Wednesday, July 27, 2016

TẢN VĂN - THÁI BÁ TÂN



                    TẢN VĂN. Thái Bá Tân

Chuyện cây chuối
Cả đời mình, mỗi cây chuối chỉ cho một buồng quả, và khi buồng quả ấy bị cắt, nó sẽ chết. Đó là quy luật phát triển tự nhiên của loại cây này.
Tôi biết thế nhưng vẫn ít nhiều ngỡ ngàng khi nhìn những cây chuối xanh tươi đầy nhựa sống hăm hở trổ hoa, nghĩa là hăm hở vươn tới cái chết. Hơn thế, tôi cũng buồn cả khi chúng ta, con người, chúng ta giận dữ, khó chịu nếu có cây nào trong số những cây chuối hiền lành mềm yếu ấy không chịu chết hoặc không muốn chết vì chúng ta.

Đavít
Từ một tảng đá lớn ngẫu nhiên có ở sân nhà thờ Đômơ, thành phố Flôrenxơ, trong bốn năm Mikêlăngiơ đã làm nên bức tượng Đavít tuyệt đẹp.
Làm thế nào? Thật đơn giản: nhà điêu khắc thiên tài lấy chiếc đục sắt bình thường, chiếc búa cũng bình thường, và rồi hết ngày này sang ngày khác, hết mẩu này đến mẩu khác, ông bóc đi các chỗ thừa, để lộ dần dần, có thể lúc đầu là vầng trán, đôi mắt, đôi tay, rồi đến thân người, đôi chân... chi đến một hôm, không còn gì nữa ngoài một chàng trai bằng đá, cao hơn năm mét, với các đường nét hài hòa, khỏe mạnh và có ma lực hấp dẫn đủ biến tác giả của nó, một thanh niên hai mươi tư tuổi mới vào nghề, thành một trong ba người khổng lồ của nghệ thuật Ý thời Phục Hưng.
Thật khó tin rằng từ một tảng đá thô và xấu xí có thể làm nên một bức tượng vĩ đại như thế. Cũng thật khó tin một cơ thể sống, hoàn hảo, khỏe mạnh như Đavít đã bị giam trong tảng đá kia hàng triệu hay thậm chí hàng chục triệu năm trước khi được Mikêlăngiơ đến giải thoát đưa về với cuộc sống.
Trái đất có nhiều, rất nhiều núi đá, nghĩa là trái đất còn nhiều, rất nhiều những Đavít bị giam cầm, ngột ngạt. Và đang chờ người đến giải phóng.
Ai sẽ làm điều đó?

Môna Liza
Về nụ cười bí hiểm của nàng Môna Liza trong tranh Lêôna đơ Vanhxi đã có hàng đống sách được viết. Suốt bốn, năm thế kỷ nay biết bao giấy mực, công sức và thời gian đã phí tổn vì nó.
Có người nói: Nàng đang cười những cái yếu, cái không hoàn thiện của loài người.
Nếu quả đúng nàng đang cười chúng ta, thì theo tôi, cái đáng cười hơn cả là giữa cuộc sống sôi động, bừa bộn những việc lớn và cấp thiết đang chờ làm, thế mà suốt bốn, năm trăm năm nay chúng ta đã để hao tổn chừng ấy giấy mực, chừng ấy công sức và chừng ấy thời gian cho nụ một cười, hay chính xác hơn, nửa nụ cười. Mà lại trên tranh vẽ.


A Phòng cung
Suốt mấy chục năm Tần Thủy Hoàng bắt bảy mươi vạn người Trung Hoa dựng một lâu đài bằng gỗ khổng lồ ở Hàm Dương bên bờ sông Vị, gọi là A Phòng Cung. Một công tình kiến trúc thuộc loại có một không hai thời cổ đại - chỉ riêng tầng trên của nó đã có thể chứa được mười vạn người.
Thật vĩ đại! Thật nặng nề! - cái nặng của sự sáng tạo.
Sau này, khi đánh đổ nhà Tần, Hạng Vũ cho phóng lửa đốt cháy toàn bộ A Phòng Cung. Theo sử ký Tư Mã Thiên, phải mất ba tháng mới cháy hết.
Thật ghê gớm! Thật nặng nề! - cái nặng của sự hủy diệt.
Và hai cái nặng ấy treo ở hai đầu chiếc đòn gánh đè lên vai bảy mươi vạn người đã dựng nên A Phòng Cung, những người không được sử dụng và cũng không phóng lửa đốt nó.

