Wednesday, July 30, 2014

NẾU CÒN SỐNG, CHỊ Ở ĐÂU?

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

"Tôi là Nguyễn Văn Biên, lái xe, thuộc công ty X. Bộ Lâm nghiệp. Cách đây hai mươi ba năm, vào một đêm trời mưa to cuối tháng chín năm 1967, trên đường từ Châu Yên tới Sơn La, có một cô gái vẫy tay xin đi nhờ xe. Lúc ấy trời đã khuya, rừng núi vắng vẻ. Cô gái trạc hai mươi tuổi, đầu đội nón, tay xách chiếc túi nhỏ, quần áo ướt sũng, nói đi nhỡ đường gặp mưa bị cảm. Tôi cho cô lên xe. Trên xe chỉ có mình tôi. Đi được một quãng, tôi dừng xe định giở trò cưỡng đoạt cô gái. Cô cương quyết chống đỡ. Tôi dọa nếu không chịu, sẽ đuổi xuống. Cô gái khóc, van xin đừng làm thế vì cô đang ốm, có thể chết. Thấy tôi vẫn một mực không thay đổi ý kiến, cô vùng ra được và nhảy xuống đường. Tôi ngồi trên xe, đoán cô không dám ở lại một mình vì chỗ có người gần nhất cách đấy cũng hơn hai mươi kilômét. Nhưng cô gái vẫn ôm mặt khóc dưới trời mưa tầm tã, người run lên vì lạnh... Cuối cùng tôi cho xe chạy tiếp. Đêm ấy tới trạm, bình tĩnh trở lại, tôi rất ân hận việc làm của mình, nhất là việc vì tôi cô có thể chết. Vì vậy tôi quay xe lại tìm nhưng không thấy cô đâu. Sau này nhiều lần tôi đến các nông trường và bản lân cận tìm cô, tuy nhiên, mọi cố gắng của tôi đều vô ích
Nay cô ở đâu, nếu còn sống, xin báo cho tôi ở số nhà... phố Long Châu, Hà Nội, để tôi tìm đến cô xin tha thứ cho việc làm tội lỗi kia của tôi.
Nguyễn Văn Biên".

Bà Bảo Châu đặt tờ giấy xuống bàn, ngả lưng vào chiếc ghế da rồi không hiểu sao ngồi thờ thẫn hồi lâu. Đang giờ nghỉ trưa, mỗi người một nơi. Trong phòng chỉ còn lại Bích Phương, cô thư ký xinh đẹp vừa ăn xong đang ngồi soi gương sau chiếc máy chữ.

Bà liếc qua những tờ tiếp của tập giấy được xếp ngay ngắn trước mặt, rồi hỏi:

- Ý kiến mọi người thế nào về tin của ông lái xe này?

Bích Phương còn bậm môi, dướn mắt thêm lần nữa trước gương rồi mới ngẩng đầu đáp:

- Dạ thưa cô, anh em nói đây là trường hợp khác thường nên chờ ý kiến cô xem có nên phát không, sau mới trình lên Ban duyệt. Các tin khác không có gì đặc biệt, chú Đại đã ký thay cô.

Mấy ngày vừa rồi bà Bảo Châu đi công tác xa nên đương nhiên ông Đại phó phòng thay bà quản lý phòng này, phòng Thông tin kinh tế xã hội của Đài phát thanh. Im lặng một chốc, bỗng Bích Phương quay sang bà, nói:

- Cái ông lái xe Biên này kể cũng lạ, cô nhỉ? Giận mà cũng thương ông ta...

- Bề ngoài trông ông ta thế nào? - Bà Bảo Châu hỏi. - Khi đến đưa tin, cô có gặp ông ta không?

- Dạ không, tin này được đăng ký từ sáng hôm kia, lúc ấy cháu có việc đi vắng... Thế cô đồng ý cho phát chứ ạ?

- Để cô xem đã. - bà Bảo Châu lơ đễnh đáp.

Rồi bà đứng dậy, thong thả đi xuống căng-tin ăn trưa.

Bà Bảo Châu năm nay đã ngoài năm mươi, không thể gọi là xinh nhưng có vẻ ngoài đẫy đà, phúc hậu. Tóc bà còn đen và rất dài, những hôm nóng nực, bà buộc thành một túm to sau gáy. Bà về làm việc ở Đài ngay sau khi tốt nghiệp khoa văn trường Tổng hợp. Suốt nhiều năm bà làm phóng viên, đi đây đi đó rất xông xáo. Gần đây phần vì có tuổi, phần vì không còn ai thích hợp hơn, bà được điều sang phụ trách phòng này. Tuy mới thành lập nhưng công việc ở đây khá bận rộn. Ngày nào đến cơ quan, bà cũng thấy có nhiều người đến xin đăng ký quảng cáo hàng hóa cho xí nghiệp mình, hoặc quảng cáo các lớp ngoại ngữ, khiêu vũ, âm nhạc... Một phần không nhỏ trong số họ đến nhờ bà giúp tìm trẻ lạc, tìm người tâm thần bỏ nhà lang thang, đặc biệt là tìm lại những người thân bị lưu lạc nhiều năm về trước. Chính những người này làm bà yêu thích công việc.

Hàng ngày đọc các tờ đăng ký, bà cảm thấy như được đưa trở lại quá khứ đau buồn, nhiều khi đến mức không thể tin nổi. Trước mắt bà hiện lên những đoàn người rách rưới, gầy còm, dắt díu nhau đi xin ăn rồi ngã gục chết bên vệ đường, những cảnh cho con, vứt con, những cảnh ra đi vì uất hận, vì miếng ăn và vì nhiều lý do khác. Tai họa như cơn bão khủng khiếp ập xuống đầu những số phận đáng thương, dập vùi họ, đưa họ đi xa mỗi người một nơi. Rồi hàng chục năm sau đó họ sống trong lo lắng, dằn vặt và thương nhớ... Họ vất vả tìm đến nhau, muốn biết ai còn, ai mất, muốn được bộc lộ lòng mình... nhưng không biết phải làm gì, nhờ ai. Nay bỗng xuất hiện cái phòng của bà, thế là người ta bám lấy bà như người chết đuối bám cọng rơm nhỏ, dù chẳng mấy hy vọng nhưng còn hơn không có gì để bám. Còn bà, không hiểu sao bà thấy như mình cũng phần nào có lỗi trong những bi kịch ấy của quá khứ. Bà tự cho mình có trách niệm phải giúp họ, phải góp phần hàn gắn những mảnh vỡ cuộc đời họ. Một bé gái mười tuổi cầm đồng bạc duy nhất đi chợ đong gạo cho mười miệng ăn trong gia đình, không may để mất tiền, sợ về nhà mẹ mắng, bố đánh, nên em đã bỏ đi biệt tăm. Nếu còn sống, nay em đã gần sáu mươi. Em ở đâu? Các anh chị và bà mẹ của em đang nhờ bà Bảo Châu tìm hộ.

Có hai ông già từ tỉnh xa đến gặp bà, kể rằng vào năm 1945 không nỡ nhìn con chết đói, họ phải đem cho đứa bé kháu nhất trong số bốn người con của mình. Nó là một cậu bé bốn tuổi, khôi ngô (vì khôi ngô mới đem cho, xấu sẽ chẳng ai nhận). Hôm ấy nó được tắm rửa sạch sẽ, được cả nhà nhường cho ăn một bữa thật no. Rồi ông bà đem ra chợ huyện, đặt nó ngồi ngay trước cổng chợ, bên cạnh cắm tấm biển với dòng chữ "xin các ông, các bà làm phúc nuôi hộ". Còn họ thì nấp trong bụi cây cách đó không xa, kiên nhẫn chờ cho đến lúc có người mang nó đi mới ra về. Hai ông bà đứng nhìn theo, nước mắt giàn giụa... Bây giờ họ đến Đài tìm bà Bảo Châu kể lại những điều trên và nhờ bà tìm hộ. Bà đã làm tất cả những gì có thể làm. Bà cho phát qua Đài bảy lần, mỗi lần cách nhau ba ngày. Thật không ngờ, chưa đầy một tháng sau có một trung tá không quân đến gặp bà, nói rằng ông chính là đứa bé nọ. Thay mặt bố mẹ đẻ và bố mẹ nuôi, ông trịnh trọng tặng bà một bó hoa thật to và hai gói kẹo, hai bao thuốc lá, một lạng chè tặng anh em trong phòng. Hôm ấy là một ngày đáng ghi nhớ. Nhìn người sĩ quan cao to, đẹp đẽ và tràn đầy hạnh phúc, có lẽ trong nhiều năm, đây là lần đầu bà cảm thấy mình làm được điều gì đấy đích thực tốt đẹp và có ích cho đời.

Thỉnh thoảng bà cũng nhận được thư từ các tỉnh xa, báo tin rằng nhờ Đài, họ đã tìm lại được người thân của mình. Tuy nhiên, những trường hợp may mắn như thế không nhiều, nhưng đây là công việc đáng làm và bà làm một cách say sưa...

Còn câu chuyện ông lái xe Nguyễn Văn Biên này là thế nào?

Suốt buổi chiều hôm ấy và cả ngày hôm sau, bà Bảo Châu luôn bị ông ta ám ảnh. Đây là trường hợp đặc biệt từ trước tới nay chưa hề gặp, vì vậy bà muốn để lại suy nghĩ thêm trước khi cho phát. Trước mắt bà lúc nào cũng hiện lên hình ảnh một cô gái mảnh mai, người sốt hầm hập, đứng một mình dưới trời mưa tầm tã trong rừng giữa đêm khuya. Cô sắp ngất, cô sợ chết, sợ ma, nhưng có một điều cô sợ hơn tất cả những điều ấy, là sự nhục nhã. Cô không thể chấp nhận điều kiện của tên lái xe vô lại, nhưng chiếc ca-bin khô ráo, ấm áp kia lại thuộc về hắn. Hắn là người duy nhất có thể cứu cô nhưng hắn đòi trả công... Không! Cô thà chết không chịu làm theo lời hắn. Và cô gái tiếp tục đứng dưới trời mưa, hai tay ôm mặt khóc. Sau đó... Sau đó cô đi bộ một mình hàng chục cây số? Cô được chiếc xe khác mà người lái xe chưa mất hết tính người cho đi nhờ đến thị xã? Hay sau đó do dầm mưa, cơn sốt nặng thêm và cô chết, xác nằm còng queo bên đường?

Còn lái xe, cái gã Nguyễn Văn Biên khốn nạn ấy thì sao? Ừ, mà anh ta là người thế nào nhỉ? Một người đang tâm gây nên tội lỗi ghê gớm như thế lại biết hối hận ư? Đến mức suốt nhiều năm sau đã bỏ công tìm kiếm cô gái kia như anh ta nói? Hay anh ta phịa để tự bào chữa cho mình? Mà rồi nếu quả bị lương tâm cắn rứt, không lẽ sau ba mươi năm anh ta không nguôi ngoai chút nào, để bỗng dưng bây giờ không ai bắt, tự mình phơi bày sự đểu cáng của mình? Không phải với một, hai người mà với tất cả! Qua Đài! Một việc làm nên gọi dũng cảm hay điên rồ?...

Bỗng nhiên bà Bảo Châu rất muốn được gặp con người này. Để làm gì thì chính bà cũng không rõ.

Theo địa chỉ, bà tìm đến một ngôi nhà xinh xắn có hàng rào gạch bao quanh. Ra mở cửa là một người đàn bà gầy quắt có đôi mắt buồn và mái tóc điểm bạc.

