Truyện ngắn. Thái
Bá Tân
“Con gái tao xinh và
ngoan thế, mày không lấy, sau chỉ lấy ma! Chỉ lấy được ma thôi nhé!”
Lão rít qua hàm răng
vàng khè, một chiếc nhô hẳn ra ngoài môi như
răng phù thủy.
Xuân Sinh lúng túng
không biết nói gì. Lão là bố cô gái hàng xóm quả ngoan và xinh thật. Hai người
chơi thân từ nhỏ và thích nhau. Không phải anh “không muốn lấy” như lão nói, mà
đơn giản còn quá trẻ chưa nghĩ đến chuyện ấy. Còn gia đình anh thì vốn gia giáo,
chê nhà lão dân tứ chiếng và đặc biệt ác cảm với cái vẻ ngoài đáng sợ của lão.
Hơn thế, lão còn chủ động đánh tiếng gả con gái cho anh. Dơ! Và bị nhà anh
thẳng thừng từ chối. Bẽ mặt với xóm giềng, lão đem vợ con đi đâu mất. Trước khi
đi còn cố tình tìm Xuân Sinh để ném vào mặt anh cái câu giận dữ kia.
Còn Xuân Sinh thì lúc
ấy quả thực không biết nên xử sự thế nào. Tất nhiên anh buồn vì đột nhiên cô
bạn gái đi mất, nhưng rồi, như thường vẫn thế với tuổi trẻ, chẳng bao lâu anh
quên hẳn chuyện này. Hết phổ thông, đang chuẩn bị lên thủ đô học khoa văn Tổng
hợp theo đúng nguyện vọng thì chiến tranh nổ ra, và như nhiều trai làng khác
anh lên đường ra trận làm lính lái xe sau một khóa đào tạo gấp ở Sơn Tây. Cuối
năm 67 anh được điều vào Nam, chuẩn bị khí tài cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân
sắp tới. Đơn vị anh làm nhiệm vụ trung chuyển từ trạm N. đến trạm X., phải qua
một cung đường cheo leo trên núi mà cánh lái xe gọi là Cổng Trời, chỉ cần chệch
lái một chút là lăn xuống vực, và đã từng có nhiều xe lăn xuống vực.
Trên Cổng Trời có trạm
giao liên, sau này chiến tranh ác liệt còn thêm đội công binh, chủ yếu là nữ.
Mặc dù ở mép vực có chôn hàng cột xi măng quét vôi trắng, ban đêm xe qua đây vẫn
phải có người khoác dù trắng đi trước làm xi-nhan. Do qua lại nhiều lần, Xuân
Sinh quen một trong những cô gái làm nhiệm vụ này, là Bạch Điệp, mọi người gọi
là Bướm Trắng, lúc đầu đùa, sau dần thành quen. Cô khá xinh, da trắng và luôn
nhí nhảnh như con bướm. Nhiều đêm thấy cô đi trước xe, gió thổi tung tấm dù
trắng, Xuân Sinh cũng thấy cô giống bướm, một con bướm trắng khổng lồ và đáng
yêu.
Vì xe không được phép dừng ở Cổng Trời,
một tuần, mươi ngày họ mới gặp nhau một lần, khi xe vẫn lăn bánh, chàng trên
ca-bin, nàng đứng phía dưới giơ tay vẫy, nhiều lắm chỉ trao đổi được đôi ba
câu. Thế mà dần dần họ mến nhau rồi yêu nhau lúc nào không biết. Tức là kiểu
yêu thời chiến, biết thế, để thế chứ chẳng nói ra miệng. Lần nào có xe Sinh,
Bướm Trắng cũng xin được dẫn đường, dù không phải ca mình.
Một
đêm nọ như mọi lần, tiểu đội xe Xuân Sinh vượt Cổng Trời chở đạn vào Nam. Bướm
Trắng đi trước dẫn đường. Tới chỗ nguy hiểm nhất, bất chợt có máy bay đến phóng
hai quả rốc-két làm lóe sáng cả một vùng, khói lửa mù mịt. Một đoạn đường bị
sạt lở, nhưng chỉ mấy phút sau đoàn xe lại vội đi tiếp vì biết chắc chiếc máy
bay kia còn quay lại. Sinh thầm mừng vì thấy Bướm Trắng lại xuất hiện trước xe
và nhờ cô, anh cùng đồng đội vượt Cổng Trời an toàn. “Một vụ bắn phá bình
thường như rất nhiều vụ trước đấy”, anh nghĩ.
