, tài hoa về văn chương, chỉ tiếc chết sớm.
Tác phẩm: "Quảng Lăng tiên sinh văn tập"
Tiễn xuân
Hết nở rồi tàn, hoa tháng Ba.
Hàng ngày chim én lượn, bay qua.
Chim cuốc đêm đêm kêu lạc giọng,
Cứ tưởng rằng kêu, giữ được hoa.
TRÌNH HIỆU
Tác giả:
Sinh năm 1032, mất 1985, tên chữ là Bá Đôn, người cùng thời gọi là Minh Đạo
tiên sinh. Ông người Lạc Dương, nay là thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam. Trình
Hiệu cùng em là Trình Di học thầy Chu Đôn Di, trở thành hai nhà lý học nổi
tiếng, thường được gọi là "Hai ông Trình" đời Bắc Tống.
Ngẫu hứng ngày xuân
Gần trưa, mây mỏng, gió hây hây.
Thơ thẩn tìm hoa, ngắm cỏ cây.
Cái thú của ta, đời chẳng hiểu,
Cho rằng nhàn rỗi quá thành ngây.
Vào thu
Thanh Khê, đầu núi, suối quanh quanh.
Cả trời, cả nước sáng long lanh.
Xa cách bụi trần ba chục dặm,
Lòng như mây trắng, nhẹ thênh thênh.
Thơ đề ở chùa Hoài Nam
Thập phương khách đến nghỉ nơi này.
Rau tần sông Sở gió lung lay.
Sư vốn không buồn, nhìn lá rụng,
Nhưng vẫn thấy buồn khi ở đây.
Thơ viết lúc đi chơi ngoài
thành
Ruộng đồng xanh tốt, rộng bao la.
Trời cao, xuân thắm, núi xa xa.
Tay vịn cành cây, men rặng liễu.
Lách xuống bờ khe, dạo nhởn nha.
Rượu ngon đang có, sao không uống?
Nếu không, gió thổi, rụng đài hoa.
Huống chi giữa buổi thanh minh đẹp,
Cuộc chơi đang hứng, quên về nhà.
TRƯƠNG LỖI
Tác giả:
Nhà thơ thời Bắc Tống, sinh năm 1054, mất 1114, tự Văn Thế, hiệu Kha Sơn, người
Sở Châu, Hoài Âm, nay thuộc thành phố Thanh Giang, Giang Tô. Ông đỗ tiến sĩ
niên hiệu Hy Ninh, làm quan tới chức Thái thường Thiếu khanh, nổi tiếng liêm
khiết, được Tô Đông Pha khen về tài học.
Ngày hè
Mùa hè, xóm nhỏ, nắng như say.
Đàn sẻ đầu thềm đã biết bay.
Trong nhà con nhện đang giăng lưới.
Ngoài vườn bầy bướm múa trên cây.
Rèm mỏng đung dưa, mời nắng dọi,
Chiếc gối kê nghiêng, lười suốt ngày.
Mái tóc từ lâu sương bạc trắng,
Muốn được vô lo sống kiếp này.
LƯU HÀN
Tác giả:
Chưa rõ tiểu sử, chỉ biết ông sống vào đời Tống, tự Vũ Tử, người Trường Sa, nay
thuộc tỉnh Hồ Nam.
Lập thu
Quạ bay chấp chới, trời xanh trong,
Gió thu xua hết cái oi nồng.
Ngủ dậy, tiếng thu nghe thật lạ.
Ngoài hiên dày đặc lá ngô đồng.
TƯ MÃ QUANG
Tác giả:
Sinh năm 1019, mất 1086, tự Quân Thực, người Hạ huyện, nay thuộc tỉnh Sơn Tây,
là hàn lâm học sĩ thời Tống Nhân Tông. Tác phẩm: "Chiêu cổ học",
"Tư Mã Quang văn chính công tập".
Đầu hạ, nơi đất khách
Tháng Tư, mưa tạnh, trời xanh trong.
Sừng sững núi Nam trước cửa phòng.
Cây liễu đứng im, trời lặng gió.
Chỉ hoa mai hướng mặt trời hồng.
QUÁCH UNG
Tác giả:
Sinh năm 1011, mất 1077, tự Nhiêu Phu, hiệu An Lạc Tiên sinh, người Cộng Thành,
nay thuộc huyện Huy, Hà Nam, sau ẩn cư ở vùng Bách Nguyên, nên còn được gọi là
Bách Nguyên Tiên sinh.
Rượu và hoa
Hoa soi bình rượu, bóng lung linh.
Rượu có hình hoa, thật hữu tình.
Thịnh trị bốn triều từng đã thấy.
Hai đời dân chúng được thanh bình.
Nếu chẳng già nua, thêm bệnh tật,
Chắc ta còn mở tiệc linh đình.
Sóng rượu, thuyền hoa, xuân thật đẹp.
Về ư, chưa hết rượu trong bình.
TRIỀU THUYẾT
Tác giả:
Sinh năm 1059, mất 1129, tự Di Đạo, hiệu Cảnh Vu Sinh, người Tế Châu, Tự Dã,
nay thuộc tỉnh Sơn Đông, đỗ tiến sĩ khoảng năm đầu thời Tống Thần Tôn.
Thơ đề bức tranh vẽ cảnh đá
cầu
Lớp lớp nguy nga gác với lầu.
Tam Lang 1) thích thú buổi chơi cầu.
Cửu Linh già rồi, Hàn Hưu 2) chết.
Can vua sẽ chẳng có ai đâu.
1) Tức Đường Minh Hoàng.
2). Hai vị tể tướng đời Đường, nổi tiếng tính
tình cương trực, thường dâng sớ khuyên can vua.
TRẦN DỮ NGHĨA
Tác giả:
Sinh năm 1090, mất 1138, hiệu Giản Trai, nhà thơ lớn đời Nam Tống.
Đi thuyền tới Tương Ấp
Đôi bờ hoa rụng, đỏ lòng sông.
Màn liễu trên đê gió thổi phồng.
Nằm ngửa nhìn trời, mây tĩnh lặng,
Thấy mây và mình xuôi về đông.
NHẠC PHI
Tác giả:
Sinh năm 1103, mất 1141, tự Bằng Cử, người huyện Thang Âm, là vị anh hùng dân
tộc thời Nam Tống và là vị tướng có tài, bị vợ chồng Tần Cối mưu hại.
Đình Thúy Vị ở Trì Châu
Chiến trận quanh năm được buổi này,
Lên đình Thúy Vị ngắm trời mây.
Sơn thủy hữu tình nhìn chửa chán,
Ngựa đã giục về, trăng sau cây.
