Thursday, March 5, 2015

CÔ GÁI BÁN HOA




Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Thành phố đêm trăng. Đèn sáng rực khắp nơi nhưng không át được thứ ánh sáng huyền ảo có màu vừa bàng bạc vừa xanh lơ của trăng rằm tháng Sáu cao trên đầu. Trời không mây. Gió ấm thổi nhẹ từ phía sông Hồng thật dễ chịu. Thậm chí phảng phất mùi gì đấy như mùi trăng. Đúng hơn, có lẽ đó là mùi hạnh phúc.
Ông đang cảm thấy hạnh phúc, cái hạnh phúc bình dị của một người không đòi hỏi nhiều ở đời. Chỉ mong muốn cho, nếu có cái để cho. Một người tốt, chân thành đến mức ngây thơ, do vậy nhiều khi lạc lõng và dễ bị tổn thương. Người tốt thường dễ tổn thương.
Đứng dưới vành trăng tròn vằng vặc ấy, ông thấy người lâng lâng  như bay lên được. Cảm giác này làm ông nhớ tới chuyện khoa học đã chứng minh rằng khi đứng đúng dưới trăng tròn, trọng lượng ta sẽ nhẹ hơn chút ít. Nhẹ hơn bao nhiêu? Ông không biết, nhưng quả người ông đang rất nhẹ. Ông còn nhún người, nhảy lên một cái như trẻ con.
Ông mỉm cười, đưa mắt nhìn quanh, hài lòng thấy ai cũng no đủ, ăn mặc đẹp, phố xá khang trang, xe cộ bóng lộn nối đuôi nhau nườm nượp. Ông hạnh phúc với ý nghĩ rằng ông và cả dân tộc đã phải chịu vất vả, hy sinh mấy mươi năm không uổng để có được ngày hôm nay.
Khi hạnh phúc người ta dễ xúc động, dễ nẩy ra ý định làm một việc gì đấy thật lớn lao, phi thường, thật tốt cho người khác.
Nhân vật chính câu chuyện này của chúng ta đang ở tâm trạng đúng như thế khi ông nện gót giày đi dạo dọc theo một trong những đường phố đẹp nhất của Hà Nội.
Các bạn tò mò muốn biết người đó là ai? Chính là giáo sư N. xấu số tôi viết trong truyện “Say Nắng” năm ngoái. Ông giáo sư thơ ngây, “mắc bệnh tim to” và độc thân đã nghỉ hưu ấy, một hôm trời nắng đẹp quyết định dạo phố, tự cho phép mình hút thuốc ba con năm, uống rượu vang Pháp, vào hiệu “gội đầu máy lạnh”, nơi ông, vì “say nắng” để mình lọt vào vòng tay một cô gái trẻ rồi bị đưa lên đồn công an... Ông là bạn thân của tôi. Chuyện xẩy ra đúng như thế. Có điều ông không treo cổ tự tử khi bị báo nêu đích danh, mặc dù có ý định ấy, may tôi và mấy người bạn nữa kịp can ngăn. Thường vẫn thế, trong đời mọi việc không đơn giản và quyết liệt như trong truyện. Tôi phải xin lỗi bạn đọc vì cái kết phịa nhưng theo tôi hợp lô-gich ấy.
Vậy là giáo sư N., lần này ban đêm, dưới ánh trăng, lại lâng lâng bước đi trên đường phố thủ đô xinh đẹp. Có nói ông bị “say trăng” cũng chẳng sai nhiều lắm. Ánh trăng làm người ông mềm ra, hơi hơi mệt một cách dễ chịu. Ý tưởng về việc làm “tốt”, “vĩ đại” vẫn lởn vởn trong đầu. Tiếc rằng ông không còn trẻ, người gầy nhom, lại giữa lúc thanh bình hạnh phúc thế này, chắc có ít điều kiện giúp ông thực hiện được ý tưởng đáng khen ấy. Nên ông cứ thong thả bước đi, cho đến lúc bất chợt nhìn thấy một cô gái đứng bên góc phố, tay cầm bó hoa chìa phía trước. Người, xe đi ngang qua cô rất đông nhưng chẳng ai để ý. Cũng đúng thôi, ban đêm ai mua hoa? Mà rồi hình như hoa đã héo, chẳng đẹp tí nào. Không hiểu hoa gì, chỉ thấy trăng trắng một cục. Còn cô gái thì rõ ràng đang tuyệt vọng vì ế ẩm. Chắc cô ta buồn và cảm thấy bất hạnh... Bất hạnh? Giữa đêm trăng tuyệt đẹp thế này, ở một thành phố cũng tuyệt đẹp với bao con người hạnh phúc thế này mà bất hạnh?
