Truyện ngắn. Thái Bá Tân
Thành phố đêm trăng. Đèn sáng rực khắp nơi nhưng không át
được thứ ánh sáng huyền ảo có màu vừa bàng bạc vừa xanh lơ của trăng rằm tháng
Sáu cao trên đầu. Trời không mây. Gió ấm thổi nhẹ từ phía sông Hồng thật dễ
chịu. Thậm chí phảng phất mùi gì đấy như mùi trăng. Đúng hơn, có lẽ đó là mùi
hạnh phúc.
Ông đang cảm thấy hạnh
phúc, cái hạnh phúc bình dị của một người không đòi hỏi nhiều ở đời. Chỉ mong
muốn cho, nếu có cái để cho. Một người tốt, chân thành đến mức ngây thơ, do vậy
nhiều khi lạc lõng và dễ bị tổn thương. Người tốt thường dễ tổn thương.
Đứng dưới vành trăng tròn
vằng vặc ấy, ông thấy người lâng lâng
như bay lên được. Cảm giác này làm ông nhớ tới chuyện khoa học đã chứng
minh rằng khi đứng đúng dưới trăng tròn, trọng lượng ta sẽ nhẹ hơn chút ít. Nhẹ
hơn bao nhiêu? Ông không biết, nhưng quả người ông đang rất nhẹ. Ông còn nhún
người, nhảy lên một cái như trẻ con.
Ông mỉm cười, đưa mắt nhìn
quanh, hài lòng thấy ai cũng no đủ, ăn mặc đẹp, phố xá khang trang, xe cộ bóng
lộn nối đuôi nhau nườm nượp. Ông hạnh phúc với ý nghĩ rằng ông và cả dân tộc đã
phải chịu vất vả, hy sinh mấy mươi năm không uổng để có được ngày hôm nay.
Khi hạnh phúc người ta dễ
xúc động, dễ nẩy ra ý định làm một việc gì đấy thật lớn lao, phi thường, thật
tốt cho người khác.
Nhân vật chính câu chuyện
này của chúng ta đang ở tâm trạng đúng như thế khi ông nện gót giày đi dạo dọc
theo một trong những đường phố đẹp nhất của Hà Nội.
Các bạn tò mò muốn biết
người đó là ai? Chính là giáo sư N. xấu số tôi viết trong truyện “Say Nắng” năm ngoái. Ông giáo sư thơ
ngây, “mắc bệnh tim to” và độc thân đã nghỉ hưu ấy, một hôm trời nắng đẹp quyết
định dạo phố, tự cho phép mình hút thuốc ba con năm, uống rượu vang Pháp, vào
hiệu “gội đầu máy lạnh”, nơi ông, vì “say nắng” để mình lọt vào vòng tay một cô
gái trẻ rồi bị đưa lên đồn công an... Ông là bạn thân của tôi. Chuyện xẩy ra
đúng như thế. Có điều ông không treo cổ tự tử khi bị báo nêu đích danh, mặc dù
có ý định ấy, may tôi và mấy người bạn nữa kịp can ngăn. Thường vẫn thế, trong
đời mọi việc không đơn giản và quyết liệt như trong truyện. Tôi phải xin lỗi
bạn đọc vì cái kết phịa nhưng theo tôi hợp lô-gich ấy.
Vậy là giáo sư N., lần này
ban đêm, dưới ánh trăng, lại lâng lâng bước đi trên đường phố thủ đô xinh đẹp.
Có nói ông bị “say trăng” cũng chẳng sai nhiều lắm. Ánh trăng làm người ông mềm
ra, hơi hơi mệt một cách dễ chịu. Ý tưởng về việc làm “tốt”, “vĩ đại” vẫn lởn
vởn trong đầu. Tiếc rằng ông không còn trẻ, người gầy nhom, lại giữa lúc thanh
bình hạnh phúc thế này, chắc có ít điều kiện giúp ông thực hiện được ý tưởng
đáng khen ấy. Nên ông cứ thong thả bước đi, cho đến lúc bất chợt nhìn thấy một
cô gái đứng bên góc phố, tay cầm bó hoa chìa phía trước. Người, xe đi ngang qua
cô rất đông nhưng chẳng ai để ý. Cũng đúng thôi, ban đêm ai mua hoa? Mà rồi
hình như hoa đã héo, chẳng đẹp tí nào. Không hiểu hoa gì, chỉ thấy trăng trắng
một cục. Còn cô gái thì rõ ràng đang tuyệt vọng vì ế ẩm. Chắc cô ta buồn và cảm
thấy bất hạnh... Bất hạnh? Giữa đêm trăng tuyệt đẹp thế này, ở một thành phố
cũng tuyệt đẹp với bao con người hạnh phúc thế này mà bất hạnh?