- Thưa chị, đây có phải là nhà anh Biên, anh Nguyễn Văn Biên lái xe không ạ?

- Vâng, - người đàn bà kia đáp, ngạc nhiên nhìn khách.

Thấy thế, bà Bảo Châu vội nói luôn:

- Tôi có chút việc muốn nói chuyện với anh ấy...

Bà kia càng ngạc nhiên hơn, nhưng do dự một chốc rồi đáp:

- Mời chị vào.

Căn phòng rộng và trống trải, chắc chỉ dùng để tiếp khách vì không thấy có giường. Sát tường là chiếc bàn trà thấp và bốn ghế xa-lông gỗ dán cáu bẩn. Bà Bảo Châu ngồi xuống một trong những chiếc ghế ấy, yên lặng chờ chủ nhà sang phòng bên chuẩn bị nước mời khách. Không hiểu sao bà cứ hình dung lái xe Biên bà sắp gặp là người to béo, có ria mép, da ngăm đen và nhất thiết phải mặc áo phông sọc to. Bà định sẽ vào đề luôn, rằng bà từ Đài đến, muốn hỏi thêm đôi điều trước khi cho phát cái tin ông ta yêu cầu...

Bà chủ nhà quay ra, đặt khay nước lên bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện, nhìn khách chờ đợi.

- Dạ, anh Biên đâu ạ? - bà Bảo Châu ngạc nhiên hỏi vì mãi không thấy chủ nhà xuất hiện. - Tôi đến đây nhân cái tin anh ấy xin phát qua đài...

Bà kia khẽ thốt lên:

- Thế ra cô là "cô ấy"? - Bà mở to mắt chăm chăm nhìn bà Bảo Châu, nét mặt gần như hốt hoảng.

Bà Bảo Châu cũng lặng lẽ nhìn bà hồi lâu.

- Không, tôi là người làm ở Đài phát thanh. Tôi đến đây muốn biết thêm đôi điều trước khi cho phát tin ấy. Hôm nay anh ấy không có nhà ạ?

Bà kia cúi đầu không nói gì, lúc sau mới thở dài đáp:

- Nhà tôi không còn nữa. Anh ấy chết đã được năm năm...

Giờ đến lượt bà Bảo Châu ngạc nhiên:

- Còn cái tin kia? Hóa ra không phải anh ấy đem nó đến Đài?

- Vâng. - Bà chủ nhà nói. - Tôi đã đến chỗ chị... Số là trước khi chết, anh ấy nhờ tôi sau này, nếu có thể, tìm gặp cô gái kia để thay mặt anh ấy xin lỗi hộ. Tôi đã hứa với anh ấy trong giờ hấp hối, tuy không biết sẽ làm điều đó bằng cách nào. Gần đây có mục nhắn tin qua đài, tôi mới nhờ chị. Nội dung cái tin ấy do tôi viết nhưng đúng sự thật và như chồng tôi mong muốn... Không sao chứ ạ? – Chủ nhà nhìn khách lo lắng hỏi thêm: - Không lẽ vì thế mà các chị không cho phát?

- Không, không vấn đề không phải chỗ ấy, - bà Bảo Châu đáp. - Có điều từ trước tới nay quả chúng tôi chưa gặp trường hợp nào như của anh chị.

- Tôi hiểu, chắc chị thấy khác thường nên muốn xem hư thực thế nào. Chị yên tâm. Những điều tôi viết trong tin đều đúng sự thật. Chồng tôi đã nhiều lần kể tôi nghe chuyện này ngay khi mới xảy ra...

Bà khẽ thở dài, ngồi im một chốc rồi nói tiếp:

- Nhà tôi là người thật lạ lùng. Anh ấy vốn ngang tàng, sống bừa bãi và nói thật với chị, chuyện rượu chè, trai gái có cả. Thế mà thật không ngờ, sau chuyện đó, anh ấy thành người khác hẳn. Đến tôi là vợ mà cũng không hiểu nổi, nhưng quả đúng thế. Anh ấy bị một cú sốc mạnh, trở nên ngơ ngác như người vừa ốm dậy. Anh ấy ít nói hẳn, chú ý nhiều hơn tới vợ con, đặc biệt không bao giờ uống rượu nữa. Tôi biết anh ấy đang đau khổ, hối hận và luôn nghĩ tới cô gái đáng thương nọ. Anh ấy sợ cô ta đã chết, chết vì anh ấy. Tôi tìm cách an ủi, thậm chí có lần còn theo lên các nông trường vùng Mộc Châu, Yên Châu tìm cô...

Bà chủ nhà đột ngột ngừng lời, đưa chén nước mời khách. Bà cũng cầm một chén, nhấp nháp từng ngụm nhỏ.

- Chị nghĩ phát qua Đài thế này, có hy vọng cô ấy sẽ lên tiếng không, tất nhiên nếu còn sống, - bà hỏi.

- Thỉnh thoảng chúng tôi có nhận được tin báo lại rằng nhờ Đài, họ đã tìm được người cần tìm. - Bà Bảo Châu đáp một cách chung chung.

- Tôi thì tôi không tin cô ấy sẽ lên tiếng và tự tìm đến, nhưng dù sao vẫn nhờ chị phát hộ cho. Chả là nhà tôi muốn thế, tôi đã hứa... Trước lúc chết, nhà tôi có để lại bức thư, dặn tôi nếu gặp thì đưa cho cô ấy.

Bà lại bỏ vào buồng trong, lấy ra một phong thư không dán.

- Nếu muốn, chị cứ đọc.

Rồi bà bước ra khỏi phòng để khách được tự nhiên. Bức thư không dài, được viết bằng nét chữ nắn nót kiểu học trò:

"Suốt nhiều năm nay tôi tìm chị khắp nơi nhưng không thấy. Tôi đang bệnh nặng và chắc chỉ ít ngày nữa sẽ chết. Trước khi chết tôi viết mấy dòng để nếu lúc nào đó, nhờ phép lạ, người thân của tôi gặp được, sẽ đưa cho chị. Tôi biết tôi không đáng được tha thứ, nhưng lúc này, đang hấp hối, tôi xin chị hãy tha thứ cho tôi. Nếu chị đã chết, xin linh hồn chị tha thứ cho tôi. Tôi đã chịu quá nhiều đau khổ, đã bị trừng phạt quá đủ cho hành động đểu cáng ấy của mình. Có lẽ trong đời ai cũng có những giây phút đen tối, những giây phút vô thức dẫn tới một việc làm tội lỗi để sau này phải luôn day dứt, ân hận vì nó.

Một lần nữa xin chị hãy tha thứ cho tôi!"

Ba ngày sau, bà Bảo Châu cho phát qua Đài tin lái xe Nguyễn Văn Biên, công ty X. cách đây 35 năm, vào một đêm trời mưa to...

Buổi tối, đến phần thông tin xã hội, bà lại gần chiếc đài, khoanh tay chăm chú ngồi nghe. Vô tình, bà với tay vặn to đài. Bà chợt nảy ý muốn lạ lùng là tất cả đàn ông trong nước, trên toàn thế giới, phải nghe tin này. Tất cả không trừ một ai, tất nhiên trong đó có chồng bà, một người vẻ ngoài lịch sự, nhân hậu nhưng thực chất là kẻ ích kỷ, thô lỗ mà bà phải chịu đựng bao năm nay.

Đang đọc báo ở chiếc ghế bên cạnh, ông chồng bà chỉ lặng lẽ đứng dậy vặn bé chiếc đài, nhìn bà với vẻ khó hiểu rồi lại ngồi xuống, chúi đầu vào tờ báo.

Hà Nội, 1989

CHÂM NGÔN

Châm ngôn là bài học,
Nhiều khi cả cuộc đời.
Được đúc kết ngắn gọn
Trong mấy câu, mấy lời.

Cái giá bài học ấy
Người khác trả cho ta.
Giá cũng đắt lắm đấy,
Đầy nước mắt xót xa.

Vậy sao ta không học
Những bài học quí này,
Để không phải trả giá
Không phải chịu đắng cay?

Tất nhiên, đọc một chuyện.
Đọc thì chẳng khó gì.
Khó là chuyện thực hiện.
Nhưng cứ thử, thử đi.

TRUYỆN THƠ CỔ TÍCH VIỆT NAM

Thái Bá Tân

_________

THÂN GỬI CÁC CHÁU
Đây là tập cổ tích
Đọc khi còn bé thơ,
Bây giờ ông kể lại,
Mà lại kể bằng thơ.
Ngày bé ông thích lắm
Đọc những truyện thế này,
Đơn giản và dễ hiểu,
Quan trọng là rất hay.
Một thế giới kỳ ảo,
Lung linh đủ sắc màu,
Có thần tiên, quỉ dữ,
Có người nghèo, người giàu.
Nó giúp ta phân biệt
Cái cao thượng, cái hèn,
Cái thiện và cái ác,
Kẻ ngu và người hiền.
Ông còn kể nhiều tích
Trong vốn cổ nước nhà,
Như Lưu Bình, Dương Lễ
Hay Tống Tân, Cúc Hoa.
Ngoài ra, ở cuối sách
Có Kiều, Lục Vân Tiên,
Hai tác phẩm thơ lớn
Của hai bậc người hiền.
Các cháu là người Việt,
Không thể không đọc Kiều.
Vậy nhớ đọc đi nhé.
Ông yêu các cháu nhiều.
Ông Tân Béo
Hà Nội, 26, 7. 2012
______________
TRUYỆN THÁNH GIÓNG
Đời Hùng Vương thứ sáu,
Có hai ông bà già
Sinh sống ở làng Gióng,
Rất cần cù, thật thà.
Bà lão, sáu hai tuổi,
Một hôm đi chăn bò,
Thấy có vết chân lạ
Vừa sâu lại vừa to.
Bà ướm chân mình thử,
Quá rộng và quá dài.
Không ngờ về, sau đó
Bà thấy mình có thai.
Bà sinh một cậu bé
Đúng mười hai tháng sau,
Mặt khôi ngô, sáng sủa,
Nhưng ông bà buồn rầu
Vì khi lên ba tuổi,
Nó vẫn chưa biết đi.
Đặt đâu nó nằm đó,
Nói cũng chẳng biết gì.
Chợt giặc Ân phương Bắc
Tràn xuống chiếm nước ta.
Một hiểm họa to lớn
Cho mọi người, mọi nhà.
Vua liền cho sứ giả
Tìm nhân tài khắp nơi.
Nghe tin này, bất chợt
Đứa bé nói thành lời:
“Mẹ ra gặp sứ giả,
Mời họ vào nhà mình.”
Sứ giả vào, cậu nói:
“Hãy về xin triều đình
Đúc một con ngựa sắt,
Một bộ giáp thật dày
Cùng một chiếc roi lớn,
Cho người mang đến đây.
Ta sẽ đánh tan giặc.”
Sứ giả nghe, ngạc nhiên,
Về tâu vua, lập tức
Vua liền sai thợ rèn
Rèn ngày đêm không nghỉ
Làm những thứ cậu cần.
Ngạc nhiên hơn, từ đấy
Cậu bé cứ đòi ăn.
Cậu lớn nhanh như thổi,
Ăn liền rồi đói liền,
Áo chưa mặc đã chật,
Hàng xóm phải góp tiền.
Thế nước đang nguy cấp,
Giặc kéo đến ngút trời.
Áo giáp sắt mang đến,
Cậu bé mặc vào người.
Cậu vươn vai đứng dậy,
Thành tráng sĩ cao to,
Dáng oai phong lẫm liệt,
Như một người khổng lồ.
Chàng nhảy lên lưng ngựa.
Vỗ mạnh vào hai hông.
Ngựa sắt chồm lên hý,
Miệng phun ra lửa hồng.
Chàng lao vào quân giặc.
Xác giặc chết khắp nơi.
Chúng hoảng hốt bỏ chạy,
Người dẫm lên xác người.
Khi roi sắt bị gãy,
Chàng nhổ bụi tre làng,
Đuổi giặc tận núi Sóc,
Lên đến đỉnh, và chàng
Vẫn ngồi trên lưng ngựa,
Từ từ bay lên trời,
Để lại lòng thương mến
Trong trái tim mọi người.
Đất nước hết bóng giặc,
Cuộc sống lại bình thường.
Vua, ghi công, phong tặng
Là Phù Đổng Thiên Vương.
Hàng năm người làng Gióng
Mở hội lớn thờ ngài
Vào tháng Tư âm lịch,
Khách đứng chật trong ngoài.
Vùng này, như ta biết,
Có rất nhiều hồ ao.
Đó là vết chân ngựa
Của Thánh Gióng ngày nào.
Ở đây có làng Cháy.
Số là xưa ngựa chàng
Phun lửa làm nó cháy,
Sau lại là tên làng.
Dân gian thờ Thánh Gióng,
Là một trong bốn thần,
Bốn vị thánh bất tử
Sống mãi cùng nhân dân.