Giáo sư N. như khựng lại, nhăn trán với vẻ khó hiểu rồi ông hăng hái đi lại gần cô gái. Cơ hội thực hiện việc làm “vĩ đại” đã đến.
Ông móc túi lấy hết số tiền mình có đưa cho cô (không nhiều, nhưng cũng kha khá), rồi cầm bó hoa héo lên tay. Vậy là ông đã biến được con người bất hạnh, có lẽ duy nhất của thủ đô đêm nay, thành người hạnh phúc. Ông mỉm cười, sung sướng và hồn nhiên như đứa trẻ.
“Bác... Anh không mua hoa gì nữa à?”
Ông không hiểu, đứng đờ ra hồi lâu.
“Tôi già rồi. Cô gọi bác cho tiện.” Cuối cùng ông nói. “Tôi đã mua hết hoa của cô rồi đấy thôi.”
“Em bán cả hoa kia nữa.” Cô kia ấp úng nói, phớt lờ yêu cầu thay đổi cách xưng hô.
“Hoa nào?”
Cô gái có vẻ lúng túng, chắc lần đầu gặp phải ông khách chậm hiểu thế này. Cô phải đành nói thật:
“Em là gái bán hoa... Nếu thích, anh đưa em đi đâu đó, làm gì thì làm. Chỉ cần cho em dăm chục nghìn. Ba chục cũng được.”
Giờ thì ông giáo sư già hiểu. Có cái gì nhoi nhói trong ngực. Nhìn kỹ, ông thấy cô gái còn trẻ, chắc chưa đến hai mươi, không xinh đẹp nhưng ưa nhìn và có vẻ thật thà chất phác kiểu nhà quê.
“Bác từ quê lên à?” Cô gái hỏi, chuyển sang bác, xưng em. “Em cũng từ quê lên đấy. Quê em Thái Bình. Bác ở đâu?”
“Tôi người Hà Nội, sống ở đây sáu mươi năm rồi.” 
Ông đáp, vẫn chưa hết ngỡ ngàng. Nó hẵng còn là một con bé. Một con bé ngốc nghếch!
“Sao cháu không ở quê, lại lên đây làm nghề này?”
“Ôi, sao đàn ông người nào cũng hỏi em câu ấy nhỉ? Nhất là các ông già.” Cô gái nói to, giọng khó chịu và thách thức. “Hỏi ra vẻ thương lắm, rồi sau lôi con người ta tới xó xỉnh nào đó. Tại sao không được lên đây? Hà Nội của riêng các người à? Hà Nội không cần những đứa nhà quê như em à? Chỉ giỏi đạo đức giả. Thôi, không cần dài dòng. Có muốn thì ta đi. À mà lúc nãy đưa nhiều tiền rồi đấy. Đủ cho cả hai loại hoa. Không phải trả thêm nữa đâu. Dân quê bọn em cũng tự trọng, sòng phẳng như ai.”
Giờ thì giáo sư N., nhà vật lý lý thuyết đã đọc hàng núi sách về chuyên môn mình trong căn hộ “hang chuột” ở một nhà chung cư kiểu cũ  hiểu cặn kẽ các hạt vật chất và phi vật chất vô hình, đang bối rối thực sự không hiểu cô gái trẻ con trước mặt đang nói gì, vì sao có thể nói như thế, và quan trọng hơn cả là ông phải làm gì bây giờ. Hình như vụ gội đầu thư giãn ở quán Minh Hồng năm ngoái không giúp ông hiểu biết thêm nhiều về cuộc sống hiện đại. Thường vẫn thế, những người quá chân thành, cả tin chẳng bao giờ rút được bài học nào cho mình.
Ông im lặng khá lâu, cho đến lúc suýt bị cô kia đuổi đi thì bỗng nói, giọng quả quyết:
“Thế thì đi.”
“Đi đâu?”
“Về nhà tôi.”
“Không sợ sư tử Hà Đông à?”
