Thursday, March 5, 2015

CÔ GÁI GÙ



Truyện ngắn. Thái Bá Tân

          Ở làng tôi có một cô gái gù. Chúng tôi là bạn thân với nhau thời nhỏ, dù cô hơn tôi những năm tuổi...
          Mà thôi, trước khi bắt đầu câu chuyện ấy, có lẽ độc giả hãy đọc bài thơ dưới đây của Eđuardas Mêgiêlaitis mà theo tôi là hay và cũng có chung đầu đề như câu chuyện của tôi.

                                         Cô gái gù

                             Cô bé sống trong một khu làng nhỏ
                             Sống vô tư với bà nội một nhà.
                             Sao lo sẵn của hồi môn giàu có.
                             Cho cô dùng - trăng dệt áo, thêu hoa.

                             Cô bé ấy lớn lên, chờ hạnh phúc.
                             Nhưng than ôi, số phận chẳng nuông chiều.
                             Mang cái bướu trên lưng như vết nhục,
                             Cô đau buồn, cô gái đẹp, đáng yêu.

                             Và cứ thế, trong căn phòng khép chặt,
                             Cô để trôi những năm tháng ê chề.
                             Cho cô bé - bầu trời trong đôi mắt,
                             Những lúc buồn, họa mi hót cô nghe.

                             Như đàn bướm luôn vô tư, vui vẻ,
                             Các bạn cô vui ca hát bên nhà.
                             Qua đôi mắt đang rưng rưng ngấn lệ,
                             Cô gái gù từ khe cửa nhìn ra.

                             Rồi bà chết, được xe đưa yên nghỉ
                             Bên hàng dương nghĩa địa phía sau làng.
                             Và vừa khóc, cô cháu bà yêu quý
                             Vừa cúi đầu theo sát chiếc xe tang...

                             Cái vất vả và cái nghèo cuộc sống
                             Trao chiếc roi cho cô gái lưng gù
                             Bắt cô bé phải hàng ngày chăn ngỗng
                             Ngoài cánh đồng heo hút những chiều thu.

                             Cô cùng tôi thường tết hoa, đi dạo,
                             Thường cùng nhau nhóm lửa sưởi... Hàng giờ
                             Cho cô nghe, nhiều lần tôi thổi sáo
                             Cũng nhiều lần tôi hát hoặc làm thơ.

                             Mùa đông đến, một mùa đông khắc nghiệt
                             Làm cỏ cây cùng muông thú chết dần.
                             Và để sống, để hàng ngày chống rét,
                             Nhà tiếp nhà cô xách bị xin ăn.

                             Một tối nọ, cô nằm im, không dậy.
                             Cả trời sao sà xuống tỏa ánh vàng.
Như món của hồi môn, trời sao ấy
                             Cô gái gù cho vào bướu đang mang.

                             ...Tôi cúi xuống chiếc quan tài nhỏ bé -
                             Cô nằm yên bên cửa sổ, che mình
                             Bằng tấm lụa ánh trăng thêu đẹp đẽ
                             Dính một vài ngôi sao sáng lung linh.

                             Cô gái ấy đã làm gì nên tội
                             Để phải mang một số phận thế này?
                             Trước cô gái, tôi thấy mình có lỗi
                             Và đau buồn, và day dứt  lâu nay...

