Truyện ngắn. Thái
Bá Tân
Không ai biết chính xác lão từ đâu tới
và tên là gì, chỉ thấy người ta gọi là Lão Xẩm, hoặc đôi khi Lão Xẩm Chột. Xẩm
là gọi theo nghề, vì lão chỉ biết có mỗi nghề duy nhất là hát xẩm để kiếm sống.
Còn Chột là vì lão mù. Mù mà được gọi là chột vì lúc mới xuất hiện ở vùng này,
người ta tưởng lão chỉ chột nhưng giả vờ mù. Chẳng bao giờ lão chịu bỏ cặp kính
tròn đen xịt khỏi mắt nên người ta nhầm. Sau thấy lão mù thật cũng chẳng ai đổi
lại thành Lão Mù, phần vì đã quen, phần vì với một người ở địa vị lão, Mù hay
Chột thì cũng vậy, không quan trọng.
Khác những người hát xẩm xưa nay ta
thường gặp, lão to khỏe, thậm chí phốp pháp. Chỉ nước da lão đen trũi, có thể
vốn trời sinh ra thế, cũng có thể do phơi nắng suốt ngày và ít tắm rửa. Lão
chẳng già chút nào, cùng lắm hơn bốn mươi một tý. Chữ “lão” ở đây rõ ràng không
vì tuổi tác mà đơn thuần là cách gọi nhằm biểu thị thái độ.
Công bằng mà nói, từ ngày đến đây lão
chẳng làm điều gì đáng trách. Tại cái tạng người lão mà người ta đâm ra khó
chịu. Hàng ngày lão ra chợ huyện hành nghề. Lão hát hay, mùi mẫn, đúng khẩu vị
người nghe, lại kéo nhị giỏi, thành ra cũng kiếm đủ sống qua ngày, mặc dù lão
chẳng bao giờ mở miệng xin xỏ như nhiều đồng nghiệp khác. Lão cứ để chiếc mũ
cối bộ đội sờn cũ trước mặt, ai cho thì lấy, không thì thôi. Chính điều này,
tức là việc lão không chịu “lạy ông lạy bà cho con xin...” cũng làm không ít
người ghét lão.
Lão Xẩm sống trong chiếc miếu hoang
trên gò đất cao ngay sát sông Cấm. Chẳng biết ai mách mà lão tìm được nó, một
nơi lý tưởng với lão - có mái che mưa nắng bằng ngói hẳn hoi, dù đôi chỗ dột.
Tường miếu tất nhiên đã long lở, xiêu vẹo, nhưng điều ấy không quan trọng vì
lão mù. Chợ huyện, nơi lão kiếm sống hàng ngày lại gần, cứ theo chân đê bằng
phẳng mà đi, chưa đầy cây số là đến. Lâu dần, lão nghiễm nhiên thành chủ nhân
chiếc miếu. Nó không còn bị gọi miếu hoang, mà là “nhà Lão Xẩm”.
Tối nay, như những buổi tối mùa hè
nóng nực khác, Lão Xẩm lại trải chiếu trước nhà, ngồi ngoảnh mặt về phía sông
hóng mát. Lúc nào cũng vậy, cứ ở nhà là lão chỉ mặc độc chiếc quần cộc vừa ngắn
lại vừa rách, để lộ cả cái mà người ta phải luôn che giấu. Nhưng lão thì không
cần, vì biết chẳng có ai nhìn. “Càng mát!” lão nghĩ, nhiều khi còn cố tình cho cả ra ngoài.
Gió nhẹ hây hây thổi. Không nhìn thấy
nhưng lão biết đêm nay trăng đẹp. Trời tước của lão đôi mắt. Bù lại sự thua
thiệt ấy, trời cho lão đôi tai rất thính và khả năng đoán hiểu sự việc cực kỳ
nhanh nhạy. Lão sống được chính nhờ
những khả năng có một không hai ấy. Chẳng hạn lúc này lão biết chắc chắn mấy cô
gái làng bên đang tắm truồng dưới sông. Ngay trước mặt lão, một người đàn ông
khỏe mạnh, lại giữa lúc khao khát cái chuyện ấy nhất.
Việc này xẩy ra hầu như vào tất cả các
buổi tối mùa hè. Lúc đầu lão cáu lắm, coi mình bị xúc phạm ghê gớm. “Bọn này
láo thật, cứ như mình là tượng gỗ không bằng!” Khi nghe các cô cười bảo nhau
“Cởi hết ra chúng mày. Lão Chột không nhìn thấy đâu mà sợ”, lão giận dữ cho hết
của quí của lão ra ngoài quần, dứ dứ nó về phía các cô, lẩm bẩm: “Đây không
nhìn được nhưng làm được đấy. Làm khỏe nữa là khác. Đứa nào giỏi, muốn thử cứ
lên đây". Tất nhiên chẳng ai lên. Nhiều hôm lúc về có cô còn tinh nghịch
ném viên sỏi vào nhà lão rồi khúc khích cười, không biết cười gì. Cả những lúc
như thế, lão cũng chẳng chịu che giấu cái ấy của lão. "Để mặc chúng nhìn,
khối đứa lại chẳng thèm rỏ dãi".
