Friday, March 27, 2015

TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN



NGỬI VĂN

Có một người mù nọ
Nổi tiếng nghề ngửi văn.
Ngửi một cái là biết,
Cả văn xuôi, văn vần.

Một hôm, có ông Tú
Đưa ông bộ Tây Sương.
Ông đáp: “Tây Sương ký.
Vì thấy toàn phấn hương.”

Tiếp đến là Tam Quốc.
“Đây là cuốn sách nào?”
“Là Tam Quốc Diễn nghĩa.
Chỉ toàn mùi binh đao.”

Ông Tú thán phục lắm,
Đưa tập thơ của mình.”
Ông người mù hít, ngửi
Rồi nói: “Thơ của anh!”

“Ồ vâng, ông giỏi quá.
Sao ông biết thơ tôi?”
“Vì mùi nó thum thủm.
Ngửi là biết thơ tồi.”


CÁ GỖ

Xưa có anh trò Nghệ,
Học giỏi nhưng rất nghèo.
Quanh năm một bộ áo,
Nhà là một túp lều.

Anh dùi mài kinh sử
Và rồi đến kỳ thi,
Ngày lên đường, trong túi
Ngoài sách, chẳng có gì.

Anh đẽo một con cá
Bằng gỗ rồi nướng vàng.
Mỗi lần bước vào quán
Anh xin bà chủ hàng

Một vài thìa nước mắm
Dầm với cá rồi ăn.
Ăn xong lại lau sạch,
Sử dụng rất nhiều lần.

Nhờ con cá gỗ ấy,
Anh tiết kiệm được tiền,
Lên kinh, dù rất đói,
Thi đỗ đầu Trạng nguyên.

Sau đó, từ “cá gỗ”
Dùng để chỉ những ai
Quê xứ Nghệ hiếu học
Vượt khó để thành tài.


LẠI CHUYỆN CÁ GỖ

Có anh hà tiện nọ,
Muốn tiết kiệm, một lần
Nghĩ ra trò láu cá
Để khỏi mua thức ăn.

Anh đẽo con cá gỗ,
Đủ cả vẩy, cả vây,
Treo giữa nhà, và nói
Với vợ con thế này:

“Con cá này béo lắm,
Bố dành cho mẹ con.
Nhìn nó, chép chép miệng,
Coi như ăn cá ngon.”

Thằng Út, mới bốn tuổi,
Háu ăn, ngước nhìn lên
Chép miệng luôn mấy cái,
Bị thằng anh ngồi bên

Mách với bố: “Thằng Út
Nó thấy con cá ngon
Nên cứ chép miệng mãi,
Tranh mất phần của con!”

Anh hà tiện nghiêm mặt:
“Anh em phải nhường nhau.
Ăn thế, sau chết mặn
Sẽ không ai thương đâu.”


MAY QUÁ

Có bác hà tiện nọ,
Một hôm đi ra đồng,
Không may vấp phải đá,
Máu me chảy ròng ròng.

Thế mà bác còn nói:
“Thật may mà thế này!”
Một ông đi ngang hỏi:
“Chảy máu, sao còn may?”

“Là vì tôi, may quá,
Để đôi giày ở nhà.
Nếu không, nó sẽ rách.
Bác bảo không may à?”


CON RẮN VUÔNG

Có anh chàng khoác lác,
Một hôm đi đâu về,
Thấy vợ, quen thói cũ,
Chưa kịp chào, đã khoe:

“Tôi vừa thấy con rắn.
Nếu tôi nhớ không nhầm,
Lưng nó sáu mươi mét,
Dài phải đến hai trăm”

Cô vợ nghe, dướn mắt:
“Chắc anh muốn trêu tôi.
Rắn nào hai trăm mét?”
Chồng gãi tai: “Mà thôi,

Chắc chắn thế này nhé.
Con rắn dài cực kỳ.
Dài đúng một trăm mét,
Tin hay không thì tùy.”

“Không tin, - cô vợ đáp. -
Không thể có trên đời
Con rắn dài trăm mét.
Nói thế, người ta cười.”

