Tuesday, March 3, 2015

TRUYỆN THƠ CÂY THUỐC VIỆT NAM, phần hai



HOA SEN

1
Xưa, có ông vua nọ
Rất yêu cảnh thiên nhiên,
Giành thời gian, công sức
Đi thăm thú các miền.  

Một hôm, ngài dừng lại
Ở một nơi nhiều hồ,
Những hồ nước thơ mộng,
Chấp chới những cánh cò.

Nước hồ xanh, trong vắt,
Buổi sáng, nắng xiên ngang,
Nắng đùa trên sóng nước,
Những chấm đỏ, chấm vàng.

Bất chợt, ngài đứng lặng
Nghe tiếng hát xa xa,
Tiếng một người con gái
Giữa mặt hồ ngân nga.

Ngài vội vã chạy lại.
Cô gái sợ, lên bờ,
Rồi bỏ đi mất hút.
Vua nhìn theo, sững sờ.

Một cô gái tuyệt đẹp,
Tóc như mây, bập bồng,
Con đường cỏ sương ướt
Còn in gót chân hồng.

Hôm sau ngài cho kiệu
Đến đỗ trước nhà nàng,
Một túp lều lợp rạ
Đứng tách phía sau làng.

Thế là nàng thôn nữ
Phải theo vua về cung,
Bộ áo gai giản dị
Được thay bằng lụa nhung.

Đôi chân xưa đi đất
Nay đi hài, đi giày.
Mái tóc đầy trâm ngọc,
Không bồng bềnh như mây.

Nghĩa là nàng vẫn đẹp,
Cái đẹp của búp bê,
Tiếc nay không còn nữa
Cái đẹp chất đồng quê.

Và rồi nàng, thật lạ,
Mặc cho vua van nài,
Suốt ngày buồn lặng lẽ,
Không chuyện trò với ai.

Nàng cũng không còn hát.         
Thờ thẫn từ phòng mình
Nhìn xuống hồ nước nhỏ
In mặt trời lung linh.

Và rồi một buổi sáng,
Vua không thấy nàng đâu.
Không thấy nàng tư lự
Nhìn xuống hồ dưới lầu.

Bất chợt, vua nhìn thấy
Có cây gì giữa hồ,
Hoa rất thơm, hồng dịu,
Lá tròn tròn và to.

Giờ thì vua chợt hiểu
Rằng cung điện dát vàng,
Nhung lụa và trâm ngọc
Đã không giữ được nàng.

Rằng nàng chọn cái chết
Để trở lại thiên nhiên,
Là nơi nàng được sống
Lộng lẫy như bông sen.

2
Sen là hoa của Phật,
Hoa của sự trắng trong.
Mỗi màu một ý nghĩa:
Trắng, đỏ, thẫm, xanh hồng.

Sen là hồn dân tộc,
Là âm dương hài hòa,
Là cái đẹp, vì thế
Được chọn là quốc hoa.             

Sen là vị thuốc quí.
Theo y học cổ truyền,
Có thể dùng làm thuốc
Mỗi bộ phận cây sen.

Hạt sen có vị ngọt,
Giúp dưỡng tâm, bổ tỳ,
Chữa tiêu chảy, huyết trắng,
Mất ngủ, thần kinh suy.

Tâm sen vị rất đắng
Có tác dụng an thần,
Chữa mộng tinh, huyết áp,
Tim đập nhanh, biếng ăn.                   

Gương sen giúp tiêu ứ,
Chảy máu khi mang thai,
Băng huyết, đau bụng dưới,
Chảy máu khi đi ngoài.

Nhụy sen có vị chát
Giúp bổ thận, thanh tâm,
Cầm máu, chữa huyết trắng,
Đái dắt và đái dầm.

Lá sen có tính mát,
Hạ huyết áp rất hay,
Chữa say nắng, viêm ruột
Và chảy máu dạ dày.

Ngó sen cũng cầm máu,        
Lại tráng dương, an thần,
Chữa bệnh sốt khát nước,
Tiêu chảy và kém ăn.

Một số cách sử dụng:
Chữa đinh nhọt - hoa sen
Sắc lên uống thay nước,
Uống đều và thường xuyên.

Chữa say nắng, nôn mửa -
Giã nhuyễn lá sen tươi,
Vắt lấy nước để uống,
Hay với nước đun sôi.

Chữa tiêu chảy, kiết lỵ -
Sắc một ít cọng sen,
Uống, cho thêm đường trắng,
Nghe nói sẽ đỡ liền.

Cao tuổi, cơ thể yếu -
Nấu củ sen mà ăn,
Một trăm gam một bữa,
Mỗi ngày ăn hai lần.

Còn để ngừa say nóng
Và giải nhiệt - lấy hoa,
Khoảng mười đóa, sắc uống
Bình thường như uống trà.


HOA QUỲNH  

1
Vua Tùy, Tùy Dạng Đế,
Là một vị hôn quân,
Sống vô đạo, tác tráng.
Trong giấc mơ, một lần

Hắn mơ thấy hoa đẹp,
Một bông hoa khác thường,
Chưa bao giờ từng thấy,
Lại thơm nức mùi hương.

Cũng đúng vào lúc ấy,
Ở tận Lạc Dương thành,
Có một ngôi chùa cổ,
Giữa um tùm cây xanh.

Bất chợt, một tối nọ,
Khi trống điểm canh ba,
Có cái gì rực sáng
Như muôn nghìn sao sa.

Mọi người liền vội vã
Ra xem có chuyện gì,
Thì thấy bên giếng nước
Có bông hoa lạ kỳ.

Bông hoa vừa mới nở,
Mười tám cánh phía trên,
Hăm tư cánh phía dưới,
Đúng là hoa thần tiên.

Hương của nó thơm ngát,
Dìu dịu và thanh bình.
Ai cũng lấy làm lạ,
Gọi nó là hoa quỳnh.                  

Tin về loại hoa hiếm
Chỉ nở vào ban đêm
Đến tai vua, vua muốn
Phải tự mình đến xem.

Thế là ngay lập tức
Hàng triệu người nạo sông
Cho đủ sâu, đủ rộng
Để vua cưỡi thuyền rồng.

Hai bên sông, hơn thế,
Phải được trồng liễu xanh,
Cứ mười mét một bụi,
Đến tận Lạc Dương thành.

Cuối cùng, vua xuất phát.
Chuyến đi chín mươi ngày,
Với hàng trăm cung nữ,
Tốn kém nhất xưa nay.

Tháp tùng vua lần ấy,
Trong số các đại thần,
Có một người còn trẻ,
Tên là Lý Thế Dân.

Khi đoàn thuyền cập bến,
Ông và các bạn ông
Đêm, lén xem hoa trước,
Sợ sáng mai người đông.

Không ngờ bông hoa lạ
           Vừa thấy Lý Thế Dân,
Liền cung kính cúi thấp,
Chào ông đúng ba lần.

Chắc bông hoa thấy rõ
Ông có tướng vương công.
Lý Thế Dân quả thật
Sau là Đường Thái Tông.

Hoa chào xong, bất chợt
Trời đổ trận mưa rào.
Mưa làm hoa héo rụng,
Không còn lại cánh nào.            

Hôm sau, Tùy Dạng Đế
Chẳng còn thấy hoa đâu,
Liền ra lệnh nhổ sạch
Rồi cho thuyền quay đầu.

Từ đấy loài hoa lạ
Chỉ nở vào ban đêm,
Đặc biệt khi trăng sáng,
Để mọi người đến xem.

Sau chuyến đi lần ấy,
Bạo loạn nổ sắp nơi.
Tùy Dạng Đế bị giết,
Và nhà Đường ra đời.

2
Quỳnh là loài hoa đẹp,
Tinh khiết và mộng mơ,
Chỉ ban đêm mới nở,
Từ tám đến chín giờ.

Cây thân nhỏ, hình trụ,
Thuộc họ cây Xương rồng,
Chỉ một hoa, ngà trắng,
Mọc dại hoặc được trồng.

Nó còn là vị thuốc,
Dùng cả hoa lẫn thân.
Hoa hái khi mới nở,
Ngâm rượu gạo dùng dần.

Rượu hoa quỳnh rất tốt
Trong việc chữa viêm đau,         
Trị chứng ho ra máu,
Lao phổi và đau đầu.

Khi vấp ngã bầm tím,
Đem sắc thân cây quỳnh
Lấy nước rửa, còn bã
Đắp lên đầu mụn đinh.


HOA CÚC

1
Xưa có một cô gái
Sống với bà mẹ già.
Cô gái tên là Cúc,
Bà mẹ tên là Hoa.

Nhà nghèo nhưng hạnh phúc.
Họ rất yêu thương nhau.
Cô con ngoan, chí hiếu,
Mẹ mưa nắng dãi dầu.

