Saturday, April 4, 2015

NGƯỜI ĐÀN BÀ TRÙM KHĂN ĐEN


Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Cảnh thật buồn và ảm đạm. Khu đồng Mồ những ngày cuối năm nước cạn, không trong cũng chẳng ra đục, cứ lờ lờ một màu vô cảm. Ruộng có nơi chưa cấy, chỏng chơ những mô đất nhỏ, có nơi mới cấy xong lúa chưa bén rễ, vàng úa như những sợi râu ngô héo. Trên bờ đê con mương dẫn nước từ đập Xuân Dương về chỉ lèo tèo vài con bò đang gặm cỏ, nếu còn có cỏ để gặm. Vì cỏ ít trâu bò nhiều nên thân đê từ lâu bị bào mòn, không xanh mà bạc thếch.
Đã bắt đầu nhá nhem. Bầu trời u ám, không mưa nhưng ẩm lạnh và vì là nơi đồng trống nên gió khá mạnh. Làng Xuân Tình gần nhất cách chưa đầy cây số bây giờ chỉ là một vệt mờ mờ, còn xã Diễn Thọ phía Tây thì từ lúc nào đã chìm trong sương mù.
Ở một trong vô số vũng nước nông dọc bờ đê, lão Mục đang hý hoáy mò tôm, những con tôm chỉ bé bằng đầu đũa. Vũng nước được tát cạn, những gì nổi phía trên lão đã nhặt hết, bây giờ mò bắt những con khôn ngoan lẫn dưới lớp bùn nhẽo. Chiếc giỏ rộng miệng không đeo bên hông mà để trên bờ, thỉnh thoảng lão ném vào một con gì đấy mới mò được, có khi cả bùn. Lão thầm ngạc nhiên ở đây còn tôm cá cho lão bắt. Lão là người đánh dậm chuyên nghiệp, nghĩa là chỉ sống bằng cái nghề ấy. Lão sống một mình trong trạm bơm bỏ hoang sát Kênh Nhà Lê vốn là nơi làm ăn chính của lão. Mấy hôm nay nước lớn, lão ngược lên mạn trên rồi tình cờ phát hiện những vũng nước này. Lão không có khái niệm về thời tiết hoặc tâm trạng vui buồn. Thời gian cũng chẳng mấy khi được lão nghĩ đến. Chỉ cần đâu có cá là lão tới, tranh thủ bắt càng nhiều càng tốt. Hôm qua lão được cả giỏ đầy. Hôm nay cũng khá, đáng lẽ có thể về rồi nhưng vì tham nên lão cứ nấn ná bắt thêm. Lão không lo nhỡ chợ vì bất kỳ lúc nào cũng có thể đem hàng bán cho mụ Thắm ở làng Song Yên bên kia đường tàu, dù mụ này láu lỉnh thường bắt bí ép giá lão.
Cứ thế lão Mục cắm cúi bới bới hai bàn tay già nua nhăn nheo trong lớp bùn nhẽo, không để ý trời đang tối dần và đã bắt đầu xuất hiện những giọt mưa li ti trên mái tóc rối bạc quá nửa. Lão đang nghĩ về việc tối nay có tiền không chỉ đủ mua xịn rượu loại ngon mà còn cả ít dồi chó ở quán cạnh chợ Hôm. Lão hay rượu, chưa đến mức nghiện nặng nhưng thích uống và uống luôn. Thường đi đâu lão cũng giấu một be nhỏ trong túi, thỉnh thoảng tu một ngụm. “Đời có tí chất cay mới gọi là đời, không thì sống làm đếch gì,” lão thường tự an ủi như vậy. Đang lúc rửa qua một tay định cho vào túi lấy be rượu thì lão bỗng cảm thấy như có ai đứng trên đê chăm chú nhìn mình. Không ngước lên nhưng lão biết. Ai ấy nhỉ?