Anh chồng bực mình lắm.
“Đàn bà thật ngu đần.
Thì tám mươi mét vậy.
Đúng, không kém một phân!”

“Tám mươi vẫn dài quá.”
Anh chồng liền nổi khùng.
Cô hãy nghe cho kỹ.
Tôi nói lần cuối cùng.

Nó dài sáu mươi mét.
Đúng thế, không đùa đâu.
Cô vẫn không tin hả?”
Cô vợ cười, gật đầu:

“Ừ, thì ra là thế.
Nó là con rắn vuông.
Vuông như cái phản gỗ
Ta đang kê trong buồng.”

Anh nói khoác nhíu mặt:
“Vuông là vuông thế nào?”
“Dài, rộng sáu mươi mét,
Hỏi không vuông là sao?”


BA ANH HẦU

Xưa, một phú ông nọ,
Có ba anh người hầu,
Trung thực tốt, khỏe mạnh,
Nhưng tính tình khác nhau.

Một anh rất trung thực,
Luôn bẩm báo “Thưa ông”.
Anh thứ hai cẩn thận,
Thích lo trước, đề phòng.

Anh thứ ba lễ phép.
Ông chủ nói cái gì,
Cũng chắp tay cảm tạ,
Thậm chí cả lúc đi.

Một hôm con ông chủ
Trượt chân, ngã xuống sông.
“Anh trung thực” về báo:
“Cậu chủ ngã, thưa ông.”

Khi đến cứu, cậu chủ
Đã chết đuối, mất thây.
Phú ông tức giận lắm,
Bèn đuổi việc anh này.

Ông sai “anh cẩn thận”
Đi mua cỗ quan tài.
Anh này mua, thật lạ,
Không phải một, mà hai.

“Là vì con cẩn thận
Cứ mua trước dự phòng.
Nếu ngộ nhỡ bà chủ chủ
Vô tình rơi xuống sông.”

Tất nhiên ông chủ giận,
Đuổi anh ra khỏi nhà.
Vậy chỉ còn người nữa,
Là anh hầu thứ ba.

Ông yêu anh này lắm.
Một lần sang làng bên.
Anh phải cõng ông chủ
Qua một bãi bùn đen.

Giữa chừng, ông chủ nói:
“Phải nói thật thế này.
Hai thằng kia ta đuổi,
Nhưng rất quí chú mày…”

“Anh lễ phép” lễ phép
Vứt ông chủ xuống sông,
Cúi đầu cung kính nói:
“Con rất biết ơn ông.”


MƯỜI VOI KHÔNG ĐƯỢC BÁT NƯỚC XÁO

Xưa, có ba cô gái,
Đến tuổi, đi lấy chồng.
Thành ra nhà ba rể.
Ba ắt tốt hơn không.

Hai anh đầu giàu có,         
Nghiêm chỉnh và đàng hoàng.
Anh thứ ba nghèo khổ,
Lại còn thói huênh hoang.

Một hôm, bố vợ chết,
Hai anh mang lợn, xôi.
Anh thứ ba tay trắng,
Lại khinh khỉnh bĩu môi:

“Lợn hai bác bé quá.
Để bây giờ em đi
Mua mười voi làm cỗ
Chừng ấy thấm tháp gì.”

Rồi anh ta đi thật.
Đi đâu không ai hay,
Bắt người ta chờ mãi,
Cho đến khi tối ngày

Anh ta mới quay lại,
Tay không vẫn tay không,
Rồi làm bộ giận dữ:
“Thật đúng là mất công.

Cái nhà kia thật láo,
Tôi định mua mười voi,
Mà hắn chỉ có tám,
Thế là chờ công toi.”

Rồi anh ta ngồi xuống,
Thản nhiên chén ngon lành,  
Lại chê con lợn bé,
Không có mỡ trong canh.

Từ đấy mới có chuyện
Nói khoác những mười voi,
Không được bát nước xáo.    
Một anh rể không tồi.


BÁNH TAO ĐÂU?

Có một ông đồ nọ
Tính tham lam, một lần
Được mời dự cơm khách,
Ông tranh thủ cố ăn.

