Sunday, March 22, 2015

CỔ THI TÁC DỊCH - VƯƠNG DUY




Tác giả: Sinh năm 701 mất 761, người Hà Đông (nay là Vĩnh Tế, Sơn Tây), tên chữ là Ma Cật, xuất thân trong một gia đình quan lại lớn, đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 9 (721), từng làm Hữu tập di, Thượng thư hữu thừa... Cuối đời theo Phật, được người đời tôn là Phật Thi; ông còn là một họa sĩ thủy mặc nổi tiếng. Tác phẩm: "Vương Ma Cật tập".

Quán Trúc Lý

Hết đàn rồi lại hát,
Một mình giữa rừng cây.
Chỉ trăng và gió mát.
Chẳng bị ai quấy rầy.

Núi Hoa Tử

Chim bay hoài không dứt.
Núi Hoa Tử nối nhau,
Hết lên rồi lại xuống,
Đã sầu càng thêm sầu.

Khúc hát Vị Thành

Vị Thành mưa bụi trắng như mây.
Chớm xuân, quán rượu nụ đầy cây.
Ra khỏi Dương Quan là đất lạ.
Nào thêm chén nữa lúc chia tay.

Tiễn bạn ở Y Hồ

Hoàng hôn, ra bến nước,
Thổi sáo lúc chia tay.
Từ hồ ngoái nhìn lại,
Thấy núi xanh đầy mây.

Trại Mộc Lan

Núi thu vét nhặt chút hương ngày.
Líu ríu chim rừng, chim nhạn bay.
Mờ mờ ảo ảo màu cây cối.
Hoàng hôn, sương núi đã rơi đầy.

Vùng đất thấp Liên Hoa

Hái sen thường về muộn,
Vì bãi cát ven sông.
Nhẹ khua chèo, để nước
Không ướt cánh sen hồng.

Lục ngôn tứ tuyệt

Hoa đào ướt đẫm mưa đêm.
Sương treo trên lá liễu mềm.
Lá rụng, người nhà chưa quét.
Khách ngủ, chim kêu ngoài thềm.

Ngày Trùng Cửu, nhớ anh em ở Sơn Đông

Làm khách một mình nơi đất xa,
Hôm nay nhớ bạn ở quê nhà.
Anh em có lẽ cùng lên núi,
Thù du 1) cài tóc, thiếu mình ta.

1. Một loại cây có hoa đẹp. Ở Sơn Đông, vào ngày tết Trùng Cửu mồng chín tháng Chín, người ta leo núi, bẻ cành thù du cài lên đầu lấy phước.

Nghe tú tài Bùi Địch ngâm thơ, đùa tặng

Ngâm gì như vượn hót.
Nghe mà thật não lòng.
Thôi im cái giọng ấy,
Kẻo buồn khách trên sông.

Lộc Trại

Rừng vắng không thấy người,
Nhưng nghe rõ tiếng cười.
Nắng chiều va vào núi,
Lên rêu xanh đang rơi.

Núi Hoa Tử

Chim cứ chao lượn mãi.
Núi nhấp nhô ngả màu.
Đường viền dãy Hoa Tử
Nhìn bỗng buồn hồi lâu.

Lũng Tân Di

Hoa phù dung nở chóp cây xanh.
Một vùng đỏ rực bốn xung quanh.
Bên khe, nhà nhỏ người đi vắng,
Hoa bông mới nở, bông lìa cành,

Vũng Loan Gia

Mưa thu, từ kẽ đá
Chảy thành những dòng nông.
Con cò sợ, sà xuống,
Lại vội vút lên không.

Tiệp Dư 1) họ Ban

Điện vắng người, cửa sổ
Lập lòe đom đóm bay.
Đêm thu ngồi tựa trướng,
Đèn mờ ảo, lắt lay.

1. Một chức quan nữ phục vụ trong cung thời Trung Quốc phong kiến.

Thơ tặng Thôi Hưng Tông lúc chia tay

Giờ chia tay, dừng ngựa.
Trời lạnh, giữa hoàng hôn.
Phía trước phong cảnh đẹp,
Nhưng một mình vẫn buồn.

Từ núi, gửi các em gái

Ở đây nhiều đạo hữu.
Đọc kinh, thiền suốt ngày.
Từ thành xa đứng ngắm
Chắc chỉ toàn thấy mây.