Giáo sư N. như khựng lại,
nhăn trán với vẻ khó hiểu rồi ông hăng hái đi lại gần cô gái. Cơ hội thực hiện
việc làm “vĩ đại” đã đến.
Ông móc túi lấy hết số
tiền mình có đưa cho cô (không nhiều, nhưng cũng kha khá), rồi cầm bó hoa héo
lên tay. Vậy là ông đã biến được con người bất hạnh, có lẽ duy nhất của thủ đô
đêm nay, thành người hạnh phúc. Ông mỉm cười, sung sướng và hồn nhiên như đứa
trẻ.
“Bác... Anh không mua hoa
gì nữa à?”
Ông không hiểu, đứng đờ ra
hồi lâu.
“Tôi già rồi. Cô gọi bác
cho tiện.” Cuối cùng ông nói. “Tôi đã mua hết hoa của cô rồi đấy thôi.”
“Em bán cả hoa kia nữa.”
Cô kia ấp úng nói, phớt lờ yêu cầu thay đổi cách xưng hô.
“Hoa nào?”
Cô gái có vẻ lúng túng,
chắc lần đầu gặp phải ông khách chậm hiểu thế này. Cô phải đành nói thật:
“Em là gái bán hoa... Nếu
thích, anh đưa em đi đâu đó, làm gì thì làm. Chỉ cần cho em dăm chục nghìn. Ba
chục cũng được.”
Giờ thì ông giáo sư già
hiểu. Có cái gì nhoi nhói trong ngực. Nhìn kỹ, ông thấy cô gái còn trẻ, chắc
chưa đến hai mươi, không xinh đẹp nhưng ưa nhìn và có vẻ thật thà chất phác
kiểu nhà quê.
“Bác từ quê lên à?” Cô gái
hỏi, chuyển sang bác, xưng em. “Em cũng từ quê lên đấy. Quê em Thái Bình. Bác ở
đâu?”
“Tôi người Hà Nội, sống ở
đây sáu mươi năm rồi.”
Ông đáp, vẫn chưa hết ngỡ
ngàng. Nó hẵng còn là một con bé. Một con bé ngốc nghếch!
“Sao cháu không ở quê, lại
lên đây làm nghề này?”
“Ôi, sao đàn ông người nào
cũng hỏi em câu ấy nhỉ? Nhất là các ông già.” Cô gái nói to, giọng khó chịu và
thách thức. “Hỏi ra vẻ thương lắm, rồi sau lôi con người ta tới xó xỉnh nào đó.
Tại sao không được lên đây? Hà Nội của riêng các người à? Hà Nội không cần
những đứa nhà quê như em à? Chỉ giỏi đạo đức giả. Thôi, không cần dài dòng. Có
muốn thì ta đi. À mà lúc nãy đưa nhiều tiền rồi đấy. Đủ cho cả hai loại hoa.
Không phải trả thêm nữa đâu. Dân quê bọn em cũng tự trọng, sòng phẳng như ai.”
Giờ thì giáo sư N., nhà
vật lý lý thuyết đã đọc hàng núi sách về chuyên môn mình trong căn hộ “hang
chuột” ở một nhà chung cư kiểu cũ hiểu
cặn kẽ các hạt vật chất và phi vật chất vô hình, đang bối rối thực sự không
hiểu cô gái trẻ con trước mặt đang nói gì, vì sao có thể nói như thế, và quan
trọng hơn cả là ông phải làm gì bây giờ. Hình như vụ gội đầu thư giãn ở quán Minh Hồng năm ngoái không giúp ông hiểu
biết thêm nhiều về cuộc sống hiện đại. Thường vẫn thế, những người quá chân
thành, cả tin chẳng bao giờ rút được bài học nào cho mình.
Ông im lặng khá lâu, cho
đến lúc suýt bị cô kia đuổi đi thì bỗng nói, giọng quả quyết:
“Thế thì đi.”
“Đi đâu?”
“Về nhà tôi.”
“Không sợ sư tử Hà Đông
à?”
“Tôi sống một mình.”