Đến khi ăn kễnh bụng,
Thức ăn vẫn đang còn,
Nhất là chiếc bánh nếp
Vừa to lại vừa ngon.

Ông cầm lấy chiếc bánh,
Rồi thản nhiên như không,
Đưa cho thằng hầu nhỏ
Luôn có mặt bên ông.

Ông nháy mắt ra hiệu:
“Của tao, mang về nhà.”
Thằng bé ngốc, không hiểu,
Tưởng ông cho, thế là

Nó ngấu nghiến ăn hết.
Lúc trở về, dọc đường,
Ông đồ hậm hực lắm.
Cáu kỉnh rất bất thường.

Ông quát: “Thằng này láo.
Sao dám đi ngang hàng?
Anh em với mày hả?”
Thằng hầu liền vội vàng

Để cho ông đi trước.
Nhưng ông lại nói ngay:
“Mày đi sau, như thể
Tao là tù của mày!”

Thằng bé lên đi trước.
Ông mắng: “Thật hỗn hào!
Chỉ thầy mới đi trước.
Mày không biết hay sao?”

Ông đồ cứ vô cớ
Hành hạ mãi thằng hầu.
Cuối cùng ông mới nói:
“Chiếc bánh của tao đâu?”


CƯỠI NGỖNG MÀ VỀ

Một anh keo kiệt nọ,
Bỗng có khách chơi nhà.
Ngoài sân đầy gà ngỗng,
Vẫn nhăn nhó kêu ca:

“Chẳng mấy khi bác đến,
Mà nhà chẳng có gì
Để làm cơm đãi bác.
Vẫn thế đấy, đôi khi…”

“Thì tôi có con ngựa, -
Ông khách đáp ân cần. -
Bác cứ đem làm thịt,
Anh em ta cùng ăn.”

Chủ nhà đáp: “Không được.
Bác còn phải đi xa.
Không ngựa lấy gì cưỡi.
Làm thế nào về nhà?”

Khách đáp: “Ừ thì bác
Xem đàn ngỗng ngoài hè
Có con nào to béo,
Cho tôi mượn cưỡi về.”


TRỨNG NGÓT                

Có một cô gái nọ
Lấy chồng, về làm dâu.
Một hôm mẹ chồng bảo
Xuống bếp luộc nồi rau.

Cô luộc xong, thật lạ,
Trước cả một nồi đầy,
Giờ chỉ còn một nửa.
Ôi, biết làm sao đây?

Cô sợ quá, ngồi khóc.
Mẹ chồng hỏi vì sao?
Cô nói hết sự thật.
Mẹ chồng cười: “Ôi dào,  

Rau luộc nó phải ngót.
Chuyện bình thường thôi mà.”
Cô gái nghe, mừng lắm,
Bây giờ mới hiểu ra.

Mấy hôm sau, luộc trứng,
Luộc mười quả trong nồi.
Cô lấy ăn một nửa,
Vẫn thòm thèm, và rồi

Khi bà mẹ chồng hỏi:
“Còn năm quả thôi à?”
Cô đáp: “Trứng nó ngót.
Chuyện bình thường thôi mà.”


VẮT CỔ CHÀY RA NƯỚC

Một ông chủ keo kiệt
Có việc ở quê nhà,
Bèn sai anh đầy tớ
Về làm hộ ông ta.

Anh đầy tớ chất phác,
Hiền lành và dễ thương,
Xin ông ít tiền lẻ
Để uống nước dọc đường.

Ông keo kiệt nhăn mặt.
“Khéo vẽ chuyện, đi đi.
Dọc đường đầy sông suối.
Vào quán mà làm gì?”

“Thưa ông, giờ đang hạn.
Sông suối khô từ lâu…”
Ông chủ anh bèn nói,
Sau một lúc gãi đầu:

“Thôi, tao cho mày mượn
Chiếc bao tải bằng đay.
Khát, vắt ra mà uống.
Thừa đủ nước mấy ngày.”

