Truyện ngắn.
Thái Bá Tân
Các bạn thử hình dung
một chuyện thế này:
Có đôi trai gái yêu
nhau, rất yêu nhau. Cưới xong được ít hôm thì chàng trai lên đường ra trận, để
lại người vợ trẻ ở nhà một mình vừa làm lụng vất vả, vừa mỏi mòn chờ đợi. Mà
nào chờ đợi một, hai năm! Không, đúng mười năm. Và trong suốt mười năm dài ấy,
cô gái không hề nhận được tin tức nào về chồng. Vì sao thì khó ai biết được.
Thế rồi chiến tranh kết thúc, chàng trai trở về, sung sướng cảm động khi thấy
vợ vẫn chung thủy. Nhưng khi hai người lên giường nằm, đặt một tay lên bụng vợ,
chàng trai bỗng ngồi bật dậy:
- Em có chửa?
- Vâng.
Im lặng.
- Với ai?
- Với anh, tất nhiên,
- cô gái bình thản đáp. - Em còn có chửa với ai được nữa, ngoài anh?
Chàng trai không nói
gì, lẳng lặng chui ra khỏi màn, mặc quần áo rồi đến ngồi hút thuốc bên bàn -
một giờ, hai giờ, cũng có thể lâu hơn. Sau đó, vì cả nhà chỉ có một giường, anh
lục ba lô lấy tấm vải nhựa trải xuống sàn.
Mọi chuyện bắt đầu từ
đêm ấy, cái đêm chấm dứt mười năm chờ đợi, nhớ thương của một cuộc chiến tranh vô cùng ác
liệt, và cũng là đêm mở đầu những thử thách mới, nơi con người lần nữa phải mặt
đối mặt với chiến tranh, loại chiến tranh không súng đạn sau cuộc chiến tranh
súng đạn mà họ vừa vượt qua một cách thắng lợi.
Liệu lần này họ lại
đứng vững hay sẽ bị đánh gục? Trả lời câu hỏi này thật khó, vì những thử thách
mới thời bình đòi hỏi không phải sức chịu đựng ghê gớm về hy sinh và thiếu
thốn, mà là cái gì đấy còn lớn hơn, phức tạp, tế nhị hơn: đó là sự tỉnh táo,
tình thương và lòng vị tha.
Bạn đọc thân
mến, bức tranh tôi miêu tả trên không phải lấy từ cuốn sách nào đó, cũng không
do tôi nghĩ ra mà là chuyện có thật ở làng tôi.
Đôi trai gái ấy là Nam và
Xuyến. Suốt đêm đó không ai nói thêm một lời nào, dù cả hai không hề chợp mắt.
Sáng hôm sau, Nam
đi một vòng quanh làng thăm hỏi mọi người, thực ra là để dò hỏi tin tức vợ những
năm anh đi vắng. Anh ngạc nhiên, bối rối khi nghe mọi người nhận xét rất tốt về
Xuyến, rằng cô cần cù, nết na và đặc biệt nghiêm túc trong quan hệ.
"Chắc cô ta khéo
giấu nên mọi người không biết”
Về nhà, không kìm
được, anh lại hỏi vợ, vẫn câu hỏi cũ:
- Cô chửa với ai?
- Với anh, -
vẫn cái giọng nhỏ nhẹ, bình tĩnh ấy.
- Với tôi? Sao lại có
thể với tôi? Cô coi thường tôi quá! - Nam giận dữ quát to. - Cô thử giải
thích tôi nghe đi.
Xuyến
ngước lên nhìn chồng, hai mắt rơm rớm như muốn khóc, khuôn mặt cô ửng đỏ vì
ngượng ngùng.
- Nào, cô nói đi, nói
đi!
- Anh Nam, - Xuyến
nói. - Anh đừng mắng em như thế. Oan em... Em yêu anh, bao giờ cũng yêu anh và
bao giờ cũng chung thủy với anh. Giá anh biết, dù chỉ một phần thôi, rằng em đã
phải vất vả, đau khổ và lo sợ thế nào trong suốt mười năm chờ anh vừa qua. Còn
việc vì sao em có chửa thì đơn giản thôi. Vì trong suốt chừng ấy năm, tối nào
đi ngủ em cũng kê sẵn một chiếc gối cho anh cạnh gối em. Nhiều hôm sáng dậy, em
thầm xấu hổ khi nhớ lại chuyện anh và em tối trước. Cách đây không lâu, anh
cũng về với em như thế. Lần này hình như em cảm thấy anh gần hơn, cụ thể hơn.
Khi tỉnh dậy, em vẫn một mình như bao lần khác, nhưng em biết chắc là anh vừa ở
bên em, thậm chí hơi ấm của anh còn bám vào da thịt em, thậm chí chăn còn nhàu
nát...