Đó là một người đàn bà còn trẻ đầu trùm chiếc khăn đen chỉ chừa lại khuôn mặt. Một khuôn mặt khá xinh nhưng nhợt nhạt đến trắng bệch. Thực ra cô ta không nhìn lão Mục mà nhìn giỏ cá. Chỉ lặng lẽ đứng nhìn. Lão cũng im, phần vì đớ ra chẳng biết nói gì. Về khoa nói lão vốn rất kém và rất ít nói. Trời chưa tối hẳn nên lão nhìn thấy rõ đôi mắt cô ta mở to, mũi nhọn, hai má hơi hóp, dấu hiệu rõ ràng của sự đói ăn lâu ngày. Cô ta gầy, lão biết chắc như thế qua làn áo ẩm ướt cũng màu đen bám sát người. Gầy đến mức lão có cảm giác nếu gió thổi mạnh, cô ta có thể bay lên không và biến mất. Có phải vì gầy và nhẹ như chiếc bóng nên cô ta đến đứng cạnh từ lâu mà lão không biết chăng?
Người đàn bà trẻ nhìn vào miệng chiếc giỏ, nơi một vài con tôm đang ngọ nguậy, rồi quay sang phía lão Mục. Qua vẻ cầu xin trong đôi mắt đẫn đờ ấy, lão hiểu. Cô ta muốn xin một ít. Xưa nay chẳng bao giờ chịu cho không ai cái gì, thế mà bây giờ không hiểu sao lão suy nghĩ một chốc rồi gật đầu. Cô kia vẫn đứng im. Lão gật đầu lần nữa, thầm ngạc nhiên về sự hào phóng của mình. Chỉ lúc ấy cô mới cúi xuống bốc một ít cho lên lòng tay. Chỉ một ít thôi và lão Mục lấy thế làm mừng. Cô nhìn lão với ánh mắt biết ơn rồi lặng lẽ bước nhanh về phía làng Xuân Tình. Tiếng chân cô khẽ đến mức lão có cảm giác như không phải bước mà đang lướt bay trên mặt đường. Lão cũng chẳng nói gì, chỉ đứng ngây, nhếch mép cười một cách đần độn.
Khi người kia biến mất trong làn sương mù lúc này đã dày đặc, lão rửa tay xách giỏ ra về, quên cả ngụm rượu định uống. “Còn trẻ thế mà đi ăn xin, thật không biết xấu hổ!” lão lẩm bẩm một mình, không hẳn vì tiếc mấy con tôm cá. Trong giỏ còn nhiều chán. Lão chỉ thấy hơi kỳ kỳ thế nào. Đây là lần đầu có người xin lão, bình thường thì bao giờ người ta cũng mua, mặc cả từng xu một nhưng mua chứ không xin.
Trời tối hẳn. Mưa bắt đầu nặng hạt. Chợt thấy lạnh và đói, lão rảo bước đi nhanh về phía làng Song Yên, vẩn vương suy nghĩ về điều vừa xẩy ra, nhưng rồi cuối cùng trong đầu chỉ còn lại mụ Thắm và chai rượu nhờ mụ mà có.
Kênh Nhà Lê nước còn lớn, nên hôm sau lão Mục lại đến đồng Mồ, cũng ở đoạn đê này, chỉ vũng nước khác. Lão luôn đi làm vào buổi chiều, vì sáng dậy muộn, lại kề cà thuốc nước và kiếm cái nhét vào bụng. Bầu trời vẫn u ám, lất phất mưa như hôm qua. Và rồi khi chạng vạng tối, người đàn bà kia lại đến, đến lúc nào lão không hề biết. Cô ta lặng lẽ nhìn giỏ cá rồi nhìn lão. Cũng cái nhìn van xin ấy. Đôi mắt mở to có vẻ như sâu hơn, mặt nhợt nhạt hơn, người vốn đã gầy giờ càng gầy hơn, đến mức trông chỉ còn như chiếc bóng. Lão Mục thoáng bối rối. Lão định quát to đuổi đi, vì suy cho cùng lão còng lưng cả ngày thế này đâu phải để đem cho người khác. Thậm chí lão còn định mắng nhiếc vài câu về cái thói trơ trẽn ngửa tay ăn xin. Thế mà lão cứ nhìn trân trân như bị thôi miên. Trái tim cằn khô của lão tự nhiên mềm ra, có cái gì đấy rân rân nơi cuống họng. Lão không biết chuyện gì đang xẩy ra với mình, chỉ thấy buồn. Cuối cùng, như cái máy, lão khẽ gật đầu. Cô kia cúi xuống, lấy ra ít cá, đúng bằng hôm qua, vội vã đi về phía làng Xuân Tình và chẳng bao lâu sau thì biến mất.