“Dạ, mang bao tải nóng.
Giờ không phải mùa đông.
Hay ông cho con mượn
Chiếc chày nhỏ của ông?”

Ông keo kiệt không hiểu:
“Nó chỉ để giã cua.
Mày cần gì đến nó?
Đúng cái thằng quê mùa.”

“Bẩm, cứ cho con mượn.
Để khi khát, dọc đường
Con vắt nó lấy nước,
Cũng là chuyện bình thường.”

*
“Vắt cổ chày ra nước”,
Câu thành ngữ ngày nay
Để chỉ người keo kiệt,
Xuất phát từ chuyện này.


CHỌN RỂ LƯỜI

Một ông nhà giàu nọ
Có cô con rất xinh.
Nhiều chàng trai ngấp nghé,
Muốn hỏi vợ cho mình.

Nhưng họ phải thất vọng
Vì ông già khác người,
Tuyên bố gả con gái
Chỉ cho anh nào lười.

Tức là loại lười nhất.
Loại lười cực văn kỳ.
Chẳng hiểu ông giàu ấy
Cần rể lười làm gì.

Mà rồi việc kén chọn
Hóa ra không dễ dàng.
Bằng chứng là nhiều tháng
Không ai lấy được nàng.

Ông nhà giàu buồn lắm,
Nghĩ mình đức không dày
Nên mới bị trời Phật
Bắt phải khổ thế này.

Bỗng một hôm ông thấy
Có chàng trai đến nhà,
Như nhiều chàng trước đấy,
Tay bê một mâm quà.

Có điều anh chàng ấy
Không đi đứng bình thường,
Mà giật lùi mới lạ,
Mặt cũng rất chán chường.

Ông hỏi thì chàng đáp
Rằng chàng tính thích lười.
Đi giật lùi hỏi vợ,
Không được, đỡ quay người.

Ông nhà giàu nghe thế,
Vui như bắt được vàng.
Đúng là lười vô địch,
Và gả con cho chàng.

*
Nhân đây chợt nhớ chuyện
Xưa có ông vua già
Phải khổ sở kén rể
Cho con gái ông ta.

Tiêu chuẩn để được chọn
Tiếc là không phải lười,
Mà là ai sạch nhất.
Vâng, sạch nhất trên đời.

Vua cho mười nghìn lính
Lùng sục khắp nước ngài
Để tìm người sạch nhất
Mà chẳng tìm được ai.

Cuối cùng một chàng nọ
Đã được rước về cung
Kết duyên cùng công chúa,
Vì chàng sạch vô cùng.

Chả là người ta thấy
Chàng đi tè, mỗi lần
Đều dùng một đuôi đũa
Gắp “cái ấy” khỏi quần.


THI NÓI KHOÁC

Bốn ông quan, ngày nọ,
Thi nói khoác với nhau
Xung quanh một bàn rượu.
Quan thứ nhất bắt đầu:

“Tôi nhớ hồi còn trẻ
Từng thấy một con bò
Liếm một cái, chén hết
Cả một sào mạ to.”

Quan thứ hai đáp lại:
“Bò ấy cũng thường tình.
Tôi biết có dây buộc
Lớn gấp mười cột đình.”

“Nó nói lỡm mình đấy, -
Quan thứ nhất hiểu ngay. -
Ý nói sợi dây ấy
Để dắt con bò này.”

Quan thứ ba lên tiếng:
“Các vị không tin đâu,
Nhưng tận mắt tôi thấy,
Dài lắm, một chiếc cầu.

Nó rất dài, đến mức
Một ông bố qua đời.
Anh con sang chôn cất,
Thế mà rồi đến nơi,

Mộ bố đã xanh cỏ.
Ba lần giỗ trôi qua.
Chiếc cầu dài thế đấy.
Các bác không tin à?”

Quan thứ tư lên tiếng:
“Cũng không đến nỗi nào.
Còn tôi thì tôi thấy
Một chiếc cây rất cao.

Đến mức một quả trứng
Rơi từ tổ, và rồi
Đến lưng chừng trứng nở,
Chim lớn, bay lên trời.”