LỤC DU
Tác giả:
Sinh năm 1125, mất 1210, người Sơn Âm, nhà thơ lớn yêu nước thời Nam Tống, hiện
còn giữ được 9.300 bài.
Cảm hứng ngày xuân
Đêm đêm đốt củi sưởi mền bông.
Cơm trưa một bát đáng nghìn đồng.
Vẫn biết mình già, vô tích sự,
Nhưng thấy dân đau vẫn chạnh lòng.
Cảm hứng mà viết
Già rồi mà luôn nghèo đói.
Chỉ tạm hết lo khi say.
Năm tháng làm đầu bạc trắng.
Duy lòng vẫn đỏ xưa nay.
Đám mây cô đơn
Hơn bốn chục năm ở núi này.
Vào triều vô bổ, lại về đây.
Không phải ngẫu nhiên buồn, tựa cửa
Ngắm núi, nhìn sông, nhàn suốt ngày.
Thơ viết khi đi thuyền trên
hồ,
khoảng cuối hạ, đầu thu năm
Ất Sửu 1)
Đêm buộc thuyền con cầu Mộng Bút 2),
Khó ngủ, hắt hiu một chấm đèn.
Cơn giận Tử Tư chưa dịu hẳn -
Sóng lớn ầm ầm ngay sát bên.
1. Tức năm 1205 theo Tây lịch.
2. Cầu này nằm phía đông bắc núi Tiêu Sơn,
tỉnh Triết Giang.
3. Theo truyền thuyết, sóng sông Tiền Đường
lớn là do khí tức giận của Ngũ Tử Tư gây
nên.
Tưới nước trong vườn
Lúc trẻ mang gươm bình thiên hạ,
Về già xách nước tưới cho cây.
Bạn cũ không còn, luôn ốm yếu,
Cái buồn tâm sự với ai đây?
Mưa nhỏ, trời mát, ngủ say
trong thuyền đến chiều
Sau mưa, ruồi nhặng chẳng còn bay,
Trải khăn, nằm ngủ một giấc say.
Khi tỉnh, mặt trời đang xế bóng,
Lặng lẽ thuyền đi suốt cả ngày.
Tết Trùng Dương
Lá đỏ ven sông, rừng ngập sương.
Hái bông cúc nhỏ, nghĩ càng thương.
Giá say một trận quên trời đất,
Vui cùng vua Sở tết Trùng Dương.
1. Vua nước Sở thích những ng ười phụ nữ có eo
lưng thon nhỏ. Trong cung Tế Yêu
của vua nhiều cô muốn được vua yêu nhịn
ăn đến chết đói. Đây tác giả muốn được hưởng cảnh sung sương vô lo trong ngày
tết Trùng Cửu mồng chín tháng Chín.
Ghi việc
Nghe nói giang sơn lấy lại rồi.
Núi sông, đất nước chẳng ngăn đôi.
Biết thế nán thêm dăm bữa nữa,
Thăm chùa Nhiêu Ích, núi Hòn Vôi.
Viết đêm mưa to gió lớn, mồng
bốn tháng Mười Một
Đã cam xóm nhỏ cảnh nằm dài,
Còn muốn xả thân chốn Lâm Đài.
Chập chờn giấc ngủ đêm mưa gió,
Tiếng gươm, tiếng ngựa vẳng bên tai.
Đêm thu sắp sáng, ra cổng
hóng mát, chợt viết bài thơ
này
Hoàng Hà vạn dặm chảy về đông.
Họa Sơn nghìn thước vút lên không.
Trong vùng giặc chiếm, dân kêu khóc,
Chờ vua đến cứu, mỏi mòn trông.
Dặn con
Đành rằng thế cả sau khi chết.
Chỉ tiếc chín châu chưa lấy hết.
Khi nào vua lấy được Trung Nguyên,
Cúng ta, hãy báo cho ta biết.
Vườn Thẩm 1)
Bài một
Chênh chếch mặt trời ngả phía tây.
Vườn Thẩm bây giờ khác trước đây.
Buồn bã dưới cầu dòng nước chảy.
Người đẹp từng soi bóng nước này.
Vườn Thẩm
Bài hai
Bốn mươi năm chẵn đã trôi qua.
Không thấy tơ bay bụi liễu già.
Sau chết thân vùi chân núi Cối,
Vẫn xin nhỏ lệ mối tình ta.
1. Bài này tác giả viết để tỏ lòng thương nhớ
nàng Đường Uyển, người vợ trước của ông. Hai người lấy nhau rất tâm đắc, nhưng
do mẹ chồng ghét bỏ nên nàng phải ra đi. Một hôm đến vườn Thẩm, ngẫu nhiên ông
lại gặp nàng, lúc này đã lấy chồng khác. Hai người nhìn nhau đau khổ. Nàng trở
về, nghĩ ngợi nhiều sinh ốm rồi mất. Năm
1199, Lục Du đã 75 tuổi, trở lại vườn Thẩm và viết hai bài tứ tuyệt này.
Đi thuyền trên sông nhỏ
Khói vương buồm dệt cói.
Mưa lên mui cỏ dày.
Xin lửa, thuyền bên cạnh.
Mua cá, chợ gần đây.
Hết ghềnh rồi lại thác.
Khách buồn, tỉnh lại say.
Thương nhà thuyền vất vả,
Chèo ngược gió suốt ngày.
Lầu bên sông
Mưa tẩy sạch chướng khí.
Nhàn rỗi, đứng trên lầu.
Nước chảy cuốn củi mục.
Mặt trời lặn đồng sâu.
Làng rộn tiếng giã giấy
Trong ngõ, trẻ dắt trâu.
Hủ nho lo việc nước,
Nhưng chỉ biết gãi đầu.
Đội mưa lên đài Nghĩ Nghiễn
xem nước sông dâng
Mưa dội lên nghìn núi,
Nước ngập hết muôn nhà.
Mây dày, đen như mực,
Sóng dồn dập gần xa.
Một cánh thuyền nhỏ bé
Giữa trời nước bao la.
Nhớ cuộc chơi ngày trước,
Say, vượt sóng Tam Ba.
Đầu xuân
Mấy tháng liền ốm yếu.
Vừa năm mới đã đau.
Dậu thưa, cây cỏ bám.
Vách đổ, rêu xanh màu.
Tráng sĩ chờ giết gặc.
Cứu nước, sá gì đâu.
Ta không là nhi nữ
Mà ngâm khúc “Bạc đầu”.
1. Khúc nhạc phủ xưa, nội dung mỉa mai người
không chung thủy với tình yêu. Ở đây tác giả muốn khẳng định lòng yêu nước của
mình.