Bỗng mẹ cô ốm nặng.
Cô chạy chữa đủ đường
Mà bệnh vẫn không khỏi.
Đầy tuyệt vọng, đau thương,

Cuối cùng cô quyết định
Một mình rời quê nhà
Tìm thầy thuốc cho mẹ,
Không quản ngại đường xa.

Cô đi mãi, đi mãi,
Qua nhiều núi, nhiều sông,
Chưa tìm được thầy giỏi,
Nhưng vẫn không nản lòng.

Một hôm, đến chùa nọ,
Ngôi chùa con bên hồ,
Cô khấn lạy Đức Phật
Chữa lành cho mẹ cô.

Cô thành khẩn đến mức
Đức Phật động lòng thương
Hóa thành nhà sư trẻ
Ngẫu nhiên gặp trên đường.

Ngài đưa cho cô gái
Một bông hoa màu vàng,
Vẻn vẹn chỉ năm cánh,
Năm ngón tay xòe ngang.

“Hãy mang về cho mẹ
Bông hoa sự sống này.
Nó giúp bà khỏi bệnh,
Nhưng phải nhớ, từ nay

Mỗi năm hoa sẽ rụng,
Một cánh hoa, và bà
Giảm đi một tuổi thọ.
Hoa năm cánh, thành ra

Bà mẹ cô chỉ sống
Năm năm nữa mà thôi.”
Cô nghe, lòng đau xót,
Cảm ơn sư, và rồi

Về nhà cô lặng lẽ
Tách nhỏ năm cánh hoa
Thành một trăm cánh nhỏ
Để cứu mẹ, và bà

Sống thêm trăm tuổi nữa.          
Đức Phật biết điều này
Nhưng Ngài im, không trách,
Còn thầm khen là hay.

Về sau loài hoa ấy
Được người dân trong làng
Trồng trong vườn của họ,
Gọi là hoa cúc vàng.

Hoa biểu tượng sự sống,
Hoa ước mơ trường tồn,
Mong ước chữa lành bệnh,
Hoa của tình mẹ con.

Trong tâm linh người Việt,
Cúc thanh cao, là loài
Được mọi người yêu mến,
Thành “Tùng Trúc Cúc Mai.”

Biểu tượng của thanh bạch,
Với thi sĩ, trung thần,
Cúc là bạn tri kỷ
Trong nỗi niềm thơ văn.

2
Cúc còn là vị thuốc
Dân gian dùng từ lâu,
Chữa sốt, cao huyết áp,
Đau mắt và nhức đầu.

Hoa cúc được đem sắc,
Uống mươi gam một lần.
Hoặc dùng rửa mụn nhọt
Trên người hoặc tay chân.

Có thể dùng ngâm rượu
Hoặc đem ướp với trà
Vừa thơm ngon, vừa bổ,
Dễ giữ khách tại nhà.


MẪU ĐƠN

1
Xưa, có một bà mẹ
Sinh được mười con trai,
Đẹp, thông minh, khỏe mạnh,
Dũng cảm và có tài.

Rồi giặc xâm lược đến.
Chúng chiếm làng của bà.
Mười người con dũng cảm
Trốn lên ngọn núi xa.

Họ tập hợp lực lượng
Chống lại giặc ngoại bang.
Đêm thường cho quân xuống
Quấy bọn giặc trong làng.

Chúng vô cùng tức giận,
Đánh mấy lần không xong,
Bèn bắt mẹ của họ
Cho ra đứng giữa đồng.

Tên tướng giặc ra lệnh:
“Hãy bảo con hàng ngay.
Nếu không, ta sẽ giết,
Thiêu trụi cả làng này!”

Bà mẹ ngẩng đầu đáp:
“Mẹ ngươi có thực tình
Khuyên ngươi hãy phản bội
Mảnh đất sinh ra mình?

Ta là mẹ, cũng thế,
Ta không dạy con ta
Quì gối trước lũ giăc,
Phản bội lại quê nhà!”                

Chúng liền trói chặt mẹ
Đổ dầu ăn lên người
Bắt đầu châm lửa đốt,
Thành ngọn đuốc sáng ngời.

Nhưng trước khi chết cháy,
Mẹ ra lệnh các con
Hãy giải phóng đất nước,
Quyết một trận sống còn.           

Lời bà mẹ ra lệnh
Là lời của non sông.
Các con bà nhất loạt
Đem quân đánh xuống đồng.     

Và họ đã chiến thắng,
Đất nước được bình yên.
Các con đến tìm mẹ,
Thấy trái tim còn nguyên.

Trái tim của người mẹ
Nóng đỏ như mặt trời,
Cả khi chôn xuống đất
Vẫn rực rỡ sáng ngời.

Xuân đến, từ ngôi mộ
Mọc loài cây xanh rờn
Có hoa đỏ như máu,
Gọi là hoa mẫu đơn.

Hoa của một bà mẹ
Người sẵn sàng hy sinh
Để khích lệ con cháu
Bảo vệ quê hương mình.

2     
Mẫu đơn có hai loại,
Nở cả xuân lẫn hè,
Mẫu đơn đỏ và trắng,
Đều cùng họ Cà phê.

Mẫu đơn đỏ làm thuốc
Mọc dại ở nhiều miền,
Được trồng làm cây cảnh
Trước sân các chùa, đền.

Cây chỉ cao nửa mét,
Lá mọc đối, mướt xanh.
Hoa nhỏ, dài, đỏ rực,
Chụm thành bó trên cành.

Làm thuốc chỉ lấy rễ,
Có nơi lấy cả hoa,
Rửa sạch, đem thái mỏng,
Phơi khô, cất trong nhà.

Rễ mẫu đơn rất tốt
Chữa lỵ hoặc viêm đau,
Tiểu nước đục, cảm sốt.
Chữa cả bệnh nhức đầu.

Dùng dưới dạng thuốc sắc
Hoặc ngâm rượu uống dần,
Mười, mười lăm gam nhỏ,
Uống mỗi ngày một lần.


THƯỢC DƯỢC

Theo người ta kể lại
Thì danh y Hoa Đà
Có một luống thược dược                        
Trồng trong vườn sau nhà.                        

Ông đã thử dùng lá
Và cả hoa cây này 
Để làm thuốc chữa bệnh,
Nhưng đều thấy không hay.

Ông nghĩ hoa thì đẹp
Nhưng chẳng có ích gì
Ngoài việc trồng để ngắm,
Vô dụng với ngành y.

Mỗi cây một loại thuốc
Trong vườn thuốc nhà ông,
Thế mà cây thược dược,
Chỉ uổng công người trồng.

Dần dần ông quên nó.                              
Một buổi tối, tháng Hai,
Khi đang ngồi đọc sách,
Lơ đãng nhìn ra ngoài,

Thì bất chợt ông thấy
Dưới trăng vàng lung linh
Bóng một cô gái trẻ
Đang đứng khóc một mình.

Ông đi ra hỏi chuyện,
Thì chẳng thấy cô đâu,
Chỉ thấy cây thược dược
Đứng một mình, cúi đầu.

Ông lại vào đọc sách,
Và khi nhìn ra ngoài,
Vẫn thấy cô kia khóc.
Ra lại chẳng thấy ai.    

Ngạc nhiên, ông gọi vợ
Kể lại chuyện vừa rồi.
Bà nói: “Chắc cô ấy
Là hồn hoa mà thôi.

Hồn cây hoa thược dược.
Vì không được ông dùng,
Nó tủi thân mà khóc,
Hiện hình để nhắc ông.”

“Thì tôi đã dùng thử
Cả lá và cả hoa,
Nhưng đều không công hiệu.
Tôi đã nói với bà.”

“Sao ông không thử rễ?”
Bà nói, nhưng ông im.
Tháng sau bà ốm nặng,
Băng huyết mãi không kìm.

Bà lén đào lấy rễ
Cây thược dược sau nhà,
Rồi sắc lên, uống nước.
Mới nửa ngày, bụng bà

Thôi không còn đau quặn,
Mà máu cũng cầm ngay.
Hoa Đà xin lỗi vợ,
Suýt bỏ phí cây này.     

2
Trước hết phải nói rõ,
Cây thược dược ở đây
Khác với hoa thược dược
Bán ngoài chợ hàng ngày.

Loài thược dược làm thuốc
Thuộc họ cây Mao lương.
Hoa thược dược ngày Tết
Thuộc họ Cúc bình thường.                     