Món quà tặng mẹ
Không biết bao giờ và ở đâu, nhưng có người đã kể tôi nghe một câu chuyện thế này:
Một thanh niên đến hỏi mua quả gì đấy ở bà bán hàng nọ. Bà kia, khi thấy bảo mua cho mẹ, liền chọn cho anh ta một quả to nhất, ngon nhất và nói:
- Từ sáng đến giờ biết bao người mua hàng của tôi, nhưng anh là người đầu tiên hỏi mua cho mẹ. Vì lòng tốt của anh và vì người mẹ đã sinh ra anh, tôi xin biếu anh quả này.
Bây giờ, bất chợt nhớ đến câu chuyện trên, tôi đi lại một bà bán dừa, bảo bà ta chọn cho tôi một quả thật ngon, nhắc to hai lần để mang về Diễn Châu tặng mẹ.
Bà bán dừa ngước nhìn lên, suy nghĩ một lát rồi thản nhiên bảo tôi:
- Thế thì anh phải tự chọn lấy. Và cũng không nên quá nhiều lời như thế về món quà anh mua tặng mẹ.

Tập xe đạp
Ngày còn bé tập xe đạp, hễ anh tôi thả tay ngừng đẩy là thế nào tôi cũng ngã. Mỗi lần ngã, anh tôi lại cốc cho một cái vào đầu. "Xem đây!" Anh tôi nói rồi dựng xe dậy, tót lên yên phóng vù đi.
Tôi đứng nhìn theo, tấm tức. Lạ thật, khi tôi tập có người đỡ cẩn thận, đi chậm như đứng yên một chỗ, thế mà vẫn ngã. Còn anh tôi, trông kìa, cứ bon bon dễ như chơi mà xe đứng thẳng. Tôi hỏi tại sao, nhưng anh tôi, có thể đang bực mình, cũng có thể vì không biết trả lời thế nào nên chẳng nói gì.
Lớn lên tôi hiểu đấy là quy luật thăng bằng. Còn bây giờ, khi đầu đã hai thứ tóc, tôi lại hay suy nghĩ một cách triết lý, rằng chiếc xe đạp kia cũng như chính bản thân cuộc sống, nó chỉ tồn tại và đứng thẳng được trong một sự chuyển động không ngừng về phía trước.

Lại chuyện cây chuối
Cây chuối mọc ở bờ ao. Trên đầu là tán lá xum xuê của cây ổi già, nơi hàng ngày chim đua nhau đến hót. Phía dưới là mặt nước ao mát lạnh với những bông hoa bèo tây thanh nhã màu tím nhạt. Chỗ đất nó mọc, ngẫu nhiên cũng là chỗ mầu mỡ nhất, thành ra cây chuối cứ thế lớn lên, xanh tươi, mơn mởn. Nó thấy cuộc đời xung quanh thật đẹp. Vốn chân thật và đầy lòng biết ơn, nó muốn làm việc gì đấy thật tốt, thật phi thường để bù lại những gì cuộc đời đã cho nó.
Thế là, trong niềm hạnh phúc ngất ngây của mình, cây chuối biết ơn ấy đã trổ một buồng chuối có thể nói phi thường như nó muốn. Buồng chuối thật to, dài và ngày một lớn thêm, lớn thêm mãi, đến mức nó kéo cây chuối lệch hẳn về phía ao. Còn cây chuối thì quá vô tư và hạnh phúc đã không nhận ra điều ấy. Nó vẫn không ngừng vắt kiệt những chất dinh dưỡng còn lại trong cơ thể mảnh mai, quá ư non trẻ và chưa từng trải của mình để nuôi lớn buồng chuối.
Một sáng nọ bà chủ nhà ra ao, thấy cây chuối ngã gãy xuống nước vì không chịu nổi sức nặng của buồng quả quá lớn. Bà thở dài tiếc rẻ, rồi lấy dao đẵn cây chuối vào làm thức ăn cho bầy lợn háu đói. Cả buồng quả non cũng chịu chung số phận.