          Đúng là cả truyện ngắn chỉ trong một bài thơ nhỏ - một truyện ngắn cổ điển với đầy đủ các chi tiết cần thiết.
Tôi rất yêu thơ Mêgiêlaitis (1), thậm chí còn quen ông và suốt một thời gian dài chúng tôi trao đổi thư từ với nhau. Cách đây hai mươi năm tôi từng dịch và in hai tập thơ riêng của ông. Nếu được chọn chỉ một nhà thơ xô-viết để trao giải Nôben, nhất định tôi sẽ chọn Mêgiêlaitis. Tất nhiên không phải vì ông là bạn tôi mà vì theo tôi, ông là nhà thơ số một của nền thơ xô-viết, xứng đáng hơn nhiều nhà thơ nước khác từng được nhận giải thưởng cao quí này. Mở đầu tập thơ "Nghịch lý của bàn tay" xuất bản ở Việt Nam năm 1984 ông có lời tựa với những dòng cảm động về tình cảm của ông đối với con người và đất nước chúng ta.
          Khi đọc xong "Cô gái gù" trong số sách ông mới gửi tặng - lúc ấy khoảng cuối năm 1980 - tôi liền viết thư hỏi ông xuất xứ  bài thơ này, và nói thêm rằng thưở nhỏ tôi cũng chơi thân với một cô bé gù bất hạnh. Ông cho biết nội dung bài thơ hoàn toàn có thật, trừ những chi tiết được thi vị hóa, và bảo tôi hãy viết một bài thật hay về bạn mình. Tôi định thử nhiều lần nhưng cuối cùng lại thôi, vì biết có viết gì và hay đến đâu, cũng sẽ chỉ là sự lặp lại mờ nhạt những điều Mêgiêlaitis đã nói. Bây giờ, khi cho in lại lần thứ ba tác phẩm của ông trong một tuyển tập mới, và lần nữa đọc "Cô gái gù", tôi quyết định quay lại đề tài này, không bằng thơ mà bằng văn xuôi.
Ở đời quả có nhiều sự trùng hợp ngẫu nhiên. Cô gái gù của tôi ngày nhỏ cũng có khuôn mặt xinh đẹp, đặc biệt là đôi mắt. Tôi không biết vì sao cô bị gù,  có thể do bẩm sinh hay hậu quả một căn bệnh nào đó. Lớn lên tôi đã thấy cô mang chiếc bướu sau lưng. Chiếc bướu to khiến người cô co rúm lại, khuôn mặt xinh đẹp như lọt thỏm trong đôi vai nhô cao. Dù hơn tôi năm tuổi, nhưng vì là con gái, nhỏ người hơn, có thể vì gù nữa, nên tôi xưng hô tao mày như  bạn bè ngang lứa.
Tên cô là Hồng, một cái tên đẹp, có vẻ hơi kiểu cách ở quê tôi thời ấy, nhưng mọi người chỉ đơn giản gọi "con gù". Tôi cũng gọi thế, ít ra thời gian đầu. Mẹ tôi bảo cô mồ côi từ nhỏ và sau đấy, cũng giống cô gái gù trong thơ Mêgiêlaitis, cô sống với bà nội, một người bán hàng xén ở chợ Hôm, không giàu nhưng chẳng nghèo lắm. Thậm chí cô còn được đi học một thời gian. Sau đó bà cô bệnh nặng chết, để cô một mình không nơi nương tựa. Cô chẳng còn ai thân thích trừ vài người thuộc đằng ngoại ở Hà Tĩnh mà từ lâu đã mất liên lạc.
Chẳng còn cách nào khác, cô phải đi xin ăn ở chợ Hôm và các làng lân cận. Cuối cùng, động lòng thương, một địa chủ trong làng đưa cô về nuôi như con cái trong nhà. Cái khái niệm địa chủ thời ấy chủ yếu mang tính giai cấp chứ không vì sự giàu có hay bóc lột. Vợ chồng, con cái người địa chủ ấy cũng hàng ngày ra đồng làm quần quật từ sáng đến tối như mọi người. Khác chăng, họ có nhiều ruộng hơn, biết lo toan nên sống khá giả và có được ngôi nhà ngói ba gian. Họ có ba người con đi bộ đội cách mạng, một người sau này thành vị chỉ huy có tài, được gọi là "con hùm xám quốc lộ 6". Theo sách vở thì địa chủ phải độc ác lắm. Có thể nói chung như vậy thật, nhưng ông địa chủ này chẳng giống thế chút nào. Ông hiền, tốt bụng và hay giúp đỡ người khác nên trong làng ai cũng quí mến ông.