Mà tên nó vốn Thược,
Rồi sau được Hoa Đà
Thêm chữ nữa là Dược
Nhằm tôn quí loài hoa.

Thược dược có hai loại.
Bach thược là loại đầu.
Thứ hai là xích thược,
Cùng họ hàng với nhau.

Bạch thược là cây dại,
Nhưng cũng có thể trồng,
Chủ yếu ở Hà Bắc,
Liêu Ninh và Sơn Đông.

Cây cao gần một mét,
Thân thẳng, hoa rất to,
Bốn năm mới thu hoạch,
Đào lấy rễ, phơi khô.

Rễ bạch thược hơi đắng,
Và thiên về tính hàn.
Chữa đau bụng, dưỡng huyết,
Lợi tiểu và bổ gan.

Còn nhiều công dụng khác,
Như vị thuốc giảm đau,
Đau bụng, đau lưng, ngực,
Thậm chí cả đau đầu.

Người ra mồ hôi trộm
Hoặc kinh nguyệt không đều,
Dùng bạch thược rất tốt,                          
Nhưng phải nhớ đúng liều.                       

Dùng dưới dạng thuốc sắc,
Mỗi ngày uống một lần,
Sáu - mười hai gam nhỏ,
Uống đều và uống dần.
                                               

BẠCH TRUẬT      

1
Theo Cát Hồng đời Tấn
Trong cuốn “Truyện Thần Tiên”,           
Hán Vũ Đế lần nọ
Đang ngự giá trên thuyền

Thì thấy một ông cụ,
Râu tóc bạc như bông,
Nhưng khỏe hơn trai tráng,
Đang cuốc cỏ dưới đồng.

Khi được hỏi bí quyết
Luôn khỏe mạnh thế này,
Ông cụ đáp: “Ngày trước,
Năm lăm tuổi, yếu gầy,

Tóc khô, răng rụng hết,
Một hôm gặp cụ già
Thọ đã hơn trăm tuổi,
Còn hồng hào nước da.

Cụ khuyên tôi không được
Ăn các món nấu xào
Đầy chất béo và ngọt,
Giờ phải cố làm sao

Đói, chỉ ăn bạch truật.
Khát, chỉ uống nước sôi.
Nước sôi và bạch truật,
Chỉ hai thứ ấy thôi.

Tôi làm theo, lập tức
Thấy sức khỏe khá hơn.
Dần dần răng mọc lại,
Da hồng hào, căng trơn.

Đi trăm dặm không mệt.
Cũng không mệt, hàng ngày
Cuốc đất rồi xới cỏ,
Hoặc cày cấy luôn tay.

Tôi giã bột bạch truật
Cho vào gối gối đầu,
Nên giấc ngủ từ đó
Rất yên và rất sâu.

Năm nay chín mươi tuổi,
Tôi đang còn thanh niên.
Đúng là cây bạch truật
Một vị thuốc thần tiên!”

2
Đây là vị bổ khí,
Công hiệu và rất cần.
Còn có tên ư truật
Hay đông truật, vân vân.

Nó là rễ bạch truật
Được rửa sạch, phơi khô.
Hoa cây này rất đẹp,
Hình cụm và khá to.

Mói chung cây bạch truật
Là loại cây lưu niên,
Rễ phát triển thành củ,
Thường có mấy củ liền.

Nó được trồng phổ biến
Ở Triết Giang, Trung Hoa.
Gần đây cũng được nhập
Vào trồng ở nước ta.

Thời gian thu hoạch được
Khoảng mười tháng, một năm,
Khi lá bắt đầu úa,
Thường vào tháng Mười âm.

Còn sao thì nhiều cách.
Có thể với đất vàng,
Hoặc là sao với cám,
Đơn giản và dễ dàng.

Đông y coi bạch truật
Là vị thuốc bổ tì,
Kiện vị và hóa thấp,
Cắt cơn sốt li bì.

Nó cũng rất bổ ích
Để chữa sốt, an thai,
Chữa viêm ruột mãn tính,
Hoặc giúp cầm đi ngoài.                           

Dùng dưới dạng thuốc sắc,
Sáu - mười gam một ngày.
Phàm âm hư, táo kết
Thì không dùng vị này.


ĐẢNG SÂM

Đảng Sâm là vị thuốc
Trông giống như củ sâm,
Trồng ở xứ Thượng Đảng
Phổ biến và lâu năm.

Ở Lạng Sơn, ta gọi
Là rầy cáy, cây này
Họ hoa chuông phổ biến,
Được trồng nhiều gần đây.

Đảng sâm có nhiều loại,
Như phòng, lộ, xuyên, đông.
Nó là một loại cỏ
Lâu năm và dễ trồng.

Rễ của nó khá lớn,
Thường có hình trụ dài,                           
Thân củ có nhiều sẹo,
Đôi khi tách làm hai.

Đảng sâm thường nhiều nhánh,
Thân mọc leo hay bò.
Dưới lá có lông mịn,
Mọc đối xứng, khá to.

Đảng sâm ưa đất mủn,
Ở những nơi bóng râm,
Trồng bằng cách gieo hạt
Tháng Mười hoặc tháng Năm.

Khi hái về, rửa sạch,
Xâu thành dây phơi khô.
Làm mềm bằng chày gỗ
Hoặc dùng tay để vò.

Đảng sâm có thể chữa
Bệnh vàng da, bạch cầu,
Thiếu máu, viêm thượng thận
Hoặc chân bị phù đau. 

Vị thuốc này cũng tốt,
Chữa ho, bổ dạ dày,    
Tiêu đờm và lợi tiểu,
Cả khi bụng hơi đầy.

Đảng sâm còn được gọi
Là nhân sâm người nghèo
Vì giá tương đối rẻ
Mà công dụng lại nhiều.                           

Theo các tài liệu cổ,
Nó thiên về bổ trung,
Là một vị thuốc quí.
Người thực tà không dùng.

Dùng dưới dạng thuốc sắc,
Uống mỗi ngày một lần,
Sáu, mười hai gam lỏng,
Từ một đến hai tuần.   


ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO

1
Loài cây này thật lạ -
Mùa đông là con sâu,
Mùa hè là cây cỏ,
Được biết đến từ lâu.

Tài liệu cổ cho biết
Nó quí ngang nhân sâm,
Thuộc họ nhục tòa khuẩn,
Thích sống trong bóng râm.

Nó là một loại nấm
Mọc ký sinh trên sâu,
Thuộc họ sâu cánh bướm,
Và luôn dính vào nhau.

Mùa đông, con sâu ấy
Bị nấm bám đầy thân,
Hút hết chất dưỡng chất,
Vùi dưới đất, chết dần.

Đến mùa hè thì nấm
Sinh cơ chất, nhô đầu
Cao lên khỏi mặt đất,
Nhưng vẫn dính vào sâu.                          

Vào tháng Sáu, tháng Bảy,
Đào lấy những con to
Và nấm mọc trên nó
Rồi rửa sạch, phơi khô.

Loài này ở Trung Quốc
Gặp nhiều ở Tứ Xuyên,
Tây Khang và Tây Tạng,
Nơi mưa nhiều, đất mềm.

Loài đông trùng hạ thảo
Cũng có ở nước mình,
Tại Thất Khê xứ Lạng
Hay vùng núi Hòa Bình.

Nhưng đây là loài khác
Dù nó cũng là sâu,
Sống trong thân cây chít,
Một loại cây họ lau.     

Người Trung Quốc phát hiện
Loại thuốc cỏ - sâu này
Từ thế kỷ mười tám,
Và dùng mãi tới nay.

Nó là loại thuốc bổ,
Có chất ức chế cao,
Chữa thần kinh suy nhược,
Bổ dương và ho lao...

Cách dùng: ngâm với rượu,
Uống mỗi ngày một lần
Sáu - mười hai gam nhỏ,
Uống lâu và dần dần.   

2
Ở Trung Hoa đại lục,
Năm một chín chín ba
Có thi thể thao lớn,
Người nhiều nước tham gia.

Chín cô gái Trung Quốc,
Môn chạy đua đường trường,
Phá kỷ lục Thế Vận,
Là điều rất khác thường.

Thế là ban tổ chức
Nghi có chuyện doping,
Bèn xét nghiệm cẩn thận,
Bắt cả đội tường trình.

Hóa ra rất đơn giản.
Cái kỷ lục lần này
Nhờ đông trùng hạ thảo
Các cô dùng hàng ngày.

Nó chỉ là thuốc bổ,
Nên cứ thoải mái dùng.
Khắp thành phố lần ấy
Nó được khách săn lùng.
                                        

LINH CHI             

1
Trong bữa tiệc năm mới
Kéo dài những bảy ngày,
Ba trăm sáu lăm món,
Sử nhắc tận ngày nay,

Mà Từ Hy Thái Hậu
Mời các sứ hiếu kỳ,
Có bảy “đệ nhất món”,
Đứng đầu là linh chi.