“Được đấy. Vậy ta đi.
Nhưng nhà anh có xa không? Em không muốn đi bộ lâu, mất thời gian. Hôm nay chưa
được khách nào. Anh không còn tiền thuê xe à?”
Ông nhìn cô, nghiêm giọng nói:
“Tôi nhắc lại: Đừng xưng anh em. Bác cháu
dễ nghe hơn.”
“Cũng được. Nhưng bác bác cháu cháu rồi
làm chuyện ấy ngượng lắm. Có người còn vừa làm vừa hỏi có sướng không con.
Kinh!”
“Sẽ không có chuyện ấy.”
“Không? Vậy về nhà làm gì?”
“Rồi cháu sẽ biết. Yên tâm. Bác chỉ mong
điều tốt cho cháu thôi.”
“Hay bác định đưa cháu về
đồn công an? Đừng, đừng! Cháu van bác. Sợ lắm. Cháu bị bắt một lần rồi...”
“Công an nào. Vớ vẩn. Thôi, không nói
nhiều nữa. Nào ta đi!”
Rồi ông cầm tay cô gái dắt đi.
Trên cao trăng vẫn sáng,
thơ mộng và quyến rũ. Vẫn ngay trên đỉnh đầu, nhưng ông không còn cái cảm giác
lâng lâng lúc nãy. Có thể các nhà khoa học đã sai khi kết luận về sự giảm trọng
lượng do sức hút mặt trăng. Quang cảnh phố xá, người xe vẫn thế, nhưng bức
tranh hạnh phúc bây giờ đã không còn trọn vẹn, vì trên nó ông phát hiện thấy
một vết ố nhỏ, là cô bé này. Không hiểu sao ông thấy như mình có lỗi đã để nó
xuất hiện. Đột ngột và nhanh chóng, ông phác qua trong đầu một kế hoạch xóa sạch
vết ố ấy. Làm được, đó mới chính là việc “tốt, vĩ đại” ông vẫn mong ước.
*
Bà hàng xóm to béo và tốt
bụng rất ngạc nhiên khi bị giáo sư N. gõ cửa vào đêm khuya - lúc ấy mười rưỡi
và bà đã đi ngủ. Bà sống một mình với đứa cháu gái được gửi từ quê ra nhờ nuôi
hộ. Hơn thế, ông còn xin bà cho một cô gái không quen biết ngủ tạm, ít nhất
cũng mấy tối.
“Người bà con bác à?”
“Không. Chỉ một cô gái bán
hoa tôi gặp ngoài phố.”
Là người từng trải, bà
hiểu đúng nghĩa của từ này.
“Trời! Lại còn dẫn về nhà?
Nếu quả bác cần thì sao không đưa về phòng mình?”
“Bà hiểu sai rồi, tôi chỉ
đơn giản muốn giúp cô ấy đổi nghề.”
“Giúp cách nào?”
“Tạm thời chưa rõ lắm,
nhưng phải giúp và chắc giúp được. Nhà tôi rộng nhưng cho ở đấy không tiện. Vậy
mới nhờ đến bà. Có thể cô ấy đói, bà có gì cho ăn hộ. Mai tôi nói hết mọi
chuyện.”
Vậy là tối hôm ấy cô gái
bán hoa ngủ lại nhà bà hàng xóm. Bà này thương người, lại quí ông giáo sư nên
đã nhận lời. Bà không chỉ cho cô ăn mà còn bắt tắm rửa thật kỹ. “Khi nào mòn
hết nửa bánh xà phòng này mới thôi,” bà dặn thế. Còn cô gái thì dọc đường đi
trước đó đã được nghe nói về kế hoạch của ông nên cũng yên tâm. Cô cũng kể
nhiều về mình và được ông tin một cách tuyệt đối như tất cả những người tốt
bụng có lòng trắc ẩn khác. Dẫu có bị lừa nhiều lần, họ vẫn không bao giờ thay
đổi được sự cả tin ấy.
Sau đó ông gọi điện cho
tôi, bảo phải đến ngay có chuyện quan trọng. Hiểu tính bạn, tôi đồng ý mà không
căn vặn điều gì, dù đã mười một giờ đêm.
“Tôi có lòng, ông có tiền.
Vậy ta thử giúp con bé!” Ông nói sau khi kể tôi nghe vắn tắt sự việc.