Chân dung Thôi Hưng Tông

Vẽ chú lúc còn trẻ,
Nay chú già, râu dài.
Nhưng giờ người quen chú
Biết chú xưa đẹp trai.

Chú Chín họ Thôi 1) sắp đi
Nam Sơn, bên ngựa đọc tiễn

Mấy hôm nữa lại gặp,
Giờ bên thành, chia tay.
Đi thôi, hoa đang nở,
Kẻo hoa lại rụng đầy.

1. Có thể là Thôi Hưng Tông, con em nhà đằng caụa của Vương Duy.

Lại làm thơ khuyên Bùi Địch

Biết khó mà thoát tục,
Xa cuộc sống ồn ào,
Nhưng cứ chống gậy gỗ
Đi về hướng Nguồn Đào. 1)

(1) Tøc lµ khe Sa La, phía nam s«ng Ngoan Thñy, huyÖn §µo Nguyªn, ®­îc xem lµ n¬i lý t­ëng ®Ó ë Èn.

Thơ vặt

Xuân, lại nghe chim hót.
Cành mai lại nở hoa.
Buồn buồn nhìn nhánh cỏ,
E nó leo vào nhà.

Lời than thở trong cung

Trăng lạnh, mùi hoa như thấm sương.
Tiếng đàn réo rắt cung Chiêu Dương,
Như giọt đồng hồ ai thêm nước.
Để kéo dài thêm giọt chán chường.

Tặng Vi Mục

Cùng nặng lòng mây núi,
Không chịu về Đông Sơn.
Chắc đường đi tới đấy
Giờ cỏ mọc nhiều hơn.

Ghi lại

Mưa phùn, gác mờ tối.
Không mở cửa vì lười.
Nhìn đám rêu chợt thấy
Nó muốn bám áo người.

Tiễn biệt

Chiều, tiễn nhau trong núi.
Về đóng liếp tranh dày.
Sang năm cỏ lại mọc.
Liệu khách còn tới đây?

Gửi chồng ở xa
Bài một

Chồng hão danh lính thú,
Vợ nhan sắc phai dần.
Trang điểm xong lặng lẽ
Khóc, ngắm cành hoa xuân.

Gửi chồng ở xa
Bài bốn

Đầy sương mù, hôm ấy
Chàng và thiếp chia tay.
Giờ đứng nhìn chỉ thấy
Phía chàng trời đầy mây.

Gửi chồng ở xa
Bài năm

Trắng và mềm như lụa,
Trăng rất sáng đêm nay.
Để soi lòng của thiếp,
Trăng sáng đến rạng ngày.

Thú điền viên
Bài một

Hái hoa súng về, gió nổi.
Chống gậy ven thôn chiều tà.
Cây Hạnh 1) có người đánh cá.
Bên suối Đào Hoa có nhà.

1) S¸ch Trang Tö cã viÕt: "§øc Khæng Tö ®i ch¬i rõng Tri Duy, ngåi trªn ®µn cã c©y H¹nh (H¹nh §µn), c¸c häc trß cña ngµi ®äc s¸ch. Ngµi gÈy ®µn, ®­îc nöa khóc th× cã mét ng­ phñ r©u tãc b¹c ph¬ bá thuyÒn c©u lªn nghe".

Thú điền viên
Bài hai

Hè mà thông như vẫn lạnh.
Xuân về cỏ mọc xanh non.
Trẻ hồn nhiên, không danh lợi.
Trâu thuộc đường, tự về thôn.

Thú điền viên
Bài bốn

Hoa đào đỏ ngậm mưa đêm.
Liễu xanh mầm non mới nhú.
Hoa rụng chưa quét ngoài thềm.
Chim hót, khách lười vẫn ngủ.

Thú điền viên
Bài năm

Uống rượu cùng nhau bên suối.
Ôm đàn ngồi tựa gốc thông.
Sáng bẻ bông quỳ phía bắc,
Đêm nằm trong hang phía đông.

Đưa ma Ân Tử

Đưa tiễn ông về núi Thạch Lâu.
Táng xong, thấy bách vẫn xanh màu.
Từ nay xương trắng vùi mây trắng.
Chỉ nước xuôi về mang nỗi đau.

