Truyện
ngắn. Thái Bá Tân
Như rất nhiều những cặp vợ chồng khác thời
chiến tranh, họ lấy nhau, ở với nhau một thời gian rồi mỗi người một nơi, chồng
chiến trường, vợ hậu phương. Và cũng như hầu hết những người vợ khác cùng cảnh
ngộ, nữ nhân vật câu chuyện của chúng ta phải chịu đựng tất cả những gì chiến
tranh có thể bắt người phụ nữ chịu đựng. Một mình làm lụng nuôi mình, nuôi con,
nhớ thương và chờ đợi. Chờ lặng lẽ, tấm tức, chờ cho tới khi cuối cùng chồng
trở về, nếu may mắn còn sống để trở về, hoặc tới khi có người mang đến tờ giấy
báo tử. Cũng chẳng gì lạ. Bao đời nay ngưòi phụ nữ Việt Nam vẫn phải chịu đựng
như vậy. Ở nơi khác việc này có thể mang một ý nghĩa quan trọng hơn, có màu sắc
bi thương hơn, nhưng ở Việt Nam nó là chuyện bình thường. Bình thường vì nó xẩy
ra với quá nhiều người, quá thường xuyên, đến mức dần dần bị xem gần như việc
đương nhiên. Thật chua xót và cũng thật đau đớn khi những bi kịch bị biến thành
chuyện thường nhật, đến mức nhiều người không nhận thấy cái giá rất đắt người
phụ nữ Việt Nam phải giả cho hai chữ chung thủy và đảm đang họ được nêu gương
để cả thế giới khâm phục.
Nếu không là hàng xóm trực tiếp chứng kiến
những gì xẩy ra, bản thân tôi cũng khó tin câu chuyện sắp kể là có thật, dù suy
cho cùng nó vẫn chỉ là một trong vô số những trường hợp tôi vừa nói, bình
thường và ít ai chú ý.
*
Hai người đều dân Hà Nội gốc và thuộc con nhà
gia giáo, có học. Họ cưới nhau chưa đầy một tháng thì cách mạng bùng nổ. Lúc đó
anh vừa tốt nghiệp trường luật. Theo dự định, bố anh, một luật sư nổi tiếng và
giàu có, sẽ gửi anh sang Pháp tập sự một thời gian rồi trở về làm việc ngay
trong văn phòng ông, dưới sự che chở của chính ông. Trước đó mọi việc với anh
đều suôn sẻ và chắc sẽ tiếp tục suôn sẻ như thế, nếu không có cách mạng.
Cách mạng biến
anh từ một trí thức cậu ấm thành người chiến sĩ trung đoàn Thủ đô, rồi tháng
Mười Hai năm 46 anh theo các đồng chí của mình lên chiến khu. Vợ anh ở lại Hà
Nội trông coi một cửa hàng nữ trang nhỏ thay cho bố mẹ đẻ đã già. Chị xinh đẹp,
nết na, được giáo dục theo lối phong kiến dù xuất thân từ một gia đình buôn bán
đã mấy đời nay. Học xong tú tài, chị an phận thủ thường sống lặng lẽ với bố mẹ,
chẳng có ước mơ, dự định nào cao xa ngoài mong ước yên bề gia thất, và chị đã
được toại nguyện với người chồng chị cho là lý tưởng. Lúc ấy tất nhiên chị chưa
thể hình dung nổi trong những năm dài phía trước cái gì đang chờ đợi chị, hay
chính xác hơn, chị phải chờ đợi cái gì.
Như những người vợ khác có chồng đi bộ đội,
tất nhiên chị chờ chồng. Chồng đi được mấy tháng thì chị sinh con, con gái. Bố
mẹ chị lần lượt qua đời chẳng bao lâu sau đó, để lại hai mẹ con chị với cửa
hàng ế ẩm thời chiến. Toàn bộ gia đình nhà chồng, phần thất vọng vì có anh con
trai duy nhất theo Việt Minh, phần vì sợ chiến tranh nên đã sang Pháp sống từ
trước. Họ có cho chị ít tiền gọi là "giúp nuôi cháu". Từ đấy chị
chẳng biết tin gì về họ. Còn tin chồng thì thỉnh thoảng vẫn được các liên lạc
từ chiến khu mang về. Thư cuối cùng nói anh được phân công tác mới và do vậy từ
nay không trực tiếp chiến đấu nữa. Chị lấy thế làm mừng, hy vọng anh sẽ sống để
trở về với vợ con khi chiến tranh kết thúc.