Cảm hứng vụn vặt
Buồn, uống buồn thêm mãi.
Mưa tạnh, cây ít hoa.
Bàn cờ quân rời rạc.
Tiếng sáo vọng sau nhà.
“Dời núi” 1), sức chưa hết.
“Ra biển” 2) , lời thiết tha.
Ai hiểu lòng tráng sĩ,
Gõ trúc, buồn xót xa.
1. Ngu Công ở Bắc Sơn quyết tâm dời núi Thái
Hàng và Vương Ốc chắn trước nhà mình.
2. Lỗ Trọng Yên ở nước Tề không chịu tôn nước
Tần lền đế hiệu, nói:“Ta thà ra biển mà chết chứ không tôn vua Tần làm hoàng
đế!”
Mong xuân
Xuân về theo luật định.
Ngày đẹp, trời xanh cao.
Nước long lanh dưới nắng.
Liễu xanh, gió thì thào.
Lo việc đời, ứa lệ.
Chí giết giặc còn cao.
Lên gác còn phải đỡ,
Nhưng vẫn hát nghêu ngao.
Gió sương
Tháng Mười, gió lạnh rít ngoài hiên.
Áo mỏng, lót bông, chửa có tiền.
Trời rét, khách ngồi không đệm ấm.
Thiếu ăn, vay gạo của chùa bên.
Thân già, chua xót, đêm ca cẩm.
Nhà nghèo, mùa mất, đói triền miên.
Làm trai mà thế thì buồn thật.
Nước mắt trào dâng, cười trước đèn.
Hồ Nam
Tháng Hai, hoa nở đẹp, chim bay
Đứng ngắm một ông yếu, lại gầy.
Tóc bạc lơ thơ, buồn ứa lệ.
Muôn khoảnh hồ xanh, chuyện tháng ngày.
Đắp đê đâu chỉ dân no ấm,
Mà nước mạnh hơn nhờ việc này.
Những kẻ tầm thường không hiểu được,
Chỉ lo hương lễ để cầu may.
Bài hát mừng mưa
Không mưa ra châu, ra ngọc.
Tháng Sáu trời mưa ra thóc.
Mười năm hạn lụt buồn lo,
Dân phải chặt dâu, bán bò.
Năm ngoái no nhiều, đói ít.
Năm nay chắc có rượu thịt.
Được no, người ta chạnh lòng
Nhớ người chết đói ngoài đồng.
Hết gạo, thiếu củi, đùa viết
bài này
Làm ruộng, làm quan đều nhỡ nhàng.
Sách nhiều, nhà hẹp, trống toang hoang.
Chẳng sao canh nhạt, không dầu mỡ.
Bếp củi chưa mua, nhóm lá bàng.
Thân trai mà đói, do mình cả.
Tuy nghèo nhưng dáng vẫn hiên ngang.
Chưa phải rình chờ ăn chực cỗ,
Về nhà khoe vợ gặp người sang 1).
1. Sách Mạnh Tử viết: Có một người nước Tề
hàng ngày đi ăn cỗ thừa ở các đám tang, về nhà khoe với vợ được người giàu sang
chiêu đãi. Sau vợ rình bắt quả tang và chê trách không biết giữ liêm sĩ.
Lên đài Nghĩ Nghiễn
Mờ mịt đài cao chắn góc thành.
Lên đài, chống gậy đứng nhìn quanh.
Bao la bốn phía màu xuân mới.
Mười năm rũ sạch bụi công danh.
Trầm tư núi đứng như hiền triết.
Quanh co sông chảy thật yên lành.
Không lo toan tính, lòng thanh thản,
Muốn bạn cùng chim giữa lá cành.
Vịnh hoa mai
Hoa mai nở, không chủ
Bên cầu gãy, sát đường.
Hoàng hôn, đã buồn sẵn,
Lại còn thêm gió sương.
Mặc hoa khác ghen ghét,
Mai vô tư, dễ thương.
Khi rụng, vùi trong đất,
Còn giữ được mùi hương.
Theo điệu "Giá cô
thiên"
Ruộng dâu xanh tốt bãi phù sa.
Tằm nở đầy nong, đợi ở nhà.
Gò cao cỏ mượt, con bê rống.
Rừng lạnh, quạ bay giữa ráng tà.
Nhà ai bán rượu, cờ xanh thẫm.
Con đường chênh chếch, núi gần xa.
Trong thành đào mận buồn mưa gió.
Xuân đến đầu khe, cỏ nở hoa.
Đêm đậu thuyền ở xóm ven sông
Cung tên mang mãi, sệ bên hông.
Tiếc bia chưa dựng để ghi công.
Ngày xưa lão tướng băng sa mạc,
Nay sao lớp trẻ khóc, nao lòng?
Liều chết, chỉ mong đền nợ nước,
Dẫu giờ tóc bạc, tấm lưng còng.
Giang hồ thuở trước, đêm thuyền đậu
Nhớ nằm nghe tiếng nhạn ngoài sông.
Đi chơi xóm núi ở phía tây
Đừng tưởng nhà nông rượu chát cay.
Được mùa, có thịt đãi khách say.
Liễu rậm, hoa thưa, khu xóm nhỏ.
Đường đi lắt léo núi và cây.
Quần áo đơn sơ, theo thói cũ.
Kèn trống mừng xuân rộn suốt ngày.
Từ nay rảnh rỗi, khi trăng sáng,
Chống gậy một mình lại đến đây.
Thơ viết ở Lâm An, lúc mưa
xuân mới tạnh
Tình đời thật mỏng những năm qua.
Cưỡi ngựa đến đây, ai xúi ta?
Đêm lắng mưa rơi trên gác nhỏ.
Sáng dậy nghe ai rao bán hoa.
Rỗi việc, vu vơ dăm chữ viết.
Bên song, trời tạnh, tự pha trà.
Áo trắng đừng lo dây cát bụi.
Thanh minh còn kịp trở về nhà.
Đi đường, gặp lão nông,
trò chuyện, về nhà làm bài
thơ này
Mấy năm ốm yếu, nghỉ, nằm không.
Chỉ gặp tiều phu với mục đồng.
Lẽ phải tìm trong trang sách cổ.
Lời ngay từ miệng những già nông:
"Riêng lo thế giặc mà sa lệ,
Nghĩ chuyện đền ơn, những ước mong!"
Chưa hưởng lộc vua, mà họ vậy,
Xấu hổ, ta nghe, thẹn với lòng.
Tre mới
Gai nhọn, chăng rào, giúp chở che.
Bên ao soi bóng những trưa hè,
Không biết lúc nào giờ chính ngọ.