Khúc hát về những người trẻ tuổi

Tân Phong rượu quý sẵn, hàng ngày
Khách trẻ Hàm Dương vẫn tới đây.
Gặp nhau, cảm nhau mà nâng chén.
Ngựa buộc bên lầu, dưới gốc cây.

Than tóc bạc

Ngày nào trai trẻ, giờ răng móm,
Tóc đen nay đã trắng trên đầu.
Kiếp người bao chuyện buồn như vậy,
Không mong vào chùa thì vào đâu?

Tiết hàn thực trên sông Tị

Bên thành Quảng Vũ buổi chiều xuân,
Khách Mấn lên đường, lệ ướt khăn.
Chim hót, hoa rơi, cây liễu nhỏ
Nhìn khách sang sông, bóng khuất dần.

Ao Mạnh Thành

Dọn về ở Mạnh Thành.
Liễu già soi bóng nước.
Ai sẽ đến sau ta?
Thương cho người ở trước.

Khúc đêm thu

Giọt nước đồng hồ tí tách rơi.
Trăng khuya mờ ảo phía chân trời.
Thu đến, áo chàng chưa kịp gửi,
Xin đừng rơi sớm, lạnh, sương ơi.

Tặng quan trung thư họ Tử
bài "Trông núi Chung Nam"

Chiều, từ Tử Vi 1) xuống.
Đời oan trái nhiều bề.
Dừng ngựa bên song thụ,
Mải ngắm cảnh, quên về.

(1) Tøc Tö Vi tØnh, n¬i c¸c quan Quang Trung lµm viÖc.

Lời tiễn xuân

Người già thêm từng ngày.
Xuân đi rồi xuân đến.
Tiếc gì cánh hoa bay.
Sẵn rượu, cứ nâng chén.
.
Thơ đề chơi trên phiến đá

Chiếc bàn đá nhỏ dưới lùm cây.
Bên suối, long lanh chén rượu đầy.
Nếu quả gió xuân vô tri giác,
Sao xua hoa rụng đến nơi này?

Thơ vặt

Bác vừa từ quê ra,
Chắc biết rõ chuyện nhà.
Bụi mai vàng bên giếng
Dạo này vẫn nhiều hoa?

Khe chim kêu

Người nhàn, hoa quế nở.
Lặng im rừng đêm hè.
Trăng mọc làm chim sợ.
Giật mình, kêu dưới khe.

Khúc đêm thu

Vừa mới chớm thu, lạnh đã se.
Chưa thay áo mỏng mặc mùa hè.
Nghe mãi sáo đàn rồi cũng chán,
Nhưng ngại phòng không, chưa muốn về.

Nhớ nhau

Giống đậu núi Ngũ Lĩnh
Thu đến mọc rất nhanh.
Ăn nó nhớ nhau lắm.
Hái nhiều nữa đi anh!

Tiễn biệt

Tiễn người Nam Phố, lệ như mưa.
Khi đến Đông Châu xin hãy thưa,
Nhắn giúp: Bạn bè ngày một ít,
Khác thời còn ở Lạc Dương xưa.

Đình bên hồ

Thượng khách bước lên thuyền.
Thuyền rẽ sóng tiến lên.
Ngồi trên hiên, uống rượu.
Bốn phía đều hoa sen.

Cùng viên ngoại Lư Tượng thăm
nhà trong rừng của xử sĩ Thôi Hưng Tông

Cây xanh, bóng rợp, mát nơi nơi.
Rêu bụi không dây, có một người
Ngồi dưới gốc thông, đầu tóc xõa
Mắt trắng nhìn quanh nhận xét đời. 1)

(1) NguyÔn TÞch (cuèi ®êi Ngôy) lµ mét trong b¶y ng­êi hiÒn ë Tróc L©m, tôc truyÒn khi tiÕp ng­êi thanh cao, «ng nh×n b»ng ®«i m¾t xanh, khi gÆp kÎ xÊu m¾t «ng cã mµu tr¾ng.

Tức phu nhân 1)

Đâu vì được yêu mến
Mà quên mất tình xưa.
Khóc, ngắm hoa, lời nghẹn
Không nói gì với vua.