“Tôi cũng có lòng,” tôi
đáp, hơi chút tự ái. “Ông mãi vẫn không chừa được cái tính bốc đồng. Không khéo
lại chuốc vạ vào thân.”
“Thì đã sao? Suy cho cùng,
những gì tôi làm mấy mươi năm qua trong lĩnh vực vật lý lý thuyết, cũng như cả
trăm truyện ngắn nhân đạo, dạy đời của ông, không bằng cứu được một con người
cụ thể như cô gái này...”
“Có thể như vậy, nhưng Lỗ
Tấn bỏ nghề y chuyển sang viết văn với ý nghĩ cùng một lúc giúp được nhiều người
hơn.”
“Ông không ví mình với văn
hào Lỗ Tấn đấy chứ?” Giáo sư N. nhìn tôi châm chọc. “Tôi đùa thôi. Công bằng mà
nói, truyện ông không đến nỗi, ít ra đọc xong người ta thấy yêu đời và còn muốn
sống. Chứ như nhiều vị bây giờ viết gì mà khiếp - độc ác, tục tĩu, toàn một màu
đen xịt. Tuy nhiên cái tốt, cái thương người của ông vẫn chỉ trên trang giấy,
còn đây là một cô gái tội nghiệp, bằng xương bằng thịt và đang chờ ta kéo ra
khỏi vũng bùn...”
“Nếu cô ta không muốn được
kéo ra thì sao?”
“Không thể có chuyện ấy.
Không ai muốn sống trong bùn nhớp nhúa”
“Nếu cô ta lừa ông, hoặc
sau bao nhiêu vất vả, đâu lại vào đấy?”
“Thì coi như tôi tính sai
một con số, ông viết một câu văn sai ngữ pháp. Đời còn dài mà. Vả lại, có sai
mới có đúng.”
Tôi thấy đuối lý trước những
lập luận giản dị ấy.
Hai ngày sau, với tiền của
tôi (ông bảo mượn, sau con gửi về sẽ trả), sự năng nổ đáng khâm phục của ông và
cả sự giúp đỡ của bà hàng xóm, cô gái bán hoa được ở trong căn phòng mười lăm
mét vuông tầng bốn một ngôi nhà chung cư với giá thuê ba trăm năm mươi nghìn
đồng một tháng, trả trước ba tháng. Ông bỏ tiền sắm cho cô những vật dụng cần
thiết cùng năm mươi cân gạo, hai chai nước mắm và một nồi cá kho lớn. Những thứ
này do bà hàng xóm gợi ý và lo liệu. Để tự nuôi sống mình, ông thuê cho cô một
góc cửa hàng (chỉ cách nơi ông gặp cô lần đầu mấy chục mét) thêm một triệu đồng
làm vốn để cô mua hoa về bán. Tôi hỏi sao nhất thiết bán hoa chứ không cái gì
khác, ông nói để cô vẫn là cô gái bán hoa như ông nghĩ lúc đầu. Bán hoa làm đẹp
cho đời chứ không ngược lại. Một ý tưởng độc đáo và đáng yêu.
Mọi việc có vẻ suôn sẻ. Ông hớn hở ra mặt. Tôi cũng vui lây
với ông, một lần còn đi theo đến cửa hàng hoa và căn phòng mới thuê. Cô gái có
vẻ chí thú và cũng ngoan. Tuy nhiên, độ một tháng sau bỗng một thằng lẻo khẻo
mặt đầy mụn và hay ngáp vặt tìm đến nhà giáo sư N. làm ầm lên, như thể ông
“cướp vợ” hắn. Bà hàng xóm phải nhờ anh bảo vệ tống hắn ra ngoài, nhưng cũng
khối người trong chung cư nghi ông làm điều bất chính. Sau đó vài tuần thì ông
chủ nhà đem tiền đến trả không cho thuê nữa, với lý do nhà ông bị biến thành
nhà chứa, và rằng cô gái bán hoa vẫn đêm đêm ra đứng đường “bán hoa” ở chỗ cũ,
bắt được khách lại dắt về phòng mình.
Giáo sư N. nhất quyết
không tin, đang đêm bắt tôi cùng tới đó để xem thực hư thế nào. Nể bạn, tôi
phải đi theo. Cô gái tối ấy ở nhà. Khi chúng tôi gõ cửa bước vào thì hai anh
công an khu vực đột ngột xuất hiện (chắc rình sẵn từ trước đâu đó). Một anh
nghiêm mặt nói: “Đáng lẽ các cụ nên làm gương cho con cháu, đằng này...” May
ông chủ nhà kịp đến thanh minh hộ.