Bốn ông quan đắc chí,
Vỗ đùi cười hà hà.
Bỗng có tiếng quát lớn:
“Trói bọn chúng cho ta!”

Các quan sợ hết vía.
Ngoái lại, thấy thằng hầu
Đang cười, đứng bên cạnh.
Hắn lễ phép, cúi đầu:

“Xin các quan tha chết.
Thấy chuyện các quan hay,
Con mạo muội, thất lễ
Đùa một chút thế này.”


HỎI ĐƯỜNG LÊN TRỜI

Một bà già góa nọ
Có cô con khá xinh.
Thuê ông đồ dạy học,
Ăn ở ngay nhà mình.

Ông đồ này giỏi chữ,
Giỏi cả tính trăng hoa.
Miệng nói chuyện Khổng Tử,
Mắt liếc con người ta.

Hai mẹ con bà chủ
Nằm trên gác, ban đêm,
Ông đồ trằn trọc mãi,
Tơ tưởng cái tòm tem.

Rồi ông mò lên gác.
Bà chủ nhà quát to:
“Ai? Làm gì đêm tối…”
Chữa thẹn, ông thầy đồ

Đành nói liều: “Xin lỗi,
Đây là đường lên trời?
Tôi hỏi khí không phải.
Không dám phiền hai người.”


CHUỘT THI NÓI KHOÁC

Có ba chú chuột nhắt
Tán gẫu bên gốc cây,
Rồi thi nhau nói khoác.
Một chú nói thế này:

“Tớ có một cái thú,
Là ngủ dậy, hôm nào
Cũng chui vào bẫy chuột
Để chơi trò lộn nhào.”

Con thứ hai liền đáp:
“Thế có gì mà khoe.
Tớ chuyên lấy bả chuột
Pha uống thay cà phê.”

Chú thứ ba lặng lẽ
Bấm điện thoại: “Mèo à?
Mày đến đón anh nhé.
Rồi ta đi uống trà.”


LỢN CƯỚI ÁO MỚI

Có anh hay khoe của,
Một hôm được vợ thương,
May cho chiếc áo mới.
Anh mặc, đứng ngoài đường.

Anh chơ để khoe áo.
Chờ từ sáng đến chiều
Mà chẳng ai chú ý,
Dù khách qua lại nhiều.

Anh ta bực mình lắm,
Đang định về, bất ngờ
Có một ông hàng xóm
Chạy đến, mặt bơ phờ.

“Tôi có con lợn cưới,
Giá những một trăm đồng.
Nó sổ chuồng, chạy mất.
Bác có thấy đâu không?”

Anh khoe của mừng lắm,
Túm lấy bác “bơ phờ”,
Chỉ áo mình và nói
“Suốt từ sáng đến giờ

Tôi mặc chiếc áo mới,
Chiếc áo đẹp thế này,
Mà không hề nhìn thấy
Con lợn nào qua đây.”


THÀ CHẾT CÒN HƠN

Xưa có anh keo kiệt
Sợ tốn, không đi đâu.
Nhịn ăn, nhịn cả mặc,
Chỉ ki cóp làm giàu.

Một hôm có anh bạn
Rủ lên tỉnh đi chơi.
Tiếc tiền, từ chối mãi,
Cuối cùng cũng nhận lời.

Anh ta vào buồng tối,
Mở hũ lấy năm quan
Dắt lưng, đi lên tỉnh,
Vui, nhưng thấy bất an.

Chợ tỉnh nhiều cái đẹp,
Nhưng mua lại tiếc tiền,
Nên chẳng mua gì cả.
Năm quan vẫn còn nguyên.

Khát không dám vào quán,
Chờ đò tới giữ dòng,
Anh ta cúi, uống nước,
Không may ngã xuống sông.

Anh bạn kêu: “Cứu, cứu!
Thưởng năm quan! Cứu mau!”
Anh hà tiện nói: “Đắt!
Tôi không đồng ý đâu!”

“Thì ba quan!” “Vẫn đắt!
Tôi thà chết! Không, không…
Và rồi anh ta chết,
Xác chìm nghỉm giữa dòng.


