Truyện
ngắn. Thái Bá Tân
Biết
tôi viết văn, một anh bạn hiện là kỹ sư lâm nghiệp ở lâm trường S.V miền Tây
Nghệ An, có gửi cho tôi một bức thư. Trong thư anh kể chuyện con voi kéo gỗ duy
nhất của lâm trường, để như anh nói, tôi dựa vào đó viết một truyện ngắn mà
theo anh (nguyên văn) "có thể thu hút được sự chú ý của người đọc".
Bức
thư nằm trên bàn đã hai tháng nay. Tôi đọc đi đọc lại mấy lần và quyết định ghi
lại toàn bộ dưới đây, trừ những đoạn riêng tư không cần thiết. Bản thân nó theo
tôi đã là một truyện ngắn hoàn chỉnh, chỉ cần chữa chút ít văn phong. Người
viết văn không nhất thiết bao giờ cũng phải thêm thắt cái này cái nọ vào một
câu chuyện có thật, cho dù làm thế có thể tăng thêm hiệu quả.
*
Đúng
vào ngày thành lập lâm trường, tức cách đây ba mươi năm, có đơn vị bộ đội tặng
chúng tôi một con voi từng tải đạn và kéo pháo phục vụ quân ta trong nhiều trận
đánh lớn ở Hạ Lào. Vì thành tích chiến đấu, nó được thưởng một huy chương và
nhiều bằng khen, giấy khen, hiện đang trưng bày trong Phòng Truyền thống lâm
trường. Về nó, người ta có cả một bộ hồ sơ với đủ các mục cần thiết - trước hồ
sơ kháng chiến, nay là hồ sơ lao động, - và tất nhiên được giữ ở Phòng tổ chức
cán bộ. Hàng năm người có trách nhiệm sẽ ghi thêm vào đó những lời nhận xét về
thái độ công tác, sức khoẻ và "đạo đức" của nó.
Đó
là một con voi đực rất to và hiền. Ba mươi năm nay nó cần mẫn làm việc phục vụ
con ngườ, niềm tự hào và là vốn quý của cả lâm trường. Để anh dễ hình dung, tôi
xin dẫn một thí dụ so sánh. Lâm trường có hai đội khai thác nằm sâu trong rừng
hai mươi cây số. Một đội có ba máy kéo và hai mươi con trâu đực. Đội kia chỉ có
một con voi và một máy kéo, lại hay hỏng, số công nhân ít hơn, thế mà luôn đạt sản
lượng gấp rưỡi đội bạn, dù hoạt động ở địa bàn khó khăn hơn. Khâu khó nhất
trong khai thắc là vận chuyển gỗ ra bãi tập kết, từ đó ô tô mới có thể chở đi.
Không có đường, cây thường mọc trên vách núi, rừng nhiều tầng nên nhiều khi con
voi là không thể thiếu được.
Chính
vì giữ vai trò quan trọng như vậy mà Lâm trường đặt riêng cho nó một chế độ
nghiêm ngặt về làm việc, ăn uống và chăm sóc. Cụ thể là một ngày nghỉ, một ngày
làm; tiêu chuẩn ăn mỗi ngày mười ki-lô gạo nấu thành cơm, từ năm đến bảy quả bí
đỏ, mỗi tháng mười ki-lô đường hoặc thường xuyên phải trồng một héc-ta mía cho
voi ăn dần. Về y tế, người ta lập hẳn một tủ thuốc riêng có đủ từ thuốc cảm
(voi cũng cảm cúm và viêm họng, sổ mũi như người) đến các loại kháng sinh liều
cao.
Ngày
làm việc của con voi này bắt đầu từ bốn giờ sáng, khi người quản tượng ra tìm
nó trong rừng, nơi nó được thả cho ăn tự do suốt từ chập chiều hôm trước. Sau
đó nó được dẫn tới khu vực khai thác. Quãng đường không xa nhưng nó đi chậm và
thường một tiếng sau mới bắt đầu làm việc thực sự.
Những cây gỗ to, có khi đường kính đến một mét, được đẵn và
chặt hết cành. Nó có nhiệm vụ đưa chúng xuống chân núi rồi từ đó kéo ra bãi.