Bóng râm mát rượi, tưởng thu về.
Măng mọc ban đêm, nghe tách vỏ.
Ban ngày trổ ngọn, lá xum xuê.
Sau này rỗi việc, về đây sống,
Kê gối ta nằm dưới bóng tre.
Làm trên lưng ngựa lúc về
muộn
Thanh Duẩn chiều hôm nắng chiếu tà.
Đông Hồ rầu rĩ tiếng tù và.
Không buồn lận đận đời cay đắng.
Chỉ tiếc ít người biết đến ta.
Phóng ngựa chơi ngông, xuân bát ngát.
Bên sông uống rượu đến say ngà.
Say rồi chỉ muốn ngâm “Lương Phủ” 1)
Muốn cùng Gia Cát luận thi ca.
1). Bài phú Khổng Minh Gia Cát Lượng thường
ngâm.
Đi trong đêm
Không sợ người chê bạc trắng đầu.
Lối đi trong xóm thuộc từ lâu.
Chùa ở ngoài mây, chuông vọng lại.
Mặt nước lung linh nến thủy lầu.
Chim hạc về Liêu, nghìn vạn tuổi.
Phong rụng đất Ngô, úa một màu.
Khép tấm cửa thuyền, không ngủ được.
Bên ngoài trăng sáng suốt đêm thâu.
Qua một làng quê, cảm tác
Xế chiều, dừng ngựa ở bên sông.
Thấp thoáng nhà ai ánh lửa hồng.
Thấy khách, sau rào con chó sủa.
Chờ ăn, tằm đói bò trên nong.
Phiêu dạt mười năm, đời lận đận.
Quê xa vạn dặm nhớ trong lòng.
Ở ẩn Nam Dương 1) ai bảo xấu?
Anh hùng đích thực biết làm nông.
1). Khi chưa ra giúp Lưu Bị, Khổng Minh ở ẩn ở
Nam Dương, tự mình cày cấy.
Ở Lâm An, mưa nhỏ mới tạnh
Mùi đời nhạt nhẽo mấy năm qua.
Ai xui cưỡi ngựa chốn Kinh Hoa?
Đêm lắng mưa rơi trên gác nhỏ.
Sáng thấy có người rao, bán hoa.
Phóng tay chấp bút dăm hàng nhỏ.
Lặng lẽ nhâm nhi mấy chén trà.
Đừng lo áo trắng đời dây bụi.
Trước tết Thanh Minh kịp ở nhà.
Cuối xuân
Mấy gian nhà cỏ dựng bên hồ.
Sách nhiều mà bụng vẫn không no.
Hoa nở, hoa tàn, xuân lại hết.
Én đi, én lại, cứ vòng vo.
Mở sách, vui tìm nhiều bạn cũ.
Soi gương - già yếu, thấy buồn lo.
Nhưng vẫn một lòng vì cứu nước.
Nuôi chí ngày đêm giết giặc Hồ.
Đêm, đọc binh thư
(Trích)
Đọc binh thư trong núi.
Ngọn đèn mù khói sương.
Để phò vua, cứu nước,
Muốn xông pha chiến trường.
Kẻ sĩ không ngại chết.
Chỉ thấy mình đáng thương
Vì bịn rịn con, vợ,
Vì mặt gầy trong gương.
Bài ca say rượu
(Trích)
Ngồi uống rượu bên sông.
Bốn bề lầu trống không.
Tay nâng chiếc chén ngoc,
Thấy mình trôi bập bồng.
Chỉ uống một hớp nhỏ
Mà hết cả núi sông.
Cuối năm, làm thơ vui về cảnh
nghèo
Tiền cần có nhất, luôn không có.
Cam nghèo đóng cửa, chịu nằm co.
Nhờ tiền, lưng cong thành lưng thẳng.
Men say làm mặt đỡ gầy gò.
Bàn ăn ngồn ngộn toàn rau củ.
Quần áo vá chằng tấm nhỏ, to.
Hết tiền, khí phách nhiều, chưa hết.
Vung bút viết bài phú Lương Đô. 1)
1). Bài phú nổi tiếng của Bàn Cổ đời Hán.
Mưa thu
(Trích)
Đèn mờ như đom đóm
Luôn lập lòe bên sông.
Mưa thu rơi thánh thót
Như giọt nước lậu đồng.
Không bị Sở phóng trục, 1)
Buồn mà nhảy xuống sông,
Chỉ vì lo việc nước,
Ta đau xót trong lòng.
1). Ý nói Khuất Nguyên bị vua Sở lưu đày, phẫn
chí mà nhảy xuống sông tự tử.
Đêm đọc sách, cảm hoài
(Trích)
Con cú bay trong núi.
Đàn vịt kêu ngoài đồng.
Ta thì ngồi đọc sách
Bên cửa bện cỏ bồng.
Khổ thân ta, đầu bạc,
Chán đời, chán việc công.
Quên mình, lo việc nước,
Mà lệ chảy ròng ròng.
Hồ Gương
(Trích)
Dân cày mong lúa tốt,
Có cái ăn trong nhà.
Nhưng hết hạn lại lụt,
Thóc gạo đắt gấp ba.
Hồ Gương luôn ngập úng.
Đâu phải trời gây ra -
Chỉ dân ngu không biết
Quan lười, không lo xa.
Lời than của nông dân
(Trích)
Ruộng thấp cấy chiêm muộn.
Nương cao trồng mạch, ngô.
Ốm cũng phải cày ruộng,
Tội nghiệp lũ trâu bò.
Nông dân làm cật lực
Mong được ngày ấm no.
Thế mà vừa thu hoạch,
Quan đã đến thu tô!
Nghe tiếng nhạn
(Trích)
Thương cho lũ chim nhạn
Từ phương Bắc về đây,
Nơi lúa ngô vốn ít.
Ăn gì sống qua ngày.
Có thoát được cung bẫy
Khi bay ngoài trời mây?
Nếu có cánh như nhạn,
Ta cũng bỏ nơi này.
TẢ VĨ
Chưa rõ
tiểu sử
Ngắm cảnh chiều xuân
Góc nhà gió thổi, khói như mây.
Hoa nở đung đưa khóm liễu gầy.
Trong ánh hoàng hôn mờ ảo ấy,
Chim én lại về, chấp chới bay.
NGÔ ĐÀO
Chưa rõ
tiểu sử
Tuyệt cú
Khách chưa thấy rét, áo chưa thay.
Mơ đã chua dần, hoa lá bay.
Rồi chợt một đêm không tiếng ếch,
Gió thổi se se, rét mấy ngày.