Đôi  tay đẹp
Không hiểu sao tôi cứ bị ám ảnh mãi bởi một câu chuyện cổ Trung Quốc. Chẳng rõ thực hư thế nào, nhưng câu chuyện có nội dung thế này.
Kinh Kha là một thích khách nổi tiếng của nước Ngụy. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, là tay đâm thuê chém mướn thạo nghề và rất được tín nhiệm. Với tham vọng thống nhất sáu nước hòng bá chủ thiên hạ, Thái tử Đan nước Yên đã thuê Kinh Kha giết vua nước Tần là Doanh Chính, tức Tần Thủy Hoàng. Tiếc rằng lúc này Kinh Kha đang có ý giải nghệ nên không mấy mặn mà với số tiền công lớn khách hàng đề nghị được trả. Để mua chuộc, Thái tử Đan cho mở yến tiệc suốt ngày đêm với đủ các thức ngon vật lạ và vô số mỹ nữ luôn mua vui bên cạnh. Một tối nọ, khi tư lự nghe một nữ công chơi đàn, Kinh Kha vô tình thốt lên lời khen nàng có đôi tay đẹp. Sáng hôm sau Kinh Kha thấy người của Thái tử Đan mang đến một hộp quà phủ lụa đỏ. Mở ra thì thấy bên trong là đôi tay thon nhỏ của cô gái chơi đàn tội nghiệp. Hắn, tên đâm thuê chém mướn không ghê tay ấy, sững sờ xúc động, cho chôn cất đôi tay cẩn thận rồi lên đường đi tới nước Tần. Nhưng hắn cố tình không giết Doanh Chính, và đã phải đem mạng sống của mình trả giá cho việc này.
Câu chuyện chỉ có thế, nhưng nó gây ấn tượng đủ mạnh để chúng ta thấm thía hết thân phận bèo bọt của người dân bình thường, cũng như sự độc ác vô liêm sĩ của những kẻ cầm quyền.
Nó cũng làm tôi nhớ lại chuyện "Cậu Trời" Đặng Mậu Tôn, em trai Đặng Thị Huệ ngày xưa. Mỗi lần ra đường, gặp cô gái nào xinh đẹp, hắn liền sai lính chặn lại để hãm hiếp ngay tại chỗ. Gần đây thôi, chính xác là vào nửa đầu của thế kỷ hai mươi này, ở Liên Xô cũng có một "Cậu Trời" tương tự. Đó là Bêria, bộ trưởng bộ nội vụ nhà nước cộng sản đầu tiên trên toàn thế giới. Nếu không bị kịp thời ngăn chặn, hắn đã có thể leo lên chức đứng đầu đất nước rộng lớn, hùng mạnh này. Có điều, khác Cậu Trời, hắn không công khai hiếp người trên đường phố, mà thích ai thì bắt về nhà, và sau khi thỏa mãn thú tính, hắn cho ném những người phụ nữ xấu số ấy vào một bồn tắm bằng đá hoa cương khổng lồ chứa a-xít để làm "bốc hơi" xác họ. Việc này kéo dài hàng chục năm không ai biết, hay biết nhưng không ai dám nói. Nạn nhân của hắn vượt xa con số hai trăm.
Lịch sử thế giới xưa nay không hiếm những chuyện như thế. Cả những chuyện đã biết và những chuyện chưa biết.
Tôi là một phần rất nhỏ của số đông những con người bình thường. Hơn thế lại là nhà văn, nghĩa là chẳng khác mấy so với cô gái đã chơi đàn cho Kinh Kha nghe. Tất nhiên tôi không muốn làm nạn nhân của người khác, nhưng cũng chẳng bao giờ muốn làm kẻ có quyền sinh quyền sát. Để khỏi bị chặt tay hoặc phải chặt tay ai đó.
                                                                                                                             