Trước hết phải mở đường. Nó cúi đầu, dùng cả thân hình đồ sộ rướn lên phía
trước, dẫm bẹp, phá tung tầng dưới của rừng nhiệt đới, tạo thành một luồng nhỏ
hình ống, theo đó gỗ sẽ được đưa xuống. Vì đường không phẳng, nó phải liên tiếp
dùng chiếc ngà cụt duy nhất hoặc dùng chân, dùng đầu đẩy gỗ đi. Cây nào nhỏ thì
uốn vòi nhấc bổng quẳng xuống. Nói chung đây là loại công việc khó khăn và nặng
nhọc, rất nặng nhọc. Thế mà, anh có tượng tượng được không, con voi to lớn, vẻ
ngoài vụng về ấy đã có những động tác thông minh và khéo léo ngoài sức tưởng
tượng.
Do
nhiều năm kinh nghiệm, tự nó biết lúc nào cần làm gì, tuy người quản tượng đứng
bên luôn miệng quát những từ ngắn gọn bằng tiếng Lào, là thứ tiếng quê hương mà
ngày xưa, trước cả khi phục vụ kháng chiến, người ta đã dạy nó hiểu. Dân gian
có câu "Làm hùng hục như voi". Theo
tôi, nói thế không đúng lắm. Con voi này của Lâm trường S.V làm khỏe nhưng
không "hùng hục"chút nào, ngược lại rất từ tốn, thong thả. Nó lặng lẽ
làm việc không nghỉ, đều đặn, đôi tai to luôn phe phẩy. Vào những ngày hè nóng
nực, chốc chốc nó lấy nước dự trữ trong dạ dày, tự phun lên người cho mát.
Chiều bốn giờ, nó lững thững về nhà, ăn khẩu phần quy định, xuống suối tắm rồi
vào rừng ăn thêm chuối cây và cỏ lá cho đầy cái dạ dầy khổng lồ của mình.
Cuộc
sống lao động của nó cứ đều đều trôi qua như thế. Nó là con voi cần cù và hiền
lành như tôi đã nói. Nó gắn bó, tận tuỵ phục vụ con người và cùng con người, nó
chia sẻ bao cái buồn, cái vui của hoàn cảnh. Những năm chiến tranh nó cũng bị
cắt bớt khẩu phần, những ngày cuối năm phải làm thêm giờ để hoàn thành kế
hoạch. Tất nhiên khi công nhân lĩnh thưởng, nó được ăn nhiều hơn, ngon hơn.
Nghĩa là con người thương yêu, chăm sóc nó và hình như nó chẳng có điều gì phải
chê trách con người. Tất cả có vẻ tốt đẹp, nhưng...
Vấn
đề chính ở cái "nhưng" ấy.
Nhưng
thật không may, suốt chừng ấy năm và có thể cả trước đó, con voi hiền lành,
chịu khó ấy luôn mắc một "chứng bệnh" mãn tính mà cả sự chăm sóc
nhiệt tình của lâm trường và cả tủ thuốc dành riêng cho nó đành bất lực. Số là
đều đặn mỗi năm mấy lần, đến kì động dục, nó phải trải qua những cơn vật vã khổ
sở. Anh thử hình dung xem: một con vật khổng lồ nặng hàng tấn như thế phải mang
anh ách đâu đấy trong người một khối lớn năng lượng thừa cần giải tỏa mà không
giải tỏa được. Những lúc ấy, người ta phải dùng xích sắt xích nó lại. Cái vẻ lờ
đờ chậm chạp hàng ngày biến mất. Nó cong vòi, há cái miệng đỏ đầy dãi dớt như
muốn kêu lên điều gì mà không kêu được thành tiếng. Nó bỏ ăn, vật lộn với cái
xích, xéo nát cả một vùng xung quanh. Đôi lúc có thể vì quá mệt, cũng có thể do
cái nóng trong người tạm lắng, nó ủ rũ đứng im, vòi buông thõng, hai tai cụp
xuống không buồn phe phẩy. Ở phía dái
tai ri rỉ những dòng nước nhờn vàng vàng. Những lúc như thế con người chẳng
biết làm gì để giúp nó, ngoài việc chờ một thời gian sau, cũng theo đúng chu
kỳ, "cơn bệnh" tự qua đi và nó sẽ bình phục trở lại.