LƯU TỬ VỰNG
Chưa rõ
tiểu sử
Cảnh trên sông
Triều dâng sóng lớn, gió bâng quơ.
Hàng cây đứng lặng giữa khói mờ.
Ba ngày gió lạnh, đò không khách.
Một dãy thuyền con xếp cạnh bờ.
DƯƠNG VẠN LÝ
Tác giả:
Sinh năm 1124, mất 1206, Hiệu Thành Trai, cùng Lục du, Phạm Thành Đại và Lưu
Mậu được người đời gọi là "Bốn nhà thơ lớn thời Nam Tống".
Ao nhỏ
Không nỡ gây ồn, nước đứng yên.
Hồ lặng cây soi, giống cõi thiền.
Sen non vừa nhú, sừng xanh biếc,
Chuồn chuồn bay đến đậu lên trên.
Tiếc mùa xuân
Xuân này những tưởng hết lo âu,
Thì ra vẫn thế, vẫn buồn rầu.
Hoa nở mọi người không thiết ngắm -
Chắc có việc buồn hoặc ốm đau.
Ngủ nhà Từ Công ở Chợ Mới
Hoa rụng lối mòn bên dậu tre.
Lá mới xanh mầm, chưa đủ che.
Đám trẻ thi nhau đùa bắt bướm.
Bướm sang nhà cạnh, phải quay về.
Buổi sớm ra chùa Tĩnh Tư tiễn
Lâm Tử Phương
Hồ Tây tháng Sáu rộng mênh mông.
Cảnh sắc mùa này khác thu đông.
Lá sen xanh biếc như trời biếc.
Hoa sen dưới nắng lại thêm hồng.
Ngày đầu mùa hè, ngủ dậy
Mai chua đến nhăn mặt.
Chuối xanh chạm vách nhà.
Trưa ngủ dậy, buồn chán,
Ngồi xem trẻ chơi hoa.
Bài ca cấy lúa
Chồng tung nắm mạ, vợ bắt ngay.
Thằng bé làm cỏ, thằng lớn cày.
Mưa ướt đến lưng, mưa rả rích.
Áo tơi, nón lá gió tung bay.
Gọi chồng tạm nghỉ ăn cơm sáng,
Mà chồng mải miết cấy luôn tay.
Mạ nơi chưa bén, nơi chưa cấy.
Thêm lũ ngỗng con kêu suốt ngày.
HÀN CÂU
Chưa rõ
tiểu sử
Đã lâu không được tin, viết
gửi Á Khanh
Chàng ở lầu hoa trên bến sông.
Thiếp ở dưới này, phía biển đông.
Triều dâng đến lầu, không dâng nữa.
Lệ thiếp nước hòa, chàng biết không?
TRIỆU SƯ TÚ
Chưa rõ
tiểu sử
Có hẹn
Xuân sớm mưa phùn rơi, cứ rơi.
Quá hẹn mà sao chẳng thấy người.
Quân cờ gõ nhảm, hoa đèn rụng.
Ếch nhái ngoài ao thật lắm lời.
UÔNG NGUYÊN LƯỢNG
Chưa rõ
tiểu sử.
Hoài Điền
Trời xanh nhàn nhạt, trăng mờ sương.
Hai phía Hoài Điền là chiến trường.
Cung nữ trong cung, không ngủ được,
Ngồi buồn nghe điệu "Khốc Tương
Dương".
MỤC ĐỒNG
Chưa rõ
tiểu sử
Trả lời Chung Ngược Ông
Cỏ xanh trải rộng đến chân trời.
Gió thổi sáo diều, lòng thảnh thơi.
Ăn no, áo rách không thèm cởi.
Đêm nằm ễnh bụng ngắm trăng chơi.
CHU HY
Tác giả:
Sinh năm 1130, mất 1200, tự Nguyên Hối, là nhà luân lý họ nổi tiếng đời Tống,
người chỉnh lý cuốn Tứ Thư của Khổng Tử.
Cảm nghĩ khi đọc sách
Đầm vuông nửa mẫu tựa gương soi,
Soi nửa vuông mây, nửa sắc trời.
Thử hỏi sao đầm trong đến vậy?
Vì thác đầu nguồn nước vẫn rơi.
Hoa lựu
Tháng Năm hoa lựu đỏ trên cành.
Một vài chấm nụ, bướm bay quanh.
Chỉ tiếc nơi này không khách ngắm,
Để buồn, hoa rụng đỏ rêu xanh.
Chơi thuyền
Đêm qua bất chợt nước sông lên,
Thuyền lớn tự trôi như mũi tên.
Chẳng bù hôm trước phu vất vả,
Tốn sức bao nhiêu để kéo thuyền.
Ngày xuân
Bến Tứ, chơi xuân buổi đẹp trời.
Trời rộng, đất xanh, cây tốt tươi.
Gió xuân lặng lẽ mang xuân đến.
Muốn biết, trong lòng phải thảnh thơi.
NGU TỰ LƯƠNG
Tác giả:
Sinh năm 1180, không rõ năm mất, có làm quan một thời gian.
Sớm xuân ở Hành Khê Đường
Mạ gieo hôm trước đã xanh màu.
Mưa phùn khói trắng quyện vào nhau.
Xung quanh toàn ruộng, ba nghìn khoảnh.
Đàn cò không biết đậu vào đâu.
DIỆP THÁI
Chưa rõ
tiểu sử
Cảnh chiều xuân
Chim bay líu ríu tận thư phòng.
Gió thổi, hoa đào bám bút lông.
Rỗi, ngồi bên cửa xem Chu Dịch.
Không biết xuân rồi, hay vẫn đông.
THÁI SÁC
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết người Tấn Giang, nay là Phúc Kiến, tự Tử
Chính, làm quan dưới thời Tống Thần Tông, do dâng sớ can vua sửa đổi triều
chính nên bị phái làm quan nơi xa và chết ở đó.
Đình trên mặt nước sông
Thương Lang
Bình phong bằng giấy, giường bằng tre.
Mỏi tay, sách tuột giữa trưa hè,
Làm một giấc dài, khoan khoái dậy.
Tiếng sáo thuyền chài thợt thoáng nghe.
ÔNG QUYỂN
Chưa rõ
tiểu sử.
Tháng Tư, ở làng quê
Màu xanh đầy núi, nước đầy sông.
Cuốc kêu giục dã việc nhà nông.
Đang giữa tháng Tư, ai cũng bận.
Chưa hết tằm dâu, đã xuống đồng.
ĐÁI PHỤC CỔ
Tác giả:
Hiệu Thạch Bình, sinh năm 1167, mất 1248, nhà thơ lớn đời Nam Tống với nhiều
tác phẩm mang đậm tinh thần yêu nước và về cuộc sống khổ cực của người nông
dân.