Việc này còn lặp lại mấy lần nữa. Vẫn cái giờ ấy cô ta tìm đến, dù lão Mục đã cố tình chuyển đi chỗ khác xa hơn một chút. Cả hai vẫn chẳng ai nói với ai câu nào. Kể lão Mục cũng muốn bắt chuyện nhưng không nói lên được. Bây giờ thì lúc nào lão cũng bị ám ảnh bởi người đàn bà trùm khăn đen bí ẩn ấy. Lão thử hình dung đủ chuyện mà cuối cùng vẫn chẳng đi đến đâu. Nhưng hôm nay thì lão đã có một ý định, có thể nói là kế hoạch được trù tính kỹ từ trước. Lão sẽ lén theo về nhà cô ta xem thế nào. Chỉ tò mò thôi chứ chẳng vì lý do nào khác. Không là người thông minh, nhưng việc này thì chắc lão làm được, làm khéo nữa là khác.
Lão thấy lạ là dù đã đi rất nhanh, gần như chạy mà vẫn không theo kịp người kia. May không bị mất hút vì xung quanh chỉ toàn đồng trống. May nữa là cô ta không một lần ngoái lại nên không biết có người đi theo. Cũng có thể biết nhưng giả vờ không.
Tới đầu làng Xuân Tình, người đàn bà trẻ rẽ vào một ngôi nhà tranh có chuối mọc um tùm bao quanh. Làng này người ta trồng nhiều chuối. Trước đây lão có đến mấy lần để bán cá, nhưng chẳng quen ai. Lão chợt đứng khựng lại không biết làm gì tiếp khi cô kia vào khuất trong nhà. Không thể cứ đường đột vào thẳng nhà người ta, lão nghĩ. Trời gần tối hẳn, trong nhà có ánh đèn dầu tù mù, dưới bếp hình như có ai đang nấu ăn. Lão tần ngần hồi lâu rồi ngập ngừng bước vào, dẫu xưa nay không là người nhút nhát. Thì cứ hỏi người ta có mua cá không, việc gì phải ngại.
Thấy có người, một bà già tập tễnh từ trong bếp đi ra, tay cầm chiếc que kều lửa. Ngôi nhà trống hoác, tuềnh toàng không có cửa. Lão Mục ngạc nhiên không thấy cô gái kia đâu. Hay mình nhầm nhà? Không thể được. Chính mắt lão nhìn thấy cô ta vừa rẽ vào đây mà.
- Bác hỏi ai ạ? - bà già lên tiếng.
          - Tôi bắt được ít cá, vào hỏi xem nhà ta có mua không, - lão đáp, tự lấy làm hài lòng với sự lưu loát của mình.
          - Không. Chẳng giấu gì bác, nhà tôi nghèo không có tiền. - Bà lão thở dài. - Đến bát gạo ăn còn phải đi xin người ta thì lấy đâu ra tiền mà mua cá.
          Nói đoạn, bà lão định bỏ vào bếp nhưng thấy khách chần chừ chưa đi, bèn nói thêm:
          - Hay bác vào trong nhà uống chén nước đã?
          Trên chiếc chõng tre ọp ẹp chính giữa nhà, lão Mục ngồi, bê bằng cả hai tay bát nước vối đầy rồi tu một hơi hết sạch, dù không khát. Nhà đang có tang, lão thoáng nghĩ khi nhìn lên chiếc bàn thờ cũng bằng tre có mấy nén hương đang cháy sau lớp vải màn mỏng ám khói. Trên bát hương là bức ảnh người chết, không lớn, và mặc dù đèn tù mù, lão vẫn nhận ra ngay đấy chính là cô gái đến xin cá mấy ngày vừa rồi. Lão ngạc nhiên đến giật thót cả người. Nếu bát nước chưa kịp đặt xuống thì chắc đã rơi xuống đất. Lão bỗng thấy sợ hãi, sợ đến tái mặt. May bà chủ nhà không nhìn thấy.