Sau mới đến óc khỉ,
Tượng tinh, sơn dương trùng,
Chuột bạch bao tử sống,
Heo sữa và trứng công.

Đệ nhất của đệ nhất
Mở đầu cho bảy ngày
Là linh chi, chắc hẳn
Không ngẫu nhiên điều này.

Vậy có cái gì quí
Trong loại nấm màu đen,
Mà trong các hiệu thuốc
Ta thường thấy rất quen?                        

Có từ thời Đông Hán,
Cách đây hai nghìn năm,
Cuốn “Thần Nông Bản Thảo”,
Về các dược thảo thần,

Xếp linh chi thứ nhất
Hơn nhân sâm hình người,
Được cho là cực quí
Và cực hiếm trên đời.

Ba trăm sáu lăm loại.
Hai trăm năm mươi hai
Là các loại cây cỏ.
Chỉ sáu mươi bảy bài

Có nguồn gốc động vật.
Chia ba mức khác nhau -
Thượng, trung và hạ phẩm.
Linh chi xếp hàng đầu.                             

Tần Thủy Hoàng ngày trước
Biết nó quí và hay,
Mong trường sinh bất tử,
Nên muốn có nấm này.

Ông bèn sai Từ Phúc,
Một đạo sĩ tri âm
Đem nghìn rưỡi đồng nữ
Và nghìn rưỡi đồng nam

Đi thuyền ra Đông Hải
Tìm nó về cho ông.
Nhưng không ai trở lại.
Một câu chuyện đau lòng.

Chắc họ không tìm thấy.
Về sợ bị chém đầu.
Nên định cư đâu đó,
Hoặc chìm dưới biển sâu.                         

2                             
Linh chi là loài nấm
Họ Nấm gỗ tự nhiên,
Còn gọi nấm trường thọ,
Nấm lim, nấm thần tiên.

Lâu dần, nó hóa gỗ,
Thường màu đen, nhẵn trơn,
Có hình giống quả thận,
Hoặc hình quạt, hình tròn.                       

Linh chi mọc hoang dại
Ở Quảng Đông, Quảng Tây
Hoặc Tứ Xuyên, Trung Quốc.
Và mãi tới gần đây

Hai giáo sư Nhật Bản,
Đại học Kyoto
Mới thành công trong việc
Nhân giống nó qui mô.

Hiện nay toàn thế giới
Có sản lượng hàng năm
Khoảng hơn bốn nghìn tấn,
Trung Quốc chiếm ba phần.

Ở Triều Tiên, Hàn Quốc,
Đài Loan, Nhật, Hoa Kỳ,
Mã Lai, Thái, Ấn Độ
Đều có trồng linh chi.

Năm một chín tám bảy,
Tồn tại đến hôm nay,
Ta lập trại nghiên cứu
Và trồng loại nấm này.

Theo “Thần Nông Bản Thảo”,
Có sáu loài linh chi:
Xích, Hắc, Bạch, Hoàng, Tử
Và cuối cùng, Thanh chi.                         

Mỗi loài một công dụng,
Đều bổ dưỡng như nhau,
Giúp trường sinh bất tử,
Không răng long, bạc đầu.

Theo nghiên cứu khoa học
Ứng dụng trên lâm sàng,
Thì linh chi rất tốt
Với các bệnh trực tràng,

Bệnh cơ tim đau thắt,
Bệnh ở vành mạch tim,
Huyết áp không ổn định,
Hay phế quản bị viêm,

Hen, viêm gan, thấp khớp,
Bệnh phụ nữ mãn kinh.
Nó còn là thuốc bổ,
Giúp trẻ lâu, thông minh.

Cách dùng, đơn giản nhất:
Lấy linh chi sấy khô                   
Thái mỏng hay nghiền bột,
Đun sôi trong nửa giờ.

Nước mùi thơm, hơi đắng,
Thêm mật ong càng hay.
Hai hoặc năm gam nấm
Là liều dùng mỗi ngày.

Có người thay cho uống,
Đem nấu cháo, không sao,
Thêm ít vị thuốc bổ,
Thành món ăn cấp cao.

Nhiều cơ sở Trung Quốc
Chế linh chi thành viên,
Thành nước đựng trong lọ,
Khách có thể dùng liền.      


HÀ THỦ Ô

1
Cuốn “Bản Thảo Cương Mục”
Kể câu chuyện như sau,
Rằng có một ông nọ
Người ở vùng Thuận Châu.

Ông này có cụ tổ,
Điền Nhi là tục danh,
Sinh ra vốn yếu ớt,
Tóc bạc, da tái xanh.

Năm tám tuổi chưa vợ,
Lủi thủi sống một mình,
Ham đạo thuật, lên núi
Theo thầy học dưỡng sinh.

Lần nọ, ông uống rượu,
Nằm trên đồi, buổi chiều,
Chợt thấy ngay gần đấy
Có hai cây dây leo.

Chúng cách nhau một mét,
Thế mà tìm đến nhau,
Rồi đan quyện, quấn quít,
Rất âu yếm, rất lâu.

Rồi tách ra, sau đó
Lại quấn nhau nhiều lần.
Điền Chi nhìn, thấy lạ,
Bèn rón rén lại gần.

Ông lấy cuốc đào chúng
Đem về làng, tức thì
Hỏi mọi người, thật tiếc,
Không ai biết cây gì.

Cuối cùng có ông lão
Từ phương xa đến đây,
Nói: Ngươi yếu dương khí,
Vậy thử dùng cây này.

Chắc đây là vị thuốc
Thần tiên giao cho ngươi
Để giúp có con cháu
Nỗi dõi mình nghìn đời.

Điền Nhi nghe, lấy củ
Đem tán bột uống dần,
Hòa với rượu nguyên chất,
Mỗi ngày uống một lần.

Bảy ngày uống liên tục,                            
Thấy rạo tực trong người,
Bắt đầu thích phụ nữ,
Một sự lạ ở đời.

Thấy thế, ông uống mãi,
Thứ thuốc này thần tiên.
Một năm sau bệnh khỏi,
Tóc trắng chuyển thành đen.

Ông cưới vợ, con cháu
Có đến hàng chục người.
Rất khỏe mạnh khi chết,
Thọ một trăm sáu mươi.

Trong số con cháu ấy
Có người tên Thủ Ô,
Cũng uống thuốc ông nội
Mà khỏe mạnh, cao to.

Một trăm ba mươi tuổi
Ông mới chịu qua đời.
Tóc đen, răng chưa rụng,
Làm kinh ngạc mọi người.

Hà Thủ Ô từ đấy
Thành tên vị thuốc này,
Một vị thuốc đặc biệt,
Ưa chuộng đến ngày nay.

2
Cây này còn được gọi,
Vì đêm quấn vào nhau,
Là giao đằng, dạ hợp,
Như nói ở phần đầu.

Mặt thân nhẵn, màu tía,
Thuộc họ hàng cây leo,
Không có lông, nhiều đốt,
Vì vậy hoa cũng nhiều.

Cánh hoa có màu trắng,
Lá mỏng, nuốm mào gà.
Tháng Mười Một cho quả,
Tháng Mười thì nở hoa.

Hà thủ ô mọc dại
Ở Tây Bắc, Thái Nguyên,
Cả Lào Cai, Thanh Hóa,
Nghệ Tĩnh và Tây Nguyên.

Có thể trồng bằng hạt
Hoặc có thể bằng dây,
Năm năm mới thu hoạch,
Củ đào lên, thái ngay

Rồi đem đồ thật chín,
Sau đó đem phơi khô,
Cũng có thể ngược lại,
Thái, phơi khô mới đồ.

Có nơi đồ với đậu,
Đậu đen, đồ chín lần,
Thành hà thủ ô chế,
Sau mới đem dùng dần.                            

Nó là loại thuốc bổ,
Rất phổ biến xưa nay,
Trị thần kinh suy nhược,
Giúp tóc đen và dày.

Nó cũng chữa các bệnh
Phụ nữ sau khi sinh,
Như bệnh xích bạch đới,
Tăng trí nhớ, thông minh.

Dùng dưới dạng thuốc sắc,                      
Hai mươi gam một ngày.
Có thể ngâm với rượu,
Mỗi lần một ly đầy.

Hà thủ ô hai loại.
Loại đỏ của người Tàu.
Loại trắng của người Việt,
Xin được phép nói sau.