1) Vèn lµ vî vua n­íc Tøc thêi Xu©n thu. Së diÖt Tøc, vua Së Ðp nµng lµm vî m×nh, dï sinh ®­îc hai con nh­ng nµng kh«ng bao giê nãi mét lêi nµo víi Së V­¬ng.

Đưa chân ông Nguyên Nhị đi sứ An Tây

Mưa nhỏ Vị Thành, mưa lây rây.
Quán khách xanh xanh khói liễu bay.
Ra khỏi Dương Quan toàn khách lạ.
Ông hãy cùng tôi uống chén này.

Tiễn biệt

Vừa tiễn bạn trong núi.
Cửa đóng, ánh chiều tà.
Mới xuân, cỏ lại mọc.
Liệu bạn đã về nhà?

Nhớ nhau

Nguồn gốc từ nước Nam,
Đậu đỏ, kia, đã nở.
Xin bác hái thật nhiều -
Nó gợi ta thương nhớ.

Tiễn Chu Đại vào Tần

Tiễn bác đi Vũ Lăng.
Đây, thanh kiếm nghìn vàng.
Chia tay, xin cởi tặng
Cùng tấm lòng tao khang.

Ao Ngưng Bích

Muôn nhà chiến sự, lắm gian nan.
Mong sớm chầu vua - lòng các quan.
Trong cung quạnh quẽ hoa hòe rụng.
Ngoài ao Ngưng Bích rộn tiếng đàn.


Bát trân đồ

Giúp chia ba thiên hạ,
Lưu mãi bát trận đồ. 1)
Nước chảy, đá còn đó.
Chỉ hận không đánh Ngô.

1). Trận địa của Gia Cát Lượng bày trên bãi cát phẳng ở Ngư Phục, có tám lối vào ra gọi là bát trận.

Miếu Vũ Hầu 1)

Núi cao, miếu mọc đầy cây cỏ.
Xung quanh, nét vẽ nhạt trên tường.
Văng vẳng lời ông từ biệt chủ 2),
Nhưng không về ẩn núi Nam Dương.

1). Tức Khổng Minh.
2). Tức Hậu Chủ, con Lưu Bị.

Sống nhàn ở Võng Xuyên
Bài hai

Núi lạnh màu xanh biếc.
Suối róc rách suốt ngày.
Chống gậy đứng trước cửa,
Nghe ve kêu trên cây.
Bên sông, mặt trời lặn.
Trên gò, khói lam bay.
Hát ngông trước Ngũ Liễu
Lại Tiếp Dư đang say.

Ngắm cảnh sông Hán

Tam Tương liền Ải Sở
Kinh Môn chín nhánh thông.
Sông chảy xa tít tắp.
Núi khi thấy, khi không.
Sóng lô xô, vời vợi.
Làng xa trên bãi sông.
Tương Dương nhiều cảnh đẹp.
Lại say với sơn ông.

Đáp ông Quách Cấp Sự

Cửa động, lầu cao rợp nắng tà.
Xanh tươi đào mận, liễu ra hoa.
Chim kêu trong sảnh, gia nhân ít.
Nhà quan vắng vẻ, chuông ngân nga.
Sáng rung bội ngọc, đi lên điện.
Chiều vua ban chiếu, lạy, đi ra.
Những muốn theo vua, không ngại tuổi,
Lắm bệnh, từ quan, phải ở nhà.

Ghé chơi nhà Lý Tiếp

Suốt ngày vắng xe ngựa.
Trước cửa đầy cỏ hoa.
Khách đi theo ngõ tối.
Chó sủa dưới rừng già.
Đi, tay cầm sách đạo.
Tóc không trâm, lòa xòa.
Yên nghèo, vui đạo hạnh.
Ông là bạn của ta.
Uống xong chén rượu quí,
Lại chia tay, về nhà.

Lên thành Nhuận Châu

Lên cao, nhìn bát ngát.
Thành bên sông, xế ngày.
Chân cầu vồng mưa tạnh.
Cồn cát nước ngập đầy.
Quanh cánh buồm chim lượn.
Khói vương vấn ngọn cây.
Quê nhà nơi nào nhỉ?
Mắt nhìn về hướng tây.