Hôm sau thì cô gái bán hoa
biến mất, tất nhiên đem theo tất cả những gì có thể đem theo được.
*
Nhiều bạn đọc cứ hỏi những gì tôi viết có đúng thật sự xẩy
ra như thế không. Câu hỏi thật khó. Vừa đúng lại vừa không. “Văn nói láo, báo
nói phét,” người đời hay nói thế. Viết văn là hư cấu, tất nhiên, nhưng không
phải hoàn toàn. Muốn hay không, vẫn phải có một liều lượng sự thật nhất rồi từ
đấy thêm thắt, khái quát thành câu chuyện còn thật hơn cả ngoài đời có thật.
Không thì ai chẳng viết được văn, nếu đã học ngữ pháp và ít nhiều biết cách kể
chuyện. Cứ tin tôi đi, nếu ai đó viết giả dối hoặc phịa hoàn toàn, sớm muộn
người ta cũng phát hiện ra. Không một kỹ thuật nghề nghiệp nào che giấu được
điều ấy. Ở những nét cơ bản, câu chuyện tôi kể trên đây là có thật, xẩy ra với
ông bạn già của tôi là giáo sư N., và trong chừng mực nào đó, cả với tôi nữa.
Vốn lạc quan và luôn tin vào sự tốt đẹp ở đời, tôi thích và thường viết những
câu chuyện có hậu.
Thực tế cuộc sống còn có những người như cô gái bán hoa kia.
Tôi nghĩ ít thôi nhưng vẫn có. Hay đúng hơn, tôi mong muốn nó ít. Vì vậy tôi
đang vắt óc tìm một phần kết đẹp hơn cho truyện ngắn này. Tạm thời chưa tìm ra.
Tôi sẽ rất biết ơn nếu ai đó trong bạn đọc gợi ý hộ. Cả bà vợ được tôi hỏi ý
kiến cũng lắc đầu (Tôi có thói quen chuyện gì cũng hỏi vợ, cả chuyện viết
lách). Bà ấy chỉ phán một câu, với cái giọng châm biếm không ác ý hàng ngày:
“Rõ mấy ông già lẩm cẩm!”
Tôi không hỏi giáo sư N., thậm chí giấu không cho biết tôi
viết truyện này. Ông vừa ở nhà tôi về xong. Như cú “say nắng” năm ngoái, lần
“say trăng’ này cũng làm ông buồn. Vấn đề chẳng ở tiền bạc và công sức. Ông
buồn vì cô kia bỏ đi không một lời nhắn lại. Ông bảo tôi chắc cô làm thế vì
hoàn cảnh bắt buộc, và rằng nếu nói ra, có thể ông sẽ giúp được. Tính ông dễ
buồn, nhưng buồn không lâu, và rồi cuối cùng bao giờ cái bản chất tin người,
thương người cũng trội lên lấn át tất cả. Tôi dám chắc nay mai ông sẽ lại bị
“say” lần nữa, và lần nữa ông lại hăm hở lao vào một việc nào đó “tốt và vĩ
đại” để giúp người khác. Thì ông đã nói, nếu bị lừa, đó đơn giản cũng chỉ là
phép tính ông tính sai. Sai thì tính lại. Cuộc đời là cả triệu phép tính, tính
sai một phép cũng chẳng hề gì.
Còn tôi? Tôi cũng thừa giấy mực và nghị lực. Trót viết sai
một câu thì viết lại. No problem, như
người Anh thường nói. Hơn thế, bây giờ tôi sáng tác trên máy vi tính, tha hồ
tẩy xóa, tha hồ viết, cho đến khi tìm được cái cần tìm mới thôi. Dẫu không được
như Lỗ Tấn, tôi cũng mong bạn đọc không vì một cô bán hoa tráo trở nào đó mà
buồn. Đời vẫn đẹp. Suy cho cùng, theo cách nói của giáo sư N., cô ta cũng chỉ
là con số sai trong cả triệu con số đúng của cuộc đời. Trong nghề của tôi, một
câu văn chưa chuẩn không thể làm hỏng một truyện ngắn hay. Miễn là cả giáo sư N.,
tôi, và tất cả chúng ta còn “có lòng” với đời.
Hà Nội, 29. 5. 2003
No comments:
Post a Comment