          - Con dâu tôi đấy. - Bà già nói khi thấy khách để ý nhìn bàn thờ. - Chưa đầy ba chục tuổi mà trời đã bắt chết. Ngày mai là vừa tròn ba tháng. Chồng nó còn bị trời bắt chết sớm hơn, khi hai đứa vừa lấy nhau được một năm. Chẳng hiểu sao ông trời ác độc thế. Thành ra bây giờ tôi, một thân già què quặt nuôi mình không nổi còn nuôi thêm đứa cháu năm tuổi... Có hôm phải nhịn vì chẳng có gì  ăn, vậy bác bảo tiền đâu mà cá với chả thịt...
          Đúng lúc ấy một đứa bé gái từ ngoài vườn đi vào, tay chân còn lấm bùn.
          - Có bắt được con nào không cháu? - bà nó hỏi.
          - Dạ có, - nó đáp  rồi xòe hai bàn tay.
          Lão Mục nhìn xuống thì thấy chính những con cá lão vừa cho cô gái lúc nãy.
          - Thế thì để bà xuống nấu cho mà ăn. Kho mặn, ăn với khoai luộc chắc ngon lắm. - Bà già nói rồi tập tễnh bước ra ngoài.
          Lão Mục cũng đứng dậy, chào bà chủ ra về.
          - Kể cũng lạ, - bà nói khi tiễn khách, - vũng nước tí xíu như chỗ trâu đầm sau nhà mà cũng có cá bác ạ. Không nhiều nhưng ngày nào cũng có. Âu cũng do trời phật muốn giúp bà cháu tôi, phải không bác?
          Lão Mục không đáp vì lúc ấy đã ra đến cửa. Lão đi như chạy một mạch về nhà, không một lần dám ngoái đầu nhìn lại. 
          Đêm ấy lão bán vội giỏ cá cho mụ Thắm chẳng thèm cò kè một xu nào. Bao nhiêu tiền lão đem mua rượu hết, uống say mèm rồi ngủ mê mệt đến tận quá trưa hôm sau mới dậy. Xế chiều, lão lại xách giỏ đến đồng Mồ. Tuy thầm sợ, lão vẫn cố ý chờ nhưng mãi không thấy cô kia tới. Liên tiếp mấy ngày sau cũng vậy. “Chắc mình làm cô ta sợ, lão nghĩ. Ma mà thấy động sẽ chẳng bao giờ xuất hiện trở lại”. Lão chẳng biết thế là tốt hay xấu, nhưng bỗng nhiên lão lại thấy buồn. Chẳng vì sao mà vẫn buồn, cái buồn mơ hồ, âm ỉ, day dứt và khó chịu. Có thể nói đây là lần đầu tiên trong cả cuộc đời dài chẳng lấy gì làm vui vẻ của mình, lão có cái cảm giác kỳ lạ ấy. Lão đâm ra hay rượu hơn và cũng hay suy nghĩ vẩn vơ hơn, đủ các chuyện chẳng đâu vào đâu.
          Khoảng một tuần sau, khi phần nào bình tĩnh trở lại, chọn lúc trời tối hẳn, ngày nào lão cũng tìm đến ngôi nhà tranh kia ở mép làng Xuân Tình, lén bỏ một ít tôm cá lão bắt được vào “vũng trâu đầm” sau vườn, rồi lén lút bỏ đi như tên trộm thực thụ. Cứ thế kéo dài mấy tháng cho đến khi lão chết cách đây không lâu. Nghe nói vì uống rượu say cảm gió. Cũng có người nói lão bị ma ám, nhưng chắc không phải thế.

                                                              Hà Nội, 6 tháng Tư, 2002

No comments:

Post a Comment