Cảnh nông nhàn ở Vị Xuyên

Mặt trời xế đầu xóm.
Từ núi đàn trâu về.
Ông lão chờ lũ trẻ,
Chống gậy trước cổng tre.
Chim trĩ kêu, lúa tốt.
Tằm ngủ, ăn no nê.
Nông phu vai vác cuốc,
Gặp, nói chuyện đồng quê.
Sống nhàn là như vậy.
Cứ hát, cười hả hê.

Tây Thi
(Trích)

Người đời thích gái đẹp
Nên mới có Tây Thi.
Sáng bên khe giặt áo,
Chiều đệ nhất cung phi.
Lúc nghèo, giống người khác.
Giàu mới thành khinh khi,
Có người hầu trang điểm.
Nâng đỡ từng bước đi.
Vua yêu, càng ngang ngược,
Chẳng coi ai ra gì.

Suối Thanh Khê

Giữa rừng thông thanh vắng
Ầm ầm tiếng thác rơi.
Hai bên bờ lau lách.
Nước lạnh in mây trời.
Ta vốn ưa nhàn nhã,
Gặp chỗ này tuyệt vời.
Vậy ngồi xuống phiến đá,
Câu, quên hết sự đời.

Trả lời chú Năm Trương Nhân

Núi Chung Nam trước mặt.
Nhà tranh, xa lánh đời.
Vắng khách, cửa luôn khép.
Suốt ngày lòng thảnh thơi.
Uống rượu, lại câu cá.
Chú rỗi, mời đến chơi.

Đưa tiễn

Xuống ngựa, nâng chén rượu,
“Bác đi đâu bây giờ?”
Bác đáp: “Đời chán quá,
Về núi Nam ngâm thơ.
Để tôi đi, đừng hỏi,
Kẻo mây trắng không chờ”.

Đáp quan huyện họ Trương

Tuổi già thích yên tĩnh.
Không bận lòng đến ai.
Tự thấy mình vô dụng,
Thì về núi nằm dài.
Gió thổi bay dải áo.
Trăng soi sáng cành mai.
Bác hỏi về lẽ sống?
Hãy lắng nghe sáo chài.

Nhà riêng ở núi Chung Nam

Trẻ đã yêu đạo Phật.
Già, về sống núi này.
Hứng - một mình đi dạo.
Vui - chỉ một mình hay.
Đi đến tận nguồn nước,
Ngồi ngắm áng mây bay.
Bất chợt gặp ông lão,
Vui chuyện đến hết ngày.

Ngẫu nhiên làm bài thơ này

Về già đâm lười biếng.
Tuổi tác đến bất ngờ.
Kiếp trước chắc nghề vẽ,
Danh văn chỉ ỡm ờ.
Do vì quen mà viết.
Người đời gọi nhà thơ.
Chữ và tên đã có,
Cái tâm thì còn chờ.

Đêm thu trên núi

Đang thu, chiều trĩu nặng.
Núi hiện dần, mưa tan.
Rừng thông trăng chiếu chếch.
Suối chảy qua đá tràn.
Xôn xao tiếng con gái.
Dập dềnh chiếc thuyền nan.
Du khách còn ở lại,
Mặc cho xuân úa tàn.

Ghé chùa Hương Tích

Hương Tích đâu không biết.
Đi mấy dặm đến đây.
Núi sâu tiếng chuông vọng.
Lối đi lá phủ dày.
Suối chảy ven vách đá,
Nắng lạnh vướng trên mây.
Hoàng hôn buông, quạnh quẽ.
Sâm sẫm một bãi lầy.

Tháng Hai, trong vườn

Tu hú đậu nóc nhà.
Khắp làng hạnh đâm hoa.
Cuốc đất tìm mạch suối.
Dao phát lá xùm xòa.
Én tìm về tổ cũ.
Người xem lịch năm qua.
Nâng chén, quên không uống,
Chợt nhớ người đi xa.

Thơ làm khi về núi Tung Sơn

Qua rừng thưa, sông chảy.
Xe ngựa đi thong dong.
Chim chiều bay nháo nhác.
Nước chảy như chiều lòng.
Thành hoang bên bến cũ.
Nắng vàng như mật ong.
Về núi Tung yên tĩnh
Đóng cửa, lánh bụi hồng.