THẤY U NÓ, TÔI MỪNG

Xưa có anh chàng nọ
Sợ vợ loại nhất làng,
Lại có tính ăn vụng.
Thật tội nghiệp anh chàng.

Một hôm, vợ đi vắng,
Nướng khoai ngoài bờ tre,
Khoai vừa chín, chàng thấy
Vợ bất ngờ quay về.

Cố lấy bộ bình tĩnh,
Chàng sửa áo, sửa khăn,
Liền chạy ra chào vợ.
Củ khoai đút túi quần.

Tiếc là củ khoai nóng,
Lại áp sát vào người,
Chàng cứ phải liên tục
Nhảy nhảy, rất buồn cười.

Thấy lạ, vợ tra hỏi.
Không một chút ngập ngừng,
Vẫn nhảy nhảy, chàng đáp:
“Thấy u nó, tôi mừng.”


ÔNG QUAN THANH LIÊM

Có ông quan huyện nọ
Nổi tiếng rất thanh liêm.
Biếu vàng bạc không lấy.
Đưa của đút, không thèm.

Một lần, làng có chuyện
Kiện cáo với làng bên,
Muốn nhờ quan xử thắng,
Bèn lén lút đưa tiền.

Quan bà nói: “Không được.
Ông nhà tôi rất nghiêm.
Xứ này ai chẳng biết
Ông là quan thanh liêm.”

Dân làng nài nỉ mãi,
Quan bà mới động lòng,
Rỉ tai họ một cách
Biếu quà cho quan ông.

“Ông nhà tôi tuổi Tý.
Các bác về chung nhau
Đúc một con chuột bạc.
Chắc quan không mắng đâu.”

Làng làm đúng như thế,
Đã thắng kiện làng bên.
Còn ông quan liêm khiết,
Nổi tiếng một người hiền,

Thì trách vợ: “Ngu quá!
Sao không bảo dân làng
Rằng quan ông tuổi Sửu,
Và đúc trâu bằng vàng?”


GIÀN LÝ SẮP ĐỔ

Có thầy đề sợ vợ.
Một hôm bị vợ cào
Hay cấu xước cả mặt,
Mà không hiểu vì sao.

Với cái mặt xước ấy,
Anh chàng đến công đường.
Quan huyện hỏi: “Sao vậy?”
“Bẩm quan, chuyện bình thường.

Hôm qua ngồi hóng mát
Dưới giàn lý đầu hồi,
Bất chợt nó sụp đổ,
Làm xước mặt, thế thôi.”

Quan huyện không tin lắm,
Bèn hỏi vặn: “Nói đi.
Giàn lý nào sụp đổ?
Chắc vợ cào chứ gì?

Đừng sợ, cứ kể thật.
Ta bảo bọn sai nha
Đến đánh cho một trận.
Phải nghiêm với đàn bà.

Cái giống ấy luôn thế.
Được chân, lân đằng đầu.
Phải thật nghiêm với chúng
Không thì sẽ… Ngờ đâu,

Quan bà nghe từ nãy,
Liền hầm hầm bước vào.
Tay cầm chiếc cán chổi.
Trông đáng sợ làm sao.

Quan huyện xanh mặt nói:
“Ôi, giàn lý nhà ta
Có lẽ cũng sắp đổ.
Thôi, ngươi đi về nhà.”


THƠ CON CÓC

Có ba anh chàng nọ,
Tiếng học trò, lưng dài,
Mà học chẳng chịu học,
Nên dốt đặc cán mai.

Một hôm, ba chàng ấy
Đến xin chữ thánh hiền
Của một ông đồ Nghệ
Dạy học ở làng bên.

Sau mấy lời thăm hỏi,
Ông đồ bảo ba chàng
Trổ tài thơ, và vịnh
Con cóc ngồi trong hang.

Anh thứ nhất tắc tị,
Hết ầm rồi lại à:
“Con cóc trong hang tối.
Con cóc nó nhảy ra.”