Tuy nhiên, Xuân Sinh
rất ngạc nhiên khi mấy ngày sau quay lại không thấy Bướm Trắng chờ anh như
thường lệ. Hỏi thì được báo cô đã hy sinh, đúng vào lần máy bay phóng rốc-ket
mà anh nghĩ là rất bình thường ấy.
“Không thể thế được, -
anh kêu to. - Chính cô ấy dẫn xe chúng tôi qua Cổng Trời an toàn cơ mà. Mắt tôi
nhìn thấy. Chỉ mấy phút sau khi thằng Mỹ bay khỏi, cô ấy đứng dậy và tiếp tục
dẫn đường cho chúng tôi...”
“Chắc anh nhầm. Cô ấy
bị trúng đạn chết ngay, xác mỗi nơi một mảnh. Chúng tôi cứ hỏi nhau vì sao các
anh vẫn vượt qua được đoạn này khi không có người dẫn”.
Bàng hoàng và đau đớn,
Sinh cho xe vượt quá Cổng Trời một quãng rồi đi bộ trở lại. Đúng là Bướm Trắng
của anh đã chết. Người ta còn chỉ cho anh chỗ chôn cô. Một nấm mộ mới sơ sài
trên vách núi không xa nơi cô hy sinh, có cả tấm gỗ nhỏ ghi họ tên và ngày
chết. Nhưng sao lúc ấy anh còn thấy cô? Cả trạm giao liên lần ấy chỉ mình cô
làm việc này nên không thể nhầm với người khác được. Hay anh hoa mắt? Hoa mắt
thì làm sao vượt Cổng Trời không có người dẫn, nhất là khi đường bị hư hỏng
nặng? Anh còn nhớ như in từng động tác chỉ dẫn của cô. Các xe khác cũng vậy, và
ai cũng khẳng định nhờ cô họ mới qua được an toàn...
Nhịp độ và sự khốc
liệt của chiến tranh không cho phép suy nghĩ nhiều những chuyện ít quan trọng
như thế. Một tháng sau anh được điều sâu hơn vào phía Nam. Anh nghe cánh lái xe
đồn ở Cổng Trời có nhiều sự lạ, rằng ở đấy những lần giặc bắn phá, khi các cô
giao liên hy sinh, người ta lại thấy có cô gái áo trắng bỗng nhiên xuất hiện
dẫn đường cho xe vượt qua bẫy bom nổ chậm hoặc những chỗ dễ lăn xuống vực, rồi sau
đó biến mất không ai thấy đâu; rằng có anh nhờ cô thoát chết, nhảy ra khỏi
ca-bin quỳ lạy cảm ơn, lúc ngước lên chỉ thấy chiếc cột quét vôi trắng; rằng từ
đấy thành lệ, không thấy cô, linh tính có nguy hiểm, cánh lái xe không dám đi
tiếp, vân vân và vân vân. Xuân Sinh lắng nghe, bán tín bán nghi. Anh không tin
chuyện ma quỉ, nhưng nghĩ có thể đó là Bướm Trắng của anh. Có thể cô hiện hồn về giúp đỡ người khác như đã từng
giúp anh. Thậm chí có thể cô chưa chết.
Chiến tranh kết thúc
được nửa năm Xuân Sinh mới quay lại Cổng Trờivà mất gần một ngày mới tìm thấy
mộ cô. Nó đã được đưa về một nghĩa trang nhỏ trên đỉnh ngọn đồi gần đấy, cùng
mộ của lính lái xe và các cô giao liên khác như cô.
Lúc ấy đã xế chiều
nhưng trời âm u vì sương mù và mây bay rất thấp. Anh bần thần hồi lâu trước nấm
mộ xi măng còn mới và tấm bia đá có khắc tên cô.
“Bạch Điệp, anh yêu
em! - anh khẽ nói, lần đầu tiên tỏ tình với cô, nhưng cô im lặng. - Em có nghe
anh nói không, Bạch Điệp, anh yêu em!”
Nước mắt rưng rưng,
anh ngồi yên rất lâu bên ngôi mộ.
Hình như trời bắt đầu
mưa hoặc sương nặng hạt đang rơi. Mặt và tay anh lấm tấm những giọt nước nhỏ.