"Căn
bệnh" chỉ có thế, như tôi nói, rất nguy kịch và cần được cứu chữa. Thế mà
con vật tội nghiệp phải chịu đựng nó bao năm nay. Lúc đầu người ta quả có lo
lắng. Có người đề nghị tiêm thuốc khử dục hoặc thiến - nhưng mà ai thiến được voi!
Có người bảo thả nó vào rừng tìm voi cái, vân vân. Nhưng rồi không ý kiến nào
trong số những ý kiến hay ho kia được thực hiện.
Cách
đây mấy năm, một anh cán bộ thú ý trẻ bỏ công tìm đến tất cả những nơi cần đến,
hăng hái chứng minh sự trái tự nhiên, thậm chí "dã man" như anh ta
nói, của việc giữ một con voi đực biệt lập lâu như vậy. Anh ta đề nghị nhường
nó cho một lâm trường khác trong tỉnh, là nơi nhiều năm nay chỉ có một con voi
cái. Hay chí ít phải cho nó đến đấy "làm khách" ít bữa mỗi lần phát
dục. Nhường thì tất nhiên không thể được, nhưng dẫn nó đi hàng trăm cây số
đường rừng rồi dẫn về cũng không đơn giản, nên cuối cùng, cái ý kiến rất hay và
được lắng nghe một cách nghiêm túc ấy vẫn không không được thực hiện. Lâm
trường lắm việc, người ta quên, khi nhớ được thì con voi đã bình phục trở lại.
Thế là dần dần người ta quen với điều xảy ra, quen với sự đau khổ của con vật
họ yêu quý, vì một lẽ cũng khá đơn giản là sau mỗi lần ốm dậy, nó vẫn tiếp tục
làm việc, ngoan ngoãn và cần mẫn như trước. Nhưng... - lần nữa, xin lỗi, lại
"nhưng", - nhưng cái gì cũng có giới hạn.
Một
lần, trong cơn bệnh dữ dội hơn bao giờ hết, nó phá tuột xích, chạy vào rừng với
đồng loại và bị cả một đàn bảy con voi đực khác đánh bị thương gần chết, không
cho lại gần con voi cái duy nhất của chúng. Vất vả lắm nó mới lần về được với
những người chủ của nó, với một mắt bị chọc thủng (cái tên Chột bắt nguồn từ
đó) và những vết húc sâu gần gang tay đầm đìa máu hai bên hông.
Cả lâm trường cuống lên vì lo sợ. Được tin, lập tức chính
ông thủ trưởng ngành đi xe con từ Hà Nội vào. Nghe nói khi nhận được điện
"Voi bị đánh gần chết", tưởng do người đánh, ông mang theo sẵn quyết
định cách chức giám độc và phó giám đốc lâm trường S.V. Dù được hết lòng cứu
chữa, phải nửa năm sau con Chột mới trở lại làm việc được. Nhưng nó đã đổi
khác. Nó không còn khỏe như trước, điều đó dễ hiểu. Thông thường tuổi thọ của
voi là bảy, tám mươi năm. Theo hồ sơ phòng tổ chức cán bộ, con Chột lúc này
chưa đến năm mươi, nghĩa là còn ở độ sung sức, thế mà trông nó đến thảm hại, da
bạc thếch, nhăn nheo và không còn sợi lông nào; cái lưng gù càng gù thêm. Những
lúc không làm việc, nó rầu rĩ đứng im một mình, con mắt còn lại lim dim như
đang thiu ngủ, hoặc suy nghĩ xa xôi về một điều mông lung nào đấy. Con Chột đã
quá yếu, mọi người luyến tiếc nghĩ thế, thầm hy vọng từ nay căn bệnh nguy hiểm
kia sẽ không tái phát nữa.
Thế
mà chẳng bao lâu sau, đúng chu kỳ, nó lại phát dục. Lần này có vẻ còn dữ dội
hơn. Vẫn những triệu chứng và biện pháp xử lý cũ. Theo thường lệ, đến ngày phải
bình phục trở lại, người ta thả nó ra. Nhưng lạ thay, sáng hôm sau, khi người
quản tượng tới dẫn nó đến khu khai thác, lần đầu tiên trong đời nó không chịu
nghe, không cho đến gần, thậm chí còn suýt quật chết ông ta. Nó lồng lên chạy
khắp nơi - không phải vào rừng vì bài học vừa rồi còn chưa quên. Nó giận dữ xéo
nát, quật gãy tất cả những gì gặp trên đường đi. Nó đánh chết một con trâu, xô
đổ một chiếc máy kéo đứng chênh vênh trên vách núi.