Sau chiến thắng ở Điện Biên, chị bắt đầu thấp
thỏm chờ đợi, chờ hết ngày này sang ngày khác. Mỗi lần nghe có tiếng chân ngoài
ngõ là chị lại cuống lên, bỏ cả việc đang làm chạy ra, để rồi lại thất vọng.
Một hôm, khoảng hai tuần sau khi bộ đội vào tiếp quản thủ đô, có người đến đưa cho
chị tờ giấy, báo tin "chồng chị đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm
vụ".
- Hy sinh? Tức là chết? - cầm tờ giấy trên
tay, chị bàng hoàng hồi lâu không nói nên lời. - Nhưng chồng tôi có tham gia
chiến đấu đâu mà hy sinh? Có lẽ các anh nhầm...
- Anh ấy hy sinh thế nào quả chúng tôi không
biết, nhưng nhầm thì chắc chắn không. Chúng tôi không được phép nhầm trong
những việc thế này. - Mấy người kia đáp.
- Các anh có thể cho biết thêm tin tức về
chồng tôi được không ?
- Tiếc là không. Chúng tôi chỉ biết anh ấy là
người rất tốt, rất dũng cảm, thông minh, rất...
Chị có thể tự hào về anh ấy. Người ta đang làm thủ tục tặng thưởng huân
chương cho chồng chị. Lần nữa chúng tôi xin chân thành chia buồn với chị và gia
đình. Tổ quốc, nhân dân sẽ không bao giờ quên ơn những người đã đóng góp xương
máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chị hãy can đảm vượt lên mất mát, đau
thương mà sống. Khó khăn, tổ chức sẽ giúp đỡ. Xin chào chị.
Mấy người kia ra đi, để chị đứng ngây giữa nhà
với tờ giấy định mệnh trong tay. Có lẽ do đã hiểu được ý nghĩa câu chuyện, con
gái chị chạy lại ôm áo mẹ khóc. Chị thì lúc này chưa khóc được, nhưng chưa tin
hay chưa muốn tin những gì mới xẩy ra.
Mấy ngày sau, với sự hăng hái của một ngưòi
đàn bà đang ấm ức muốn biết điều gì đó, chị tìm đến những nơi chị nghĩ cần đến
để hỏi thêm về cái chết của chồng. Nếu không may đã hy sinh (là điều chị cảm
thấy khó hiểu - anh ấy chẳng bảo đã chuyển công tác và không trực tiếp chiến
đấu nữa đấy sao?) thì hy sinh như thế nào và ở đâu, để sau này còn tìm đến bốc
mộ đưa về Hà Nội. Người ta không thể không biết điều ấy. Vốn ít nói, hay xấu hổ
và rút rát, bây giờ chị như người khác hẳn, đôi khi còn to tiếng cả với người
chị đến tìm hỏi. Tuy nhiên, ở đâu chị cũng chỉ nhận được những câu trả lời
chung chung như đã nghe ở nhà. Chị đòi được gặp cấp cao nhất, và người ta cho
chị gặp.
Đó là một ngưòi đàn ông đứng tuổi gầy đét với
nét mặt khắc khổ, giọng dễ nghe và đặc biệt có nụ cười thật dễ mến. Chị hơi
ngạc nhiên khi thấy ông ta không mặc quân phục mà chỉ mặc bộ đại cán bình
thường, còn mới nhưng hơi rộng so với khổ người.
Ông lắng nghe chị một cách rất chăm chú, không
ngắt lời lần nào, chốc chốc lại gật đầu tán thưởng. Được nụ cười dễ mến kia
khích lệ, chị nói liền một mạch, nói thẳng hết những điều chị nghĩ rồi ngồi im
chờ được giải thích.
Ông "cấp cao nhất" ấy không trả lời
thẳng những câu hỏi của chị. Thay vào đó, ông lịch sự mời chị uống nước, lựa
lời an ủi thật tế nhị. Rồi ông thong thả nói rất lâu về những thuận lợi và khó
khăn của cách mạng trong giai đoạn mới, thậm chí cả về tình hình thế giới, cứ
như ông đang thuyết giảng tại một khóa tập huấn chính trị nào đó.