Bất chợt anh thấy có con bướm rất lớn màu trắng. Hình như nó bay lên từ chính
ngôi mộ xi măng anh đang ngồi cạnh. Lạ thật, anh thầm nghĩ, xung quanh không
một bụi cây nào. Cỏ trong nghĩa trang chỉ sè sè sát đất, nó không thể ẩn trong
đấy rồi bất chợt bay lên mà anh không nhìn thấy. Anh tưởng con bướm sẽ bỏ đi
ngay, nhưng không, nó cứ lởn vởn quanh anh mãi. Có vẻ nó muốn nói với anh điều
gì, hoặc dẫn anh đi đâu đó. Anh nhìn kỹ: Trên đôi cánh màu trắng của nó có
nhiều chỗ rách. Bạch Điệp? Phải chăng đó là Bạch Điệp, Bướm Trắng của anh?
“Bạch Điệp, em đấy ư?”
- anh thốt lên, không hiểu mình đang nói gì.
Con bướm lượn thêm
vòng nữa, gần anh hơn rồi bay về phía một lùm cây rậm cách đấy gần trăm mét,
đôi cánh rách vẫy vẫy một cách khó nhọc. Anh đứng yên, ngơ ngác nhìn theo. Nó
quay lại một tí rồi bay tiếp, rõ ràng muốn bảo anh đi theo và anh đã đi theo,
thẫn thờ như người vô hồn.
Dưới tán cây rậm rạp
là một khe đá nhỏ, sâu và tối. Anh theo con bướm đi vào bên trong, mỗi lúc một
xuống thấp hơn, cho đến khi chẳng thấy nó đâu nữa. Đang ngỡ ngàng lúng túng,
anh bỗng thấy có cái gì trăng trắng từ phía sâu trong hang đang tiến lại gần,
và cũng dần dần to hơn, rõ nét hơn.
“Bạch Điệp! - anh ngạc nhiên khẽ thốt lên. - Em đấy à?”
Đúng là Bạch Điệp đang
đứng trước anh. Người cô mảnh và nhẹ như cụm mây trắng. Cụm mây rách. Mặt cô
trắng nhợt như chiếc áo đang mặc, cũng rách thủng nhiều mảnh. Chỉ đôi mắt là
đen, sâu và rất buồn.
“Vâng, em đây, anh
Sinh”, cô nói, khẽ đến mức nghe như hơi thở nhẹ.
“Nhưng em chết rồi cơ
mà?”
“Vâng, em đã chết, nằm
dưới ngôi mộ xi măng trên kia. Vì là mộ xi măng, cứng quá, em phải biến thành
con bướm mới chui qua nổi. Vất vả lắm em mới lên được đây để gặp anh”.
“Sao áo em rách thế?”
- Xuân Sinh hỏi, nỗi sợ hãi ban đầu đã nhường chỗ cho sự tò mò và lòng thương
cảm.
“Vì em trúng rốc-két.
Cả người em cũng rách”.
“Vào đêm ấy, khi...”
“Vâng, em chết ngay
khi thằng Mỹ vừa phóng hai quả tên lửa, vì vậy quần áo và cả người em mới rách
thế này”.
“Sau đó em tiếp tục
dẫn anh và đồng đội qua Cổng Trời?”
“Vâng, vì không còn ai
khác. Đau lắm nhưng em phải cố. Thằng ấy sẽ còn quay lại, em biết chắc như thế,
và nó đã quay lại. May các anh đi rồi”.
“Và sau này, như người
ta đồn, em vẫn tiếp tục làm thế?”
Bạch Điệp không đáp,
chỉ khẽ gật đầu. Xuân Sinh bước lại gần. Anh đặt một bàn tay lên vai cô như đặt
lên tấm bông xốp và ẩm.
“Anh yêu em, Bạch
Điệp”.
“Em cũng yêu anh. Anh
là người con trai đầu tiên em yêu đấy, - cô cúi đầu khẽ đáp. - Và cũng là người
con trai đầu tiên đặt tay lên vai em thế này. Nhưng bây giờ em chỉ là một bóng
ma. Tay anh nặng lắm, em sắp khuỵu đây này”. Cô cố nở một nụ cười. Anh hoảng
hốt nhận thấy cả nụ cười ấy cũng rách.
“Em có đau lắm không?”
“Có. Anh xem, người em
bị đạn xé thành bao nhiêu mảnh. Phải cố lắm em mới ghép tạm lại để đến đây gặp
anh...”