THƠ THIỀN LÝ TRẦN Trích Cổ thi Tác dịch


LỜI NGƯỜI DỊCH
(Cho lần xuất bản cuốn Cổ Thi Tác Dich thứ nhất 2001)
Tôi thuộc lớp người hậu sinh, Tây học, mấy chục năm qua chỉ chuyên dịch văn thơ phương Tây, gần đây mới bắt đầu đọc nhiều và thấm thía dần cái đẹp, cái sâu lắng của thơ cổ phương Đông, đặc biệt là thơ chữ hán của các tác giả cổ điển Việt Nam và Trung Quốc. Tôi coi đó là sự thiệt thòi và lỗ hổng lớn về kiến thức. Dẫu không biết chữ Hán và sự hiểu biết về vốn cổ cũng hạn chế, càng đọc, tôi càng nung nấu ý nghĩ phải làm một cái gì đó lớn hơn sự thưởng thức đơn thuần đối với mảng thơ tuyệt vời này. Tập thơ các bạn đang cầm trên tay là kết quả của ý định đó.
Thơ chữ Hàn Việt Nam và thơ Trung Quốc là di sản chung của mọi người, mọi thời đại. Xin hãy xem công trình lao động này của tôi - dẫu còn nhiều điều chưa thỏa đáng, thậm chí có thể khó chấp nhận - như tấm lòng, tiếng nói và cách đọc hiểu của một thế hệ đối với di sản đó. Vì không biết ngôn ngữ nguyên bản, tất nhiên tôi phải dựa vào bản dịch nghĩa của người khác. Tôi đối chiếu nhiều bản khác nhau, từ đó chọn cho mình một cách hiểu và diễn đạt riêng. Nói chung, những người dịch trước tôi đều cố gắng trung thành tối đa với câu chữ nguyên bản. Đó là một quan điểm đúng và cần thiết của nghề dịch, tuy nhiên, cái giá không tránh khỏi là nhiều khi bản dịch chưa đạt được sự trong sáng và chất thơ mong muốn. Tôi có thể làm tương tự và chắc cũng khó tránh khỏi nhược điểm đó. Do vậy, tôi quyết định đi theo một hướng khác, là tập trung truyền đạt tứ thơ, hình ảnh và ấn tượng. Nghĩa là trong trường hợp cần thiết tôi sẵn sàng bỏ không dịch hoặc thay đổi một số từ và ý phụ. Nói nôm na, tôi hầu như không dịch mà viết lại. Vì thế nên mạn phép bắt chước các nhà thơ cổ, xin được đặt tên cho tập thơ này là "Cổ thi tác dịch". Có lẽ đây là một thể nghiệm sẽ gây tranh cãi, vậy tôi có mấy lời chân thành mào trước, mong được bạn đọc lượng thứ.
Tôi nghĩ ưu điểm lớn nhất của bản dịch này là lần đầu tiên người đọc có thể trực tiếp thưởng thức qua bản dịch chứ không cần tham khảo bản dịch nghĩa như xưa nay vẫn làm, vì mỗi bài dịch đã là một tác phẩm hoàn chỉnh với đầy đủ các yếu tố cần thiết để làm nên một bài thơ hay – ấn tượng, vần điệu, hình ảnh. Chuyển đạt những yếu tố trên, chứ không đơn thuần ý tưởng, là khâu khó nhất khi dịch, và cũng là mục tiêu cao nhất của tôi.
Cuối cùng, tôi chân thành cảm ơn tác giả các công trình nghiên cứu, các bản dịch nghĩa và dịch thơ mà tôi tham khảo trong quá trình làm việc, cũng như các chuyên gia văn học, ngôn ngữ và bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ.
Hà Nội 30.9.1997
Thái Bá Tân
_________________________

