Truyện ngắn.
Thái Bá Tân
Một tối nọ như thường lệ, xem xong
chương trình thời sự bảy giờ, ông thong thả dạo bộ dọc phố Nguyễn Văn Cừ về
phía quán cà phê Trung Nguyên mới mở đầu cầu Chương Dương, là nơi ông thường
ngồi rất lâu, vừa nhấm nháp tách cà phê nóng, vừa hút thuốc. Kể cũng lạ, quán
đông khách, lại trên một phố lớn nhiều xe qua lại, thế mà ở đây ông thấy thanh
thản hơn, dù ở nhà ông có một phòng làm việc riêng đủ tiện nghi và chẳng bị ai
quấy rầy. Hơn thế, ngồi ở đây, dù chẳng tập trung suy nghĩ điều gì, không ít
khi trong đầu chợt xuất hiện những ý tưởng độc đáo sau đó được ông phát triển
thành một truyện ngắn. Đã nhiều lần như thế, thành ra ông quen, thậm chí còn
tin, như một dạng mê tín mào đó.
Ông là nhà văn chuyên nghiệp, nghĩa là
suốt đời chỉ phải làm mỗi việc là viết. Trước ăn lương nhà nước để viết, bây
giờ về hưu thì viết nhờ tiền lương hưu và nhuận bút. Không nhiều, nhưng vẫn là
khoản thu nhập đáng kể. Người ta coi ông thuộc loại người may mắn và thành đạt.
Suốt những năm chiến tranh ác liệt ông du học nước ngoài, về nước công tác ngay
trong cơ quan Hội nhà văn. Việc công việc tư, kể cả cuộc sống vật chất, đều
suôn sẻ, tưởng như không thể tốt hơn được. Ít va chạm, ít bi kịch, ít từng
trải, mà cũng chẳng có đam mê gì lớn, ngoài việc được yên ổn để sáng tác, trong
giới, ông có vẻ lạc lõng, hiểu biết văn học, văn hóa phương Tây nhiều hơn Việt
Nam. Như cách sống, văn ông chỉn chu, nghiêm túc (có người nhận xét như văn học
trò) với câu văn đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ và chấm phẩy. Có cảm giác ông sống bằng
sách vở và âm nhạc cổ điển nhiều hơn thực tế cuộc sống đang diễn ra xung quanh,
phức tạp và đôi khi phũ phàng. Đó là điều không mấy thuận lợi đối với người cầm
bút muốn phản ánh cuộc sống hiện đại. Thế mà ông viết được, viết nhiều, và công
bằng mà nói, không phải không có những tác phẩm gây xúc động.
Người
ta không thích ông nhưng đồng thời cũng yêu ông vì sự trái khuáy ấy, đặc biệt
vì sự hồn nhiên trong sáng (có người bảo giả vờ) trong cách ông nhìn nhận cuộc
đời. Ông không biết nói dối, là người dễ xúc động và ai nói gì cũng tin, nhiều
khi đến mức buồn cười. Ông là một trong số ít người có thể sống và viết mà
chẳng mấy quan tâm đến những gì người khác nghĩ về mình. Ông biết như thế chưa
hẳn đã hay nhưng con người ông là vậy, có muốn cũng chẳng thay đổi được.
Tối hôm ấy khi đến quán cà phê, không
hiểu sao ông đổi ý, đi tiếp tới chân cầu rồi rẽ trái theo con đường bờ đê về
hướng Bát Tràng.
Mới
đầu tháng Mười nhưng trời đã chớm lạnh, lại có sương mù. Gió thổi mạnh từ phía
sông Hồng đang trải dài trước mặt. Ông ngồi xuống một phiến đá phẳng sát chân
đê rồi lơ đãng nhìn vô vàn những chấm đèn đủ màu nhập nhòe trong lớp sương mù
của thành phố bên kia sông. Ông kéo cao cổ áo, khoan khoái châm thuốc hút.
Những ý nghĩ rời rạc quanh quẩn trong đầu, chủ yếu yêu đời và hạnh phúc, cũng
lâng lâng và không rõ nét như chính tâm trạng ông lúc này. Ông mừng vì đất nước
đã đổi thay, không còn cảnh chiến tranh, đói ăn, thiếu thốn như trước. Quan
trọng hơn cả là ông thấy cuộc đời thật đẹp và đáng sống.