Dần dần rồi lão cũng quen, nhưng vẫn ấm
ức chịu cảnh trớ trêu ấy. Không biết làm gì khác, lão đem rượu ra uống, dù
chẳng là người nghiện ngập. Rồi lão nghêu ngao hát, xuyên tạc những câu ca dao
bình dị thành những lời tục tĩu lão phịa ra để xả bớt cái ham muốn đang anh ách
dưới bụng.
Một tối nọ, cũng trong hoàn cảnh tương
tự, khi đêm đã khuya và dưới sông không còn tiếng nước té, tiếng cười nói hồn
nhiên của các cô gái nông thôn tắm truồng, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ.
Tiếng chân người. Tai lão rất thính. Lão biết chắc là tiếng chân người, dù lúc
ấy đầu còn chếnh choáng hơi men và đang thiu thiu ngủ. "Ai nhỉ?" lão tự hỏi, có ý đề phòng. Thực ra,
lão chẳng có gì cho kẻ gian lấy trộm. Bản thân lão cũng không thuộc loại người
khác có thể mưu giết. Thế mà lão vẫn thấy lo.
Hình như tiếng bước chân đang tiến lại gần, rất gần.
"Ai đấy?" lão hỏi to. Im lặng. Lão hỏi lần nữa. Vẫn im lặng. Lão đứng
dậy, và đang lúc quờ quạng định vào nhà lấy chiếc gậy thì tay lão bỗng chạm
phải cái gì đấy âm ấm, mềm mềm, tròn tròn.
Ngực đàn bà! Lão nhận ra ngay điều ấy. Theo bản năng, lão
vội rụt tay lại, định kêu lên nhưng cũng liền lúc ấy lão kịp trấn tĩnh. Và như
sợ để mất cái vừa có được, lão chìa tay về phía trước. Vẫn cái vật âm ấm, mềm
mềm, tròn tròn ấy. Lão thầm ngạc nhiên vì sao người đàn bà bí ẩn kia không bỏ
chạy, không kêu lên hoặc làm cử chỉ chống trả nào đấy, mà cứ để bàn tay thô
kệch của lão, lúc đầu một rồi sau hai, tự do mân mê hết đôi vú để trần, đôi
vai, chiếc cổ, vành eo bụng và còn xuống thấp hơn nữa.
Như trong cơn mơ, lão ngây ngất mơn trớn khắp cơ thể lõa lồ
của người đàn bà, chỉ trừ khuôn mặt, là nơi bàn tay tham lam của lão bị những
ngón tay thon dài gạt ra không cho chạm tới. Chẳng cần. Lão biết phải làm gì
trong trường hợp này và đã làm điều ấy không gặp chút chống cự nào. "Làm
tốt nữa là đằng khác" như có lần lão từng dọa các cô gái. Suốt thời gian
việc ấy xẩy ra, người kia luôn im lặng. Lão cũng chẳng nói gì vì sợ có thể lời
nói sẽ làm hỏng mọi chuyện.
Xong, người kia vội vùng dậy bỏ đi rất
nhanh, hình như chạy. Còn lão thì vẫn tồng ngồng nằm dưới ánh trăng. Mọi việc
diễn ra quá bất ngờ, khiến lão đớ người hồi lâu, không biết nên nghĩ thế nào.
"Hay mình đang mơ?" lão tự hỏi, tay sờ xuống bộ hạ, thấy không mặc
quần và còn ươn ướt...
Lâu lắm lão mới được nếm lại mùi vị
đàn bà. Suốt đêm ấy lão không sao ngủ được, tự đặt cho mình hàng trăm câu hỏi
mà cuối cùng chẳng thể trả lời rành mạch được câu nào. Lão nằm ngửa, hướng đôi
mắt mù lên bầu trời mà lão đoán có rất nhiều sao, những ngôi sao tuyệt đẹp. Lão
thích thú tận hưởng giây phút hạnh phúc bỗng dưng trời mang đến ban thưởng cho
lão.
Sáng dậy, để kiếm cái ăn, lão lại vác nhị
xuống chợ như mọi ngày.
Ba hôm sau, người đàn bà ấy lại đến.