Lý Thường Kiệt
Tác giả: (1019-1105) anh hùng dân tộc, tên thật là Ngô Tuấn, Thường Kiệt là tên tự, sau được ban quốc tính họ Lý, thành Lý Thường Kiệt; quê ở Thăng Long; có tài thao lược, giỏi văn thơ; có công lớn trong việc xây dựng đất nước, đánh Tống, bình Chiêm.
Núi sông nước Nam
Vua Nam cai trị nước Nam này,
Sách trời ghi rõ thế xưa nay.
Cớ sao ngoại giặc liều xâm phạm,
Ta quyết không dung lũ chúng mày!
Đỗ Pháp Thuận
Tác giả: (915-990), không rõ tên thật và quê quán, là nhà thơ thế hệ thứ 10 dòng thiền Nam Phương, có kiến thức uyên bác, giỏi thơ văn, tích cực tham gia phò nhà Tiền Lê, được vua Lê Đại Hành phong làm Pháp sư.
Trả lời nhà vua(1) hỏi về ngôi nước
Ngôi nước như rồng cuốn.
Vua vô vi(2), anh minh.
Đất nước hết loạn lạc,
Nơi nơi hưởng thái bình.
Ngô Chân Lưu
Tác giả: tức Khuông Việt (933-1011), người Cát Lợi, huyện Thường Lạc, nay là Tĩnh Gia, Thanh Hóa, lúc nhỏ học đạo, lớn lên đi tu. Do nổi tiếng tinh thông Thiền học nên được Đinh Tiên Hoàng ban cho hiệu là Khuông Việt đại sư.
Lý do có lửa
Trong gỗ luôn có lửa,
Vẫn thế bao đời nay.
Nếu gỗ không có lửa,
Sao cháy được thế này?
Lâm Khu
Tác giả: tức Huệ Sinh (?-1063), người làng Đông Phù Liệt, huyện Long Đàm, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, 19 tuổi đi tu. Ông từng trụ trì nhiều nơi, được vua Lý Thái Tông yêu mến, phong đến chức Tả nhai đô tăng thống.
Trả lời Lý Thái Tông khi được hỏi về tâm nguyện
Vạn vật không mà có,
Có mà lại như không.
Khi hiểu được điều đó,
Người và Phật tương đồng.
Lý Ngọc Kiều
Tác giả: sinh 1041, mất 1113, người hương Phù Đổng, huyện Tiên Du, là con gái đầu của Phụng Càn vương, được vua Lý Thánh Tông nuôi dạy trong cung. Cuối đời di tu, pháp danh là Ni sư Diệu nhân. Bà và ỷ Lan phu nhân là hai nữ sĩ nổi tiếng đời Lý. Ngoài bài thơ này còn lưu được một bài kệ nói về bốn nỗi khổ của kiếp người.
Sinh lão bệnh tử(1)
Sinh lão và bệnh tử,
Vốn là điều tự nhiên.
Càng muốn thoát cho khỏi,
Càng bị trói chặt thêm.
Ngu muội mới cầu Phật,
Dại dột muốn mong Thiền.
Chẳng cần Thiền, cần Phật,
Hãy tĩnh tâm ngồi yên.
Vạn Trì Bát
Tác giả: Sinh 1049, mất 1117, không rõ tên thật là gì, người ở đất Lụy Châu nay thuộc vùng Hà Bắc. Đi tu từ lúc 20 tuổi. Cuối đời ông trụ trì ở chùa Tổ Phong, núi Thạch Thất và mở trường dạy học ở đấy.
Có sinh ắt có tử
Có sinh, ắt có tử.
Có tử là có sinh.
Sống chết trời định sẵn,
Sướng khổ đều do mình.
Sự đời luôn thay đổi,
Buồn vui - bóng với hình.
Ai không lo sống chết,
Mới là người thông minh.
Dương Không Lộ
Tác giả: Không rõ năm sinh, chỉ biết mất 1119, người hương Hải Thanh, nay thuộc tỉnh Hà Nam, tổ tiên vốn làm nghề chài lưới, sau ông bỏ đi tu. Ông chuyên nghiên cứu về Thiền Tông và Mật Tông, cùng Thiền sư Giác Hải thường du ngoạn những nơi danh lam thắng cảnh.
Cái nhàn của dân chài
Sông xanh muôn dặm, trời muôn dặm.
Một xóm dâu gai, một xóm mây.
Ông chài ngủ quên, trưa tỉnh dậy,
Tuyết phủ trên ghe một lớp dày.
Lý Càn Đức
Tác giả: Tức Lý Nhân Tông (1066-1128), là con trưởng của Lý Thánh Tông và ỷ Lan Phu nhân, lên ngôi năm 7 tuổi, làm vua 56 năm, được xem là ông vua nhân ái và có tài.
Khen thiền sư Giác Hải và đạo nhân Thông Huyền
Giác Hải lòng như biển.
Thông Huyền đạo rất huyền.
Thần thông và biến hóa,
Một Phật, một thần tiên.
Đoàn Văn Khâm
Tác giả: Không rõ năm sinh, năm mất, thân thế sự nghiệp cũng không rõ, chỉ biết làm tới Thượng thư bộ Công dưới triều Lý Nhân Tông (1072-1128).
Tặng thiền sư Quảng Trí
Chống gậy lên cao, rũ bụi trần,
Để ngắm mây trời ngắm sắc xuân.
Rất muốn mà không theo được Phật,
Vì áo quan trường trót vướng chân.
Viếng thiền sư(1) Quảng Trí
Xa lánh kinh thành, sống thảnh thơi.
Một mình trên núi với hoa tươi.
Những muốn theo hầu mà chưa kịp,
Nay nghe sư cụ đã qua đời.
Mộ vắng không hoa, không chữ khắc.
Sân chùa buồn bã lá vàng rơi.
Đến chùa âu cũng nguôi thương xót,
Khi thấy non sông gợi nhớ người.
Viếng thiền sư Chân Không
Nổi danh ngoài nội lẫn trong triều.
Người đến tầm sư học đạo nhiều.
Chợt gẫy nhà nhân(1) cây trí tuệ,
Rừng thiền bỗng chốc cột thông xiêu.
Sông núi như in hình chủ cũ.
Mộ bên tháp mới, cỏ tiêu điều.
Cửa chùa vắng vẻ, không ai gõ.
Khách nghe buồn bã tiếng chuông chiều.
Kiều Trí Huyền
Tác giả: Không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết sống cùng thời và là bạn của Từ Đạo Hạnh. Bản thân ông cũng là một thiền sư.
Trả lời Từ Đạo Hạnh khi được hỏi về chân tâm
Cái thiền, cái đẹp, cả lời ca,
Đều từ tay mắt Phật mà ra.
Cả vũ trụ này đâu cũng Phật.
Sao lầm, cứ tưởng Phật đâu xa?
Từ Lộ
Tác giả: tức Từ Đạo Hạnh, không rõ nơi, năm sinh, mất 1117. Ông là nhà sư thế hệ thứ 12 dòng thiền Nam Phương, tu ở chùa Thiên Phúc trên núi Phật Tích, châu Quốc Oai, nay là huyện Quốc Oai, Hà Tây.
Có và không
Có, từ hạt bụi nhỏ.
Không, cái gì cũng không.
Như hình trăng dưới nước,
Có, mà thực tình không.
Lời nhắn nhủ học trò trước khi chết
Thu về không báo nhạn cùng bay.
Cớ sao quyến luyến cõi đời này?
Môn đệ đừng buồn ta sắp mất:
Thầy xưa chết để hóa thầy nay.
Hoàng Viên Học
Tác giả: (1072-1136), người đất Như Nguyệt, có lẽ nay là Bắc Giang, tu ở chùa Đại An, thuộc huyện Tế Giang xưa, có nhiều học trò theo học.
Nghe tiếng chuông
Lục thức(1) làm ta vướng sự đời.
Cái dốt không cho thấy mặt trời.
Chuông chùa duy nhất làm ta tỉnh,
Xua cái vô minh(2), cả cái lười.
Kiều Phù
Tác giả: tức Bảo Giám, không rõ năm sinh, mất 1173, người huyện Trung Thụy, đời Lý Anh Tông, làm quan đến chức Hậu xá nhân, năm 30 tuổi từ quan, đến tu ở chùa Bảo Phúc, nay thuộc tỉnh Hòa Bình, sau ông trụ trì chùa này.
Cảm hoài
Mấy ai thành Phật nhờ đi tu,
Khi trí thông minh bị hãm tù.
Phải thấy huyền vi trong ngọc sáng,
Như thấy vầng dương giữa khói mù.
Cảm hoài
Trí tuệ như trăng sáng giữa trời,
Bao trùm thiên hạ, chiếu muôn nơi.
Muốn tìm được nó, đừng phân biệt
Cả rừng phong hoặc lá phong rơi.
Âu Đạo Huệ
Tác giả: Không rõ năm sinh, mất 1173, người Chân Hộ, đất Như Nguyệt, là nhà sư có tiếng đời Lý. Năm 15 tuổi theo học thiền sư Ngô Pháp Hoa ở chùa Phổ Ninh, sau đến trụ trì tại chùa Quang Minh, núi Thiên Phúc, huyện Tiên Du, trở thành người đứng đầu thế hệ thứ 9 dòng thiền Quan Bích, có lúc có hơn mười nghìn học trò.
Sắc thân và diệu thể(1)
Đất, nước, lửa, gió, thức -
Vốn dĩ đều là không.
Khác mây tan và hợp,
Lòng Phật sáng vô song.
Khuyết Danh
Ngẫm sự đời
Gió lùa, trăng lạnh, nước mênh mông,
Áo ấm đêm khuya vẫn buốt lòng.
Thời gian thấm thoắt trôi, già lão,
Mà việc không thành, ai biết không?
Hứa Đại Xã
Tác giả: (1119-1180) quê ở Thăng Long, lúc nhỏ theo học thiền sư Đạo Huệ, được vua Lý Anh Tông rất tin dùng.
Ngựa đá
Ngựa đá răng thật dữ,
Lại hý suốt đêm ngày.
Đường lắm người qua lại,
Người cưỡi vẫn ngồi ngay.
Nguyễn Quảng Nghiêm
Tác giả: (1121-1190) người đất Đan Phượng, là nhà sư thuộc thế hệ thứ 11 dòng thiền Quan Bích, trụ trì các chùa Phúc Thánh và Tịnh Quả.
Đừng theo bước Như Lai
Chỉ người thoát tục sống vô vi,
Mới bàn sống chết, chuyện từ bi.
Thời trẻ không nên theo đức Phật,
Làm trai phải có chí nam nhi.
Trần Cảnh
Tác giả: tức Trần Thái Tông (1218-1277), con thứ của Trần Thừa; là ông vua đầu tiên của nhà Trần, có công trong việc ổn định và đưa xã hội Việt Nam bước dần vào giai đoạn thịnh vượng; trực tiếp lãnh đạo và chiến thắng quân Nguyên lần thứ nhất. Ông đặt nền móng cho chế độ thi cử và mở mang việc học ở Việt Nam.
Gửi nhà sư Đức Sơn ở am Thanh Phong
Gió thổi trăng khuya rụng trước thềm.