Đêm thu, ngồi một mình

Một mình, thương tóc bạc.
Chắc đã đến canh ba.
Trong mưa trái cây rụng.
Dưới đèn giun dế ca.
Khó làm tóc xanh lại.
Trường sinh tìm đâu ra?
Chỉ chăm lo đạo Phật
Mới thắng nổi cái già.

Tiễn Triệu Tiên Chu trên sông Kỳ

Mới gặp nhau vui vẻ,
Giờ đã buồn xa nhau.
Người đi, thương vất vả.
Kẻ ở, luống ngậm sầu.
Trời lạnh, núi quang đãng.
Chiều buông, sông đục ngầu.
Thuyền bác đi đã khuất,
Còn nhìn theo rất lâu.

Uống rượu cùng Bùi Địch

Nâng cốc cùng anh, rượu rót đầy.
Tráo trở, lòng người luôn đổi thay.
Bạc phơ mái tóc, gươm còn chống.
Lầu son kẻ ác ghét người ngay.
Lất phất mưa phùn, cây cỏ ướt.
Gió xuân lành lạnh, cánh hoa bay.
Việc đời bèo bọt xin đừng hỏi.
Thà rằng nằm khểnh ngắm mây bay.

Thơ làm trong núi lúc đầu thu

Bất tài, chẳng dám mộng Trường An.
Chọn chốn Đông Khê để sống nhàn.
Ngang sánh Thương Bình, con gả sớm.
Chỉ thua Đào Lệnh, chậm từ quan.
Ve kêu trong núi nghe buồn bã.
Ngoài vườn giun dế khóc râm ran.
Nhà tre vắng vẻ không ai tới.
Rừng xanh ta hẹn với mây ngàn.

Thơ làm tại nhà Võng Xuyên, trong cơn mưa dầm

Trong mưa, rừng vắng, khói trên không.
Nấu canh, nấu cá kiểu nhà nông.
Cò trắng chao bay trên ruộng nước.
Chim oanh vui hót bụi ngô đồng.
Nhìn cây, ngồi lặng, thiền trên núi.
Bẻ quỳ, chay tịnh giữa rừng thông.
Mấy bác nhà quê tranh chiếu rượu.
Ngơ ngác, chim âu cứ lượn vòng.

Núi Chung Nam

Mạch rồng chạy tới biển.
Thái Ất gần kinh đô.
Mây quyến luyến muốn tụ.
Đẹp như tranh họa đồ.
Núi xanh, khe nhiều vẻ.
Thung lũng chia thành ô.
Muốn đến đây nghỉ tạm,
Hỏi chuyện anh lái đò.

Nhà trên núi của xử sĩ họ Lý

Biết phận hèn, tự rút.
Quan lớn đầy trong triều.
Đi theo các đạo sĩ
Lên núi cao dựng lều.
Tựa núi, ngắm hoa nở.
Ngước lên, nhìn mây chiều.
Sáng bạch rồi còn ngủ,
Nằm lười nghe chim kêu.

Chia tay hai em gái

Hai em nay đã lớn.
Tóc gần bằng người ta.
Đã biết cầm đàn quí,
Đã biết che khăn là.
Nhớ anh đi lần trước,
Còn vô tư nghịch hoa.
Nay hiểu buồn ly biệt,
Ân cần, giọt lệ sa.

Tiễn Chấp Nhị ở chùa Tư Thánh

Sống ở đời, sống gửi.
Chức quan còm, sá gì.
Cả với tôi cũng vậy.
Quan trọng gì ở, đi.
Đầu hạ, hòe râm mát.
Cuối xuân, liễu xanh rì.
Bến ngự câu, bất giác
Nâng chén rượu biệt ly.

Tiễn chú Năm Trương Nhân về núi

Tiễn chú, buồn vô hạn.
Còn tiễn ai nữa đây?
Ở với nhau mấy bữa,
Chú đã vội chia tay.
Đông Sơn có nhà lá,
Nhờ quét ngõ hàng ngày.
Ta cũng nên về nốt,
Hơn cam chịu nơi này.

Quan lục sự họ Thôi

Hiếm thay, con người ấy.
Đổi quan lấy ruộng đồng.
Trẻ, giang hồ hiệp sĩ.
Già, thiền, đạo Nho thông.
Lánh đời, về núi ở,
Dựng nhà góc biển Đông.
Nghe đồn tu đắc đạo.
Tôi cũng muốn theo ông.