Ông
ngồi bâng quơ suy nghĩ như thế rất lâu. Đêm đã khuya. Cảnh vật xung quanh thật
yên tĩnh, ngoại trừ chốc chốc một chiếc xe máy hay ô tô phóng qua, kéo theo
những vệt sáng màu vàng và tiếng động cơ chói tai lạc lõng. Nhưng ông không lấy
thế làm khó chịu.
Bỗng trong bụi cây rậm rạp bên cạnh có
tiếng gì sột soạt, tiếp đến là tiếng trẻ khóc. Ông giật mình, chăm chú lắng
nghe. Đứa trẻ, qua giọng, ông đoán còn nhỏ, im một chốc rồi lại khóc, lần này
to và lâu hơn. Sau đấy có tiếng phụ nữ cố dỗ nó nín và nói gì đó ông không nghe
rõ. Đứa bé vẫn khóc.
- Ai ở dưới ấy? - ông hỏi, húng hắng
ho. Không có tiếng trả lời. - Ai đấy? Ai làm gì dưới đấy? - Ông cao giọng hỏi
tiếp.
- Cháu đây ạ, - cuối cùng có tiếng phụ
nữ đáp lại.
Ông bật lửa, vạch lá cây bước xuống.
Trong ánh sáng tù mù của ngọn lửa nhỏ ông thấy một người mẹ trẻ đang ôm con nằm
còng queo trên chiếc bao tải nhựa dưới bụi cây cách nơi ông ngồi chỉ mấy bước
mà từ nãy đến giờ ông không biết. Thấy ông, người kia vội ngồi dậy, đôi mắt mở
to, đờ đẫn và ngơ ngác.
- Sao cô lại ở đây? - Ông phải nhắc to hai lần câu hỏi ấy, cô ta
mới cúi đầu khẽ đáp, giọng lí nhí:
- Vì cháu chẳng còn nơi nào nữa...
- Có chuyện gì với đứa bé vậy?
-
Nó sốt, từ chiều qua. Cũng vì nó đói. Hai mẹ con cháu không có gì ăn đã hơn một
ngày rồi.
Đứa bé khoảng hai, ba tuổi, không hiểu
con trai hay con gái, đang oặt oẹo trên tay mẹ, một cô gái chắc chỉ ngoài hai
mươi một chút, nét mặt gầy nhưng thanh tú. Ông sờ tay thấy trán đứa bé nóng
bừng. Hình như nó lả đi, chẳng còn đủ sức để khóc. Ông định bảo sao không đưa
nó vào bệnh viện, nhưng chợt nhận thấy hỏi thế là thừa nên lại thôi.
- Cô đi theo tôi. Nào, đi! - Ông suy
nghĩ một chốc rồi nói như ra lệnh. Cô gái ngơ ngác ngước nhìn, vẻ ngờ vực. -
Đi, cô cứ đi theo tôi! Không thể để thế này được. Nào, đứng dậy. Đừng sợ. - Rồi
ông nắm tay cô ta, kéo đi. Chiếc bật lửa hết ga phụt tắt. Hai người dò dẫm bước
lên mặt đê.
Vốn thương người và dễ xúc động, ông
cuống lên, vội vã đưa hai mẹ con cô gái vào một trong nhiều nhà nghỉ cạnh đó.
Ông xin gặp chủ nhà nghỉ.
- Đây là mẹ con một người cơ nhỡ ngẫu
nhiên tôi gặp ngoài đê. Đứa bé đang sốt nặng. Ông cho tôi thuê một phòng để họ
ở tạm. Trả tiền trước.
Với sự tháo vát, nhanh nhạy khác
thường, ông quay sang đưa tiền cho cô lễ tân nhờ chạy ra phố mua giùm một bát
phở và một bát cháo gà. Trong khi cô kia vừa ăn vừa bón cháo cho đứa bé, ông
gọi điện thoại cho ông bạn bác sĩ nào đó, quát to vào máy, bảo phải đến ngay
cùng đồ nghề và các thứ thuốc cần thiết, "mọi chuyện sẽ giải thích
sau".
Do
yêu mến và biết tính bạn, ông bác sĩ chưa đầy nửa giờ sau đã phóng xe tới. Họ
đưa hai mẹ con lên phòng. Ông bác sĩ đo nhiệt độ, tiêm thuốc cho đứa bé rồi
quay sang hai người đang lo lắng đứng bên:
- Ổn rồi. Một cơn sốt bình thường. May
được chữa kịp thời, để lâu chút nữa có thể nguy hiểm. Mai sẽ khỏi.