“Tôi sống một mình.”
“Được đấy. Vậy ta đi. Nhưng nhà anh có xa không? Em không muốn đi bộ lâu, mất thời gian. Hôm nay chưa được khách nào. Anh không còn tiền thuê xe à?”
Ông nhìn cô, nghiêm giọng nói:
“Tôi nhắc lại: Đừng xưng anh em. Bác cháu dễ nghe hơn.”
“Cũng được. Nhưng bác bác cháu cháu rồi làm chuyện ấy ngượng lắm. Có người còn vừa làm vừa hỏi có sướng không con. Kinh!”
“Sẽ không có chuyện ấy.”
“Không? Vậy về nhà làm gì?”
“Rồi cháu sẽ biết. Yên tâm. Bác chỉ mong điều tốt cho cháu thôi.”
“Hay bác định đưa cháu về đồn công an? Đừng, đừng! Cháu van bác. Sợ lắm. Cháu bị bắt một lần rồi...”
“Công an nào. Vớ vẩn. Thôi, không nói nhiều nữa. Nào ta đi!”
Rồi ông cầm tay cô gái dắt đi.
Trên cao trăng vẫn sáng, thơ mộng và quyến rũ. Vẫn ngay trên đỉnh đầu, nhưng ông không còn cái cảm giác lâng lâng lúc nãy. Có thể các nhà khoa học đã sai khi kết luận về sự giảm trọng lượng do sức hút mặt trăng. Quang cảnh phố xá, người xe vẫn thế, nhưng bức tranh hạnh phúc bây giờ đã không còn trọn vẹn, vì trên nó ông phát hiện thấy một vết ố nhỏ, là cô bé này. Không hiểu sao ông thấy như mình có lỗi đã để nó xuất hiện. Đột ngột và nhanh chóng, ông phác qua trong đầu một kế hoạch xóa sạch vết ố ấy. Làm được, đó mới chính là việc “tốt, vĩ đại” ông vẫn mong ước.

                                              *
Bà hàng xóm to béo và tốt bụng rất ngạc nhiên khi bị giáo sư N. gõ cửa vào đêm khuya - lúc ấy mười rưỡi và bà đã đi ngủ. Bà sống một mình với đứa cháu gái được gửi từ quê ra nhờ nuôi hộ. Hơn thế, ông còn xin bà cho một cô gái không quen biết ngủ tạm, ít nhất cũng mấy tối.
“Người bà con bác à?”
“Không. Chỉ một cô gái bán hoa tôi gặp ngoài phố.”
Là người từng trải, bà hiểu đúng nghĩa của từ này.
“Trời! Lại còn dẫn về nhà? Nếu quả bác cần thì sao không đưa về phòng mình?”
“Bà hiểu sai rồi, tôi chỉ đơn giản muốn giúp cô ấy đổi nghề.”
“Giúp cách nào?”
“Tạm thời chưa rõ lắm, nhưng phải giúp và chắc giúp được. Nhà tôi rộng nhưng cho ở đấy không tiện. Vậy mới nhờ đến bà. Có thể cô ấy đói, bà có gì cho ăn hộ. Mai tôi nói hết mọi chuyện.”
Vậy là tối hôm ấy cô gái bán hoa ngủ lại nhà bà hàng xóm. Bà này thương người, lại quí ông giáo sư nên đã nhận lời. Bà không chỉ cho cô ăn mà còn bắt tắm rửa thật kỹ. “Khi nào mòn hết nửa bánh xà phòng này mới thôi,” bà dặn thế. Còn cô gái thì dọc đường đi trước đó đã được nghe nói về kế hoạch của ông nên cũng yên tâm. Cô cũng kể nhiều về mình và được ông tin một cách tuyệt đối như tất cả những người tốt bụng có lòng trắc ẩn khác. Dẫu có bị lừa nhiều lần, họ vẫn không bao giờ thay đổi được sự cả tin ấy.
Sau đó ông gọi điện cho tôi, bảo phải đến ngay có chuyện quan trọng. Hiểu tính bạn, tôi đồng ý mà không căn vặn điều gì, dù đã mười một giờ đêm.
“Tôi có lòng, ông có tiền. Vậy ta thử giúp con bé!” Ông nói sau khi kể tôi nghe vắn tắt sự việc.