Chuyện nhà chùa
Một nhà nghiên cứu văn hóa bất ngờ phát hiện thấy ở đền nọ một sự thật không mấy thú vị. Thì ra suốt hai trăm năm qua ngôi đền này (vì những lý do dễ hiểu tôi xin phép không nói tên, kể cả tên những người liên quan) đã thờ một nhân vật không xứng đáng, thậm chí còn là người xấu, kẻ đã khôn khéo leo lên bục thờ nhờ mưu mô xảo quyệt. Ngày xưa những chuyện như thế vẫn xẩy ra, một số vua triều Nguyễn còn có luật trị nghiêm tội này.
Vậy là bao đời nay hàng ngày khách thập phương háo hức kéo đến dâng hương lễ, cung phụng, tôn vinh hắn và nhờ hắn ban ơn giúp đỡ. Còn hắn thì nghiễm nhiên ngồi trên bệ thờ được sơn son thếp vàng, tôn nghiêm, thánh thiện ngang hàng các vị anh hùng dân tộc.
- Ông không nhầm đấy chứ? - tôi hỏi nhà nghiên cứu văn hóa kia, cũng là một người bạn của tôi.
- Không. Tôi đã bỏ ra ba tháng tìm đọc hàng đống tài liệu mới khám phá được vụ này. Hắn là một tên quan xảo quyệt và đầy quyền lực của triều vua Tự Đức. Quyền lực và sự xảo quyệt ấy của hắn từng làm nhiều trung thần thiệt mạng, giúp hắn dựng nên chùa này để thờ chính hắn và một chùa nữa thờ bố mẹ hắn. Nhưng chùa ấy đã bị phá thời cải cách ruộng đất.
- Thì bây giờ ta phá nốt đền này. - tôi hăng hái nói.
- Không được. - Bạn tôi tỏ ý thất vọng.
- Vì sao?
- Vì cái thời phá chùa đập tượng qua rồi. Xã hội văn minh không bao giờ làm những việc tương tự.
- Nhưng đây là chùa rổm, tượng rổm. Hắn đã và đang lừa dối biết bao người.
- Đúng thế. Thời gian đã kịp biến cái rổm ấy thành di sản văn hóa. Mà di sản văn hóa thì không thể phá được. Hơn thế, nó lại được xếp hạng, thuộc diện cấm xâm phạm.
- Các ông xếp hạng ấy có biết không?
- Chắc không. Mà có biết cũng chẳng làm gì được.
- Cả vị sư trụ trì ngôi chùa?
- Tất nhiên.
- Vậy ông bỏ công khám phá ra cái sự thật này làm gì?
- Chẳng làm gì cả. Cùng lắm chỉ để biết người đời dễ bị lường gạt thế nào.
Tôi im lặng, tấm tức không biết nói gì thêm. Nhận ra điều đó, anh bạn tôi hạ giọng, với giáng vẻ một nhà hiền triết:
- Cái gì trót đưa lên bàn thờ thì cứ giữ nguyên ở đó. Không phải mọi cái được tôn thờ đều thiêng liêng. Vả lại người ta đến chùa này thực chất không vì thằng kia. Thậm chí không biết và cũng chẵng muốn biết hắn là ai.

Về nghệ thuật - 1
Mới đây có ông bác sĩ người Anh bỏ ra 33 nghìn đô-la để mua một bức tranh sơn dầu thuộc trường phái hiện đại. Hiện đại đến mức trên bức tranh ấy không có gì khác ngoài màu trắng của toan vẽ! Người mua tuyên bố đây là một tác phẩm tuyệt đẹp xứng đáng với chừng ấy tiền ông ta bỏ ra. Còn hai người bạn thân của ông thì bảo ông điên rồ, dở hơi, vân vân. Cứ thế họ tranh cãi nhau về "giá trị nghệ thuật". Không ai chịu ai, cuối cùng dẫn đến ẩu đả.      
Chuyện tưởng như đùa nhưng có thật. Dựa theo đó, người ta đã viết một vở kịch có tên là "Nghệ thuật" đang được trình diễn ở sân khấu Luân Đôn và một số nơi khác. Cũng có thật cả việc những "bức tranh" trừu tượng do voi vẽ hoặc súng phun mực trẻ con té bẩn mà thành, có giá nhiều nghìn đô-la.
Thị hiếu mỗi người một khác, tất nhiên, và giá trị tác phẩm nghệ thuật, cứ cho bức tranh không vẽ gì kia là một tác phẩm nghệ thuật, phụ thuộc vào thị hiếu của từng người cụ thể. Tất nhiên ông bác sĩ kia có quyền tiêu tiền theo cách ông ta muốn.
Tôi là người bảo thủ, không chỉ trong hội họa mà cả văn chương, âm nhạc và kiến trúc. Có thể đó là hạn chế và thiệt thòi vì tự tôi tước đi của mình cảm thụ cái đẹp của sự mới mẻ không khuôn phép. Nhưng như người khác, tôi cũng có quyền giữ cho mình cách đánh giá riêng về nghệ thuật.
Tôi có dịp đi nhiều nước, thăm nhiều bảo tàng danh tiếng thế giới. Mỗi lần đứng trước một tác phẩm trừu tượng, siêu hiện đại kiểu vừa nói, tôi luôn cảm thấy lúng túng không biết nên nghĩ gì. Tôi không có lý do nào để phủ nhận chúng. Chẳng qua không thích, đơn giản thế thôi. Và tôi bỏ đi. Tuy nhiên, lần nào trong đầu vẫn quanh quẩn mãi câu hỏi mà đến bây giờ vẫn không trả lời nổi: Phải chăng đó là những tác phẩm nghệ thuật đích thực, xứng đáng với lời khen và cái giá của người đời? Còn tôi do ngu dốt nên không nhận ra giá trị của chúng? Thường những lúc ấy tôi lại nhớ đến câu chuyện cổ tích nổi tiếng của Andersen về ông vua cởi truồng.
Xin thêm một ý nhỏ: Nếu để ý, ta sẽ thấy hiện nay số lượng họa sĩ vẽ tranh trừu tượng rất nhiều, còn người vẽ theo phong cách cổ điển (với nghĩa giống thật) thì ít hơn hẳn. Chắc phải có lý do của nó. Trong số những người tôi quen biết, không ít người xưa nay vốn xa lạ với hội họa bỗng dưng đổi nghề thành họa sĩ. Họ cũng mở triển lãm và đôi khi bán được tranh. Có điều tôi chưa thấy người nào giữa chừng chuyển sang chơi nhạc cổ điển. Chơi pianô như Đặng Thái Sơn chẳng hạn. Để có thể bước lên sân khấu, Đặng Thái Sơn phải tập đàn mỗi ngày từ sáu đến mười giờ liên tục trong hai mươi năm. Ít nhất cũng phải mười lăm năm.
                                                                 