          Cô bé gù làng tôi không chăn ngỗng mà chăn trâu, một việc bình thường của lũ trẻ trong làng. Ngày nào tôi và cô cũng dắt trâu ra bãi hoang Đồng Chùa. Không phải tôi có cảm tình gì đặc biệt, mà thực tình chỉ muốn lợi dụng cô. Chả là tôi có nhiều sách, cô lại ham đọc nên tôi cho mượn, với điều kiện mượn một cuốn, cô phải trông trâu cho tôi một tuần để tôi yên tâm đọc sách, nằm ngủ hoặc chơi lang thang đâu đó.
Vốn không hiếu động, tôi ít chơi với bọn con trai cùng các trò ồn ĩ của chúng. Tôi không "cùng tết hoa, đi dạo" hay "đọc thơ, thổi sáo cô nghe" như Mêgiêlaitis, dù lúc ấy tôi đã võ vẽ làm thơ và biết chơi đàn măng-đô-lin nhờ bố tôi dạy. Nhưng "cùng đốt lửa ngồi sưởi" với nhau thì có và khá thường xuyên vì bãi hoang Đồng Chùa trống trải, mùa đông rất lạnh. Với lợi thế "có sách", tôi bắt cô làm mọi việc, coi như chuyện đương nhiên, mặc dù trong thâm tâm tôi thích cô vì khuôn mặt đẹp, vì sự dịu dàng bẽn lẽn và cả vì nói chuyện với cô thú vị. Cô không có bạn nào khác, cả trai lẫn gái. Như "cô gái gù" của Mêgiêlaitis, cô luôn mặc cảm về bệnh tật của mình và cũng thường "qua đôi mắt rưng rưng ngấn lệ" lén nhìn các bạn cùng tuổi vui chơi từ sau cánh cửa.
          Năm 1952, quê tôi phát động phong trào đấu tranh chính trị. Làng tôi là cái làng Nho Lâm được nhắc đến trong cuốn "Chuyện làng ngày ấy" của nhà văn đồng hương Võ Văn Trực viết về những chuyện kỳ cục thời đó.
Ông địa chủ tốt bụng kia bị đem ra đấu tố. Cả làng họp mấy đêm liền để đấu ông. Được mớm lời từ trước, ai cũng xông vào chửi rủa, đấm đá, té nước đái và cứt vào mặt ông, buộc tội ông là tay sai, là gián điệp ngầm của đế quốc. Lý do là người ta thấy trong nhà ông có mấy cuốn sách tiếng Pháp do anh con chỉ huy cách mạng từng học xong tú tài để lại. Chắc những cuốn tiểu thuyết hay giáo khoa gì đó, nhưng vì không ai biết đọc nên đương nhiên chúng phải là "tài liệu phản động".
Không hiểu sao chính những người được gia đình ông xưa nay giúp đỡ nhiều nhất lại đấu ông quyết liệt nhất và cũng đánh ông đau nhất. Cứ theo lời tố thì suốt đời họ bị thằng địa chủ Việt gian này bóc lột, bòn rút tận xương tủy. Người ta cũng bắt cô gù, lúc ấy mười tuổi, tham gia đấu tố, tất nhiên có sự chuẩn bị rất kỹ từ trước. Thế mà trước "cán bộ" và tất cả dân làng, cái con bé khốn khổ ấy lại nói ngược hết những lời được dặn.
          - Đồng chí Hồng, có phải tên địa chủ Việt gian phản động, tên tay sai đế quốc này đã bắt đồng chí làm việc hai mươi giờ một ngày và chỉ cho ăn mỗi ngày một bát cám lợn không?
          "Đồng chí Hồng” nhìn thẳng vào mắt người vừa hỏi, nói rành rọt từng tiếng. Đứng lẫn trong đám trẻ tò mò chen chúc phía sau, tôi thấy hình như cô đang cố ưỡn thẳng cái lưng gù của mình.
          - Không. Cháu chăn trâu hàng ngày ở Đồng Chùa. Thỉnh thoảng nếu cậu Tục bận học bài thì cháu rửa bát. Quét nhà là việc của cháu. Cháu ăn một ngày hai bữa với cả nhà. Có hôm buổi sáng được ăn khoai luộc, cũng với cả nhà.
          - Nhưng hắn luôn đánh đập đồng chí rất tàn nhẫn.