Thôn Hoài sau loạn lạc
Vắng chủ cây đào vẫn nở hoa.
Cánh quạ làm đen vệt ráng tà.
Mấy bức tường xiêu quanh giếng cũ.
Nhà người thì có, thiếu nhà ta.
Ngủ qua đêm ở nhà một nông
dân
Dép cỏ, mũ rơm đi đó đây.
Một năm mà áo vẫn chưa thay.
Bất chợt trời mưa bên núi vắng,
Đành xin trú tạm mái tranh này.
Ếch nhái kêu ran trong giấc ngủ.
Mơ thành con bướm nhởn nhơ bay 1).
Thư nhà mười bức, may tới một.
Trời bắc, trời nam cánh nhạn gầy.
1. Trang Chu thời Xuân Thu năm mơ mình hóa
thành bướm.
Đêm trăng trên thuyền
Đầy thuyền trăng sáng, nước xanh trong.
Sóng im, khí lạnh bốc lên không.
Thi hứng dập dềnh theo bóng nước.
Theo mái chèo bay, hồn bập bồng.
Sao sớm lặng soi dòng nước lạnh.
Nhạn thương hoa héo, khóc rừng đông.
Thấp thoáng lửa chài bên bến cũ.
Cầu khuya, sương ướt lá ngô đông.
LƯ MAI PHA
Chưa rõ
tiểu sử.
Hoa mai và tuyết
Mai tuyết tranh nhau trổ sắc tài.
Thi nhân đành chịu, biết bênh ai?
Về hương, có lẽ mai hơn tuyết,
Nhưng về màu trắng, tuyết hơn mai.
ĐỖ LAI
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, tự Tử Dã, người Đình Giang, nay thuộc tỉnh Chiết
Giang. Ông là bạn học cùng thầy với Vương An Thạch đời Tống.
Đêm lạnh
Có khách ban đêm, lạnh, uống trà.
Lò vừa mới nhóm, đóm như hoa.
Bên cửa trăng treo, không khác lạ.
Chỉ khác hoa mai nở trước nhà.
BẠCH NGỌC THIỀM
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất,còn có tên khác là Tát Trường Canh, tự Như Hối, một
đạo sĩ thời Nam Tống, người Mãn Thanh nay thuộc tỉnh Phúc Kiến. Ngoài thơ văn,
ông còn giỏi về vẽ tranh mai trúc. Tác phẩm: "Hải Quỳnh tập".
Xuân sớm
Hoa mai bất chợt nở sau nhà,
Chỗ nhiều, chỗ ít tuyết sương pha.
Chỗ đậm như trăng, thưa tựa khói,
Sắc nước, sắc trời quyện sắc hoa.
TẦN QUÁN
Tác giả:
Sinh năm 1049, mất 1100, nổi tiếng về sở trường viết từ. Được Tô Thức tiến cử,
ông ra làm quan, sau bị cách chức đầy đi xa và chết ở Đằng Châu, nay thuộc tỉnh
Quảng Tây.
Theo điệu "Đạp sa
hành"
Lầu gác sương che, trăng bến sông.
Tìm mãi nguồn đào, mỏi mắt trông.
Xuân lạnh, quán côi, buồn vô hạn,
Lại thêm tiếng cuốc tái tê lòng.
Cá mang thư lụa 1), hoa mai trạm, 2)
Oán giận, buồn đau vẫn chất chồng.
Thâm sông quấn quít bên Thâm núi,
Tiêu Tương sao mãi cứ chảy về đông.
1. Thơ cổ có câu: "Khách tòng viễn phương
lai. Dĩ ngã song lý ngư. Hô nhi phanh lý ngư. Trung hữu xích tố thư".
Nghĩa là: Khách từ nơi xa đến. Cho ta một đôi cá chép. Gọi trẻ đem mổ cá ra.
Thấy trong bụng cá có bức thư bằng lụa.
2. Thời Ngũ Đại, Lục Khải và Phạm Diệp thân
nhau. Lục Khải gặp người đưa thư từ Giang Nam lên miền bắc, bèn gửi cho Phạm
Diệp một cành hoa mai.
LÝ CƯƠNG
Tác giả:
Sinh năm 1083, mất 1140, từng giữ chức tể tướng triều vua Cao Tông đời Nam
Tống. Ông chủ trương thay đổi chính sự, quyết chống giặc Kim, bị nịnh thần chèn
ép, sau bất đắc chí mà chết.
Con trâu ốm
Từng cày vạn mẫu, giúp nhà nông.
Nay già, ốm yếu chẳng ai trông.
Chỉ muốn mọi người no đủ cả.
Có oan tí chút cũng cam lòng.
LÝ THANH CHIẾU
Tác giả:
Sinh năm 1084, mất 1151, nhà thơ nữ có tài, xuất thân quyền quí, thời kỳ đầu xa thực tế, thơ tao nhã, bay bướm
nhưng tư tưởng nghèo nàm. Về sau, khi nhà Tống chạy xuống phía Nam, sống trong
cảnh lưu lạc, bà có một số bài mang tính hiện thức cao.
Tuyệt cú
Sống làm người hào kiệt,
Chết thành ma anh hùng.
Vẫn chưa quên Hạng Vũ,
Không chịu về Giang Đông.
TRƯƠNG THỨC
Tác giả:
Nhà thơ đời Tống, sinh năm 1133, mất 1180, tự Kính Phu, hiệu Nam Hiên, người
Cẩm Trúc, nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên.
Ngày xuân, chợt hứng thành
thơ
Năm cũ đã qua, trời ấm dần,
Cây cỏ hồi sinh, hửng sắc xuân.
Tự nhiên thi hứng dâng dào dạt,
Gió vờn mặt nước, sóng lăn tăn.
VƯƠNG KỲ
Tác giả:
Không rõ tiểu sử, chỉ biết tên chữ là Lục Kỳ, người đời Tống.
Chiều xuân thăm vườn nhỏ
Hoa mai phấn rụng, héo trên cành.
Hải đường vẫn đỏ, sắc long lanh.
Khi nở trà mi, hoa khác rụng.
Dưới cây thưa thớt đám rêu xanh.
LƯU KHẮC TRANG
Tác giả:
Sinh năm 1187 mất 1269, tự Thế Phụ, hiệu Hậu Thôn, người Bồ Điền, nay thuộc
tỉnh Phúc Kiến, con nhà dòng dõi, có làm quan, nhà thơ nổi tiếng thời Tống. Tác
phẩm: "Hậu Thôn tiên sinh đại toàn tập".