Cảnh vật, lòng người đều tĩnh êm.
Bao nhiêu cái thú không ai biết,
Cứ để sư nằm, vui suốt đêm.
Văn răn ham sắc
Da phấn, tóc thơm với má đào,
Khi nhìn, ai cũng thấy nao nao.
Thực chất chỉ toàn xương với thịt,
Giết người đau đớn chẳng cần dao.
Văn răn nói càn
Khoa môi, múa mép, giả ân cần,
Cúi đầu xu nịnh để xin ăn.
Mang tiếng tiểu nhân, đời diễu cợt,
Cuối cùng cũng chuốc vạ vào thân.
Văn răn kẻ uống rượu
Chẳng qua bã gạo ủ lên men,
Mà biến người ngay thành kẻ hèn.
Nhà tan nước mất đều do rượu,
Phá cả tôn nghiêm chốn cửa thiền.
Kệ dâng hương
Chiên đàn(1) vun xới nơi vườn Tuệ,(2)
Hương thơm trầm thủy chốn rừng Thiền.
Dao từ bi vót hình cây nhọn,
Đốt lò hương nhỏ, kính dâng lên.
Kệ dâng hoa
Đất Tâm rộng mở, cõi nhân gian,
Muôn màu hoa nở, nước bình an.
Xin dâng lên Phật hoa trăm đóa,
Gió ác nghìn thu chẳng héo tàn.
Đường tới kinh đô(1)
Dọc đường cột ngựa giữa rừng cây.
Đường tới kinh đô qua lối này.
Đêm vắng, người thưa, trăng chiếu lạnh.
Trên đường những đốm sáng lung lay.
Tiễn sứ bắc Trương Hiển Khanh
Thẹn không ngọc tặng lúc chia tay.
Bùi ngùi sông núi giữa chiều mây.
Trước ngựa, gió thu ve vuốt kiếm.
Thư phòng trăng dọi, trướng lung lay.
Người nay khó giữ chim phương Bắc.
Đất lành lưu luyến cánh chim bay.
Chưa biết bao giờ mong gặp lại,
Nhân khi tiễn biệt, tặng thơ này.
Kiếp người(1)
Kiếp người - bọt sóng biển mênh mông.
Sống chết tại thiên, chớ bận lòng.
Nắng đẹp bình minh, chiều xạm tối.
Mùa xuân lá mọc, héo mùa đông.
Lã Vọng, Phan Lang đều chết cả.(2)
Thiên nhiên vận vật cứ xoay vòng.
Kiếp đời đã vậy, đừng than vãn.
Về tây nắng ngả, nước về đông.
Về bệnh tật(1)
Âm dương, tội đức cứ xoay vần.
Bể đời vì thế lắm gian truân.
Nhưng đã có thân thì có bệnh.
Bằng không có bệnh, ắt không thân.
Thuốc quý trường sinh không thể có.
Chẳng gì níu giữ tuổi thanh xuân.
Cái chính - tu thân, xa quỷ dữ,
Hàng ngày tâm niệm hướng thiên chân.(2)
Đêm mưa bão(3)
Bỗng trời nổi gió, bụi tung bay.
Ông chài say tít, mặc thuyền xoay.
Một dãy núi đồi vang tiếng sấm.
Chân trời bốn phía mịt mù mây.
Sầm sập mưa rơi như thác đổ.
Thi nhau ánh chớp xé đêm dày.
Bất chợt bão tan, trời lại tạnh.
Trăng sáng ngoài thềm - canh mấy đây?
Bài kệ khuyên mọi người lúc hoàng hôn
Hoàng hôn, mặt trời lặn
Sau dãy núi xa xa.
Thời gian trôi, khó giữ.
Người trẻ rồi cũng già.
Ai cưỡng được cái chết
Không cho đến tìm ta?
Vậy hãy lo tâm niệm,
Để xa lánh ma tà.
Kệ về lẽ vô thường(1)
(Bài một)
Sáng dậy, mặt trời mọc phía đông.
Lát sau đã thấy đứng trên không.
Mà người như thể đang mê ngủ,
Chẳng hay vạn vật vẫn xoay vòng.
Hoa nở rồi tàn, hoa lại nở.
Sự đời suy thịnh, có mà không.
Sao chẳng tĩnh tâm ngồi suy nghĩ,
Tự mình gây khổ, cứ long đong?
Kệ về lẽ vô thường
(Bài hai)
Nắng tắt, hết ngày lại đến đêm.
Đã tối, đường đời càng tối thêm.
Nhà mình đèn có mà không thắp,
Lại nhờ ánh sáng của nhà bên.
Sau núi mặt trời chưa kịp lặn.
Bên hồ trăng sáng đã nhô lên.
Sống chết luân hoàn, đời đã vậy,
Sao không niệm Phật, sớm quy thiền?
Kệ về lẽ vô thường
(Bài ba)
Trống canh giục khách tỉnh giấc nồng.
Chuông Phật nhắc người luyện đức công.
Mà người vẫn ngủ, quay về Bắc,
Mặc kệ mặt trời mọc phía Đông.
Dằng dặc đêm dài rồi cũng hết.
Đêm đời tăm tối, dốt thì không.
Nếu không nhanh chóng lo hành đạo,
Ngày nào mới gặp được Hoàng Công?(1)
Trần Tung
Tác giả: tức Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291), con trai Trần Liễu, anh ruột Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, trực tiếp cầm quân chống quân Nguyên. Ông tu Phật mà không hề xuất gia, từng theo học thiền sư Tiêu Dao. Ông rất ham mê văn thơ, các sáng tác được tập hợp trong bộ "Thượng Sĩ Ngữ lục”.
Thăm đại sư Tăng Điền
Cũng thế rừng xanh với gác lầu.
Để sống, chỗ nào chẳng giống nhau.
Người đời thấy núi cao và đẹp,
Mấy người nghe tiếng vượn khe sâu?
Gợi bảo mọi người
Thế gian ưa dối, không ưa thật.
Nhưng thật dối gì, đều bụi đất.
Muốn sang tới được bờ bên kia,(1)
Hãy hỏi trẻ con chơi trước mặt.
Chợt hứng làm thơ
Thanh thản ngồi yên chính giữa nhà,
Nhìn Côn Luân khói gợn xa xa.
Lúc mệt, thảnh thơi, tâm tự tắt,
Không thiền, không Phật, chỉ mình ta.
Cây tùng dưới khe
Cao thẳng, cây tùng mọc dưới khe,
Ở nơi vắng vẻ, núi bao che.
Chưa làm rường cột, không gì lạ,
Cỏ dại, dây leo mọc bốn bề.
Cái tâm
Cái tâm không tướng, chẳng hình hài.
Thấy nó mắt thường dễ mấy ai?
Muốn biết cái tâm cho thật rõ,
Từ chiều cứ ngủ đến canh hai.
Thơ đề ở chùa
Vừa đến cổng chùa, vội phóng tay
Đơn sơ nguệch ngoạc mấy câu này.
Kể đã khá lâu, không cầm bút,
Ba giới Như Lai(1) cũng chẳng hay.
Gợi bảo những người tu Tây Phương(1)
Phật ở trong lòng mỗi chúng ta.
Bốn phương thân pháp(2) chỉ bao la.
Trong veo bể Phật, đêm thu lắng.
Trời đêm đơn độc mảnh trăng tà.
Vui thú giang hồ
Con thuyền nho nhỏ lướt trên sông.
Ghếch lái, buông chèo chỗ uốn cong.
Chợt nghe tiếng nhạn kêu đâu đó.
Gió thu như đã thổi qua lòng.
Thời tiết yên định
Tử sinh đừng hỏi, kẻo phí lời.
Thời tiết "nhân duyên" vốn tại trời.
Mây núi nào không bay cạnh núi,
Sóng nào chẳng ở chốn xa khơi.
Hoa nở tháng Ba, luôn vẫn vậy.
Gà gáy canh năm đánh thức người.
Cái đạo, cái tâm ai thấu hiểu,
Mới biết phù du sống ở đời.
Họa thơ huyện lệnh
Chẳng kém Tứ Minh(1) về cái ngông,
Không cầu trời phật thưởng, khen công.
Giác ngộ nhiều khi chưa mà đã,
Sự đời lắm lúc có mà không.
Tiểu nhân tìm thuốc mong bất tử,
Người giỏi ung dung chẳng bận lòng.
Đi câu mà chẳng mang câu, lưới,
Thậm chí chẳng thèm ngó xuống sông.
Cái thú giang hồ
Vui thú giang hồ, cảnh núi sông
Từ lâu ấp ủ mãi trong lòng.
Bạc vàng, danh vọng không vương vấn.
Tháng ngày nhàn nhã, sống thong dong.
Buổi chiều thổi sáo, chờ trăng mọc.
Sáng cắm thuyền câu chính giữa dòng.
Tạ Tam(1) thật tiếc không còn nữa,
Còn lại chiếc thuyền ghếch bãi nông.
Trình thiền sư Tiêu Dao ở Phúc Đường(2)
Lâu nay xa phong thái, kiều ngụ ở thôn hoang. Sâm thương thân cách phương trời, loạn phương ý hằng chung bóng. Khúc hát "vô sinh", thảnh thơi cất tiếng. Công ơn pháp nhũ, gọi chút đền bù.tạm viết đôi lời, dưới tòa trình tiến.
Ở nơi thôn dã sống qua ngày,
Nhưng ơn Tứ Trọng(2) vẫn sâu dày.
Nhờ được gặp luôn, đầu đỡ tối/
Lòng dù đã nguội, vẫn lòng ngay.
Mùa xuân ngồi ngắm hoa đào nở.
Thu về, nhàn nhã ngắm mây bay.
Hôm nọ đến thăm, ngài chỉ giáo,
Bây giờ xin gảy đàn không dây.(3)
Cảnh vật Phúc Đường
Phúc Đường, phong cảnh thật thanh tao.
Gió thiền vi vút thổi trên cao.
Bên bờ dâu mục chồi măng mọc,
Trước cửa hàng thông lá xạc xào.
Người giỏi náu mình chờ dịp tốt.
Thú lành trong núi vẫn nhiều sao.
Mặt trời Đức Phật rồi sẽ mọc.
Từ sân tới ngõ rợp hoa đào.
Khuyên đời vào đạo
Xuân hết đến hè, năm tháng qua.
Rất nhanh, người trẻ hoá thành già.
Sầu muộn luôn theo cùng tuổi tác.
Sang giàu rút cục chỉ phù hoa.
Bể "khổ" là đời, thường vẫn vậy,
Sông "yêu" mang lại lắm phiền hà.(1)
Cứ mãi buông mình theo dục vọng,
Có ngày tai hoạ đến tìm ta.
Chợt tỉnh
Giữa "không" và "có" chẳng bao xa.
Xưa nay sống chết - một thôi mà.
Hoa nở năm nay - hoa năm ngoái.
Trăng sáng bây giờ - trăng tối qua.
Thấm thoắt "ba sinh"(1) như gió thoảng.
Tuần hoàn "chín cõi"(2) kiếp phù hoa.
Vậy sống thế nào là tốt nhất?
Ma ha bát nhã, tát - bà - ha?(3)
Lui về ở ẩn
Ở đời, phúc họa đến song song.
Nơi này thanh tịch sống thong dong.
Sáng ngắm chim bay trên sóng biển.
Chiều xem mây khói phủ kín đồng.
Thẹn đời điên loạn, thân nhơ bẩn.
Mừng nước chưa suy, sạch tấm lòng.
Đêm đêm mơ thấy quan âm Phật.
Sóng thu vừa cạn lại vừa trong.