“Có vá lại được không
em?”
Bạch Điệp im lặng hồi
lâu.
“Có”, cô khẽ đáp.
“Vậy anh sẽ vá cho em.
Chỉ cần em bảo anh phải làm thế nào”, - Sinh hăm hở nói. - Sau đó em sẽ khỏe
hơn, thậm chí có thể sống lại?”
“Có thể, nhưng mất
nhiều thời gian và sẽ đau lắm. Không chỉ em mà anh cũng đau”.
“Anh không hiểu”.
“Mà thôi, anh không
cần làm thế đâu”.
“Không. Vì em, anh sẽ
làm tất cả, cho dù thế nào. Em biết không, bây giờ hòa bình rồi. Chỉ cần em
sống lại, khỏe mạnh, ta sẽ thành vợ chồng và sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi.
Sẽ chẳng còn bom đạn nào có thể làm rách nát người em lần nữa. Hãy cho biết anh
phải làm gì đi?”
Bạch Điệp đặt cả hai
cánh tay nhẹ và xốp như bông của cô lên vai Sinh, đắm đuối nhìn vào mắt anh:
“Em yêu anh. Em muốn
được làm vợ anh”.
Anh áp môi mình vào
môi cô. Cái lạnh truyền sang người anh như dòng điện mạnh.
“Anh biết không, bây
giờ em cảm thấy ấm hơn một chút rồi đấy”, cô nói khi cuối cùng họ rời nhau ra.
“Em có thể sống lại khi anh, từng tí một, truyền cái ấm của anh cho em, khi
anh, từng mũi nhỏ một, lấy các sợi máu của mình vá lại cơ thể rách nát của em”.
“Thế thì anh làm được. Anh làm ngay bây
giờ!” - Sinh nói, và lại định ôm hôn cô, nhưng Bạch Điệp khẽ ngăn lại:
“Nhưng anh sẽ đau, rất
đau đấy. Đau lâu lắm...”
“Không sao.”
Họ lại ôm nhau hôn.
Cái hôn dài của ma và người, của cái chết và sự sống, của chiến tranh và hòa
bình.
*
Phải mất đúng một năm
Xuân Sinh mới truyền đủ sự sống cho Bạch Điệp và vá hết những mẩu thi thể bị
chiến tranh xé nát của cô bằng chính những sợi máu đỏ lấy từ tim anh, như người
dệt thảm cần mẫn hết ngày này đến ngày khác, hết tháng này đến tháng khác. Nước
da anh xạm tái dần cho mặt Bạch Điệp thêm hồng. Cơ thể anh ngày một yếu gầy cho
người yêu thêm trọng lượng. Anh đã phải chịu đau đớn, cái đau người sống phải
chịu đựng vì người chết, như cái đau Bạch Điệp phải gắng chịu khi cô lặng lẽ
chắp nhặt từng mẩu cơ thể để dẫn đường đưa đoàn xe vượt qua Cổng Trời. Như cô,
anh không thể làm khác.
Cuối cùng, một hôm
Xuân Sinh đưa cô về làng Đoài của mình ở Phú Xuyên, Hà Tây. Họ làm lễ cưới và
sống với nhau hạnh phúc như những cặp vợ chồng khác. Chỉ đến lúc này anh mới
nhớ tới lời nói cuối cùng của lão già- phù thủy nọ: “Rồi sau này mày chỉ lấy
ma!”
Sinh mỉm cười, thầm
thương hại lão. Chẳng có gì phải giấu, nhưng anh không kể cho ai biết những gì
anh đã làm ở Cổng Trời sau chiến tranh. Hình như dân làng Đoài cũng chẳng quan
tâm tới điều đó. Mọi người yêu mến, thấy thương thương cô gái nói tiếng Huế nhỏ
nhẹ có dáng người mảnh mai và nước da rất trắng. Ai cũng mừng cho hạnh phúc của
hai người.
Có điều họ không có
con. Lần nào Bạch Điệp cũng sinh cho chồng toàn bướm là bướm. Những con bướm
màu trắng tuyệt đẹp với những đôi cánh lành lặn.
Còn Xuân Sinh thì quay
lại nghề anh yêu thích là làm thơ. Chỉ toàn thơ về hoa và bướm. Tịnh không một
từ nào về chiến tranh và đau khổ.
No comments:
Post a Comment