Thoi oanh
Trong bờ liễu biếc có đôi oanh
Bay đi bay lại tựa thoi nhanh.
Lạc Dương vào xuân, như tranh gấm.
Không biết bao lâu mới dệt thành.
Cảnh mùa đông
Ban mai, tỉnh dậy, nắng bên song.
Tiếng thu nghe rõ phía hàng rừng thông.
Sai trẻ quấy siêu pha nước uống,
Dặn người dọn gác, đón mùa đông.
Rượu mới vừa hâm, bàn đã dọn.
Thịt rán ba ba tỏa khắp phòng.
Cúc dại ngoài vườn trông thật đẹp.
Cảnh thế, người sao chẳng ấm lòng?
CHU TẤT ĐẠI
Tác giả:
Sinh năm 1126 mất 1204), tự Tử Sung, người Lư Lăng, nay thuộc tỉnh Giang Tây,
đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Tả Thừa tướng. Tác phẩm: "Ngọc Đường loại
cảo", "Ngọc Đường tạp ký" và "Tĩnh trai tập".
Được vua gọi vào chầu
Quạ chiều, ngọn liễu phía xa xa.
Vua gọi vào cung, cho uống trà.
Trở lại Hàn Lâm, không ngủ được.
Trăng non đầu tháng vướng cành hoa.
LÔI CHẤN
Tác giả:
Không rõ thân thế, sự nghiệp, chỉ biết là nhà thơ đời Tống.
Chiều quê
Ao đầy cỏ mọc, nước đầy khe.
Mặt trời gác núi, gió se se.
Vắt vẻo lưng trâu về xóm nhỏ,
Lũ trẻ vui đùa thổi sáo tre.
HỒNG TƯ QUỸ
Tác giả:
Sinh năm 1176, mất 1235, tự Thuấn Du, hiệu Bình Trai, người Vu Thế, nay thuộc
huyện Lâm An, Chiết Giang, làm quan đến Hàn lâm Học sĩ, thuộc trường phái thơ
Giang Tây.
Thơ viết trong phiên trực ở
viện Hàn Lâm
Cửa Cấm cài then, không bóng người.
Vua ban giấy sắc, mực còn tươi.
Trống điểm canh năm, đêm sắp hết.
Tử vi, hoa trắng một góc trời.
TĂNG CHÍ NAM
Tác giả:
Nhà sư thời Nam Tống. Năm sinh, năm mất chưa rõ, thơ ông tao nhã, tinh tế, nhất
là thể
tuyệt cú.
Tuyệt cú
Thuyền con buộc tạm gốc cây già.
Chống gậy một mình ra bến xa.
Không lạnh chút nào cơn gió liễu.
Áo ngoài thấm ướt bởi mưa hoa.
CHU THỤC CHÂN
Tác giả:
Sinh năm 1170, năm mất không rõ. Bà là nhà thơ, nhà từ nổi tiếng thời Nam Tống,
ngang danh với Lý Thanh Chiếu.
Đêm rằm tháng Giêng
Đèn hoa nhấp nháy tựa sao đêm.
Kèn trống thi nhau rộn trước thềm.
Cảnh vui đúng lúc đang sầu muộn.
Chuyện cũ nằm mơ, lòng yếu mềm.
Những muốn cùng người vui chốc lát,
Dẫu trăng mờ tối, vẫn nâng rèm.
Mải ngắm đèn hoa, quên uống rượu -
Sang năm sợ chẳng có mà xem.
LƯU QUÝ TÔN
Tác giả:
Năm sinh, năm mất không rõ, chỉ biết tự Cảnh Văn, người Tường Phủ, nay là thành
phố Khai Phong tỉnh Hà Nam, từng giữ chức quan nhỏ thời Thần Tông nhà Tống. Ông
có kiến thức uyên bác, giỏi thơ văn. Sau khi chết nhà chỉ toàn sách.
Thơ đề trên vách quán rượu
Nhiêu Châu
Líu lo chim yến khóm đào tươi.
Làm tỉnh giấc mơ đẹp lạ đời.
Đem kể khách nghe, ai cũng diễu.
Cầm gậy, bực mình, lên núi chơi.
ĐÁI MẪN
Tác giả:
Năm sinh, năm mất không rõ, người Đài Châu, Hoàng Nham, nay thuộc tỉnh Chiết
Giang; tự Mẫn Tài, hiệu Đông Cao tử, thi đỗ nhưng không ra làm quan, là cha của
nhà thơ nổi tiếng đời Nam Tống là Đái Phục Cổ.
Đầu hạ, chơi vườn họ Trương
Ao nhỏ vịt bơi, chỗ nước nông.
Đang mùa mai chín, trời xanh trong.
Sấu xanh mà hái trơ còn lá.
Vườn tây có rượu, say vườn đông.
LÂM THĂNG
Tác giả:
Sinh khoảng năm 1180, không rõ năm mất và tiểu sử.
Thơ đề nhà trạm Lâm An
Núi xanh tiếp núi, lầu tiếp lầu.
Tây Hồ múa hát chắc còn lâu.
Gió xuân ấm áp làm say khách,
Cứ nghĩ Hàng Châu là Biện Châu. 1)
1. Bài này tác giả chỉ trích vua tôi nhà Nam
Tống sau khi chạy về Hàng Châu, chỉ lo xây lâu đài, ca hát, không nghĩ tới việc
lấy lại đất đã mất. Biện Châu là kinh đô Bắc Tống bị quân Kim chiếm.
VĂN THIÊN TƯỜNG
Tác giả:
Sinh năm 1236, mất 1282, hiệu Văn Sơn, đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức hữu thừa
tướng. Bị quân Nguyên bắt, giam ba năm không chịu đầu hàng, cuối cùng bị giết.
Thơ ông mang chất bi hùng kế thừa truyền thống của Đỗ Phủ.
Viết trên sông Dương Tử
Mấy ngày chơi biển bắc,
Giờ lại về phía nam.
Xuôi theo dòng Dương Tử,
Bị hút như nam châm.
Trạm Kim Lăng 1)
Nhà cỏ đơn sơ giữa nắng tà.
Đám mây cô quạnh phía đằng xa.
Non sông, phong cảnh nguyên như cũ.
Khác xưa một nửa - người và nhà.
Lầu gác hoang tàn, không én lượn.
Hoa lau già cỗi, giống đầu ta.
Xa quê, ta nguyện làm chim cuốc,
Suốt đời khóc nhớ những ngày qua.
1. Tháng Ba năm 1297 Văn Thiên Tường bị giải
đi Yên Kinh. Tháng Bảy, khi qua Kim Lăng ở nhà trạm, ông viết bài thơ này.