THƠ SAY - ÔMA KHAYYAM

BÀI NÀY CŨNG CỰC KỲ. NÊN ĐỌC. MỖI SỐ LÀ MỘT BÀ ĐỘC LẬP
Ôma Khayyam sinh năm 1040 ở thành phố Nissapurê (miền đông Iran ngày nay), lớn lên nổi tiếng khắp cả vùng Trung Á rộng lớn như một nhà triết học, toán học, thiên văn học kiệt xuất của thời đại. Ông được vua chúa nhiều nước mời đến triều đình làm việc, là tác giả một loạt tác phẩm quan trọng về vật lý và toán học. Cuộc đời ông đầy những năm tháng lưu lạc và gian khổ. Ông đi nhiều, lang thang hết nước này đến nước khác, cuối cùng trở về thành phố quê hương và mất ở đó vào năm 1112. Hiện nay vẫn còn giữ được lăng mộ của ông ở Nisapurê.
Ôma Khayyam chỉ viết thơ trong những phút rảnh rỗi và buồn chán. So với các công trình khoa học, di sản 450 bài bốn câu (rubai) của ông không lớn. Cho mãi tới thế kỷ 19, khi chưa được người châu Âu “phát hiện”, ông hầu như chỉ được biết đến như một nhà khoa học. Sau sự phát hiện đó, nghĩa là sau bản dịch tiếng Anh 75 bài của Fitzgerald (1809 – 1883) năm 1859, ông “đột nhiên” trở thành nhà thơ nước ngoài được ưa thích nhất ở châu Âu và châu Mỹ. Lúc ấy đã xuất hiện, có nơi còn giữ đến ngày nay, nhiều quán rượu và câu lạc bộ say mang tên ông.
Tap chi VAN HOC NUOC NGOAI lan nay xin gioi thieu voi ban doc nhung bai tho bon cau ve de tai ruou cua ong, ma chung toi tam goi la THO SAY OMAR KHAYYAM, qua ban dich cua dich gia quen biet THAI BA TN.
7
Ai cũng biết là Khayam già yếu,
Ai cũng biết là Khayam nghiện rượu,
Nhưng chẳng ai hay chính nhờ rượu, Khayam
Mới thắng nổi cái buồn và cái yếu.
8
Khi đang tỉnh, như cua, tôi cứng đờ, gượng gạo.
Nhưng khi say đầu óc tôi không tỉnh táo,
Nên khoảng cách thiên thần giữa tỉnh và say
Là cái đích tôi tôn thờ, tôi mộng ảo.
14
Bỏ nhà thờ, anh em, ta vào quán.
Trước ông chủ ta cầu kinh không nản.
Cuộc sống ta, ta để mất ở nhà thờ,
Giờ lại thấy trong cốc này, các bạn.
15
Ở đời này khi say là tốt nhất.
Nghe cô gái hát hay là tốt nhất.
Và tốt nhất là người được suy nghĩ tự do,
Bao điều cấm không hay là tốt nhất.
17
Thằng nghèo tưởng mình là vua, khi say.
Con gà tưởng mình là công, khi say.
Và khi say người già thấy mình trẻ lại,
Người trẻ thông minh như người già, khi say.
19
Hạnh phúc là cái gì? Chẳng là gì, đúng thế.
Chết, anh để lại gì? Chẳng để gì, đúng thế.
Tôi đã sống say sưa, tất cả tưởng của mình,
Nhưng nhìn kỹ hóa ra chẳng có gì, đúng thế.
22
Cả vương quốc Trung Hoa, cốc rượu này đáng giá.
Cả vườn tiên đầy hoa cốc rượu này đáng giá.
Cay đắng tất nhiên là mùi vị cốc này,
Nhưng tuy thế còn hơn bao ngọt ngào xảo trá.
26
Cầm chiếc bình trên tay, tôi khoái trá
Cười, giơ cao, ném tung vào tảng đá.
"Này, đừng quên, - bình nói, - một ngày kia
Rồi người ta cũng ném anh vào đá!"
27
Thà uống rượu cho tiêu tan mệt mỏi,
Hơn buồn đau nhớ ngày xưa chói lọi.
Khi không say anh tự trói lòng mình,
Nhưng chén rượu sẽ giúp anh cởi trói.
47
Nếu cứ vậy suốt đời anh chỉ tìm lạc thú.
Lo rượu, gái, vui chơi, lo tiền tài có đủ,
Thì tất cả trước sau anh cũng bỏ mà thôi.
Vì đời là giấc mơ - đến bao giờ anh định ngủ?
48
Kìa mây đen lại rơi nước mắt!
Khi không say nhìn cảnh này buồn thật.
Vì hôm nay tôi trên cỏ nằm chơi,
Nhưng ngày mai tôi đã nằm dưới đất.
49
Hãy tìm rượu, quẳng sách kinh ở đấy.
Chân lý nhà chùa trong cốc này mới thấy.
Sư không ôm nổi váy đời mình,
Thì hãy lại ôm váy nàng kia vậy.
50
Tìm rượu ngon, tìm cái vui, cái lạ,
Tôi bỗng thấy bông hồng khô trong lá.
"Ôi hoa ơi, sao nông nỗi thế này?"
"Vì trước kia tôi say và vui quá".
52
Giữa vườn hoa, người yêu, ly rượu nhỏ -
Là thiên đường xưa nay tôi muốn có.
Khi chưa ai được hưởng thú trên trời,
Thì vui tạm dưới này, trên bãi cỏ.
55
Sau cơn mưa, hoa hồng chưa khô.
Trong tim tôi nhiệt tình chưa khô.
Đóng quán sớm làm gì, ông chủ,
Nắng còn vương trên kính, chưa khô.
56
Chỉ là bóng những gì anh đang thấy.
Chỉ cái vỏ bề ngoài anh đang thấy.
Không ai thấy phần trong, đừng cố thấy làm gì.
Hãy ngồi xuống mà uống bia đi vậy.
57
Tôi uống rượu không phải vì thích uống,
Cũng chẳng phải để tìm vui tôi uống.
Tôi uống vì nay tất cả trên đời
Tôi muốn quên, để giải sầu tôi uống.
60
Cứ la cà hết quán này, quán nọ,
Suốt đời say, tự do như ngọn gió.
Hãy cầm dao đứng đón dọc đường,
Cướp thằng giàu chia cho kẻ khó.
63
Trái tim là anh mù, luôn chui đầu vào bẫy,
Để cám dỗ gạt lừa, để thiên thần xúi bậy.
Trong nhà thờ làm lính mới không vui,
Thà ra quán, Khayam, mà làm vua ở đấy.
68
Này anh ngốc, anh đang sa vào bẫy
Của cuộc đời rất phù hoa, tôi thấy.
Anh đi đâu vội thế? Hãy cho tôi
Một cốc rượu rồi đường anh, anh cứ chạy.
71
Trước mặt mọi người anh làm tôi phải bẽ.
Anh gọi tôi thằng say và mắng tôi thậm tệ.
Được, không sao, tôi có thể nghe anh,
Nhưng anh xứng hay chưa để gọi tôi như thế?
78
Trong hư ảo đời này bao lâu tôi phải bước?
Đến bao giờ tôi thôi không làm anh hài hước?
Tôi chán lắm rồi cái cặn bã nhà ngươi,
Như cặn rượu cốc kia, ước gì tôi đổ được!
81
Ta không thể ngăn thời gian, không thể,
cả anh cả tôi.
Và cũng chết như nhau thôi, cũng thế,
cả anh cả tôi.
Nhưng khi ta nâng cốc rượu, tức là
Chân lý ở trong tay ta, quả thế -
cả anh cả tôi.
82
Dù bị cấm, rượu ngon là cám dỗ.
Được người yêu đưa cho - càng cám dỗ.
Cả thế gian là quán rượu đắt hàng,
Gì bị cấm, xưa nay đều cám dỗ.
83
Anh thất tình và rồi anh buồn đau?
Cứ phớt lờ tất cả.
Khóc làm gì, ta hãy uống cùng nhau!
Cứ phớt lờ tất cả.
Khi không say, tôi buồn than không ít,
Nhưng khi say, tôi đếch cần, hơi đâu!
Cứ phớt lờ tất cả.
89
Thật đáng thương cho trái tim không yêu.
Thật đáng thương cho trái tim đang yêu.
Nếu anh sống ngày nào mà không say ngày ấy.
Thì đời anh, anh để hoài bao nhiêu.
90
Hơn một nửa bạn bè tôi đã chết,
Số phận ta đều giống nhau phần kết.
Không ít kẻ cùng ta mới nâng cốc hôm nào,
Thế mà cốc đời mình nay uống hết.
103
Cứ yêu đi, cứ say đi, bởi lẽ
Không dại gì làm vua quan bệ vệ,
Vì thượng đế trên cao, tôi thừa biết, đếch cần
Cả râu tôi, cả ria anh đẹp thế.
105
Thật tội nghiệp những người than với khóc,
Hay để bụng, cứ bắt mình khó nhọc.
Hãy hát đi khi chưa đứt dây đàn.
Hãy uống đi chừng nào chưa vỡ cốc.
107
Bằng cái đẹp, bằng hương hoa, đời này
Đã làm Khayyam yêu và say.
Nhưng dòng suối của cuộc đời cứ cạn,
Muốn hay không, anh cũng đành bó tay.
109
Hãy mang rượu ra đây, đừng ỡm ờ!
Rót nữa đi, rót đầy, ngay bây giờ!
Già không nên giả vờ không uống,
Vì không uống lúc này thì bao giờ?
112
Rót nữa đi, chủ quán, rót vào đây
Thứ nước thần tôi uống đến kỳ say.
Cho đến khi con người tôi bèo bọt
Bị vắt thành chiếc cốc cầm trên tay.
113
Nếu đời tôi nằm trong tay thượng đế,
Và không ai thèm hỏi tôi như thế,
Thì rót đi, rót thêm nữa, nỗi buồn
Tôi cùng uống theo cốc này luôn thể.
117
Tôi bị gọi là thằng say - Quả đúng thế,
Thằng bất lương, thằng mặt dày - Quả đúng thế.
Nhưng tôi vẫn là tôi, nói gì mặc kệ,
Vẫn là Khayam này! - Quả đúng thế.
125
Tôi nghe nói thiên đường đầy suối mật,
Có đồng cỏ, có vườn cây đẹp nhất.
Rót rượu đi, tôi chẳng thiết thiên đường,
Tôi chỉ thích cốc này trên trái đất.
129
Hãy rót nữa, rót cho tôi, rót nữa,
Cho mặt tôi đỏ bừng lên như lửa.
Khi tôi chết, quan tài xin cứ cột dây nho,
Còn xác tôi - lấy rượu vang mà rửa
130
Tôi sẽ say cho tới ngày xuống mộ,
Cho mộ tôi cũng bốc mùi rượu đỏ,
Cho anh say đến viếng mộ thăm tôi.
Trở thành say gấp mấy lần trước đó.
131
Ta cần rượu và tình yêu; thượng đế
Cần nhà thờ và sách kinh - Đã thế,
Sao lỗi lại do ta, nếu mọi cái trên đời
Được định đoạt bởi bàn tay thượng đế?
132
Tôi cứ yêu, cứ say và cứ chén.
Tôi điên ư? Ngốc ư? Và đáng thẹn?
Ồ không sao! Cái phải đến, đến đi,
Vì cũng chẳng xấu hơn điều đã đến
141
Sống - tôi biết, chết với tôi - không lạ
Thế giới này tôi đi, nhìn, thấy cả
Và nhận thấy khắp nơi không thể có cái gì
Bằng cái say, bằng cái say vô giá.
146
Muốn thì uống, nhưng trí khôn đừng để mất.
Cái cảm giác đủ và thừa đừng để mất.
Đừng để ai đáng kính phải mếch lòng,
Và bạn tốt, đừng vì say mà để mất.
150
Ê, quan tòa luôn trang nghiêm, xin nói thật:
Anh tuy tỉnh mà xấu hơn thằng say nhất.
Tôi uống rượu nho, nhưng anh uống máu người,
Ai ác hơn - tôi hay anh? Xin hỏi thật!
151
Tớ là thằng đáng khinh, và càn rỡ?
Tớ không buồn, và thánh thần - đếch sợ.
Mặc, cứ say, và cốc rượu của mình
Tớ không xin, mà bắt mang cho tớ!
152
Nếu bên cạnh là một cô má đỏ
Nằm rót rượu cho tôi trên thảm cỏ,
Thì tôi chỉ là ngu, đáng khinh bỉ, chê cười
Nếu còn mơ một thiên đường nào đó.
154
Nếu tôi uống và say, không đứng nổi,
Thì thượng đế phải khen, không bắt tội,
Vì thế là tôi đã làm đúng ý ngài -
Ngài sinh tôi để say và phạm lỗi!
157
Vâng, tôi uống, nhưng không say, không truỵ lạc
Tôi uống rượu để tìm vui, xua cái ác.
Tôi cúi đầu thờ cốc rượu của tôi
Còn hơn anh cúi đầu thờ kẻ khác.
159
Đôi mắt tôi thích nhìn các cô nàng xinh nhất.
Đôi tay tôi thích cầm cốc rượu ngon, chén mật.
Tôi cố kiếm niềm vui, từng tí một cho mình,
Khi từng tí đời tôi chưa bị vùi xuống đất.
160
Chiếc bình này, như tôi, từng là anh ngu ngốc,
Từng si mê các nàng, từ hàm răng, mái tóc.
Các bạn hãy nhìn kia, chiếc tay xách trên bình