-
Cô phịa ra chuyện ấy để bắt tôi tin và rồi dần dần chính cô cũng tin cái điều
nhảm nhí ấy chứ gì?
- Xin anh đừng nói
thế, oan em. Em không hề...
Nhưng Nam đã
bỏ ra ngoài.
Những lời Xuyến vừa
nói, thực ra không phải không làm anh suy nghĩ. Anh hiểu và thông cảm với
Xuyến, vì bản thân anh trước đây cũng nhiều đêm nằm mơ có vợ bên cạnh. Nhưng
không lẽ vì thế mà vợ anh có chửa? "Không! Không thể như thế được!" -
anh nghĩ, tuy rất muốn tin vào điều vợ nói. Anh tìm mọi cách bào chữa cho cô, thậm
chí viện cả cái thuyết đồng giao cách cảm mà gần đây người ta hay nhắc tới,
nhưng cuối cùng anh vẫn phải đau khổ mà thừa nhận rằng Xuyến đã không chung
thủy với anh, đã ăn nằm với một người đàn ông khác. Mà điều ấy thì quá sức anh
chịu đựng, một trở ngại quá lớn anh không vượt qua nổi, thậm chí cả khi anh rất
yêu thương vợ, trước kia cũng như bây giờ. Biết làm thế nào được, con người anh
là thế, anh không thể lại ôm một người đàn bà khi người ấy đã từng trong vòng
tay một người đàn ông khác.
Họ, hai vợ chồng và
thằng bé mới sinh, vẫn ở chung trong cùng căn nhà chật hẹp. Không ai nghe họ to
tiếng với nhau lần nào. Chồng - anh Nam - là người đàn ông khỏe mạnh
chí thú. Anh chí thú ruộng vườn, không những đủ ăn mà còn thừa thóc bán cho nhà
nước. Trong một thời gian ngắn anh sắm đủ thứ cần thiết cho gia đình. Tính anh
hiền, ít nói. Cả với vợ, anh cũng chỉ nói khi thật cần thiết. Ban ngày anh làm
luôn tay, làm hùng hục mọi việc. Hết việc, anh ngồi im, thường nhìn trân trân
một điểm nào đó trước mặt. Và rất buồn. Tối đến anh vẫn ngủ riêng, tất nhiên
không phải giữa sàn nhà, mà trên chiếc giường nhỏ mới mua, đặt sát cửa sổ. Chị
vợ thì sau sinh đẻ, vốn nhỏ bé lại càng nhỏ bé hơn, bao giờ cũng lặng lẽ như
cái bóng. Với ý thức của người có lỗi, chị rất muốn chiều chuộng chồng, muốn
san sẻ bớt những ý nghĩ nặng nề anh đang chịu đựng, nhưng mọi cố gắng của chị
đều vô ích trước vẻ lãnh đạm tàn nhẫn của anh, nên chị cố tránh gặp mặt và
thường ngồi im ở một góc nào đấy.
Còn
thằng bé thì thật lạ, càng lớn càng giống Nam như đúc. Một sự ngẫu nhiên? Hay
lần nữa buộc phải suy nghĩ về lời giải thích vô lý của Xuyến? Điều này quả có
làm Nam
băn khoăn không ít. Đứa bé thật kháu. Nam không chút ác cảm nào với nó,
dù chính nó là trở ngại ngăn cách hai vợ chồng anh, là nguyên nhân mọi bất hạnh
trong gia đình. Ngược lại anh thương nó như thương Xuyến, vợ anh, và anh cảm
thấy thực sự khổ sở khi phải cố giấu không bộc lộ tình cảm đó. Nhiều lúc cao
hứng, hoặc vì vợ bận, anh còn bế con và giặt tã giúp vợ. Tuy nhiên, sau những
lần đấu tranh, dằn vặt như vẫn thường xảy ra, cuối cùng cái con người định
kiến, cố chấp trong anh vẫn thắng. Anh cương quyết không chịu cho thằng bé mang
họ anh, vẫn bắt chữa lại thành "bác" mỗi khi nó quen miệng gọi
"bố". Nhiều đêm nghe vợ ôm con khóc ở giường bên, anh những muốn lại
gần vợ vuốt ve, an ủi cô, muốn làm điều gì đó thật tốt đẹp cho cô, thế mà anh
vẫn nằm yên, trân trân nhìn lên trần nhà hoặc bỏ ra sân hút thuốc cho tới sáng.
Những lúc ấy anh rất cáu giận. Anh giận Xuyến, giận đứa bé và nhất là giận bản
thân anh. Con người anh, cái tính anh là thế, biết làm thế nào được?
Một hôm, Nam sang nhà
tôi chơi.
- Được mấy ngày về
thăm quê mà cứ ngồi lỳ ở nhà mãi thế à? - Vào tới ngõ, anh nói to thay cho lời
chào. - Lại viết lách?