Chị thất vọng, lơ đãng ngồi nghe về những cuộc
chiến đấu công khai và bí mật, về việc trong chiến tranh nói riêng và hoạt động
cách mạng nói chung điều gì cũng có thể xẩy ra, thậm chí cả những điều không ai
nghĩ tới. Ông còn nói về sự hy sinh thầm lặng nào đó của người chiến sĩ, về
lòng thủy chung và thái độ biết kiên nhẫn chờ đợi của người vợ... Khi nói những
lời này, không hiểu sao ông dừng lại nhìn chị như ngụ ý điều gì.
"Không lẽ ông ta muốn bảo mình tiếp tục
chờ đợi, - chị giật mình tự hỏi. - Chờ đợi ai và chờ đợi cái gì khi chính ông
ta lúc nãy vừa nhắc lại rằng chồng mình đã hy sinh?" Chị định hỏi nhưng
nghĩ thế nào lại thôi.
Tiễn khách ra tận cửa, ông kia đặt nhẹ bàn tay
gầy gò của mình lên vai chị và nói thêm, gần như y nguyên câu nói chị đã nghe
từ mấy người nọ hôm mang giấy báo tử đến nhà.
- Tổ quốc sẽ mãi mãi ghi công những người đã
hy sinh cho cách mạng. Chị hãy can đảm vượt lên đau thương, mất mát mà sống. Có
gì khó khăn, chúng tôi sẽ giúp đỡ. Xin chị biết cho, chúng tôi luôn bên cạnh
chị.
Chị
không thật hiểu ông ta nói thế nghĩa là gì. Cả những lời lúc nãy cũng
không hiểu. Lúc đầu chúng quả có làm lóe lên đôi chút hy vọng, rằng biết đâu
chồng chị có thể chưa chết nhưng vì lý do tế nhị nào đó người ta không muốn chị
biết sự thật. Hay anh ấy mất tích, đào ngũ, hoặc thậm chí phản bội chạy sang
phía giặc? Nếu vậy sao còn định tặng huân chương? Chị biết xưa nay gia đình
những kẻ phản bội bị phân biệt đối xử rất nặng.
Lễ truy điệu và
truy tặng huân chương cho chồng chị được tổ chức cùng một ngày, đủ đại diện các
cấp, rất long trọng và đúng nghi thức. Chị cảm thấy hình như có chút phô trương
cố ý.
Thất vọng vì
sau khi đã gặp "cấp cao nhất" mà chẳng biết thêm điều gì, chị đành
cam chịu không tìm hỏi nữa, dù chưa hết nghi hoặc. Rồi thời gian và cuộc sống
vất vả và những lo toan hàng ngày cũng làm chị nguôi ngoai dần. Chị lặng lẽ
sống cùng con gái như bao gia đình khác thời ấy. Với tư cách là vợ liệt sĩ, đều
đặn mỗi năm hai lần, vào dịp tết âm lịch và ngày 27 tháng Bảy, chị đón khách
đến thăm hỏi và tặng quà, trong đó có cả ông cấp cao với nụ cười dễ mến. Không
bao giờ ông quên động viên chị "vượt lên đau thương mất mát để tiếp tục
sống". Có lần ông còn nhắc đến cả hai tiếng chờ đợi. Nhưng chị đã không
còn băn khuăn vì nó.
Qua mấy đợt cải tạo thương nghiệp, cửa hàng nữ trang nhỏ bé
của chị vẫn được để yên như theo lệnh ai đó từ trên xuống. Tuy nhiên, do khó
khăn vật chất thời hậu chiến và do cả lối sống mới xã hội chủ nghĩa khắc khổ,
mặt hàng nữ trang trở thành thứ xa xỉ không cần thiết. Chị mấy lần định chuyển
sang nghề khác mà chưa được. Không ít lúc chị lâm vào cảnh túng quẫn thực sự,
và, thật kỳ lạ, những lúc ấy chị thường gặp may bất ngờ. Thí dụ đang khi cửa
hàng ế ẩm nhất thì bỗng có ông khách đến mua với khối lượng lớn mà chẳng cần
mặc cả. Hoặc đi trên đường, chị bất ngờ nhặt được chiếc ví đựng đầy tiền. Vốn
trung thực, chị mang nộp đồn công an. Mấy ngày sau công an lại đem nó đến cho
chị, bảo không tìm được người mất, chị cứ giữ
mà dùng.