Là cánh tay từng ôm những tấm thân ngà ngọc.
163
Đừng chê người uống say không đứng nổi.
Hãy cố sống chân tình, không giả dối.
Anh không say, nhưng chớ vội tự hào -
Xấu hơn say là việc làm tội lỗi.
164
Cả giàu, đói, sang, hèn - tôi, các bạn
Vừa ngủ dậy là kéo nhau đến quán.
Cốc rượu vang ta cứ việc rót đầy,
Chừng nào cốc đời ta chưa uống cạn.
167
Chân lý này anh ngốc nào cũng biết:
Ta bỏ rượu là nhà hàng sẽ chết.
Ta mà thôi phạm tội, chúa trời
Chẳng còn biết cứu ai - càng đỡ mệt!
168
Cốc rượu này uống đi, vì trăng hoa trong đó,
Vì tuổi trẻ, niềm vui và bài ca trong đó.
Hãy ngồi xuống cùng nhau say một chút, đỡ buồn.
Cốc rượu này uống đi, vì đời ta trong đó.
170
Dù ăn no, rượu ngon, không phải làm việc nặng,
Dù cô gái anh yêu đôi má hồng, da trắng,
Dù có bạn tâm tình, dù nghe nhạc, tim anh
Cũng không thể bình yên, nếu lòng anh lo lắng.
179
Thật bất hạnh cho ai lửa trong lòng nguội tắt,
Không yêu ghét, buồn vui... Và anh, tôi nói thật,
Sống không có người yêu,
không uống rượu ngày nào,
Thì ngày ấy cứ xem anh hoàn toàn để mất.
184
Thêm một ngày mùa xuân đang nở rộ.
Như hạt ngọc sương treo trên lá cỏ,
Chim hoạ mi lại quyến rũ hoa hồng,
Mời hoa uống cốc rượu màu máu đỏ.
185
Ai nhức đầu - uống rượu vào sẽ hết!
Ai cãi nhau - uống rượu vào sẽ hết!
Hãy tin tôi, tôi đã nghiệm nhiều lần:
Ai buồn đau - uống rượu vào sẽ hết!
191
Rượu chỉ cấm với những người ngu ngốc
Chứ không phải người thông minh, có học.
Uống rượu là cần, nếu anh biết rằng anh
Uống với ai, bao giờ và mấy cốc!
192
Cốc rượu ngon hơn lời khuyên thượng đế,
Hơn vàng bạc, hơn lâu đài tráng lệ.
Đời mà không có rượu, sống làm gì?
Chỉ còn lại cái đau và buồn tẻ!
193
Từng cánh tuyết trên trời đang rơi xuống xa xa,
Nghĩa là ở trên trời vườn thượng giới ra hoa.
Nào các bạn, cùng tôi, hãy rót đầy, nâng cốc
Mừng thượng đế lòng lành gửi cái đẹp cho ta!
195
Khi xung quanh cảnh đẹp thế này,
Chỉ thằng ngốc mới không muốn say,
Chao, trăng sáng, hoa hồng thơm, chim hót.
Chưa giọt nào mà đã thấy ngất ngây!
197
Suốt ngày đêm phải ăn chay, nhịn đói,
Trời còn bắt tụng kinh - tôi mệt mỏi,
Nên lẫn lộn lung tung, tôi uống rượu vì nhầm,
Chắc vì thế, trời sẽ không bắt tội.
199
Hạnh phúc hết còn gì, ngoài cái tên vô vị?
Trong số bạn bè tôi chỉ rượu là chung thuỷ.
Tôi cũng chẳng bao giờ từ bỏ nó, vì sao?
Vì duy nhất với tôi nó là người tri kỷ!
200
Người thì lo chúi đầu vào chiếc cốc,
Người thì cầm sách kinh, không ngớt đọc.
Ở đời này chỉ thượng đế là khôn
Còn chúng ta ai cũng mù, cũng ngốc!
201
Thần chết bắt bạn tôi xuống mồ sâu mãi mãi,
Mà thiếu họ cuộc đời thành cô đơn trống trải.
Mới uống rượu cùng nhau còn đông đủ ngày nào,
Họ say trước, ra đi, giờ mình tôi ở lại.
202
Ngồi làm việc đến đầu đau, hông vẹo
Giới học giả không anh nào to béo,
Nên ở đời, chưa được chén nho tươi,
Thân xác họ đã thành nho khô héo.
206
Sự độc ác của đời khiến tôi luôn sửng sốt,
Đến mức ngủ không ngon, trái tim đầy đau xót.
Cái gáo nhỏ đầu tôi đầy ý nghĩ buồn rầu,
Giá nó đầy rượu thơm và ngon thì thật tốt.
208
Hãy cứ uống, cứ vui cho đến lúc
Chẳng còn sống để uống, vui hạnh phúc.
Chỉ thằng ngu mới tin ở thiên đường,
Tin ngọn lửa thiêu người nơi địa ngục.
209
Mỗi lần say, giữa khi đang vui nhất,
Hết cốc này đến cốc kia ngây ngất,
Tôi chỉ xin các bạn nhớ một điều:
Các bạn vui mà Khayam vắng mặt!
210
Cái chân lý sau đây, ừ thì xưa, thì cổ,
Nhưng nhắc lại không thừa:
"Uong di, đừng nhăn nhó,
Vì lưỡi hái thời gian sớm muộn sẽ cắt anh,
Mà anh chẳng mọc thêm, anh đâu là ngọn cỏ!"
211
Anh uống rượu, anh yêu - chẳng có gì đáng ghét.
Bỏ cầu kinh, phá chay - cũng không là tội chết.
Chỉ cần anh không tham, chân thật với mọi người,
Các tội khác nhỏ to sẽ được trời tha hết.
212
Những tia nắng đầu tiên đẹp không, anh bạn trẻ?
Hãy rót rượu uống đi, mừng một ngày mới mẻ.
Giây phút này kỳ diệu sắp đi qua,
Mà tìm lại xưa nay đâu phải là chuyện dễ!
213
Cuộc đời này xấu xa, bất công và ngu ngốc
Đang đầu độc đời tôi bằng rượu pha thuốc độc.
Tôi hèn nhát, sợ đau, không muốn chết từ từ,
Nên tôi uống một hơi, uống ngay cho hết cốc!
215
Không ai cấm ta ngồi uống vài ba chén nhỏ
Với những người ta yêu, người thông minh đức độ.
Nhưng nhớ uống vừa vừa,
thỉnh thoảng uống làm vui,
Và đặc biệt không nên khoe say, không báng bổ!
219
Tôi nghe nói xưa nay rượu là nguồn bất tử,
Nên tôi áp đôi môi vào miệng bình, muốn thử.
Chiếc bình đất thì thầm tha thiết, vẻ van xin:
"Hôn em đi, trước kia chính em là vũ nữ!"
228
Nhiều gái đẹp, nhiều rượu ngon một lúc
Tôi càng say, lòng tràn trề hạnh phúc,
Như thể tôi đang ở tít thiên đường,
Thoát khỏi các buồn lo nơi thế tục.
231
Mong thần chết bắt tôi đi mãi mãi,
Rồi dẫm tôi thành đất xanh mềm mại,
Để người ta vắt đất ấy thành bình.
Ngửi thấy rượu, biết đâu tôi sống lại.
233
Tôi nghĩ ta không người nào có thể
Sống hai lần ở đời này vui vẻ,
Nên chừng nào thần chết vẫn chưa tha
Thì hãy uống, đừng kiêng khem như thế.
234
Nếu cuộc sống mỏng manh, chỉ vài giây là hết,
Thì không say, không yêu, theo tôi là tội chết.
Các tu sĩ ngày đêm mơ ước chốn thiên đường.
Tôi những muốn bật cười, thấy vừa thương vừa ghét.
236
Lại lần nữa họa mi hót véo von,
Hoa lại nở, làm ngây ngất tâm hồn,
Hãy uống đi, uống mùi hương thơm dịu,
Uống vào lòng cả tình yêu, cái hôn
238
Anh đừng trách ở đời cái gì rồi cũng mất.
Sống ngày nào cứ vui. Hãy nghe tôi nói thật:
Nếu mọi cái ở đời mà vĩnh cửu, bền lâu
Thì chẳng đến lượt anh được sinh trên trái đất.
240
Thà im tiếng còn hơn nổi danh nhưng nhục nhã.
Cũng đừng trách cuộc đời, đời thế thôi, đừng lạ.
Tôi, Khayyam, thích nổi tiếng thằng say,
Hơn được khen thông minh
nhưng bất lương, xảo trá.
243
Cùng bạn say cứ ăn chơi, cứ tán.
Đừng ăn chay, đừng tụng kinh buồn chán.
Tôi, Khayam, xin khuyên thật thế này:
"Uống, ăn đi, và đừng ky với bạn"
244
Lại lần nữa tim tôi buồn, lo sợ.
Vì người yêu đã bỏ đi vô cớ.
Người ta mang cốc rượu đến cho tôi.
Cốc đựng máu của trái tim tan vỡ.
247
Đừng quá chén mà thành say bí tỉ.
Đừng xúc phạm bạn bè, đừng mất trí.
Cả khi say anh vẫn phải là người
Tốt, vui vẻ, dễ thương và tế nhị.
249
Sáng hối hận rằng đêm qua quá say.
Tôi quyết tâm bỏ uống rượu hàng ngày.
Nhưng bây giờ tôi tiếc mình bỏ rượu.
Hãy nhìn kia - hoa nở đẹp thế này.
250
Thà bị lạc giữa những nàng xinh trẻ.
Hơn giữa những cuốn sách dày buồn tẻ.
Khi thời gian chưa uống hết máu anh.
Hãy uống máu những chùm nho đẫm lệ.
251
Ai nghiện rượu đến lấy râu quét quán.
Người ấy sống tự do, không buồn chán.
Không có ăn, túi rỗng, cũng bất cần.
Trời có sụp, vẫn vênh râu bình thản.
252
Tôi đã sống thật ngu và vô lý.
Tôi uống rượu mà nhạt phèo, vô vị.
Tiếc rằng tôi đã làm trái ý trời.
Tiếc phần lớn đời tôi, tôi bỏ phí.
255
Sống chỉ cần sáu mươi năm thanh thản.
Không cần giàu, chỉ cần nhiều bè bạn.
Và khi anh chưa bị vắt thành bình.
Hãy làm bạn với bình khi buồn chán.
261
Ai ở đây hiểu ta bằng chủ quán?
Trước ông ta đừng kiêu căng, đừng phán.
Theo luật chung, hãy can đảm, đừng chờ.
Đã vào đây ai cũng là bè bạn!
262
Cứ uống đi, từ thời xa xưa nhất
Những người chết thường nằm yên dưới đất.
Ở đời này mọi cái giả, phù du.
Chỉ duy nhất điều này là có thật.
265
Nếu bia rượu trong nhà ta có sẵn.
Thì hãy uống, uống cho tiêu buồn chán.
Đừng lo trời đang theo dõi bắt anh:
Không có ta, ngài cũng thừa cái bận.
266
Cốc rượu toả mùi thơm như hương hồng ngây ngất.
Ta uống rượu, tưởng khôn, nhưng hoá ra ngu nhất.
Nó moi hết ruột gan, cám dỗ, khiến ta nhầm.
Ta tưởng ta lên trời, nhưng lại chui xuống đất.
267
Đang say rượu, bước đi, tôi lớ ngớ
Để bình rơi, may mà bình không vỡ.
Tôi thầm ơn thượng đế, bởi đời này
Tuy không rơi, đã quá nhiều bình vỡ.
273
Chúng ta uống vì chúng ta vui vẻ.
Vì bên ta là những cô gái trẻ.
Bọn người điên gọi ta là điên
Ừ thì điên, ta say nhưng tử tế.
280
Thời chúng ta người thông minh nghèo khổ.
Thằng ngu dốt thì chức quyền, giàu có.
Hay nên chăng uống rượu để thành ngu,
Để có chức, có tiền như chúng nó?
281
Ngày lại ngày, như mặt trời mới dậy
Tôi lại uống rượu nho vàng rực cháy.
Người ta đồn chân lý đắng và cay.
Thế thì nó trong cốc này, chắc vậy.
283
Không có rượu - cốc này thật đáng ghét.
Chai trở thành vô hồn khi rượu hết.
Bạn Khayyam chỉ duy nhất cốc này
Từ khi biết mùi men cho đến chết.
284
Anh đang yêu? - Thì cùng bạn cứ say.
Cứ múa hát và đàn đúm suốt ngày.
Mặc người tỉnh suốt đời lo với nghĩ.
Đừng bao giờ để cốc rượu rời tay.
287
Kinh Côran - cả các nhà hiền triết
Cũng mất gần một năm mới đọc hết
Nhưng thơ khắc trên cốc rượu, thằng say
Không biết chữ mà đọc thông, thật tuyệt.
288
Hỡi cô gái tôi yêu, hãy dập tắt
Lửa tình yêu bằng rượu vang ngon nhất.
Hãy mang thêm để ta uống cùng say,
Trước khi chết bị vắt thành bình đất.
290
Lòng sáng hơn khi cốc rượu trên tay.
Cuộc đời trôi rất lặng lẽ từng giây.
Tuổi trẻ, tình yêu chỉ thoáng qua, hãy nhớ.
Mà thần chết luôn chờ anh đêm ngày.
291
Hoa hồng đẹp, còn long lanh sương đêm.
Nhưng hoa hồng không đẹp bằng mắt em.
Anh tự bảo: Khayyam, đừng buồn nữa,
Vì ít ra, anh còn ở bên em.