Về nghệ thuật - 2
Yehudi Menuhin là nghệ sĩ viôlông hàng đầu thế giới. Ông luôn cảm thấy băn khoăn khi nhiều người than phiền không mua được vé vào các phòng hòa nhạc lớn để nghe ông biểu diễn.
Một hôm, nghe kể lại, ông cải trang thành ông già nghèo khổ rồi mang đàn ra Times Square, quảng trường chính và cũng đông người qua lại nhất ở thành phố New York.
Ông để chiếc mũ nhàu nát trước mặt, bắt đầu đàn. Ông chọn những bài nổi tiếng nhất, quen thuộc nhất và đàn một cách say sưa như những lần trình diễn trước công chúng. Có điều lần này không có ánh sáng rực rỡ của phòng hòa nhạc thượng lưu và những lời tán dương nồng nhiệt của người giới thiệu. Có lẽ vì thiếu những cái ấy hoặc vì những lý do khác mà suốt ba giờ liền chẳng ai lắng nghe hoặc chú ý đến ông, trừ một số rất ít người dừng lại mấy giây, tò mò nhìn hoặc ném cho ông vài đồng xu.
Trời đang chuyển sang đông khá lạnh, và do yếu tim sẵn, ông đã ngất xỉu trong lúc chơi đàn. Cảnh sát đưa ông vào bệnh viện cấp cứu, cho thông báo ai là người nhà của một ông già Yehudi Menuhin nào đó hãy tới bệnh viện để thanh toán viện phí và đưa ông về.
Lần ấy ông ốm khá nặng. Đó là cái giá ông phải trả cho ý định kiểm tra trình độ thưởng thức nghệ thuật của người đời. Sau đó ông lại tiếp tục biểu diễn ở các phòng hòa nhạc danh tiếng của chính cái thành phố New York ấy và cho chính những con người đã thờ ơ đi qua ông trong suốt ba giờ khi ông chơi đàn ở quảng trường Times. Như trước, ông lại tiếp tục được nghe những lời than phiền về việc khó mua vé các buổi ông biểu diễn.
Tất nhiên có sự khác nhau giữa ông già nghèo khổ mà ông cải trang và nghệ sĩ bậc thầy Yehudi Menuhin, một người New York chính gốc (sinh năm 1916 và hiện còn sống) nhưng mang quốc tịch và tuớc hiệu quí tộc Anh cùng vô số phần thưởng cao quí của nhiều nước khác. Nhưng tiếng đàn của ông thì chỉ  một.
Câu hỏi được đặt ra là: Phải chăng đôi khi giá trị một tác phẩm nghệ thuật ở chính cái tên con người tạo ra nó chứ không phải ở bản thân tác phẩm ấy?
                                               