HOA NHẠC
Tác giả:
Sinh khoảng 1225, nổi tiếng là người khí khái, bị bọn gian thần nhiều lần cầm
tù và giết hại.
Nhà nông
Tiếng gà buổi sáng gọi nhà nông
Sửa soạn thức ăn để xuống đồng.
Định đánh thức chồng, còn sợ sớm,
Hé liếp nhìn trời ở phía đông.
DIỆP THIỆU ÔNG
Tác giả:
Không rõ sinh thời ông làm gì, chỉ biết có thể ông sinh vào năm 1224.
Tới vườn chơi, không vào được
Đến thăm mấy bận, cổng then cài.
Còn hằn rêu lạnh dấu chân ai.
Không thể giam xuân sau cánh cổng
Một bông hạnh đỏ ló ra ngoài.
TỪ NGUYÊN KIỆT
Tác giả:
Sinh năm 1196, mất 1245, tự Bá Nhân, người Thượng Nghiêu, nay là Giang Tây. Ông
làm quan đến Công bộ Thị lang. Thơ đằm thắm, trong sáng và nhiều chất trữ tình.
Trên hồ
Oanh hót trên cây, hoa nở hồng.
Cánh cò chới với, nước mênh mông.
Mây quang, gió lặng, người cao hứng.
Chiều buông, tiếng sáo rộn thinh không.
TÀO BÌNH
Tác giả:
Không rõ năm sinh, năm mất, tự Tây Sĩ, hiệu Đông Xuyên, người tổng Thụy An, nay
là Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang.
Chiều xuân
Ngoài vườn hoa rụng, chẳng ai hay.
Xanh đến, chân trời xanh cỏ cây.
Núi rừng yên tĩnh chim oanh hót,
Ếch nhái râm ran ngoài bãi lầy.
CAO CHỬ
Tác giả:
Năm sinh, năm mất không rõ, chỉ biết ông sống đời Nam Tống, tự Cửu Vạn, hiệu
Cúc Kha. Ông ở ẩn không ra làm quan và là thi sĩ thuộc phái giang hồ.
Tiết Thanh Minh
Nhỏ to, nhiều mộ hai đầu núi.
Tảo mộ người đi cũng rất đông.
Tàn tro, vàng mã bay như bướm.
Tiếng khóc tổ tiên khá mủi lòng.
Trời tối, cáo chui vào mộ ngủ.
Đêm khuya, cô gái ngắm gương lồng.
Ở đời có rượu thì nên uống.
Sau chết dưới mồ uống được không?
VƯƠNG TRUNG
Tác giả:
Nhà thơ đời Tống, thân thế, sự nghiệp chưa rõ.
Cơn binh lửa
Loạn lạc chưa yên, dẫu bất bình.
Đầu hai thứ tóc, chịu làm thinh.
Long đong phiêu dạt như Vương Xán. 1)
Giống Đỗ Lăng xưa một tấm tình. 2)
Gửi nửa vành trăng cho Ô Thước. 3)
Đứt ruột một người nghe Quyến Linh. 4)
Giá ở Trung Sơn, nằm uống rượu,
Say đến tận khi nước thái bình!
1. Vương Xán tự Trọng Tuyên, thời Đông Hán,
giỏi mưu lược, thơ văn, long đong trong việc tìm minh chủ để phụng sự.
2. Tức Đỗ Phủ, trong thơ thường đề cập đến nỗi
bất hạnh của dân chúng vì chiến tranh.
3. Tên một loài chim rừng, thường kêu vào ban
đêm, nghe rất thương tâm.
4. Ô Thước - mượn ý câu thơ của Tào Tháo:
Nguyệt minh tinh hy. Ô Thước nam phi, nghĩa là: Trăng sáng sao thưa. Quạ bay về
nam. Ý nói loan to, dân chúng phải khổ sở.
TẠ PHƯƠNG ĐẮC
Tác giả:
Sinh năm 1226, mất 1289, tự Quản Trực, hiệu Diệp Sơn, người Qua Dương, nay là
Giang Tây, từng làm quan. Khi nhà Tống bị diệt, ông đổi tên họ, ẩn cư ở Phúc
Kiến. Nhà Nguyên nhiều lần dùng uy lực buộc ra làm quan, ông không chịu, nhịn
ăn mà chết.
Khúc ngâm người đàn bà nuôi
tằm
Cuốc kêu da diết bốn canh thâu.
Nhỏm dậy, sợ tằm đang đói dâu.
Đã khuya, trăng khuất sau bờ liễu,
Mải vui, người ngọc hát trên lầu.
Mừng hoa đào ở Toàn Am
May có Đào Nguyên để lánh Tần.
Lần nữa hoa đào, lần nữa xuân.
Không sợ hoa rơi, trôi theo nước.
Chỉ sợ có người đến rửa chân.
LÂM CHẨN
Tác giả:
Chưa rõ tiểu sử, chỉ biết tự là Đan Sơn.
Đình Lãnh Tuyền 1)
Mạch nước trong xanh như mạch thơ.
Quanh năm mát lạnh, vỗ hai bờ.
Ra đến Tây Hồ, nước đã khác,
Không còn nhí nhảnh cái ngây thơ.
1. Đình được xây ở Tây Hồ, Hàng Châu, trên núi Phi Lai. Phía
dưới có suối Lãnh Tuyền, suối lạnh.
KHUYẾT DANH
Thơ vặt
Tháng Ba, hàn thực, 1) cỏ xanh tươi.
Gió lộng trên đê, liễu rối bời.
Có quê mà chẳng về quê được.
Xin cuốc đừng kêu, não ruột người.
(1) Hµn thùc lµ tiÕt
sau ®«ng chÝ 105 ngµy, tøc mång 3 th¸ng 3 ¢m lÞch, ngµy TÕt ¨n ®å l¹nh. ViÖt
Nam ta gäi tÕt b¸nh tr«i b¸nh chay.
Thơ vặt
Chiều, sông Vô Địch đượm buồn đau.
Bâng khuâng chợt nhớ Hách Liên lầu.
Đường tới Hàm Quan xa vạn dặm.
Gió thổi, qua đêm bạc trắng đầu.
Bài hát mùa xuân
Hoa xuân thật dễ thương.
Chim kêu buồn bên đường.
Gió thổi tung xiêm áo.
Khiến lòng người vấn vương.
Nhổ cỏ bồ
Líu ríu dưới bóng cây,
Chàng cùng thiếp suốt ngày
Nhổ cỏ bồ làm gối,
Nhổ mãi không đầy tay.
HẾT
No comments:
Post a Comment