Anh thứ hai đọc tiếp:
“Con cóc nó nhảy ra,
Con cóc lại ngồi đó.”
Đến lượt anh thứ ba.

“Hay, hay tuyệt! - Anh nói. -
Rồi con cóc làm gì?
Con cóc đã ngồi đó
Thì con cóc nhảy đi!”

Cả ba chàng thích thú
Khen, nịnh nhau hết lời,
Để lại bài thơ ngắn
Về con cóc cho đời.


ĐẼO CÀY GIỮA ĐƯỜNG

                   Một bác nông dân nọ
Ngồi đẽo cày giữa đường.
Đẽo cày để cày ruộng
Là một việc bình thường.

Không bình thường ở chỗ
Là bác nông dân này
Đem khúc gỗ ra đẽo
Giữa đường, giữa ban ngày.

Đang say sưa làm việc
Thì một ông đi qua,
Bảo đẽo thế không được,
Phải thế này! - Thế là

Bác nông dân chất phác
Nghe có lý, làm theo
Rồi một người khác đến
Cũng bày vẽ đủ điều.

Rồi nhiều người nữa đến
Góp ý việc đẽo cày.
Toàn những ý kiến tốt,
Thế mà rồi cuối ngày,

Bác nông dân thất vọng
Chẳng thấy cày ở đâu.
Chỉ thấy còn đoạn gỗ
Hụt cả đuôi, cả đầu.

*
Từ chuyện này có thể
Rút bài học, đó là
Việc mình, mình quyết định,
Đừng lắm thầy rầy ma.


ĂN RAU MÁ, PHÁ ĐƯỜNG TÀU

Theo truyền thuyết kể lại,
Võ sư Lý Thanh Vân
Là một người nổi tiếng
Sống vào thời nhà Tần.

Chỉ nhờ ăn rau má,
Dùng thuốc loại cây này,
Khi chết, ba trăm tuổi,
Da còn đỏ phây phây.

Có một vị hoàng đế
Tên là Aruna,
Thế kỷ thứ mười một,
Ở nước Sri Lanka.

Ông vua này đã gọi
Rau má là “quốc rau”,
Vì nó giúp ông khỏe,
Tám mươi tuổi, bạc đầu,

Mà vẫn “phục vụ” tốt
Đúng một trăm cung tần.
Đơn giản vì rau má
Có trong mỗi món ăn.

Còn tích ăn rau má
Để rồi phá đường tàu
Của người dân Thanh Hóa
Thì ta biết từ lâu.

Ấy là tàu của Pháp,
Xưa chạy qua tỉnh này
Bị người dân làm đổ.
Kế đơn giản, mà hay.

Cũng nhờ ăn rau má
Mới phá nổi đường tàu.
Nên tự hào là phải.
Không ăn thì còn lâu.

Nhưng việc gọi rau má
Là đặc sản vùng này
Thì kể cũng hơi quá
Vì rau má xưa nay

Được người dân cả nước
Gọi là rau của mình,
Và nó luôn có mặt
Trong bữa cơm gia đình.

Dân Thanh Hóa còn phịa
Một sự tích ly kỳ
Về rau má của họ.
Tin hay không thì tùy.

Dân đông, đất đai ít,
Lại lũ lụt thường xuyên,
Xưa dân Thanh Hóa đói,
Thường ngửa mặt kêu rên.

Ngọc Hoàng nghe, xuất hiện,
Rồi ban cho xứ này
Một loài rau đặc biệt
Là rau má ngày nay.  

Loài rau này ngon, bổ,
Lại cực kỳ dễ trồng.
Nó tự mọc như cỏ
Trong vườn và ngoài đồng.

Vì là quà trời tặng
Nên rau má ở đây
Lá to như cái bát,
Cộng lá bằng gang tay.    

Nó thành rau “đặc sản”,
Được tôn làm “tỉnh rau”,
Thành “văn hóa rau má”,
Nhưng không phá đường tàu.         

Tôi là dân cá gỗ,
Đến Thanh Hóa cũng nhiều,
Chưa thấy to đến thế.
Hay Thanh Hóa nói điêu?

No comments:

Post a Comment