Về nghệ thuật - 3
Có một chi tiết người đời ít biết về Tần Thủy Hoàng, tên bạo chúa thời Trung Hoa cổ đại từng ra lệnh đốt sách và chôn sống các nhà nho. Đó là việc hắn, một kẻ căm ghét văn hóa như vậy, lại cũng rất yêu âm nhạc.
Cao Tiệm Ly thổi sáo rất hay, đến mức mặc dù biết ông là người của nhóm định giết hắn không thành và đáng lẽ phải bị xử trảm như nhiều người khác, Tần Thủy Hoàng vẫn cho ông sống để hàng ngày thổi sáo hắn nghe. Có điều, đề phòng bất trắc, hắn chọc mù cả hai mắt ông. Hắn không ngờ người nghệ sĩ mù ấy vẫn nuôi chí căm thù, và đã lén đổ chì vào ống sáo chờ dịp đánh vào đầu hắn.
Nếu Tần Thủy Hoàng không lâm bệnh chết đột ngột, rất có thể sứ mạng giết hắn, kẻ hủy diệt văn hóa, sẽ được trao cho người sáng tạo văn hóa là Cao Tiệm Ly.
Ở đây có hai điều đáng suy ngẫm: Một bạo chúa biết yêu âm nhạc, và một nghệ sĩ có ý định giết người, cho dù người ấy đáng bị giết.

Về sự nổi tiếng
Như tiền bạc và quyền lực, với nhiều người, sự nổi tiếng là mục đích tối thượng, và họ sẵn sàng tìm cách đạt được bằng mọi giá.
Thời cổ đại đó là trường hợp của Êrôstrat, một kẻ tầm thường, một tên lái buôn ti tiện ở thành Ephes. Chỉ với ý muốn duy nhất là được mọi người biết đến, năm 356 trước công nguyên hắn đã không ngần ngại châm lửa đốt trụi đền thờ nữ thần Artêmis, một trong bảy kỳ quan thế giới. Hắn đã bị các công dân lương thiện Hy Lạp trừng trị, tất nhiên. Hơn thế, người ta còn ban lệnh cấm nhắc tên hắn ở mọi nơi, mọi lúc. Tức là ngăn không cho hắn trở thành "nổi tiếng", là điều hắn luôn thèm muốn một cách bệnh hoạn. Thế mà thật trớ trêu, gần 2500 năm sau ngày hắn chết, bây giờ tôi và các bạn lại đang nhắc đến cái tên Êrôstrat đáng nguyền rủa ấy. Dù chỉ với mục đích nhắc nhở người đời về hiểm họa tiềm ẩn trong những Êrôstrat khác đang lởn vởn quanh ta.
Cũng nhằm mục đích nổi tiếng, ngày nay không ít người làm đủ trò quái dị. Nhất là các "ngôi sao" nghệ thuật lớn bé đủ cỡ, dù nhiều khi chỉ là những trò vô hại không gây tai họa tầm cỡ Êrôstrat. Họ tự dựng nên các vụ xì-căng-đan về mình, tự nói xấu mình, thậm chí còn tồng ngồng đi giữa phố để trở thành độc đáo, tức là thành nổi tiếng. Và họ đã thành nổi tiếng. Họ, những người trần truồng nơi công cộng, chứ không phải chúng ta, những người tự trọng ăn mặc bình thường.
Ở họ luôn có một điểm chung. Đó là sự bất tài.
Trong đời sống văn học nước ta thời gian gần đây, thật tiếc hiện tượng này vẫn tồn tại và có xu hướng gia tăng. Một người tài năng không đến nỗi, ít ra một thời là thế, tự biến mình thành anh hề trong làng văn chương. Hề cả ngoài đời lẫn trong câu chữ. Một nhà thơ nữ trẻ, rất trẻ, nếu không muốn nói còn trẻ con, viết thơ tục tĩu và trơ trẽn đến mức, theo nhận xét của nhiều người, đang "cởi truồng vênh vang giữa phố". Ấy là nói theo nghĩa bóng với ý phê phán những vần thơ tình dục trơ trẽn của nàng. Một vị đáng kính tự viết bài khen mình hết lời, rồi ký tên người khác đưa lên báo. Ông ta còn khuyên bạn bè cũng nên làm thế. Một lời khuyên chân thành với giọng cũng rất chân thành, và không chút ngượng ngập.
Như trong hội họa, khi các họa sĩ không có khả năng vẽ giống thật thì họ nghĩ ra cách bôi bác lòe đời nhân danh đủ loại chủ nghĩa này nọ. Trong làng văn hiện nay không hiếm người viết nhảm nhí để tỏ ra mình khác người, khác đời rồi lớn tiếng gọi cái mớ nhảm nhí ấy là "cách tân", "khám phá". Những chuyện như thế thật lố bịch và đáng lạ. Nhưng còn lố bịch và đáng lạ hơn là việc những "cách tân" và "khám phá" ấy không ít khi được tung hê, khen ngợi (chủ yếu theo đơn đặt hàng và trên cơ sở có đi có lại). Thậm chí người ta còn trao giải hoặc tổ chức hội thảo khoa học về các "tác giả" và "tác phẩm" ấy. Rồi dần dần nói mãi, nghe mãi thành quen, họ cũng thành nổi tiếng và bắt đầu nhìn người tử tế bằng con mắt khinh miệt.
Những kẻ háo danh kể trên, từ Êrôstrat đến nữ nhà thơ trẻ con tồng ngồng giữa phố kia, còn có một điểm chung nữa - sự vô liêm sỉ.
 