Lúc ấy là mười một giờ rưỡi. Đứa bé đã
ngủ yên. Hai ông bạn già ra về, hẹn sáng hôm sau quay lại xem tình hình thế nào
và nói chuyện thêm. Trước khi rời nhà nghỉ ông nhà văn đưa thêm tiền cho cô lễ
tân để ngày mai cô mua thức ăn về phòng cho cô gái kia, không quên nhắc hướng
dẫn cô cách tắm rửa, vệ sinh. Qua bề ngoài ông đoán cô ta không phải người
thành phố.
- Ông lạ thật đấy, - ông bác sĩ nói
khi hai người chia tay nhau. - Đã biết cô ta là ai mà cuống lên thế. Không khéo
chỉ là con điếm hay con ăn cắp. Thời bây giờ chẳng biết đâu mà lường. Ông cứ
như người trên mây...
- Con điếm hay con ăn cắp thì không là
người sao, và không cần phải giúp đỡ?
Ông
kia đuối lý chẳng biết đáp lại thế nào.
- Thú thật, tôi không ngờ bây giờ còn
có người khổ thế. Để mai tôi hỏi xem vì sao đến nông nỗi này.
- Còn tôi thì luôn lấy làm lạ làm sao
một người như ông có thể viết văn được. Đành rằng viết văn là phịa, nhưng phịa
cũng phải trên cơ sở thực tế. Đằng này ông chẳng hiểu gì về cuộc sống .
- Cảm ơn ông đã giúp đỡ. Chuyện ấy ta
nói sau. Tôi chẳng mù như ông tưởng đâu. Có điều mỗi người nhìn nhận cuộc sống
theo một cách, và đừng nên áp đặt cách của mình lên người khác. Khối anh nhà
văn cũng vì cái "thực tế cuộc sống" ấy mà văn toàn một màu xám xịt,
thô tục, đọc mà khiếp.
*
Hôm sau, hai ông bạn già đến nhà nghỉ
từ sáng sớm. Ông nhà văn mua cho hai mẹ con cô gái mỗi người một bộ quần áo
mới. Đứa bé đã hạ sốt, đang chơi quanh quẩn trong phòng. Mẹ nó cũng tươi tỉnh trở lại do được ăn no
và tắm rửa sạch sẽ, nhưng đôi mắt vẫn còn vẻ ngơ ngác sợ hãi.
Họ
hỏi chuyện và được biết cô quê ở Tĩnh Gia, Thanh Hóa, bất chấp lời khuyên can
của gia đình, lấy phải thằng chồng vừa nát rượu, vừa máu mê cờ bạc. Khi không
còn đồng nào cho hắn moi nữa, hắn thẳng tay đuổi cô ra khỏi nhà. Xấu hổ chẳng
dám quay về nhà bố mẹ, cô ôm con ra Hà Nội, nơi cô không có người quen thân nào
và chưa bao giờ đặt chân tới. Cô không hình dung nổi sẽ kiếm sống ở đây ra sao,
nhưng chẳng còn nơi nào khác, đành cứ nhắm mắt liều đi. Suốt cả tháng vừa rồi
cô kiếm ăn bằng cách lúc đi xin, lúc bới rác. Mấy lần định đứng đường bắt khách
nhưng vì có con nhỏ nên không thành. Lúc đầu cô ngủ dưới gầm cầu, sau bảo vệ
cầu đuổi, phải chui vào bụi cây kia.
Tóm
lại, đó là một câu chuyện buồn mà người ta thường được nghe từ các cô gái nhà
quê ra tỉnh. Nhưng với ông nhà văn "ít thực tế" kia thì nó thực sự
gây chấn động ghê gớm. Chốc chốc ông lại xuýt xoa chen vào "Đến thế cơ à? Trời,
đến thế cơ à?" Không phải vì đây là lần đầu ông được biết những trường hợp
tương tự, chỉ tại tính ông nó vậy. Ông không muốn tin, không muốn nghe và không
muốn chấp nhận nó.
- Bây giờ cô định thế nào ? - ông bác
sĩ hỏi.
- Cháu chẳng biết, - cô gái đáp, hai
mắt rưng rưng.
- Cô phải về nhà! Về quê ngay! - ông
nhà văn sôi nổi nói.
- Không. Nó đánh cháu chết mất. Cháu
sợ.
- Vậy thì về nhà bố mẹ. Chẳng việc gì
phải xấu hổ.