Lúc đầu còn cho là chuyện ngẫu nhiên, nhưng sau nhiều lần,
chị đâm nghi. Chị chợt nhớ những lời bóng gió "chúng tôi luôn ở bên chị và
giúp đỡ khi cần thiết" người ta đã nói. Nếu vậy sao không đàng hoàng mà giúp
lại phải dùng đến cách lén lút đáng ngờ ấy? Chị nhớ có lần đi chợ về, thấy một
người đàn ông đánh rơi cái gì đó xuống đường, chị cúi nhặt lên. Lại chiếc ví
đựng tiền. Chị vội vã kêu to, đạp xe theo người kia để trả lại, nhưng anh ta cố
tình không nghe rồi phóng xe mất hút như bị ma đuổi.
Chị biết ơn
những người giúp đỡ chị, tất nhiên, nhưng không thích và thực sự không muốn
được tiếp tục giúp theo cách này. Nó có cái gì đấy bí ẩn, mờ ám và đáng sợ.
Nhưng bất chấp ý muốn của chị, thỉnh thoảng chị vẫn có khách sộp, thỉnh thoảng
vẫn nhặt được tiền. Có điều, chị không còn mang lên đồn công an nữa.
Năm tháng cứ
thế lặng lẽ trôi qua. Chị cũng lặng lẽ hòa mình vào nhịp sống chung của toàn xã
hội. Các kỷ niệm xưa cứ phai dần, phai dần. Thực tế nghiệt ngã bắt người ta
phải sống bằng hiện tại, và chị đang sống với nó. Tự chị cũng lấy làm ngạc
nhiên rằng càng ngày chị càng ít nghĩ về chồng. Bây giờ chị thực sự tin anh đã hy
sinh và đã thôi chờ đợi. Điều này làm chị thanh thản. Thế mà đúng lúc chị tưởng
đang được hưởng sự thanh thản ấy thì người ta lại đến để nhắc chị về anh, về
cách mạng với những hy sinh cao cả mà nó đòi hỏi ở mọi người. Lần nữa người ta
lại bóng gió nhắc đến hai chữ chờ đợi...
Một hôm, chị
khó chịu hỏi thẳng ông "cán bộ cấp cao nhất" khi ông đến thăm và tặng
quà như thường lệ:
- Có chuyện gì
các anh cứ cho tôi biết hết cả đi, đừng úp mở mãi như thế. Có phải chồng tôi
chưa chết và đang làm một nhiệm vụ gì đấy bí mật, đến mức các anh còn giấu cả
tôi phải không?
Ông kia ngồi im
hồi lâu, mãi đến khi đứng dậy ra về mới nói, giọng buồn buồn:
- Không, chồng
chị đã hy sinh. Tôi khẳng định với chị điều này. Nhưng... Chào chị, tôi về.
Lúc con gái chị
vừa học hết phổ thông, bỗng bà mẹ chồng từ Pháp về thăm quê trong một đoàn Việt
Kiều yêu nước. Bà cụ, lúc này đã già và yếu lắm rồi, khẩn khoản xin chị cho
mang cháu sang Pháp học đại học để sống cùng bà cho đỡ buồn vì ông chồng bà đã
chết. Thoạt đầu, nghĩ đến việc phải xa con, chị hoảng sợ, vội vàng từ chối.
Nhưng trước những lời van vỉ không phải không có lý của mẹ chồng và cũng vì
tương lai của con, dần dần chị xiêu lòng. Thời ấy được đi nước ngoài khó lắm,
chị biết thế, nên mặc dù đồng ý, chị vẫn thầm hy vọng người ta không cho nó đi.
Thế mà nó được đi. Tất nhiên trước đó ông "cán bộ cấp cao" có đến gặp
chị để hỏi chuyện này, và chị gật đầu.