Nero - nghệ sĩ, bạo chúa
Như Tần Thủy Hoàng ở Trung Hoa thời cổ, Nero (37- 68 sau CN, vị hoàng đế thứ năm của đế chế La Mã) là tên bạo chúa khét tiếng ở phương tây. Lên ngôi năm mười bảy tuổi, hắn cưới và sau đấy treo cổ chị gái đồng thời là vợ mình. Sau đó hắn giết anh trai, giết mẹ về tội dèm pha nhân tình của hắn, giết người thầy và là nhà triết học nổi tiếng Seneca. Rồi hắn giết nhân tình, giết một nhà quí tộc để cướp vợ người ấy... Danh sách các nạn nhân bị hắn giết có thể kéo dài vô tận.
Về thành tích chém giết, công bằng mà nói hắn chẳng khác mấy những tên bạo chúa trước và sau hắn. Nhưng hắn đã dám làm một việc có thể xem là độc nhất vô nhị. Tháng Bảy năm 64, chỉ với mục đích giải trí, hắn ra lệnh đốt cháy cả thành Rôm hoa lệ. Chắc ngọn lửa vĩ đại ấy không làm hắn vui lâu, nên một phần ba thành phố còn giữ lại được.
Sự độc ác cùng những trò chém giết, đốt phá quái đản của hắn có thể giải thích bằng sự điên rồ. Nhưng điều không thể giải thích nổi là tại sao thần dân đế quốc La Mã rộng lớn, lúc ấy bao gồm hầu hết châu Âu, kéo dài tới Ai Cập, Tây Phi và Jerusalem, lại cho phép hắn ngồi trên ngai vàng cai trị mình những mười bốn năm liên tục? Liệu có thể đặt câu hỏi nghi ngờ về cái gọi là sức mạnh và vai trò lịch sử của nhân dân được không?
Và phải chăng chính vì điên loạn mà Nero bạo chúa trên thực tế lại còn là một nghệ sĩ với đúng nghĩa của từ này. Theo sử sách, hắn đã cho dựng lại thành phố hắn vừa đốt, xây nhà tế bần cho những người không nơi nương tựa và cấp không lương thực cho dân chúng. Đồng thời hắn còn là nhà bảo trợ hào phóng của nghệ thuật sân khấu. Hắn tự nguyện tham gia các vở kịch với tư cách một diễn viên bình thường. Nghe nói khả năng diễn xuất của hắn không quá tồi.
Trước sức ép của Viện Nguyên lão, ngày 9 tháng Sáu năm 68 hắn buộc phải tự tử. Theo Bairơn trong tiểu thuyết thơ nổi tiếng “Đôn Juan”, đêm hôm ấy, khi cả thành Rôm reo hò vui mừng vì thoát được tên bạo chúa đáng nguyền rủa, có ai đó đã lén lút đặt một bông hồng bên xác hắn.
Bông hoa ấy cho ai - Nero bạo chúa hay Nero nghệ sĩ? Đến nay điều này vẫn còn là một bí ẩn.
1983 - 1990

No comments:

Post a Comment