“Tôi cũng có lòng,” tôi đáp, hơi chút tự ái. “Ông mãi vẫn không chừa được cái tính bốc đồng. Không khéo lại chuốc vạ vào thân.”
“Thì đã sao? Suy cho cùng, những gì tôi làm mấy mươi năm qua trong lĩnh vực vật lý lý thuyết, cũng như cả trăm truyện ngắn nhân đạo, dạy đời của ông, không bằng cứu được một con người cụ thể như cô gái này...”
“Có thể như vậy, nhưng Lỗ Tấn bỏ nghề y chuyển sang viết văn với ý nghĩ cùng một lúc giúp được nhiều người hơn.”
“Ông không ví mình với văn hào Lỗ Tấn đấy chứ?” Giáo sư N. nhìn tôi châm chọc. “Tôi đùa thôi. Công bằng mà nói, truyện ông không đến nỗi, ít ra đọc xong người ta thấy yêu đời và còn muốn sống. Chứ như nhiều vị bây giờ viết gì mà khiếp - độc ác, tục tĩu, toàn một màu đen xịt. Tuy nhiên cái tốt, cái thương người của ông vẫn chỉ trên trang giấy, còn đây là một cô gái tội nghiệp, bằng xương bằng thịt và đang chờ ta kéo ra khỏi vũng bùn...”
“Nếu cô ta không muốn được kéo ra thì sao?”
“Không thể có chuyện ấy. Không ai muốn sống trong bùn nhớp nhúa” 
“Nếu cô ta lừa ông, hoặc sau bao nhiêu vất vả, đâu lại vào đấy?”
“Thì coi như tôi tính sai một con số, ông viết một câu văn sai ngữ pháp. Đời còn dài mà. Vả lại, có sai mới có đúng.”
Tôi thấy đuối lý trước những lập luận giản dị ấy.
Hai ngày sau, với tiền của tôi (ông bảo mượn, sau con gửi về sẽ trả), sự năng nổ đáng khâm phục của ông và cả sự giúp đỡ của bà hàng xóm, cô gái bán hoa được ở trong căn phòng mười lăm mét vuông tầng bốn một ngôi nhà chung cư với giá thuê ba trăm năm mươi nghìn đồng một tháng, trả trước ba tháng. Ông bỏ tiền sắm cho cô những vật dụng cần thiết cùng năm mươi cân gạo, hai chai nước mắm và một nồi cá kho lớn. Những thứ này do bà hàng xóm gợi ý và lo liệu. Để tự nuôi sống mình, ông thuê cho cô một góc cửa hàng (chỉ cách nơi ông gặp cô lần đầu mấy chục mét) thêm một triệu đồng làm vốn để cô mua hoa về bán. Tôi hỏi sao nhất thiết bán hoa chứ không cái gì khác, ông nói để cô vẫn là cô gái bán hoa như ông nghĩ lúc đầu. Bán hoa làm đẹp cho đời chứ không ngược lại. Một ý tưởng độc đáo và đáng yêu.
Mọi việc có vẻ suôn sẻ. Ông hớn hở ra mặt. Tôi cũng vui lây với ông, một lần còn đi theo đến cửa hàng hoa và căn phòng mới thuê. Cô gái có vẻ chí thú và cũng ngoan. Tuy nhiên, độ một tháng sau bỗng một thằng lẻo khẻo mặt đầy mụn và hay ngáp vặt tìm đến nhà giáo sư N. làm ầm lên, như thể ông “cướp vợ” hắn. Bà hàng xóm phải nhờ anh bảo vệ tống hắn ra ngoài, nhưng cũng khối người trong chung cư nghi ông làm điều bất chính. Sau đó vài tuần thì ông chủ nhà đem tiền đến trả không cho thuê nữa, với lý do nhà ông bị biến thành nhà chứa, và rằng cô gái bán hoa vẫn đêm đêm ra đứng đường “bán hoa” ở chỗ cũ, bắt được khách lại dắt về phòng mình.
Giáo sư N. nhất quyết không tin, đang đêm bắt tôi cùng tới đó để xem thực hư thế nào. Nể bạn, tôi phải đi theo. Cô gái tối ấy ở nhà. Khi chúng tôi gõ cửa bước vào thì hai anh công an khu vực đột ngột xuất hiện (chắc rình sẵn từ trước đâu đó). Một anh nghiêm mặt nói: “Đáng lẽ các cụ nên làm gương cho con cháu, đằng này...” May ông chủ nhà kịp đến thanh minh hộ.