          - Không, bố cháu không bao giờ đánh cháu. Ông ấy rất tốt và thương cháu...
          - Không thể như thế được. Bọn địa chủ, tay sai đế quốc không bao giờ thương người, nhất là những kẻ mồ côi như đồng chí. Đồng chí cố nhớ lại xem. Có gì cứ nói ra, đừng sợ. Cách mạng sẽ bảo vệ đồng chí. Rõ ràng ý thức giác ngộ giai cấp của đồng chí còn kém, lập trường cách mạng mơ hồ. Nào, hãy nói đi! Hãy nhổ một bãi nước bọt vào mặt nó đi!
          "Đồng chí Hồng" vẫn đứng im, rơm rớm nước mắt nhìn ông địa chủ bố nuôi đang bị trói quặt tay sau lưng, mặt mày thâm tím. Cô là người duy nhất dám công khai bênh vực ông. Trong khi đó đám đông giận dữ bắt đầu nhao nhao la hét:
          - Đánh dập cái lưng gù của nó đi!
          - Con phản cách mạng! Tay sai đế quốc!
          - Bắt nó ra đấu luôn!
          - Treo ngược nó lên mà đánh!
          Thấy cứ để tiếp diễn như thế sẽ bất lợi, ông cán bộ được cử từ tỉnh về chỉ đạo phong trào bèn giang tay tát mạnh vào mặt "đồng chí" Hồng, làm nó loạng choạng suýt ngã. Rồi "đồng chí" bị ai đó tức giận đá đít đuổi đi, nhường chỗ cho những người có lập trường giai cấp vững hơn.
Cô bé gù bỏ ra đồng ngồi khóc một mình. Tôi lặng lẽ đi theo. Lúc ấy tôi chưa hiểu thế nào là đấu tranh giai cấp, là tay sai đế quốc hay phản cách mạng. Tôi cũng không hiểu vì sao dân làng tôi xưa nay vốn hiền lành, chất phác mà bỗng dưng trở nên hung dữ và độc ác như vậy. Tôi chỉ biết cô nói đúng sự thật, và càng quí cô hơn vì đã dũng cảm nói lên sự thật đó.
Xét vì còn bé, lại tật nguyền nên người ta tha không đem cô ra đấu tố và đánh đập như nhiều người khác. Sợ bị vạ lây, bố mẹ tôi cấm không cho tôi chơi với cô, nhưng chúng tôi vẫn lén lút gặp nhau.
          Mấy hôm sau người ta treo ngược ông địa chủ bố nuôi cô lên cành cây, cho đốt rơm phía dưới để bắt ông khai đã giấu tài liệu đế quốc ở đâu. Nóng quá không chịu nổi, ông nhận ông là gián điệp nước ngoài và xin được thả xuống để dẫn đi lấy tài liệu mật. Ông dẫn cả đoàn người háo hức đi khắp đồng, khắp làng nhưng chẳng thấy tài liệu nào. Người ta lại đánh đập, lại treo ông lên để đốt vì tội ngoan cố, còn dám đùa với cách mạng. Nửa tháng sau ông chết vì các vết bỏng quá nặng, hai ngày trước khi có giấy ở trên gửi xuống "sửa sai" và minh oan cho ông.
          Những năm cải cách ruộng đất, đồ đạc, thóc gạo và cả ngôi nhà của ông đều bị tịch thu đem chia cho nông dân. Nhà tôi cũng được chia một đôi chum rất to, bị vỡ trong lần máy bay Mỹ ném bom trúng nhà năm 1966.
          Rồi mọi việc cũng dần dần đi vào ổn định. Với bà mẹ nuôi tháo vát, biết tính toán làm ăn, gia đình cô lại khá giả và lần nữa lại có thể giúp đỡ hàng xóm, kể cả những người từng đánh đập và châm lửa đốt chết bố cô. Giữa năm 1967, tất cả thanh niên làng tôi cùng viết đơn xung phong ra trận. Cả tôi, cô gái gù và Tục, con trai ông địa chủ phản động. Nhưng ba chúng tôi không được nhận. Tôi được gửi sang Liên Xô học để sau này hòa bình về xây dựng lại đất nước. Hồng vì cái bướu trên lưng, còn Tục thì vướng "thành phần không cơ bản".  Sau này, khi chiến tranh trở nên ác liệt, Tục được nhập ngũ và anh đã hy sinh ở Quảng Trị.