NHÂN TRẦN

1
Có chuyện xưa kể lại,  
Lúc ấy, vào tháng Ba
Có một bệnh nhân nữ
Gặp danh y Hoa Đà.

Nhìn thân hình vàng vọt,
Hai hố mắt lõm sâu,
Biết mắc “hoàng lao bệnh”,
Ông buồn bã lắc đầu.

Ông nói ông không thể
Chữa bệnh này cho bà.
Giờ ta gọi bệnh ấy
Là viêm gan vàng da.  

Một năm sau, thật lạ,
Hoa Đà gặp người này,
Thấy béo tốt, khỏe mạnh,
Má còn đỏ hây hây.     

Ông hỏi ai bốc thuốc,
Thuốc gì và mấy bài,
Uống bao lâu thì khỏi.
Bà kia đáp: không ai,

Và rằng vì hạn hán,
Chẳng có gạo, hàng ngày
Vào rừng hái rau dại   
Ăn thay cơm lâu nay.

Hoa Đà nhờ người ấy
Cho ông xem cây rau -
Một vị thuốc quen thuộc,
Có tên hoàng cao đầu.

Thế là từ ngày ấy
Ông dùng loại cây này
Chữa viêm gan cổ chướng,
Chóng khỏi và rất hay.

Người bệnh, trong một tháng
Chỉ dùng hoàng cao đầu,
Luộc ăn ngày hai bữa
Ăn đều đặn thay rau,

Rồi dần dần bệnh khỏi.
Thật là điều diệu kỳ,
Đơn giản, không chữa trị,
Cũng chẳng tốn kém gì.

2
Nhân trần có ba loại:
Cùng họ, tên khác nhau.
Việt Nam có hai loại,
Còn một loại của Tàu.

Nhân trần thường mọc dại,
Có nhiều ở nước ta,
Ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ,
Bắc Giang và Sơn La.

Ở Nghệ An, Hà Tĩnh
Người ta gọi nhân trần
Là cây hoắc hương núi,
Một vị thuốc rất cần.

Ngoài ra có một loại,
Gọi là cây bồ bồ,
Hoa cụm như hoa cúc,
Không rụng khi phơi khô.

Nhân trần là cỏ dại,
Hiện chưa thấy ai trồng,
Cây cao hơn nửa mét,
Thân tròn và có lông.

Về tác dụng dược lý:
Tăng thải độc cho gan,
Giúp tăng cường tiết mật,
Ngoài ra, dùng nhân trần

Có tác dụng kháng khuẩn,
Chống viêm u rất cao.
Đây là loại thảo dược,
Không có độc tố nào.

Nó còn giúp giải nhiệt.
Phụ nữ khi sinh con
Uống nhân trần lợi tiểu,
Chóng hồi phục, ăn ngon,

Lại vừa thông khí huyết,
Chống được bệnh vàng da.
Gia đình Việt thường có
Ấm nhân trần trong nhà.

Nhân trần có thể sắc
Thành thuốc uống cũng hay,
Hoặc tán thành viên nhỏ,
Uống đều đặn hàng ngày.

Trong thú y, có thể
Dùng loại cây bồ bồ
Chữa bệnh ỉa cứt trắng
Cho gia súc, trâu bò.   
                                        

CAM THẢO          

Là vị thuốc phổ biến
Cho ngành y Đông, Tây,                          
Cam thảo có ba loại
Là Bắc, Nam và Dây.

Bài này xin được nói
Về một trong ba loài,
Đó là cam thảo Bắc,
Kẻo nói hết thì dài.

Nó thuộc họ Cánh bướm,
Gốc Uran, từ lâu
Còn có tên gọi khác
Là cam thảo châu Âu. 

Cam là ngọt, thảo - cỏ.
Tức thứ cỏ ngọt ngào.
Tự cái tên đủ nói
Vị của nó thế nào.

Cao thường hơn một mét,
Nó là cây lưu niên,
Thân có lông rất nhỏ,
Lá hình trứng, hai bên.

Hoa cam thảo màu tím,
Nở mùa hè, mùa thu.
Quả hình cong, nhiều hạt,                        
Trên mặt có lông xù.   

Cam thảo trồng bằng hạt,
Hoặc thân rễ xùm xòa.
Bốn năm mới thu hoạch,
Chín tấn một héc-ta.

Người ta thường lấy rễ
Hoặc thân rễ cắt ngang,
Về ủ men thành đống,
Cho rễ ngả màu vàng. 

Tây y xem cam thảo
Như vị phụ, xưa nay
Đông y thì ngược lại,
Rất coi trọng vị này.

Trong hầu hết đơn thuốc,
Cam thảo kê đầu tiên.
Nó chữa được nhiều bệnh,                       
Có sẵn, không đắt tiền

Nó có tính giải độc,
Trị vết loét dạ dày,
Tăng tích nước và muối,
Giúp giảm bớt hơi đầy.

Bổ tỳ và nhuận phế,
Lợi tiểu và bổ dương,  
Cam thảo thơm và ngọt,
Có thể dùng thay đường.
                               
Trong công nghệ thuốc lá
Và giải khát ngày nay
Cũng dùng nhiều cam thảo
Chính nhờ đặc tính này.

2
Sử chép, lính La Mã
Trong các cuộc viễn chinh
Có khẩu phần cam thảo,
Cả thời chiến, thời bình.

Cam thảo giàu dinh dưỡng,
Và giải nhiệt, dọc đường
Được phát thay cho nước,
Khi lính thiếu quân lương.

Ngày xưa, người Ấn Độ,
Theo Kama Sutra,
Cho rằng dùng cam thảo
“Chuyện ấy” sẽ mặn mà.
                                        

CÂY HUYẾT DỤ

1
Xưa, có anh đồ tể
Sống cạnh ngôi chùa làng.
Hàng ngày cứ mờ sáng,
Khi chuông chùa ngân vang

Là anh ta tỉnh dậy
Sửa soạn bộ đồ nghề
Rồi bắt đầu mổ lợn,
Tiếng lợn kêu thật ghê.

Mỗi người một nghề sống,
Nên dân làng bực mình
Cũng chẳng làm gì được,
Đành bấm bụng làm thinh.

Một tối nọ, sư cụ
Mơ thấy có một bà
Dắt năm đứa con nhỏ
Nhờ cứu mạng bà ta.

“Bằng cách nào? - sư hỏi. -
Xin bà nói tôi hay.”
“Xin ngài thỉnh chuông sáng,
Muồn muộn hơn mọi ngày.”                    

Sư cụ thỉnh chuông muộn.
Anh đồ tể ngủ quên,
Nên không kịp giết lợn,
Bèn sang trách chùa bên.                         

Anh ta được sư cụ
Kể giấc mơ của mình,  
Về nhà, vào chuồng lợn,                           
Thì thấy lợn vừa sinh

Đúng năm con rất đẹp.
Anh đồ tể lặng người,
Nhẩm đếm mình đã giết
Bao sinh mạng trên đời.                           

Rồi anh ta quyết định
Từ nay sẽ bỏ nghề,
Không bao giờ giết lợn.
Cầm con dao anh thề.

Rồi cắm con dao ấy
Giữ sân chùa, sau này,
Qua một đêm sấm chớp,
Nó hóa thành bụi cây

Có lá như dao nhọn,
Hoa đỏ như máu tươi.
Mọi người gọi huyết dụ,
Tức là cây máu người.

2
Huyết dụ có hai loại:
Lá bên đỏ bên xanh,
Lá hai bên đều đỏ.
Đều là cây họ Hành.

Huyết dụ là vị thuốc
Lưu truyền trong dân gian,
Chữa cầm máu, băng huyết,                    
Ho ra máu, dịch tràn.  

Phụ nữ trước khi đẻ,
Hoặc đẻ rồi, sót nhau,
Không nên dùng huyết dụ,
Đã đau càng thêm đau.

Khi dùng, sắc lá uống:
Hai mươi gam một ngày.
Lá khô thì một nửa,
Uống vài lần, đỡ ngay. 


CÂY THÌ LÀ         

Ngày xưa, khi sự sống
Vừa mới chỉ bắt đầu,   
Trong rừng, các cây cỏ
Chưa có tên gọi nhau.

Và rồi một ngày nọ,
Trời ban cho các loài,
Mỗi người một tên gọi
Và không ai giống ai.

Có môt cây cao thẳng
Được Trời gọi là Thông.
Một loài hoa đỏ tía
Trời đặt tên là Hồng.

Một loài nấm gỗ mục
Được gọi là Linh Chi,
Một sinh vật bé tí
Cũng có tên Địa Y.