Rõ
ràng sau vụ đánh nhau suýt chết với voi rừng, thần kinh con Chột đã quá yếu,
không còn chịu nổi những chấn động dữ dội của cơn bệnh thường kì. Nó đã phát
điên, gây không ít tai họa cho lâm trường và cần áp dụng gấp những biện pháp
mạnh.
Đảng
uỷ và ban giám đốc Lâm trường họp bàn suốt một ngày, ngày hôm sau đem ra lấy ý
kiến công nhân. Kết quả cuối cùng thế nào anh biết không? Người ta quyết định
xử tử con Chột. Có văn bản hẳn hoi và đủ chữ ký của những người, những cấp cần
thiết. Phải nói đây là một quyết định đau đớn, bị nhiều người phản đối nhưng
không còn cách nào khác. Hơn thế, bản án cần được thi hành càng sớm càng tốt.
Nhưng ai sẽ giết nó, giết như thế nào? Vấn đề này hóa ra không đơn giản như
thoạt tưởng. Vì thương và vì quá quen thân với con Chột, không một tay súng nào
trong đội tự vệ lâm trường chịu bắn vào nó, buộc phải sang cầu cứu trung đoàn
bộ đội kết nghĩa bên cạnh.
Ngày
hôm sau con Chột bị bắn chết, xác được xe xích kéo đi chôn ở một chiếc hố sâu
và rộng đào sẵn từ trước. Nhiều người đến chào tiễn biệt nó. Và khóc. Ông quản
tượng người Mường thì nghe nói trước đấy mấy ngày viết đơn xin nghỉ hưu và mặc
dù chưa được đồng ý, đã tự động bỏ về bản..."
*
Đấy,
bức thư anh bạn kỹ sư lâm trường S.V Nghệ An gửi cho tôi là thế. Tôi biết viết
gì thêm, thậm chí với ý định "làm" một truyện ngắn như anh gợi ý?
Cách
đây không lâu, tôi có dịp tới tận lâm trường này, và với tư cách cán bộ một nhà
xuất bản trung ương, xin được gặp giám đốc và bí thư Đảng ủy. Những điều bạn
tôi kể là hoàn toàn có thật. Tôi còn được cho biết sắp tới lâm trường sẽ cử
người vào Đắc Lắc mua voi về thay thế con Chột đã chết.
-
Mấy con? - tôi vội hỏi.
-
Một.
-
Sao lại một? Chẳng phải vì sống một mình mà con Chột...
-
Vâng, chúng tôi biết, nhưng lâm trường không đủ vốn. - Ông giám đốc nhìn tôi
với vẻ gần như bình tĩnh, là điều làm tôi vừa ngạc nhiên vừa buồn. - Anh có
biết một con voi giá bao nhiêu không?
Trước
khi rời lâm trường, tôi tới thăm mộ con Chột. Đó là một gò đất nhỏ, cây và cỏ
dại đã kịp mọc um tùm.
"Một
con voi giá bao nhiêu nhỉ?" Bất giác nhớ tới lời ông giám đốc. Chắc phải
đến bạc triệu. Tôi không biết chính xác, nhưng biết rõ một điều rằng hiện trước
mặt tôi, dưới gò đất cỏ mọc um tùm kia là cả một nửa năng suất khai thác của
lâm trường SV, là một con voi hiền lành, cần cù nhưng đã bị đẩy đến chỗ điên và
cuối cùng bị giết chết. Chung quy chỉ vì một lí do hết sức đơn giản là con
người đã không tạo cho nó những điều kiện sống sơ đẳng nhất, cần thiết nhất để
nó được phục vụ con người tốt và nhiều hơn.
Không
hiểu rồi con voi người ta sắp mua từ Đắc Lắc về liệu có được số phận may mắn
hơn không?
Diễn Châu, tháng Hai, 1984
No comments:
Post a Comment