Vẫn cơ thể lõa lồ âm ấm ấy. Vẫn sự im lặng ấy. Vẫn bàn tay tham lam của lão ve
vuốt khắp người và vẫn lặp lại chuyện ấy. Khác chăng, lần này lão bình tĩnh
hơn, đủ bình tĩnh để kéo dài thêm những giây phút hạnh phúc của lão. Rồi sau đó
người đàn bà ấy lại vội vã lặng lẽ bỏ chạy khỏi nhà lão như trước.
Từ hôm ấy đêm nào lão cũng chờ, nhưng
đúng một tháng sau người đàn bà mới xuất hiện để tự nguyện trao thân cho lão.
Ba ngày sau lại đến lần nữa, rồi biệt
tăm cho tới hầu như cùng ngày của tháng tiếp.
Việc này lặp đi lặp lại trong bốn tháng
liền, như theo lịch vạch sẵn. Lão lấy làm ngạc nhiên nhưng không dám hỏi, vì dù
không nói ra lời, hai người như đã thỏa thuận sẽ luôn giữ im lặng. Cuối cùng
lão cũng lờ mờ đoán hiểu. Lão biết sau kỳ kinh nguyệt có một quãng thời gian
nào đấy người đàn bà không thụ thai được. Người kia đã chọn chính lúc ấy để đến
với lão. Nhưng người ấy là ai và vì sao chọn lão thì lão chịu không hiểu nổi.
Linh cảm sắc bén của lão cũng đành bất lực.
Qua bàn tay vuốt ve (trừ khuôn mặt), lão biết người này
không còn trẻ, ít nhất phải ngoài ba mươi, thậm chí còn hơn. Điều này chẳng làm
lão bận tâm. Cái thực sự lão lo lắng là đáng lẽ theo lịch, người ấy đã phải đến
tuần trước nhưng lão chờ mãi vẫn không thấy. Lão biết có chuyện không bình
thường đã xẩy ra. Lão buồn. Linh tính báo có lẽ người đàn bà bí ẩn kia sẽ không
bao giờ đến với lão nữa, nhưng lão hy vọng và vẫn chờ. Đêm nào lão cũng chờ...
Một tối nọ, đã khuya, lão ra ngồi ỉa cạnh
một trong những bụi cây um tùm mọc bên sông. Vốn bụng không tốt lắm nên đêm nào
lão cũng một vài lần phải làm cái việc chẳng mấy thú vị này. Đoạn sông ở đây
nước sâu, chảy xiết và mạnh, cách khá xa chỗ sông bồi nơi các cô gái làng bên
thường đến tắm. Mặc dù dạn dĩ và sẵn sàng để phụ nữ nhìn thấy “cái ấy” của mình
không chút ngượng ngùng, nhưng để người khác bắt gặp trong tư thế ngồi ỉa thì
lão chẳng muốn chút nào. Vì thế lão mới chui vào bụi rậm, bất chấp mối nguy
hiểm có thể vô ý rơi xuống sông chết đuối.
Khác với mọi lần, lần này lão phải
ngồi khá lâu, cố gắng khá vất vả mà không sao trút bỏ được cái muốn trút bỏ.
Đang khi nhăn nhó khổ sở, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân người.
"Không lẽ cô ấy?" lão lo lắng nghĩ. Ngay sau đó bỗng có tiếng kêu
thất thanh:
- Đừng! Chị Tâm! Đừng, đừng nhảy xuống
sông!
Đó là tiếng một cô gái, giọng còn trẻ
như giọng trẻ con mới lớn. Lão Xẩm lặng người, nín thở, quên cả cái việc bức
bách đang làm. Tiếp đến lão nghe có tiếng chân vội vã chạy ngang và dừng lại ở
một bụi cây khác cách đấy không xa.
- Sao chị làm thế? Em van chị. Chị
tưởng em không biết chị đang muốn tự tử sao? Mấy ngày nay em luôn theo dõi chị.
Em biết. Em biết hết mọi chuyện. Biết từ lâu rồi cơ...
Có tiếng người khóc tấm tức.
- Em nói em biết, biết hết mọi chuyện?
- người định tự tử cuối cùng lên tiếng, vừa khóc vừa nói khe khẽ, nhưng vốn rất
thính tai nên lão Xẩm nghe được.
- Vâng. Em biết chuyện mấy tháng nay
chị đi lại với lão Xẩm. Em chồng, chị dâu mà. Và bây giờ chị có bầu. Chị xấu
hổ. Chị muốn tự tử. Em biết hết nhưng không nói, vì em hiểu chị, em thương chị.
Có điều em không hiểu tại sao chị chọn lão ấy chứ không phải người khác.
- Vì lão mù, không biết chị là ai.
- Nhưng sao chị cứ phải chết?
Lại có tiếng khóc. Lần này to và lâu
hơn.
- Em biết hết, còn hỏi chị làm gì nữa.