Hôm sau thì cô gái bán hoa biến mất, tất nhiên đem theo tất cả những gì có thể đem theo được.
                                              *
Nhiều bạn đọc cứ hỏi những gì tôi viết có đúng thật sự xẩy ra như thế không. Câu hỏi thật khó. Vừa đúng lại vừa không. “Văn nói láo, báo nói phét,” người đời hay nói thế. Viết văn là hư cấu, tất nhiên, nhưng không phải hoàn toàn. Muốn hay không, vẫn phải có một liều lượng sự thật nhất rồi từ đấy thêm thắt, khái quát thành câu chuyện còn thật hơn cả ngoài đời có thật. Không thì ai chẳng viết được văn, nếu đã học ngữ pháp và ít nhiều biết cách kể chuyện. Cứ tin tôi đi, nếu ai đó viết giả dối hoặc phịa hoàn toàn, sớm muộn người ta cũng phát hiện ra. Không một kỹ thuật nghề nghiệp nào che giấu được điều ấy. Ở những nét cơ bản, câu chuyện tôi kể trên đây là có thật, xẩy ra với ông bạn già của tôi là giáo sư N., và trong chừng mực nào đó, cả với tôi nữa. Vốn lạc quan và luôn tin vào sự tốt đẹp ở đời, tôi thích và thường viết những câu chuyện có hậu.
Thực tế cuộc sống còn có những người như cô gái bán hoa kia. Tôi nghĩ ít thôi nhưng vẫn có. Hay đúng hơn, tôi mong muốn nó ít. Vì vậy tôi đang vắt óc tìm một phần kết đẹp hơn cho truyện ngắn này. Tạm thời chưa tìm ra. Tôi sẽ rất biết ơn nếu ai đó trong bạn đọc gợi ý hộ. Cả bà vợ được tôi hỏi ý kiến cũng lắc đầu (Tôi có thói quen chuyện gì cũng hỏi vợ, cả chuyện viết lách). Bà ấy chỉ phán một câu, với cái giọng châm biếm không ác ý hàng ngày: “Rõ mấy ông già lẩm cẩm!”
Tôi không hỏi giáo sư N., thậm chí giấu không cho biết tôi viết truyện này. Ông vừa ở nhà tôi về xong. Như cú “say nắng” năm ngoái, lần “say trăng’ này cũng làm ông buồn. Vấn đề chẳng ở tiền bạc và công sức. Ông buồn vì cô kia bỏ đi không một lời nhắn lại. Ông bảo tôi chắc cô làm thế vì hoàn cảnh bắt buộc, và rằng nếu nói ra, có thể ông sẽ giúp được. Tính ông dễ buồn, nhưng buồn không lâu, và rồi cuối cùng bao giờ cái bản chất tin người, thương người cũng trội lên lấn át tất cả. Tôi dám chắc nay mai ông sẽ lại bị “say” lần nữa, và lần nữa ông lại hăm hở lao vào một việc nào đó “tốt và vĩ đại” để giúp người khác. Thì ông đã nói, nếu bị lừa, đó đơn giản cũng chỉ là phép tính ông tính sai. Sai thì tính lại. Cuộc đời là cả triệu phép tính, tính sai một phép cũng chẳng hề gì.
Còn tôi? Tôi cũng thừa giấy mực và nghị lực. Trót viết sai một câu thì viết lại. No problem, như người Anh thường nói. Hơn thế, bây giờ tôi sáng tác trên máy vi tính, tha hồ tẩy xóa, tha hồ viết, cho đến khi tìm được cái cần tìm mới thôi. Dẫu không được như Lỗ Tấn, tôi cũng mong bạn đọc không vì một cô bán hoa tráo trở nào đó mà buồn. Đời vẫn đẹp. Suy cho cùng, theo cách nói của giáo sư N., cô ta cũng chỉ là con số sai trong cả triệu con số đúng của cuộc đời. Trong nghề của tôi, một câu văn chưa chuẩn không thể làm hỏng một truyện ngắn hay. Miễn là cả giáo sư N., tôi, và tất cả chúng ta còn “có lòng” với đời.

                                              Hà Nội, 29. 5. 2003

No comments:

Post a Comment