Hoa soi mình bóng nước
Trời gọi là Thủy Tiên,
Rồi, Tía Tô, Húng, Quế..                         
Ai cũng được đặt tên.

Cuối cùng, Trời thấy mệt,
Định ngủ thì bỗng nhiên
Có một cây rau nhỏ
Vội chạy đến xin tên.

Nó bảo nó đến muộn
Vì bà ốm lâu ngày,
Phải thuốc thang, cơm nước,
Nên giờ mới đến đây.

Trời mệt, nhìn nó hỏi:
“Con chưa có tên à?
Ừ, đặt tên gì nhỉ?
Ừ, thì là... thì là...”

Nó reo lên vui sướng:
“Tôi đã có tên rồi.
Tôi có tên rồi nhé.
Thì Là là tên tôi.”

2
Đó là cây gia vị
Ta vẫn ăn hàng này,
Nhưng Đông y làm thuốc
Từ hạt giống cây này.

Thì là có tính nóng,
Giúp điều hòa âm dương,
Giảm đau, lợi tiêu hóa,
Ngừa ung thư, tiểu đường.

Với phụ nữ sinh đẻ,
Giảm cân, ăn chóng tiêu,
Kích thích tăng tiết sữa,
Nhưng phải dùng đúng liều.

Do có nhiều khoáng chất,
Vi-ta-min, thì là
Tốt cho hệ miễn dịch,  
Giúp kháng khuẩn ruột già.                     

Hạt thì là, chưng cất
Sẽ có được tinh dầu,
Để xông hương, tạo ẩm,
Bôi da và gội đầu.

Phụ nữ đang thai nghén
Không nên dùng thì là.
Các cụ luôn dạy thế,
Vậy thì hãy tránh xa.   


CÂY ANH TÚC

1
Theo thần thoại Hy Lạp,
Anh túc là loài hoa
Được nữ thần Ceres
Trong đau buồn tạo ra.

Nó giúp bà xoa dịu
Nỗi đau và niềm tin
Khi bị cướp con gái
Là Prosepine.

Lại nữa, hoa anh túc
Là biểu tượng trên tay
Thanatos - Thần Chết
Và Hypnos - Ngủ say.

Riêng điều ấy đủ nói
Rằng thuốc phiện là gì.
Là giấc mơ êm ái,
Chờ Thần Chết bắt đi. 

Trong một câu chuyện khác,
Không nhớ của nước nào,
Nói về người phụ nữ,
Số phận phũ phàng sao.

Nàng bị mụ phù thủy,
Thù độc và thù dai,
Biến thành bông anh túc
Giữa đồng hoa cùng loài.

Từ đấy nàng phải sống
Ban ngày giữa đồng hoa,
Chỉ chờ khi đêm đến
Nàng mới được về nhà.

Một hôm, nàng cho biết,
Muốn quay lại với chồng,
Chàng phải nhận ra vợ
Giữa rừng hoa triệu bông.                       

Anh chồng nghe, lặng lẽ
Ra đồng sáng hôm sau.
Một biển anh túc đỏ,
Bông nào cũng giống nhau.

Thế mà chàng tinh ý
Vẫn nhận ra vợ mình -
Chỉ một bông anh túc
Không có sương lung linh.

Đó là nàng, bởi lẽ
Nàng cùng chồng ở nhà,
Không hề phơi sương gió
Suốt cả đêm hôm qua.

Lời nguyền mụ phù thủy
Thế là hết nhiệm màu.
Hai vợ chồng từ đó
Hạnh phúc sống cùng nhau.

Người ta đồn, trên mộ
Lính Napôlêông
Luôn mọc hoa anh túc,
Đỏ rực một vài bông.

Và rằng đó là máu,
Máu đỏ của con người,
Biến thành hoa anh túc
Như lời nhắc với đời.

2
Thuốc giảm đau cực tốt
Trong ngành dược Đông, Tây,
Anh túc, hay a phiến,
Chính là vị thuốc này.

Anh túc sinh trưởng tốt
Ở những vùng núi cao -
Tam Giác Vàng nổi tiếng
Giữa Miến Điện và Lào.

Nó thuộc họ Anh túc,
Hoa sặc sỡ cả đồng,
Thân cao hơn một mét,
Gieo hạt vào mùa đông.                           

Ba tháng sau có mủ.
Mủ màu trắng ban đầu,
Cô đặc thành thuốc phiện,
Gọi là Nàng Tiên Nâu.

Thuốc phiện được tinh chế
Để thành heroin,
Hay còn gọi bạch phiến,                           
Vừa thơm, lại ưa nhìn. 

Dùng chữa bệnh thì tốt,
Nhưng thuốc phiện xưa nay
Bị người đời lạm dụng.
Chẳng ai lạ điều này.

Nên mới có tệ nạn,
Mới tan cửa nát nhà,
Và một vị thuốc tốt,
Bị khinh ghét, lánh xa.

Ở Việt Nam, anh túc
Bị cấm trồng từ lâu.
Lý do không khó hiểu,
Ngẫm mà thật buồn rầu.


TRINH NỮ HOÀNG CUNG

1
Xưa có gia đình nọ,
Sống ở một làng quê,
Luôn buồn phiền một nỗi
Chỉ sinh con một bề.

Họ sinh toàn con gái,
Nay đã là ba đời.
Từ ông bà, cụ kỵ,
Tổng cộng mười lăm người.

Mười lăm cô gái đẹp,
Mười lăm người đàn bà,
Trải qua ba thế hệ,
Cùng sống chung một nhà.

Do chiến tranh liên tiếp,
Cả mười lăm người này
Đều có chồng là lính.   
Một số phận đắng cay.

Đắng cay nữa là việc
Rằng chồng của mười bà
Không bao giờ trở lại,
Để vợ phải chết già.

Chồng của năm bà khác
Tàn tật lúc trở về
Thành gánh nặng cho vợ,
Khốn khổ đủ trăm bề.

Khi đại gia đình ấy
Sang thế hệ tiếp theo
Lại sinh một bé gái,
Xinh đẹp, con nhà nghèo.

Họ quyết định, con bé
Khi đến tuổi lấy chồng,
Muốn lấy ai thì lấy,
Nhưng lấy lính thì không.

Cô lớn lên, nhí nhảnh,
Thật xinh đẹp, hiền lành,                          
Vô tư, không để ý
Cái bóng của chiến tranh.

Để tránh không lấy lính,
Cô bị cấm ra ngoài,
Không nghe chuyện chiến sự,
Không gặp các chàng trai.

Thế mà mười bảy tuổi,
Một đêm trăng tuyệt vời,
Người ta thấy cô khóc
Khi từ biệt một người.

Một chàng trai khỏe mạnh,
Cũng chân thật, hiền lành
Người bị vua sắp ném
Vào lò mổ chiến tranh.

Như mọi đôi trai gái
Trong giây phút chia ly,
Họ thề non, hẹn biển,
Không quản ngại điều gì.

Cô gái thề chờ đợi
Cho đến lúc chàng về.
Chờ suốt đời, chờ mãi,
Quyết không bội lời thề.”

Thời gian trôi chậm chạp,
Lặng lẽ năm tháng qua.
Cô gái ấy xinh đẹp,
Nay là một bà già.

Cuộc đời bà trống vắng,
Cùng năm tháng ủ ê,
Mỏi mòn trong chờ đợi,
Người yêu vẫn không về.

Cả khi hết trận mạc,
Không phải một mà ba,
Mà người bà chờ đợi
Vẫn đâu đó rất xa. 

Cuối cùng có tin báo,
Mà tin từ triều đình,
Người bà yêu trở lại,
Giàu có và hiển vinh.

Người đàn bà tội nghiệp
Òa khóc vì xót thương,
Tắm rửa sạch, mặc đẹp,
Chống gậy chờ ngoài đường.                   

Ba hôm sau, quả thật,
Người bà mong đã về,
Trong chiếc xe bốn ngựa
Có vải phủ, rèm che.

Bà đứng lặng chờ đợi
Người ấy đến ôm bà.
Chiếc xe dừng, thong thả,
Có hai người bước ra.

Họ bê chiếc khay đỏ,
Phủ tấm lụa sẫm màu
Đặt trước bà cung kính,
Rồi cả hai cúi đầu.

Bà khẽ nâng tấm lụa,
Và đây, trước mắt bà -
Một đầu người bị chém,
Mái tóc bạc lòa xòa.    

Chiếc đầu ấy xa lạ
Của một người không quen.
Đôi mắt không chịu nhắm
Đang nhìn bà thản nhiên.

Người ta báo bà biết
Đó là người bà mong.
Một quan, hàng tứ trụ,
Phò mã, tước Quận Công.