Em nghĩ làm sao chị có thể sống nổi khi chị, vợ bộ đội ở chiến trường, một cán
bộ xã, một điển hình "trung hậu đảm đang" của toàn huyện, mà lại chửa
hoang? Vác cái bụng to vượt mặt mà nhìn thẳng vào mắt mọi người được sao?
Không, em thương chị thì cứ để chị chết. Chị xấu hổ lắm. Nhục nhã lắm. Chị có
tội với anh trai em, với mẹ, với em. Với tất cả mọi người. Chị chẳng cán bộ, chẳng
điển hình gì hết. Người ta muốn thế thì phải chịu. Chị chỉ là mụ đàn bà trời
bắt thèm muốn tình cảm hơn những mụ đàn bà khác. Chị đã cố, rất cố mà không giữ
được. Khốn khổ thân chị. Chị có muốn thế đâu, nhưng không sao cưỡng lại được...
- Em hiểu. Em cũng là đàn bà mà. Nhưng
chị không được chết, vì cái chết của chị sẽ vô nghĩa. Chị vẫn mang tiếng xấu...
- Đúng thế, nhưng dẫu sao chị sẽ không
phải nghe người ta kiểm điểm, không phải chịu những cái nhìn khinh bỉ. Em cứ để
chị chết. Chị quyết rồi. Chị nhờ em chăm sóc mẹ thay chị, sau này xin lỗi anh
trai hộ chị. Có thể anh ấy sẽ tha thứ. Nếu không cũng chẳng sao. Cứ nói là chị
rất yêu anh ấy, nhưng chị là người yếu đuối và đã không cưỡng lại được con quỉ
tội lỗi trong người chị...
- Không. Không bao giờ! Chị phải về
với em. Về ngay bây giờ! - Cô gái cao giọng một cách dứt khoát. - Sáng mai em
và chị sẽ lên thành phố. Em có đứa bạn bác sĩ ở đấy. Nó sẽ giúp chị thoát khỏi
cái thai kia. Em thề suốt đời giữ kín chuyện này. Nào đi! Chị đi về nhà với em.
Không lôi thôi gì nữa!
Im lặng một chốc, rồi có tiếng dằng
co. Cuối cùng lão Xẩm nghe tiếng chân hai người đi ngang qua chỗ lão ngồi. Cô
em chồng đi trước, kéo bà chị dâu đi theo. Mãi lúc sau, lão Xẩm mới dám đứng
dậy đi vào nhà. Lão bàng hoàng đến mức quên cả cái của nợ kia trong bụng.
Hai ngày sau, khi đang hát ngoài chợ
huyện, lão Xẩm nghe người ta kháo nhau chuyện chị Tâm, người làng Vĩnh Yên, cán
bộ phụ nữ xã Diễn Lộc, đi tắm đêm cùng cô em chồng, không may sẩy chân rơi
xuống chỗ nước xoáy chết đuối. Cô em chồng thấy mà chẳng thể làm gì vì không
biết bơi. Khi cô gọi được người đến cứu thì không thấy xác chị đâu nữa.
Lời nói thêm của người
viết:
Anh Thoan, chồng chị Tâm hy sinh trong đợt tổng tiến công Tết Mậu Thân
68 (một năm trước khi chị Tâm chết), nhưng mãi đến cuối năm 70 gia đình mới
nhận được giấy báo tử. Bà cụ mẹ anh chết hai năm sau đó. Còn cô Vinh, em gái
anh Thoan, hiện là một chuyên viên kinh tế giỏi làm việc tại một bộ quan trọng
ở Hà Nội. Vì là người cùng làng, chúng tôi thường gặp nhau. Tuy không ngăn được
chị dâu tự tử, nhưng cô đã giữ đúng lời hứa năm nào. Cô vẫn khăng khăng bảo tôi
chị Tâm chết đuối, đúng như trong truyện tôi viết. Tôi cũng vờ tin như thế. Lần
nào có dịp cùng về quê, tôi và Vinh cũng ra viếng mộ anh Thoa, chị Tâm. Có lần
chúng tôi còn vào phòng truyền thống xã, nơi vẫn treo tấm bằng khen trung hậu
đảm đang Hội phụ nữ huyện Diễn Châu tặng chị, đề ngày 30 tháng Năm năm 1967. Dù
biết hết sự thật, tôi vẫn luôn nghĩ chị xứng đáng với danh hiệu cao quí đó. Còn
về lão Xẩm thì tôi không biết thêm một tí gì. Vả lại, cũng chẳng quan tâm mấy
đến lão. Không phải vì ghét, đơn giản vì tôi còn nhiều việc quan trọng hơn cần
làm.
Hà Nội, 2000
No comments:
Post a Comment