- Không. Không được. Các bác không
hiểu gia đình, bố mẹ cháu. Chết, cháu cũng chẳng quay về đâu.
Hai ông già ngồi im, lúng túng chẳng
biết nói gì thêm.
- Nhưng ở lại Hà Nội kiểu này cũng
không được, - cuối cùng một ông thở dài nói.
- Cảm ơn hai bác đã giúp đỡ mẹ con
cháu. Chúng cháu chẳng dám phiền hai bác thêm nữa, - cô gái nói. - Hôm nay cháu
sẽ đi khỏi đây. Cháu sẽ tự xoay xở.
- Không, - ông nhà văn cương quyết
nói. - Cô không thể ở lại Hà Nội. Để chúng tôi nghĩ xem có cách nào giúp được
không. Bây giờ cô cứ ở đây, ở nhà nghỉ này đã. Không đi đâu hết. Vả lại, thằng
bé còn chưa khỏi hẳn. Nghỉ ngơi đi. Chiều chúng tôi quay lại.
Rồi ông kéo ông bạn bác sĩ ra quán cà
phê Trung Nguyên.
- Không lẽ không còn cách nào nữa à? -
ông hỏi.
- Tôi nghĩ là không. Chúng ta đã làm
những gì có thể làm.
- Nghe nói ông có căn hộ bỏ không. Hay
cho mẹ con cô ấy về đấy ở tạm?
- Ông khéo đùa. Để người ta nghĩ tôi
có vợ bé à? Bà lão nhà tôi chịu cho chắc? Mà rồi giả sử cho cô ta ở đấy, rồi
sau thì sao? Tôi và ông sẽ nuôi báo cô suốt đời à?
- Ừ, gay nhỉ, nhưng dẫu sao cũng phải
làm cái gì đấy để giúp người ta.
- Tôi thì chịu thôi. Trừ phi ai đó đau
ốm ông cần tôi giúp đỡ. - Ông bác sĩ đáp rồi đứng dậy chia tay bạn ra về.
Ông nhà văn ngồi lại, gọi thêm hai
tách cà phê nữa, cố vắt óc tìm ra "cái gì đấy" mà không tìm được. Như
không muốn tin và thừa nhận sự thật phũ phàng, ông cũng không muốn tin và thừa
nhận sự bất lực của mình trước nỗi bất hạnh của người khác. Thậm chí ông còn
nghĩ đến việc thuyết phục vợ cho đưa mẹ con cô kia về sống tại nhà ông một thời
gian, nhưng rồi chính ông cũng tự lắc đầu cảm thấy không ổn khi hình dung mọi
sự phức tạp sau đó.
Buổi chiều, như đã hứa, ông quay lại
nhà nghỉ. Ông nói chuyện với cô gái rất lâu, lựa lời an ủi, khích lệ và yêu cầu
cô kể lại cặn kẽ chuyện gia đình, bà con. Nhờ thế mà ông biết cô có một người
chú đang làm việc ở nông trường chè Mộc Châu. Ngay lập tức ông đề nghị mẹ con
cô lên đấy nhờ ông chú giúp đỡ, kiếm cho việc gì đấy mà làm. "Trên đó chè
cả rừng, lo gì không tìm được việc!" Sau một hồi lưỡng lự, cô gái đồng ý.
Sáng hôm sau ông đưa hai mẹ con cô ra
bến xe, mua vé, dắt lên tận ghế ngồi và cho thêm một số tiền kha khá. Rồi ông
đứng vẫy tay theo xe như vẫy tay từ biệt con gái mình đi xa. Ông cũng không
quên đưa cho cô chiếc danh thiếp của mình, dặn phải viết thư hoặc gọi điện cho
ông ngay khi tới Mộc Châu. Sau đó ông trở về nhà, lòng thanh thản như vừa trút
được gánh nặng.
*
Mãi ba ngày sau ông mới phát hiện ông
mất chiếc ví da trong đó có mấy tờ ngân phiếu trị giá hai triệu đồng, giấy
chứng minh và chiếc thẻ hội viên nhà văn. Đó là số tiền người ta mới trả nợ, vợ
ông bảo lúc nào tiện thì đến ngân hàng đổi lấy tiền mặt. Ông ít khi dùng đến
chiếc ví và luôn cất nó ở túi trong chiếc áo khoác thường mặc.