- Ừ, nghề mà. - tôi
đáp. - Mời anh ngồi chơi.
Lúc này đứa bé đã lớn,
biết chạy lon ton khắp làng, nhưng gia đình anh thì vẫn như cũ. Nghe nói bà
con, chính quyền nhiều lần khuyên anh làm lành với vợ nhưng anh không chịu. Thế
đấy, người dân làng tôi, tôi biết - rất chân thành và cả tin, nhưng một khi có
ý nghĩ nào đó chui vào đầu thì không dễ mà giũ ra nổi.
- Thế nào, anh Nam, vẫn
"chiến tranh" à? - tôi ướm hỏi.
Nam
không đáp, nhưng nét mặt buồn hẳn xuống. Mãi lúc sau anh mới nói:
- Anh xem đấy, tôi còn
biết làm thế nào khác được?
- Sao lại không? - tôi
cao giọng. - Thì "hòa bình" đi! Anh không thấy anh đang làm khổ chị
ấy à?
- Thế anh tưởng tôi
sung sướng lắm chắc?
- Chính vì vậy mà cần
bỏ qua cho nhau và càng sớm càng tốt.
Nam
ngồi im, bất chợt nghiêm mặt hỏi tôi:
- Có điều này, tôi hỏi
thật anh nhé?
- Vâng, anh cứ hỏi.
- Anh có tin cô Xuyến
không? Tin chuyện cô ấy có chửa ấy?
- Tin, tôi tin, - tôi
đáp.
- Vì sao?
- Vì sao thì không
biết, nhưng tôi tin.
- Còn tôi thì không! -
anh bật đứng dậy nói to một cách giận dữ. - Không! Không bao giờ!
- Suy cho cùng điều ấy
không quan trọng, - tôi cũng nổi nóng. - Quan trọng là cô ấy đã chờ anh chừng
ấy năm. Quan trọng là cô ấy vẫn yêu anh. Quan trọng là anh không thể và không
có quyền đối xử với cô ấy như thế.
- Anh nói dễ lắm, anh
nhà văn ạ, - Nam
nhếch mép cười với vẻ mỉa mai không che giấu. - Với các anh, mọi chuyện thật
đơn giản.
Rồi không nói thêm một
lời nào, anh bỏ đi.
Đấy, các bạn xem: một
con người đã mười năm lăn lộn khói lửa chiến trường, có thể đã lập nhiều chiến
công phi thường, đã vượt qua trăm nghìn thử thách ghê gớm, thế mà bây giờ con
người từng trải được tôi luyện ấy không vượt qua nổi cái trở ngại tưởng như rất
bé kia, để chấm dứt đau khổ cho chính bản thân và cho người mình yêu quý nhất.
Thật bất công và cũng thật chua xót. Nhưng cả tôi, cả các bạn thử thuyết phục
anh ta đi.
Tháng hai năm 1979,
khi xảy ra chiến tranh ở biên giới phía Bắc,
Nam tình nguyện
gia nhập lại quân đội. Vợ anh không giữ, chỉ nói:
- Anh đi, em sẽ chờ.
Bao lâu em cũng chờ...
- Và cô sẽ tiếp tục
đêm đêm mơ tôi về thăm. Có thể cô sẽ lại có chửa? - anh châm chọc.
- Vâng. - vợ anh đáp
như không nhận thấy sự châm chọc ấy. - Nhưng anh hãy tin bao giờ em cũng yêu
anh, và nếu có chửa thì cũng chỉ với anh, một mình anh...
Nam
không đáp, chỉ lặng lẽ lên đường. Và không bao giờ trở về nữa.
*
Từ ấy nhiều năm đã
trôi qua. Cô Xuyến nay đã là bà Xuyến. Bà già và yếu hẳn đi một cách nhanh
chóng. Bà vẫn mòn mỏi chờ chồng như năm nào. Vẫn như năm nào, bà không hề nhận
được một bức thư nhỏ nào của chồng, xưa là anh, bây giờ là ông Nam.
Đây
là chuyện riêng của hai người, lúc đầu tôi không có ý định viết lên giấy nhưng
rồi cân nhắc kỹ nhiều mặt, cuối cùng, bắt chước nhà văn Pháp Angđrê Môroa trong
truyện Cuộc trở về của người tù, tôi
viết và cho đăng báo chuyện này, với hy vọng mỏng manh rằng nếu ngẫu nhiên đọc
nó, biết đâu ông Nam sẽ nghĩ lại. Tôi, ông Nam và bà Xuyến dẫu sao cũng là
người cùng làng với nhau. Mà đã là người cùng làng thì, tôi nghĩ, không ai có
quyền thờ ơ với số phận người khác.
Diễn
Châu, 1987
No comments:
Post a Comment