Vậy là chỉ còn
lại mình chị. Năm tháng tiếp tục trôi qua, lặng lẽ như chính cuộc đời cô đơn
của chị. Có lẽ nó vẫn tiếp tục trôi qua như thế nếu không có một người đàn ông
xen vào. Đó là ông một cán bộ miền nam tập kết góa vợ, trạc tuổi chị, lúc này
đã ngoài bốn mươi. Chị làm quen với ông ở nhà một người bạn. Có thể ngẫu nhiên,
cũng có thể do người bạn kia chủ ý sắp xếp. Họ cảm tình với nhau, thân nhau, và
sau một thời gian ngắn, ông này "xin được cưới chị làm vợ, nếu chị không
có gì phản đối". Ông nói nguyên văn như vậy. Chị thầm cười cách tỏ tình
kiểu hành chính của ông, và đã không "không có gì phản đối". Một cuộc
sống mới dường như đang mở ra trước chị. Thế mà bỗng nhiên con người vừa hăm hở
muốn tổ chức lễ cưới càng sớm càng tốt ấy lại cố tình né tránh chị. Cảm thấy ít
nhiều bị xúc phạm, chị quyết định hỏi cho ra nhẽ. Vất vả lắm chị mới tìm gặp
được ông ta và hỏi luôn:
- Có người
không cho anh lấy tôi à?
Ông kia không
đáp, chỉ buồn rầu nhìn chị như người có lỗi. Thế là chị hiểu. Mối nghi ngờ lờ
mờ trước đó đã được khẳng định.
Ngay hôm sau
chị đến gặp ông "cán bộ cao cấp". Ông này dường như không ngạc nhiên
khi thấy tự chị tìm đến, dù đây là lần đầu chị làm thế sau bao nhiêu năm.
- Tại sao các
ông không cho tôi lấy chồng ?
- Chị bình tĩnh
ngồi xuống, uống với tôi chén nước đã. - Ông kia thong thả đáp. - Chị biết đấy,
chúng tôi không có quyền và không thể ngăn ai đó lấy vợ lấy chồng. Chuyện riêng
tư mà...
- Nhưng các ông
đã không cho anh ấy lấy tôi. Cũng thế cả.
- Anh ấy bảo
với chị thế à? Mặc dù tôi chưa biết anh ấy là ai.
- Không, anh ấy
không nói thế, nhưng...
- Chị thấy
chưa, - đến lượt ông cán bộ ngắt lời chị. - Chúng tôi chỉ mong hạnh phúc cho
chị, người vợ thủy chung của một chiến sĩ cách mạng, một phụ nữ...
- Ông nói thủy
chung. Suốt đời tôi phải thủy chung với chồng tôi, người đã chết cách đây hai
mươi năm hay sao?
Chị vừa nói vừa
khóc rồi bỏ chạy ra ngoài. Chị cảm thấy căm ghét con người tốt bụng, bí ẩn và
đáng sợ này. Suốt đêm hôm ấy chị nằm tấm tức mãi. Chị trách ông miền nam hèn,
trách ông cán bộ độc ác, trách chồng sớm hy sinh, nếu thực sự đã hy sinh, để
chị phải suốt đời đau khổ.
Mấy ngày sau,
chị lại "tình cờ" nhặt được ví tiền. Không thèm giở ra xem, chị giận
dữ vứt nó vào thùng rác bên cạnh.
Chưa đầy nửa
năm, lần nữa tình yêu lại đến với chị. Hay đúng hơn, chị chủ động tìm nó. Vốn
xinh đẹp, dẫu đã có tuổi, lại dịu dàng, tế nhị, đối với chị chuyện này không
khó. Trong chị, sự ấm ức, chua xót của người đàn bà bị xúc phạm tự lúc nào dần
dần biến thành sự phản kháng tự nhiên, gần như thách thức. Chị muốn được tự
quyết định đời mình và sẵn sàng đấu tranh vì nó.
Người chị yêu
và cũng rất yêu chị lần này là một nhà khoa học không hiểu sao bốn mươi lăm
tuổi vẫn chưa vợ. Anh cận thị nặng, ít nói và thường hỏi những câu rất buồn
cười. Chị thấy yêu yêu cặp kính dày cộp và những câu hỏi ngô nghê ấy. Anh sống
độc thân trong căn phòng tập thể mười hai mét vuông, sách vở chiếm hơn nửa. Ấy
là chị nghe nói vậy chứ chưa bao giờ đến nhà anh, và cũng không cho anh đến nhà
mình.