Thơ làm lúc thuyền xuôi
Đại Hà đến Thanh Hà

Thuyền giữa sông Đại Hà.
Trời và nước bao la.
Sóng lớn dâng cuồn cuộn.
Hai bên - vạn ấp, nhà.
Tiếp đến là đô thị.
Cả ruộng dâu, ruộng cà.
Ngoảnh lại nhìn quê cũ,
Thấy toàn mây xa xa.

Nỗi lòng đêm đông

Đêm đông dài và lạnh.
Đồng hồ điểm canh thâu.
Sương treo trên cỏ trắng.
Gặp rét, lá nhạt màu.
Áo đẹp, người ốm yếu.
Đèn đỏ, bạc tóc râu.
Triều đình chuộng người trẻ.
Mai xấu hổ vào chầu.

Đến thiền đường thăm thiền sư họ Phúc

Lối nhỏ men quanh núi.
Cây che kín thiền đường.
Chư tiên bay, tấu nhạc.
Chức nữ quì dâng hương.
Núi sáng sau rặng trúc.
Khe mát, cây khói vương.
Ngài tĩnh tâm thiền tọa.
Hoa nở thơm bên đường.

Bị đổi đi Tế Châu

Quan nhỏ dễ mắc tội.
Bị đổi đi Tế Châu.
Người chấp chính quyết định.
Vua có lòng nào đâu.
Nơi ấy làng ẩm thấp,
Dân ít, cảnh buồn rầu.
Mai đây nếu về được,
Chắc cũng bạc phơ đầu.

Sống nhàn ở Võng Xuyên 1)

Từ ngày về Bạch Xã, 2)
Không còn ở Thanh Môn, 3)
Thường tựa cây ngồi ngắm
Cảnh ruộng đồng, nông thôn.
Lau xanh soi bóng nước.
Chim trắng bay về non.
Ô Lăng Tử thong thả 4)
Tưới vườn bằng gáo con.

1. Võng Xuyên - một danh thắng, cách huyện Lam Điền 20 dặm về phía Tây Nam. Vương Duy có ngôi nhà riêng ở đó, phía trước là nhà của nhà thơ Tống Chi Vấn. Hai ông và bạn bè thường tụ họp ở đây ngâm vịnh.
2. Vùng đất phía tây cửa Kiến Xuân, thành Lạc Dương. Vương Duy nói về Bạch Xã  chỉ việc lui về ở ẩn, tu hành theo đạo Phật.
3. Cổng thành ở Trường An cũ.
4. Ô Lăng Tử, hay còn gọi là Ô Lăng Trọng Tử, là hiệu của Trần Trọng Tử, người nước Tề, nổi tiếng khí khái, vua nước Sở mời ra làm quan không chịu, hàng ngày kiếm sống bằng cách tưới nước thuê.

Nhà trên núi của quan cấp sự họ Vi

Không nhiều người tìm được
Một nơi đẹp như đây.
Núi cao liền sát cổng,
Khe nước giữa rừng cây.
Sau nhà bếp - khóm trúc.
Trước thềm đá - bụi mây.
Ai không muốn treo ấn
Để được chỗ thế này?

Viết trên đò đêm đi Ba Nam

Bến đò lúc chiều tối.
Tiếng gọi đò xôn xao.
Chuông chùa quê đang điểm.
Đèn lốm đốm như sao.
Nhìn nhạn, nhớ quê cũ.
Nghe vượn hót, lệ trào.
Đêm, đò côi, trăng sáng,
Lòng cứ thấy thế nào.

Đến hang Cao Cốc với Trình Hộ

Rỗi, đến hang Cao Cốc
Tìm bác, bác vắng nhà.
Mây xuân, cây càng ấm.
Mưa chiều, thêm đỏ hoa.
Lối vào hang vắng vẻ.
Đàn hươu đi trước nhà.
Áo quần và gối chiếu
Thấm hơi núi xa xa.

Thơ đề phòng nhà sư trên núi

Cây chìa cành vào cửa.
Núi đổ bóng xuống thềm.
Nước chảy, cối tự giã.
Lá như bàn tay mềm.
Mới biết học là ngốc.
Làm quan chỉ mệt thêm.
Sư ngủ đâu không thấy,
Chỉ nghe tiếng chuông đêm.