Tuy nhiên, Quận Công ấy
Đã bị vua hành hình
Vì âm mưu tạo phản
Nhằm lật đổ triều đình.

Trước khi đem xử trảm,
Ông không xin được tha,
Chỉ xin sau khi chết,
Gửi xác về cho bà.

Với hai mắt ráo hoảnh,
Bà lặng lẽ chôn ông
Theo đúng các nghi thức
Một bà vợ chôn chồng.

Vậy là thôi chờ đợi.
Cô gái ấy hiền lành
Mà nay là bà lão,
Không còn sợ chiến tranh.

Giờ là lúc thanh thản,
Không lo sợ, đợi chờ,
Bà nằm xuống, ngủ thiếp,
Mái tóc bạc lơ thơ.

Bà ngủ lâu đến nỗi
Đất phủ lên người bà,
Và từ đất chợt nhú
Mới mẻ một loài hoa.

Đó là hoa Trinh Nữ.
Trắng trong và xinh tươi.
Hay là hoa Trinh Lão,
Hoa của một kiếp người?

2
Các vua xưa, ta biết,
Có vô số cung tần.
Nhiều người trong số họ
Chưa gần vua một lần.

Trong hoàn cảnh như vậy,
Cũng là lẽ thường tình,
Họ mắc một số bệnh
Của phụ nữ cung đình.

Nên vị thuốc cho họ
Là trinh nữ hoàng cung,
Có nguồn gốc thảo dược
Nhưng công hiệu vô cùng.

Đó là một loại cỏ,
Thân như củ hành tây,
Bẹ úp thành thân giả,
Lá dài, nhọn và dày.

Nó là thuốc đặc trị
Bệnh ung thư ngày nay -
Vú, tử cung, tiền liệt,
Phổi, gan và dạ dày.

Cách dùng: Lá thói nhỏ,
Ba bốn lá một lần,
Sao vàng, sắc rồi uống,
Hy vọng bệnh khỏi dần.                            

Cây này người Ấn Độ
Lấy nước chữa đau tai,
Rang nóng chữa thấp khớp,
Các vết loét bên ngoài.

Cây hoàng cung trinh nữ
Ở Căm Bốt xưa nay
Chữa các bệnh phụ sản
Nghe nói cũng rất hay.
                                        

HOA HỒNG

1
Chuyện kể rằng thần Dớt,
Chúa tể các vị thần,
Lần nọ đã ăn ngủ
Với cô gái người trần.

Thần này vĩ đại thật,
Nhưng rất hay ngoại tình.
Lần ấy thần có được
Một cô con rất xinh.

Tất nhiên thần vui lắm,
Đặt tên Elisa,
Hứa cho con sắc đẹp,
Đẹp nhất Olympia.

Nàng lớn lên, mỗi sáng
Đích thân thần Bình Minh
Gom các tia nắng đẹp
Để nàng khoác lên mình.

Buổi trưa, mây ngũ sắc
Làm giường nàng nghỉ ngơi.
Đêm, trời sao chụm lại
Để nàng hái, đùa chơi.

Thần Tình Yêu Eros
Một hôm đến thăm nàng,
Cho nàng nghịch cung quí,
Không ngờ bắn trúng chàng.                   

Thế là chàng từ đó
Mê mẩn Elisa,
Quên sứ mạng cao cả,
Cung tên vứt ở nhà.     

Thương hại chàng, thần Dớt
Cho họ thành vợ chồng.
Tiệc cưới đúng một tháng,
Rượu tràn như nước sông.

Đôi bạn trẻ hạnh phúc,
Chìm trong tình yêu thương.
Rồi sau tuần trăng mật,
Eros lại lên đường.

Chàng không quên nhiệm vụ
Mang tình yêu cho đời,
Phóng những mũi tên nhỏ
Vào trái tim mọi người.

Mà đời thì rất rộng,
Người cần yêu rất đông,
Chàng đi lâu, để vợ
Phải một mình trong phòng.

Vừa lúc Thần Ghen Ghét
Đi xa về, bàng hoàng
Và tức giận khi biết
Thần Eros cưới nàng.

Mụ lồng lên giận dữ:
“Eros là của ta,
Chứ không phải của nó,
Con bé Elisa!”       

Mụ tìm, thấy Eros,
Đang ngủ say trên đồi,
Rút mũi tên tình ái
Khỏi tim chàng, và rồi

Khẽ thổi nhẹ vào đó
Một “hơi thở lãng quên”.
Eros dậy, ngơ ngác,
Không nhớ gì, đứng lên

Rồi đi tiếp, từ đấy
Chẳng bao giờ về nhà,
Không nhớ mình có vợ
Tên là Elisa.          

Còn nàng thì đau khổ,
Mong ngóng chồng đêm ngày.
Nhờ Gió đi tìm hộ.
Gió về, nói thế này:

“Xin đừng mong đợi nữa.
Eros đang lang thang
Đó đây khắp thế giới
Và không còn nhớ nàng.”                        

Elisa đau đớn
Giơ hai tay lên cao:
“Thế thì ta thà chết!
Ôi chồng ta, lẽ nào...”

Và rồi nàng gục chết.
Hoa héo, chim ngừng ca.
Vầng dương ngưng chiếu sáng,
Mặt hồ thôi chói lòa.

Cuối cùng thần Dớt đến.
Ngài ái ngại, lắc đầu:
“Ta quên cho nghị lực
Để con vượt buồn đau.”                           

Rồi ngài biến tro bụi
Xác con thành loài hoa.
Loài hoa hồng cao quí,
Dịu dàng và thiết tha.

Tuy nhiên màu hoa ấy
Không phải hồng, mà vàng,
Một màu vàng mãnh liệt,
Khiến day dứt, ngỡ ngàng.

“Để khi hắn quay lại, -
Ngài nói. - Hắn sẽ đau
Như con đau vì hắn,
Đến không dám ngẩng đầu.”

Thế là đời xuất hiện
Loại hoa hồng màu vàng,
Màu của sự phản bội,
Màu của chàng quên nàng.

2
Ngày xưa, ở La mã,
Dưới thời vua Ceasar,
Có cô gái xinh đẹp,
Thùy mị và nết na.

Cô xinh đẹp đến mức
Rất nhiều các chàng trai
Ngày đêm đến đeo đuổi,
Lớp trong rồi lớp ngoài.

Để tránh bị phiền nhiễu,
Cô gái, Rozana,
Đến ở nhờ nhà bạn
Là thần Diana.

Thế mà vị thần ấy
Lại thầm ghen trong lòng,
Thay cho việc giúp bạn,
Biến nàng thành hoa hồng.                      

Còn những người đeo đuổi
Bị thần biến thành gai
Bám quanh loài hoa ấy.                            
Gai rất nhọn và dài.     

Nàng thành hoa, vẫn đẹp,                        
Quyến rũ với mọi người.
Lại còn là vị thuốc
Rất có ích cho đời.

3
Đó là cây dạng bụi,
Xếp vào họ Hoa hồng,
Hiện có hơn trăm loại,
Phân bố khắp Tây Đông.

Hoa hồng không chỉ đỏ
Mà còn đủ các màu,
Có loại từ châu Á,
Có loại từ châu Âu.      

Từ xưa, người Trung Quốc
Biết sử dụng hoa hồng
Chữa bệnh đau bụng dưới,
Giúp kinh nguyệt lưu thông.

Đặc biệt hoa hồng đỏ
Giúp chữa bệnh bạch hầu,
Viêm mủ da, đinh nhọt,
Làm vết thương dịu đau.

Trong khi hoa hồng trắng                        
Giàu tanin và đường,
Chữa bệnh ho cho trẻ,
Có tác dụng nhuận trường.

Tinh dầu hoa hồng đỏ
Là một chất an thần,
Trị thần kinh suy nhược,
Kích thích máu tuần hoàn.                       

Nước hoa hồng rất tốt,
Làm mát, sạch làn da,
Có tính kháng khuẩn nhẹ,
Có thể dùng ướp trà.   


NGÔ THÙ DU

1
Từ rất lâu về trước,
Ở miền Nam sương mù,
Nước Ngô có bài thuốc
Có tên là Ngô Du.

Được xem là thần dược,
Chữa bệnh gì cũng hay,
Người nước Ngô vì vậy
Giữ bí mật thuốc này.

Thời Xuân Thu, vua Sở
Mắc bệnh gì khá lâu,
Cứ thượng thổ hạ tả,   
Khó chịu và rất đau.    

Có một viên quan nhỏ
Lo cho bệnh của vua,
Nên ngày đêm lặn lội
Đến nước Ngô tìm mua.