Chị đã có kinh
nghiệm và rất đề phòng. Hai người chỉ hẹn gặp nhau trong công viên hay một hàng
kem nào đó. Thường chỉ vào buổi tối. Chị khéo léo che dấu tình yêu một thời
gian khá lâu, cho đến một hôm, khi đang đi dạo cùng anh bên bờ hồ Thuyền Quang,
linh tính mách chị hình như đang có ai theo dõi phía sau. Để kiểm tra, chị kéo
anh ngồi xuống quán nước bên đường. Người kia cũng dừng lại, vờ lơ đãng nhìn
quanh. Họ đi, anh ta cũng đi theo. Chị lo sợ, bảo nhà khoa học ngay sáng hôm
sau xuống Hải Phòng, quê ngoại chị, và hai người sẽ làm lễ cưới ở đó. Anh kia
không hiểu, chỉ lắc đầu cười chị có những ý nghĩ kỳ cục.
Mấy hôm sau,
đến lượt nhà khoa học người yêu của chị tìm cách lánh mặt. Anh dài dòng viện đủ
lý do thanh minh nhưng chị không muốn nghe. Chị cũng chẳng buồn tìm gặp để chất
vấn ông "cán bộ cấp cao" kia nữa. Những năm tiếp theo chị còn vài lần
thử tìm hạnh phúc cho mình nhưng lần nào cũng không thành do có sự can thiệp
của bàn tay vô hình nào đó chị biết mà chẳng thể làm gì được. Cuối cùng, hoàn
toàn mệt mỏi và thất vọng, chị đầu hàng buông theo số phận, nhẫn nhục sống
trong đau khổ và "chờ đợi" như người ta mong muốn ở chị. Chờ đợi cái
không bao giờ đến.
Nhưng chị
nhầm...
*
Cuối tháng Năm
1975, có một người đàn ông đến tìm chị, lúc này được gọi là bà. Từ lâu tiếng
chân người lạ ngoài cửa đã không còn làm bà chú ý. Thui thủi một mình, bà sống
vật vờ như chiếc bóng, như con sâu bị dẫm dưới đế giày không còn ngoi lên được.
Có thể vì thế mà bà trông già hơn tuổi, thân hình khô đét, mái tóc bạc gần hết,
và trên mặt có nhiều, rất nhiều những nếp nhăn.
- Ai cần gì thì
vào đi, cửa mở, - bà thờ ơ nói.
Người ấy là
chồng bà. Cả hai đứng lặng nhìn nhau hồi lâu. Họ đã nhận ra nhau, mỗi người đeo
đuổi những ý nghĩ riêng và không ai dám lên tiếng trước. Cuối cùng ông nói, khẽ
đến mức chính ông cũng không nghe rõ:
- Xin bà hãy
tha lỗi cho tôi. Tôi biết bà phải chịu nhiều đau khổ. Tôi thương bà lắm nhưng
chẳng giúp được bà điều gì. Bà biết đấy, tôi hoạt động bí mật trong lòng địch.
Hoàn cảnh bắt buộc phải thế. Tổ chức cũng rất thương bà, nhưng...
- Không, ông đã
lừa dối tôi. Tổ chức của ông cũng lừa dối tôi, hủy hoại cả cuộc đời tôi. Trời
ơi, sao các ông ác thế! Tôi có tội tình gì mà các ông nỡ làm tôi khổ thế! - Đôi
mắt bà từ nãy đến giờ nhìn trân trân, ráo hoảnh bỗng dàn dụa. Bà khóc. Khóc to
mà không sợ hàng xóm nghe thấy.
Chồng bà đứng
im, mắt cũng rưng rưng. Ông hiểu. Ông cứ để bà khóc, chừng nào còn nước mắt.
Rồi bà nhìn
thẳng vào mắt ông, nói một thôi không nghỉ những gì bị nén trong lòng bao năm
nay. Trông bà lúc ấy thật dễ sợ.
- Các ông không
chỉ lừa dối mà còn coi thường tôi, khinh tôi. Tại sao người ta không cho tôi
biết ông còn sống và đang làm cái việc ông vừa nói? Sợ tôi không giữ được bí
mật sao? Sợ tôi tố giác với địch sao? Ông bảo người ta thương tôi. Thương kiểu
ấy à? Họ cứ bóng gió bảo tôi chờ đợi. Chờ đợi ai? Chờ đợi cái gì và bao lâu? Ông tưởng phụ nữ, cả khi trung hậu đảm đang
và thủy chung như họ nghĩ, có thể suốt đời chịu đựng được điều ấy sao? Nếu biết ông chưa chết, tôi sẵn sàng chờ ông,
chờ ba mươi năm, năm mươi năm, chờ cho đến khi tôi chết mà không kêu một lời
nào. Đằng này...