Đến tiểu viện của thương nhân Đàm Hưng

Đợi nhau bên Khe Hổ.
Tay cầm chiếc gậy tre.
Tiếng núi vang như giục.
Đi men theo bờ khe.
Hoa đồng nở từng cụm.
Chim gì hót não nề.
Đêm ngồi nơi rừng vắng,
Nghe gió, tưởng thu về.

Trên núi

Cổng đóng, trời tĩnh mịch.
Bóng chiều đổ mênh mông.
Ít người đến làm khách.
Nhiều chim trên ngọn thông.
Tre non phủ phấn trắng.
Sen để rơi cánh hồng.
Bến đò đèn đã sáng.
Người đi lại rất đông.

Đi ngang qua nhà sơn nhân
họ L‎ý, đề thơ lên vách nhà

Đời người như giấc mộng.
Hứng thì hát nghêu ngao.
Đất rộng, tre cứ mọc.
Sống lâu, tuổi càng cao.
Thuốc mượn Hàn Khang bán. 1)
Cửa chờ Hướng Tử vào. 2)
Chỉ hiềm mây trắng thế,
Ông biết ngủ thế nào?

1. Hàn Khang người đời Đông Hán, làm nghề bán thuốc ở chợ Trường An với giá nhất định. Một cô gái đòi mặc cả, ông nhất định không cho. Cô kia tức giận nói: “Ông là Hàn Khang hay sao mà không cho mặc cả?” Ông nghĩ bụng, mình muốn tránh cái danh mà đến một cô gái nhỏ còn biết tên, vậy ẩn danh làm gì nữa. Ông bèn bỏ sạp lên núi Ba Lăng ở ẩn.
2. Tên đầy đủ là Hướng Tử Bình, người đất Triệu Ca, đời Đông Hán, sau khi dựng vợ gả chồng cho con xong, ông cùng Cầm Khánh ngao du vùng Ngũ Nhạc đến hết đời.

Tiễn Mạnh Lục về Tương Dương

Đừng bước ra khỏi cửa.
Không tha thiết với đời.
Sống thế là hay nhất.
Bác cứ về nghỉ ngơi.
Say khướt với vò rượu.
Đọc sách, thích, cứ cười.
Còn đòi gì hơn nữa?
Đừng thơ phú, mệt người.

Xuân muộn nơi khuê phòng

Buồn buồn, ngồi trang điểm.
Mặt trời lặn, rực hồng
Hắt bóng lên thềm ngọc.
Lò sưởi tỏa hương nồng.
Bướm bay, vương vào lưới.
Chim sẻ lượn vườn đông.
Hoàng hôn, buồn man mác.
Đào mận nở bên song.

Cuối xuân ở Vũ Uy, nghe tin phán quan
Vũ Văn đi sứ miền tây đã về tới Tấn Xương

Oanh lượn quanh đồn thú.
Mưa lất phất trên lầu.
Đào thấm lệ quan ải.
Liễu biên khu gợi sầu.
Soi gương, thương tóc bạc.
Xuân, thay áo cũ nhàu.
Nghe nói bác đi sứ
Đã về tới Qua Châu.

Về Võng Xuyên

Cửa hang, nghe chuông điểm.
Tiều ngư đã vắng dần.
Đi về hướng mây trắng.
Buồn buồn cái chiều xuân.
Hoa dương nhẹ, chấp chới.
Đung đưa cọng rau tần.
Cỏ bờ đông xanh biếc.
Đóng cổng, đứng tần ngần.

Cảnh chiều sau cơn mưa

Mưa tạnh, đồng rất rộng.
Bầu trời cao, xanh trong.
Làng vươn tận khe núi.
Cổng thành giáp bến sông.
Nước ruộng xa sáng loáng.
Núi gần vút lên không.
Đang ngày mùa, bận việc,
Cả nhà ở ngoài đồng.

Than tóc bạc

Tuổi ta không còn ít -
Tóc đãbạc thế này.
Dọc ngang khắp trời đất,
Còn sống được mấy ngày?
Hết lo chiều lại sáng.
Nhớ nhà khi ngắm mây.
Còn vướng víu gì nữa
Mà tất bật đó đây?

No comments:

Post a Comment