Rồi ông đem cây thuốc
Dâng vua, nhưng tiếc thay,
Vua thấy nó xấu xí,
Không chịu dùng thuốc này.

Thậm chí ngài tức giận,
Sai lính đem chém đầu.
May nhờ sự can thiệp
Của ngự y họ Châu

Nên ông mới thoát chết,
Chỉ bị đuổi về quê
Làm một anh cày ruộng                           
Vất vả đủ trăm bề.

Biết đó là thuốc quí,
Quan ngự y lo xa,
Bèn lén đem cây thuốc
Trồng trong vườn sau nhà.

Bệnh của vua tái phát,
Mọi người đành bó tay.
Vua thượng thổ hạ tả,
Nằm kêu rên suốt ngày.

Châu Đại Phu lấy lá
Cây Ngô Du sắc lên
Làm thuốc dâng vua uống.
Bệnh của vua giảm liền.

Vua thôi không nôn mửa,
Cơ thể lại quân bình.
Ngài ngạc nhiên, cho hỏi,
Ông kể hết sự tình.

Vua trầm ngâm một lúc
Rồi hỏi quan ngự y:
“Viên quan ấy bị đuổi,
Giờ ở đâu, làm gì?”     

Viên quan xấu số ấy
Được phục chức, về triều,
Rồi phong làm quan lớn,
Ân sủng cũng rất nhiều.

Mấy năm sau, dịch tả
Bỗng hoành hành khắp nơi.
Cây ngô du, được biết,
Cứu mạng sống nhiều người.                   

Cây thuốc ấy rất quí
Của nước Ngô, Ngô Du,
Người đời sau gọi chệch,
Ở giữa thêm chữ Thù.

2
Ngô thù du, vị thuốc
Từ quả cây cùng tên.
Cây cao ba, bốn mét,
Phân bố ở nhiều miền.

Quả có hình cầu dẹt,
Khi chưa chín màu xanh.
Khi chín màu đỏ tím,
Mọc thành chùm trên cành.

Hoa nở vào tháng Bảy,
Quả chín khoảng tháng Mười.
Khi thu hoạch, hái quả
Đem phơi khô ngoài trời.

Ngô thù du ôn tính,
Ngậm thấy đắng, hơi cay,
Trị đau bụng, nôn mửa,
Đi tháo lỏng nhiều ngày.

Nó còn được sử dụng
Chữa bệnh tê, đau lưng,
Chân tay yếu, cảm lạnh,
Lở ngứa và đau răng.

Cách dùng: dưới dạng bột,
Một - ba gam mỗi lần.
Ngày uống ba, bốn bận.
Hoặc sắc lên dùng dần.

Thuốc sắc thì liều lượng
Có thể tăng gấp đôi,
Ba đến sáu gam nhỏ,
Uống đến khỏi mới thôi.

Quả thù du sắc đặc
Thành dung dịch vàng đen,
Rửa bộ hạ ngứa ngáy,
Vài lần là khỏi liền.

Đau răng thì lấy quả
Ngâm với rượu thật lâu,
Rồi ngậm và súc miệng,
Mấy ngày sẽ hết đau.



SƠN DƯỢC

1
Sách sử có chép lại
Một câu chuyện như sau,
Rằng xưa có hai nước
Lớn và nhỏ đánh nhau.

Đội quân của nước nhỏ
Bị dồn ép, cuối cùng
Bị quân của nước lớn
Bao vây trong khu rừng.

Khu rừng ấy hiểm trở,
Không dễ tấn công vào.
Thủ lĩnh quân nước lớn:
“Không đánh cũng chẳng sao.

Trong ấy thiếu lương thực.
Sớm muộn, vì đói ăn,
Hoặc chấp nhận thất bại,
Hoặc chúng sẽ chết dần.”

Rồi ông ta cắm trại,
Cho bao vây bốn bề,
Chờ giặc ra nộp mạng,
Đắc thắng và hả hê.

Thế mà suốt mấy tháng,
Không thấy chúng ra hàng.
Đánh vào, bị đánh trả.
Ông bắt đầu hoang mang.

Và rồi một tối nọ,
Khi quân lính ngủ say.
Quân nước nhỏ trên núi,
Đánh xuống, phá vòng vây.

Do chủ quan khinh địch,
Do mỏi mệt, quân ông
Bị đánh thua, tan tác,
Xác ngổn ngang giữa đồng.

Thế là quân nước lớn
Phải rút về nước mình.
Quân nước nhỏ chiến thắng,
Khôi phục lại hòa bình.

Suốt mấy tháng trên núi,
Mặc dù thiếu quân lương,
Họ không chỉ không đói
Mà khỏe mạnh khác thường.

Đơn giản vì bất chợt
Họ thấy một loài cây
Củ rất to và ngọt,
Lá xanh rậm và dày.    

Hơn thế, loài cây ấy
Có rất nhiều khắp nơi.
Ngựa thoải mái ăn lá,
Củ thì dành cho người.

Sau chiến tranh, dân chúng
Vào rừng đào về ăn,
Thay cho ngô, cho gạo,
Sức khỏe khá hơn dần.

2
Cây củ quí giá ấy
Có tên là củ mài,
Họ Củ nâu, thực chất
Cũng là một giống khoai.

Khi đem chế thành thuốc,
Hiện đang được lưu hành,
Có tên là là sơn dược,
Tức thuốc của rừng xanh.

Ngoài việc dùng chống đói,
Nhân dân ăn củ này
Còn bổ đường phế, thận,
Chữa tả, lỵ lâu ngày.

Sơn dược là thuốc tốt
Cho bệnh viêm đại trường,
Di tinh, bổ tỳ vị,
Chữa bệnh đái tháo đường.

Cách dùng: sắc hay bột,
Mười lăm gam một ngày.
Dân gian rất coi trọng
Loại thuốc rẻ tiền này.



PHƯỢNG TIÊN         

1
Xưa, vào thời trung cổ,
Ở một nước châu Âu,
Có cô gái xinh đẹp,
Tên là Rosemarose.

Không chỉ xinh, cô gái
Còn tốt bụng, sẵn lòng
Nhường chỗ ở nhỏ bé
Cho chim trú mùa đông.

Còn đàn chim, cảm động,
Tới những chân trời xa
Mang về tặng cô chủ
Rất nhiều các loài hoa.

Những loài hoa tuyệt đẹp
Chỉ có ở đất người,
Đủ các màu sặc sỡ
Long lanh dưới mặt trời.

Vậy là cô, nghèo đói,
Nhưng có một vườn hoa
Xinh đẹp nhất cả nước,
Hơn thượng uyển hoàng gia.

Dân làng cứ thoải mái
Dạo chơi trong vườn cô.
Ai muốn xin cây giống,
Cứ việc lấy, tha hồ.

Một cô gái xinh đẹp
Mang cái đẹp cho người,
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngây thơ sống giữa đời.

Thế mà rồi Giáo Hội
Bắt cô lên giàn thiêu
Vì nghi là phù thủy,
Do hàng xóm đặt điều.

Hoàng xóm, vì ghen tị,
Nói vườn hoa của cô
Là vườn hoa phù thủy,
Nhiều hoa lạ và to.

Thế đấy, cô đã chết.
Từ đám tro mọc lên
Một loài hoa tuyệt đẹp
Có tên là Phượng Tiên.

2
Phượng tiên là hoa dại,
Cũng có thể được trồng,
Thuộc họ cây Bóng nước,
Hoa trắng hoặc đỏ hồng.

Nhiều gia đình người Việt
Thích trồng hoa phượng tiên
Như một loài hoa cảnh
Trong vườn hoặc ngoài hiên.

Nó còn là cây thuốc.
Chỉ lấy thân và cành,
Bỏ rễ, bỏ hoa, quả,
Phơi khô rồi để dành.

Theo các tài liệu cổ,
Cây này có vị cay,
Tính ôn, hơi có độc,
Là vị thuốc rất hay.

Nó giúp chữa phong thấp,
Chữa rắn cắn, sưng đau,
Hoạt huyết và chỉ thống,
Giảm nhẹ chứng nhức đầu.

Dùng dưới dạng thuốc sắc,
Ngày uống một cốc con.
Dùng ngoài không hạn chế,
Đến khi bệnh không còn.

Nó còn giúp giáng khí,
Chữa kinh nguyệt không thông,
Đẻ khó hay nấc nghẹn.
Đang mang thai không dùng.

Một ngày dùng ba lượt
Dưới dạng bột hay viên,
Bốn đến sáu gam nhỏ,
Hy vọng bệnh khỏi liền.

Hà Nội, 22. 7. 2012

          HẾT

No comments:

Post a Comment