- Thì bây giờ
tôi đã về đây với bà.- Ông rụt rè cắt ngang. - Bà chỉ phải chờ có ba mươi năm.
- Nhưng ba mươi
năm qua không phải chờ đợi mà là ba mươi năm đau khổ, vì không biết phải chờ
cái gì. Đúng hơn, đó là ba mươi năm không được chờ đợi. Các ông bảo các ông
chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân. Tôi không là nhân dân sao? Sao các ông
không nghĩ tới hạnh phúc của tôi?
- Thì nào tôi
nào có sướng gì hơn bà. Tất cả tại chiến tranh.
Bà im lặng, lấy
khăn lau nước mắt.
- Vâng, tôi
biết. Ông cũng khổ, có thể còn khổ hơn tôi. Lại nguy hiểm nữa, nhưng ông không
nghĩ rằng cả tôi và ông sẽ đỡ khổ hơn nếu tôi được biết sự thật?
- Vâng, có thể
bà nói đúng, nhưng đây là nguyên tắc của ngành tình báo. Không ai được phép
biết tôi còn sống ngoài chính bản thân tôi, ông bộ trưởng và lãnh đạo trực tiếp
của tôi...
- Cái ông mặc
áo đại cán, người gầy gầy?
- Vâng. Ông ấy
là thủ trưởng ngành, một vị tướng.
- Một vị tướng
thật đáng yêu!
Chồng bà lờ như
không nghe lời nhận xét châm chọc của vợ. Người ta đã báo ông biết hết mọi
chuyện.
Sau đó, bình
tĩnh trở lại, hai người ngồi nói chuyện suốt đêm. Không biết họ nói với nhau
những gì, chỉ thấy hôm sau ông chồng lại xách túi trở về cơ quan. Ở đấy, người
ta bố trí cho ông một căn phòng vừa làm việc vừa làm nơi ở, với một chiến sĩ
cần vụ lo việc nấu ăn, giặt dũ cho ông. It lâu sau ông xin nghỉ hưu vì lý do
sức khỏe, dù mới được phong hàm đại tá. Còn bà thì vẫn ở nhà cũ của mình, tiếp
tục sống như bao năm nay đã sống. Thỉnh thoảng ông có đến thăm bà, lần nào cũng
mang theo những món quà nho nhỏ mà ông biết bà rất thích. Ông cư xử, ăn nói như
một người khách và cũng được bà đáp lại theo cách ấy. Có thể thân mật hơn chút
ít, đại khái như cách các cặp vợ chồng ly thân vẫn đối xử với nhau. Còn vị
tướng nọ thì nghe nói một lần tới thăm, bà không tiếp, sau chẳng thấy đến nữa.
Cứ thế thời
gian trôi qua, hết năm này đến năm khác. Bây giờ cả hai người đã là những cụ
già đáng kính ở tuổi trên dưới tám mươi. Các cụ vẫn mạnh khỏe, minh mẫn, và
thỉnh thoảng vẫn gặp nhau. Có lần người ta còn thấy hai cụ cùng chống gậy dạo
quanh hồ Hoàn Kiếm. Nhưng những lần như thế hiếm lắm.
*
Như đã nói, tôi
ngẫu nhiên là hàng xóm của cụ bà. Thỉnh thoảng tôi được cụ nhờ đến nhà cụ ông
nhắn tin hay mang chút quà vặt vãnh nào đó. Đôi khi chỉ là tấm bưu thiếp hay
một bông hoa. Một chứ không phải cả bó, mà lại luôn là hoa hồng màu trắng. Vì
sao tôi không biết và cũng chẳng bao giờ hỏi cụ.
Có lần tôi đùa
nói:
- Cụ ghê thật.
Thù dai thế. Cháu phục cụ đấy.
Cụ nhìn tôi
không đáp. Tôi cứ tưởng sẽ bị cụ mắng. Nhưng không, cụ chỉ cười. Một nụ cười
móm thật đáng yêu.
- Cậu mới lớn,
lại đàn ông, hiểu gì đàn bà mà đòi xen vào.
Hà Nội, 21. 12. 2000.
No comments:
Post a Comment