          Thú thật từ ấy, do bận bịu học hành, rồi công tác, hoặc đơn giản do vô tâm, tôi ít khi nghĩ tới cô bạn gù tuổi thơ của mình. Suốt bảy năm ở nước ngoài tôi chẳng một lần gửi thư cho cô, cũng không một lời thăm hỏi. Về nước, tôi được biết cô đã là bà cán bộ phụ nữ cấp huyện, một điển hình tốt về mọi mặt, được dự đại hội chiến sĩ thi đua toàn tỉnh. Bà, và cả tôi nữa, rất vui những lần hiếm hoi chúng tôi gặp lại nhau. Bà nói ít, chỉ nhìn tôi và cười, nụ cười bẽn lẽn như ngày nào. Tôi cũng chẳng biết nói gì hơn ngoài những câu xã giao nửa đùa nửa thật mà người ta vẫn nói trong những trường hợp tương tự. Thậm chí chúng tôi không nhắc tới chuyện cũ. Chuyện tuổi thơ chúng tôi đẹp đấy, nhưng cũng buồn lắm.
          Năm ngoái tôi về thăm quê đúng lúc bà mới chết ngày hôm trước và người ta đang chuẩn bị làm lễ quàn. Hơi chút ít sững sờ, tôi vội tới để được nhìn bà lần cuối. Bà nằm đó trên chiếc giường sạch sẽ trải nệm dày bên chiếc quan tài đợi sẵn. Khuôn mặt bà vẫn đẹp, đặc biệt rất thanh thản, như suốt bao năm nay bà không hề có sự mặc cảm của người bị tật nguyền, không hề từng xẩy ra những sự kiện khủng khiếp của cái năm 52 nọ. Bà chết như một người thực sự hạnh phúc. Bà xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn như bất kỳ người phụ nữ bình thường nào. Nghe nói có lần ai đó đem lòng yêu thương bà, muốn hỏi làm vợ nhưng không hiểu sao bà từ chối. Sau này có người bảo suốt đời bà chỉ thầm yêu một người nhưng chẳng bao giờ nói ra. Người ấy là tôi. Để chứng minh, người ta cho tôi xem bà đã nâng niu cất giữ thế nào những cuốn sách tôi viết, cả những bài báo nhỏ nhất của tôi mà không biết bà gom nhặt từ bao giờ và bằng cách nào. Tuy nhiên tôi không tin như thế, và nghĩ người ta chỉ đùa.
          Còn lúc này, thắp hương xong, tôi lặng lẽ cúi đầu đứng bên bà. Đang giữa trưa, trời u ám và có mưa lất phất. Bất giác tôi chợt nhớ bài thơ "Cô gái gù" của Mêgiêlaitis, bài thơ của ông mà cũng là của tôi.

                             ...Một tối nọ, cô nằm yên không dậy.
                             Cả trời sao sà xuống, tỏa ánh vàng.
                             Như món của hồi môn, trời sao ấy
                             Cô gái gù cho vào bướu đang mang.

                             ...Tôi cúi xuống chiếc quan tài nhỏ bé -
                             Cô nằm yên bên cửa sổ, che mình
                             Bằng tấm lụa ánh trăng thêu đẹp đẽ
                             Dính một vài ngôi sao sáng lung linh...

                             Cô gái ấy đã làm gì nên tội
                             Để phải mang một số phận thế này?
                             Trước cô gái tôi thấy mình có lỗi
                             Và đau buồn, và day dứt lâu nay...

         
                                                                             Hà Nội, 7.4.2001
                                                                            

(1). Eđuarđas Mêgiêlaitis (1919 - 1997), nhà thơ lớn Litva, trước đây là một nước cộng hoà của Liên bang Xô-viết; anh hùng lao động Liên Xô, giải thưởng Lênin về văn học.

No comments:

Post a Comment