294
Không phải tìm cái vui thấp hèn.
Cũng chẳng vì tôi say hay điên,
Mà xấu hổ vì sống không mục đích,
Tôi uống rượu để tìm lãng quên.
296
Tôi nhấn chìm tuổi xuân trong cái say.
Không có rượu, chẳng đáng sống đời này.
Cay đắng, niềm vui bao nhiêu năm, tất cả
Trong chiếc cốc tôi đang cầm trên tay.
297
Hoa mới nở, hoa đã lại tàn rồi.
Ta cũng thế, cả anh và cả tôi.
Vậy uống đi, hái hoa đi, bởi lẽ
Đời chỉ đẹp trong nháy mắt mà thôi.
300
Cuộc đời này mà không còn tiếng nhạc -
chẳng là gì.
Thiếu rượu nho và con nai ngơ ngác -
chẳng là gì.
Vậy vui đi, say đi khi biết mình sống tạm.
Vì thực chất trên đời mọi điều khác
chẳng là gì.
302
Anh may mắn và làm ăn thành công -
Sao cốc cạn và bình rượu trống không?
Hãy uống đi, vì thời gian chắc chắn
Mai sẽ lại lột trần anh, biết không?
307
Anh cứ đi thật nhiều rồi sẽ rõ
Rằng không gì hay hơn ly rượu nhỏ.
Như rõ ràng tiếng thủ thỉ người yêu
Nghe hay hơn lời cầu kinh cha cố.
308
Dưới khóm hoa, bên bờ khe mát lạnh
Hãy cùng bạn vui chơi, ngắm cảnh.
Vì ở đời, ai thờ rượu, Khayyam.
Người ấy chẳng bao giờ thờ ảnh thánh.
316
Tôi thì rượu và tình, anh - nhà thờ.
Tôi địa ngục, anh - thiên đường đang chờ.
Ta không có lỗi gì vì số phận
Được thượng đế định trước từ bao giờ.
317
Một khi ta không làm chủ cuộc đời,
Thì thả sức cứ say và cứ chơi.
Đừng sợ chết, đừng buồn, đừng oán trách,
Đừng phí công làm trái lại ý trời.
318
Người thông minh thường vẫn dạy chúng ta:
Ai mộ đạo, thấy rượu phải lánh xa.
Không, Alla không cấm ta uống rượu.
Mà ngược lại, ngài nói: "Maixara!"(1)
319
Nào anh bạn, hãy mang rượu ra đây.
Ta vỏn vẹn chỉ được sống hai ngày.
Đừng sợ gì, đừng trách ai, dũng cảm
Đón mọi điều, đón bằng cả hai tay.
321
Đời cứ trôi, chẳng thèm nghe ai cả.
Thiếu rượu, tình - không có gì đáng giá.
Sau chúng ta người khác sẽ lên thay,
Như hết xuân tất nhiên là đến hạ.
322
Cứ để tim lửa tình luôn rực cháy.
Cứ để cốc rượu luôn đầy, cứ vậy.
Trời cho ta quyền hối lỗi, nhưng tôi,
Tôi tuyên bố khước từ ân huệ ấy.
324
Hết khổ đau, ta sẽ được tự do.
Nhịn đói nhiều, ta sẽ được ăn no.
Tiền bạc hết, sẽ có ngày có lại.
Cốc rượu cạn rồi lại đầy, đừng lo.
325
Tôi bị bệnh, phải nằm yên một chỗ.
Rượu bị cấm, càng làm tôi thêm khổ.
Không, vứt xa những thứ thuốc này đi.
Chữa bệnh tôi chỉ có ly rượu nhỏ.
326
Quyến rũ tôi là phụ nữ lả lơi.
Là cốc rượu làm say đến lịm người.
Tôi muốn hưởng mọi niềm vui trần tục
Cho đến khi bị tống ra khỏi đời.
328
Vì trí thức bây giờ không được giá,
Và thằng ngu đang trị vì thiên hạ,
Nên tôi say, tôi uống để thành ngu.
Mong nhờ thế thành giàu và danh giá.
329
Đừng buồn đau vẩn vơ, đừng cay cú.
Đừng trách đời cho anh lãnh đủ.
Nhớ: Bên anh thần chết vẫn luôn chờ.
Và hạnh phúc là uống say, đi ngủ.
330
Đời là chuỗi buồn đau và khó nhọc.
Ít tiếng cười mà quá nhiều tiếng khóc.
Này anh kia, hãy vứt hết sách kinh.
Hãy uống rượu, và uống xong - đập cốc!
331
Vô lo tỉnh, vô lo cứ ngủ say.
Bao cái buồn phải xua hết; hôm nay
Khi chính anh thành bình chưa bị vắt
Thì phải vui, cốc rượu phải rót đầy.
332
Tôi - cốc rượu trên bàn tay run rẩy.
Anh, thằng ngốc, cầm sách Kinh - thế đấy.
Rượu luôn làm tôi ướt, anh khô.
Xuống địa ngục thì anh càng dễ cháy.
334
Tia nắng sớm vừa xuyên qua cửa sổ.
Phải đánh cốc, rót đầy ngay rượu đỏ.
Rượu nghe đồn là thuốc độc - không sao.
Và chân lý vẫn luôn nằm trong nó.
335
Các bí mật cuộc đời không ai biết.
Cũng chẳng ai biết được ngày mình chết.
Hãy uống đi, đời ngắn lắm, uống đi.
Kẻo chết sớm, cốc này không uống hết.
339
Ta được dạy chỉ một điều buồn tẻ:
"Sống tử tế sẽ thành ma tử tế."
Vậy thì tôi suốt đời yêu và say.
Hy vọng chết cũng trở thành như thế.
340
Hãy vui lên, đừng tham, đừng cáu giận.
Tìm mọi cách mà chiều lòng số phận.
Đừng bao giờ xa rượu, xa người yêu
Cũng đừng quên cuộc đời này rất ngắn.
341
Sống mà không biết say, luôn cau có
Thì thật ngốc, hoặc ít ra, thật khổ.
Bản thân tôi được rượu dạy điều này:
"Cứ uống đi, rồi mọi điều sẽ rõ."
343
Lại lần nữa hoa hồng nở đầy.
Hãy cho người mang rượu ra đây.
Hãy quên đi thiên đường, địa ngục -
Chỉ trẻ con mới tin chuyện này.
347
Tôi chỉ uống với bạn bè - thế đấy.
Tôi uống rượu vì ý trời muốn vậy.
Nên bảo tôi bỏ rượu, khó vô cùng.
Ai dám trái lời ngài đã dạy?
349
Ta, người trần, liệu được sống bao lâu?
Hãy vứt ngay câu hỏi ấy khỏi đầu.
Đừng cố tránh cái điều không thể tránh.
Còn bây giờ, hãy rót rượu ra mau!
351
Kể từ ngày được sinh trên trái đất
Tôi hiểu rượu chính là điều hay nhất
Tôi ngạc nhiên thấy rượu bán rất nhiều.
Ngạc nhiên hơn - giá cũng không quá đắt.
352
Càng về già, càng uống nhiều cho bõ.
Rượu giúp ta quên mọi điều đau khổ.
Tôi chết đi, hãy lấy rượu lau người.
Nhớ trồng giúp một giàn nho trên mộ.
354
Anh - suốt ngày lo đọc kinh, tính toán.
Tôi - uống rượu cùng người yêu và tán.
Cuộc đời tôi dành cho rượu và tình.
Không để phí như anh đâu, anh bạn.
357
Ê, anh kia, uống đi, đừng ngủ gật.
Xin hãy nhớ một điều đơn giản nhất:
Chưa có ai sống lại bao giờ.
Và cả ta rồi cũng chui xuống đất.
358
Nếu anh muốn bằng người, không thua ai
Thì phải uống hàng ngày - từ thứ hai
Đến thứ ba, tư, năm và sáu, bảy.
Còn chủ nhật thì phải uống gấp hai.
360
Rượu là cái đáng ta thờ sớm tối.
Lãng phí rượu sẽ bị trời bắt tội.
Anh để rơi nước mắt - chẳng hề gì.
Nhưng đổ rượu - anh là người có lỗi.
361
Còn được uống đều đều - hãy mừng đi, Khayyam.
Được ngồi cạnh người yêu - hãy mừng đi Khayyam.
Và dòng chảy cuộc đời một ngày kia sẽ cạn,
Nhưng rượu anh còn nhiều - hãy mừng đi, Khayyam
363
Ai cau có và buồn lo vô cớ
Thì phải sống suốt đời trong nỗi sợ.
Tôi, Khayyam, uống, uống nữa, chừng nào
Nhạc chưa tắt và cốc tôi chưa vỡ.
366
Còn đang sống, tôi còn vui, còn say.
Mang thật nhiều, thật nhiều rượu ra đây.
Tôi sẽ uống đến ngã lăn ra ghế
Nhưng tất nhiên cốc rượu vẫn trên tay.
367
Ramazan - tháng ăn chay, chán thật.
Phải nhịn đói tụng kinh hoa cả mắt.
Nên tôi nhầm, uống phải rượu, Alla
Chắc tha thứ cái tội này nhỏ nhặt.
368
Tôi nhìn rượu mà thấy như máu đỏ
Liền tự nhủ: "Uống làm gì, thôi bỏ."
Nhưng hình như ai đó nói bên tai:
"Không có máu, sống làm sao hả bố?"
369
Cốc không rượu thì buồn không chịu nổi
Ăn cái gì cũng nhạt phèo - phải nói
Đời bắt ta chịu trăm bệnh đau buồn,
Chỉ có rượu là giúp ta chữa khỏi.
370
Không uống rượu đời này là rất khó.
Không có rượu, chân đứng yên một chỗ.
Khi người ta đưa cốc rượu mời tôi,
Thì tất nhiên tôi sẽ cầm lấy nó.
373
Mặc người khác cười chê, nào lại đây.
Hãy hát đi, hãy cầm cốc lên tay.
Ta cùng uống, bán cả nhà để uống.
Và uống xong đập vỡ chiếc cốc này.
375
Bỏ uống rượu và suốt đời không yêu?
Thế thì chết còn hơn, bởi một điều:
Đời rất ngắn, tiếp theo là cái chết.
Mà những gì sót lại cũng không nhiều.
376
Người hiểu rõ luật thiên nhiên, chắc chắn
Không bao giờ quá say hay quá giận.
Biết mọi điều ác thiện sẽ trôi qua.
Mà thiện ác còn tùy ta nhìn nhận.
377
Tim tôi yêu, nhức nhối - hãy tha thứ cho tôi.
Ý nghĩ đầy tội lỗi - hãy tha thứ cho tôi.
Còn bàn tay, hễ thấy rượu là chìa.
Chân say không đứng nổi - hãy tha thứ cho tôi.
379
Cuộc đời này chưa bằng hai hạt thóc.
Đừng bỏ rượu mà bị coi là ngốc.
Đừng vẩn vơ mơ tưởng chuyện thiên đường.
Tốt hơn hết, xin mời anh cạn cốc.
380
Trừ cốc rượu và tình yêu - hết thẩy
Gia tài tôi - muốn lấy gì thì lấy.
Quá nửa đời nổi tiếng một thằng say.
Đến lúc chết chắc thằng tôi vẫn vậy.
381
Đừng nhíu mày vì đời lắm buồn đau.
Đừng bận lòng lo nghĩ chuyện đâu đâu.
Hãy làm đầy cuộc đời anh bằng rượu,.
Như rót đầy cốc rượu này chúc nhau.
382
Chỉ thằng ngốc mới ăn chay, tụng kinh.
Cái ta cần là cốc rượu và tình.
Yên tâm đi, Khayyam, sau khi chết
Xác của anh cũng bị vắt thành bình.
384
Ngài làm vỡ bình của tôi, ôi thượng đế.
Làm tôi khát, khô cháy môi, ôi thượng đế.
Bình rượu ngon mà đổ phí thế này
Thì đích thị ngài say rồi, ôi thượng đế.
386
Nào, hát đi, cô gái, đừng ỡm ờ.
Nàng và ta say từ sáng đến giờ
Ta tiếp tục say suốt đêm, đến mức
Không biết mình đang sống thật hay mơ.
387
Hỡi thượng đế, hãy cho cái con cần.
Đừng để lũ đê hèn cho con ăn.
Cũng nhân tiện, ngài hãy cho con uống.
Uống thật say, quên bao nỗi nhọc nhằn.
388
Cái trong cốc không phải là nước lã.
Hãy uống đi, không có gì hèn hạ.
Vì ngày mai, chết bị vắt thành bình.
Có thể ta sẽ khát nhiều hơn cả.
389
Không trốn được số trời, buồn làm gì?
Hơi đâu mà oán đời, buồn làm gì?
Hãy uống đi, quên mọi điều đau khổ.
Nào uống hết một hơi, buồn làm gì?
390
Tranh luận nhiều như thế ích gì không?
Có ích gì khi bàn chuyện viển vông?
Hãy mang rượu ra đây ngay, nhân thể
Gọi cho thêm mấy cô gái má hồng.
391
Hãy cúi xuống rót thật đầy, rót đi.
Để ta uống đến kỳ say, rót đi.
Bạn bè phản, chỉ quán này không phản.
Nên ta ngồi uống ở đây, rót đi.
392
Hãy dũng cảm nhìn trời xanh trên đầu.
Hãy uống rượu để xua hết buồn rầu.
Sớm hoặc muộn, ai cũng thành bụi đất.
Cái ngày ấy cũng chẳng chừa anh đâu.
393
Môi cốc rượu và đôi môi người yêu
Là những cái tôi cần, quả không nhiều.
Tôi làm bạn với cả hai, vì thế
Tôi vào quán suốt từ sáng đến chiều.
THAI BA TAN dich