Lục
lọi khắp nhà không thấy, ông ngồi thừ người, thầm điểm lại từng ngày vừa qua
ông đã đi đâu, làm gì, với ai, trong đó có chi tiết ông bỏ lại chiếc áo khoác ở
phòng nghỉ (vì lúc ấy trời không lạnh) khi ông dẫn ông bạn bác sĩ ra quán cà
phê Trung Nguyên. Không lẽ chính cô ta? Tự nhiên ông nhớ đến mấy tiếng
"con điếm", "con ăn cắp" mà bạn ông có lần nhắc tới. Vốn
tin người và nhân hậu, ông tìm cách gạt cô gái khỏi đối tượng nghi ngờ.
"Chắc mình vô ý đánh rơi đâu đó", ông thầm nghĩ và bắt mình tin như
vậy.
Những
ngày tiếp theo ông cố không nghĩ tới chuyện này, nhưng thỉnh thoảng muốn hay
không, ông vẫn bất chợt thấy mình vẩn vơ suy nghĩ rằng có thể chính cô ta đã
lấy cắp tiền của ông, và rằng những điều cô ta kể là hoàn toàn bịa đặt. Mất
tiền ông buồn, tất nhiên, nhưng cái làm ông buồn hơn là cuộc đời có thể xấu xa
và tráo trở như vậy. Ý nghĩ này như vết dao sắc cắt nhẹ vào niềm tin trong sáng
của ông về một cuộc đời khác tốt đẹp hơn, trong đó con người yêu thương nhau,
tin nhau và giúp đỡ nhau một cách không vụ lợi. Ông cảm thấy bị choáng váng và
nhoi nhói trong lòng. Dẫu sao, chính cái niềm tin lạc quan ấy vào cuộc đời đã
giúp ông sống bao năm nay, và dù bị cười chê thơ ngây không thực tế, ông vẫn
thấy nó phù hợp với ông và rất không muốn nó bị sứt mẻ.
Dần dần do bị ám ảnh, ông gần như tin
chắc chính cô gái ông hết lòng giúp đỡ và thương cảm ấy đã làm cái điều nhục
nhã kia. Ông không oán giận mà chỉ lấy làm buồn cho cô. Ông giấu kín việc này,
kể cả với ông bạn bác sĩ, ít nhất để khỏi bị cười chê lần nữa.
Mọi việc cũng nguôi ngoai dần. Ông lại
quay về với trạng thái tinh thần vốn có - lạc quan yêu đời, yêu người và cả
tin. Ông vẫn đều đều ra quán cà phê Trung Nguyên vào các buổi tối, và nếu ngẫu
nhiên gặp lại một trường hợp tương tự, chắc ông vẫn xử sự y hệt như ông đã làm
với hai mẹ con cô gái nọ.
Một hôm, việc này xảy ra cách lần gặp
đầu khoảng một tháng, ông nhận được thư của cô kia, khoe đã xin được vào làm ở
một đội trồng chè nằm sâu trong rừng (không thấy ghi nông trường nào, ở đâu),
và rằng đứa con được gửi nhà trẻ, ham chơi, khỏe mạnh. Cuối bức thư ngắn ngủi
với nét chữ to và cứng ấy là những lời cảm ơn nghe rất chân thành.
"Còn
trâng tráo đến thế nữa!" Đó là ý nghĩ đầu tiên chợt đến trong đầu khi ông
đọc xong thư. Tuy nhiên, tối ấy ông vẫn ngồi viết thư trả lời, với tâm trạng
buồn vui, thương ghét lẫn lộn.
"Bác
rất mừng rằng mẹ con cháu đã thu xếp cuộc sống ổn thỏa. Cháu hãy cố gắng làm
việc thật tốt, sống lành mạnh, và điều quan trọng nhất là đừng bao giờ để mất
niềm tin vào con người và cuộc sống, dẫu nó phũ phàng, cay nghiệt. Điều
này có lẽ cháu biết rõ hơn bác. Lúc nào
có dịp về Hà Nội, nhớ tranh thủ ghé thăm bác".
*
Hôm sau, có người đến tìm ông, nói
rằng khi kê lại đồ đạc trong căn phòng ông thuê cho hai mẹ con cô gái cơ nhỡ ở
nhà nghỉ nọ, người ta tìm thấy một chiếc ví da có tiền cùng ít giấy tờ. Nếu
đúng của ông thì xin mời tới nhận.
Hà Nội, 6.1.2001
No comments:
Post a Comment